Chuyên ngành giải phẫu bệnh học. Những năm qua, do nhu cầu chẩn đoán
mô bệnh học, tếbào học tăng cao nên việc đào tạo NVYT cho chuyên ngành giải
phẫu bệnh học được đẩy mạnh với các loại hình đa dạng: bác sỹchuyên khoa định
hướng, bác sỹchuyên khoa cấp 1, bác sỹchuyên khoa cấp 2, ThS, TS, kỹthuật viên.
Hiện nay chỉcòn 1 tỉnh ởphía Bắc và 2 tỉnh phía Nam chưa có cơsởgiải phẫu bệnh
lý. Tuy nhiên, do bệnh u bướu ngày càng gia tăng, đểsàng lọc và phát hiện sớm, thực
hiện chủtrương của ngành giải phẫu bệnh lý là phát triển chẩn đoán tếbào tới tận
tuyến hụyện, nên trong tương lai cần đào tạo nhiều cán bộchuyên ngành này [53].
Chuyên ngành Y pháp. Đội ngũlàm y pháp vừa rất thiếu vừa yếu, yếu cảvề
chuyên ngành y pháp và chuyên ngành giải phẫu bệnh học. Hằng năm Việt Nam có
hàng ngàn vụán, không đủcán bộy pháp đểlàm việc [53].
Chuyên ngành Ung thư. Theo Hội phòng, chống Ung thưViệt Nam, chúng ta
thiếu các loại nhân viên chuyên ngành sâu: bác sỹchuyên khoa, kỹsưvật lý trịliệu,
nhân viên hoá trịliệu, điều dưỡng, kỹthuật viên. Thiếu rất nhiều CBYT chuyên ngành
đểxây dựng các đơn vịphòng chống ung thư ởcác tỉnh.
Chuyên ngành Sốt rét - Ký sinh trùng - Vi nấm - Côn trùng y học. Trong
hàng chục năm qua, nhiều cơsởchuyên khoa không tuyển được bác sỹ(kểcảtuyến
trung ương, nhưBộmôn Ký sinh trùng của trường đại học, Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng). Ngày nay các bệnh nhiễm cơhội rất phát triển trong đó đặc biệt là
các bệnh do vi nấm, nhưng rất hiếm NVYT chuyên vềvi nấm y học. Hiện nay thiếu
hàng trăm bác sỹlàm ký sinh trùng cho các các Trường, Viện và 63 trung tâm YTDP
tỉnh trong cảnước [54].
71 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 4485 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhân lực y tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g làm việc ở cơ sở y tế của các ngành, phục vụ CSSK cho cán bộ,
nhân viên và người lao động của ngành đó, nhưng đồng thời cũng tham gia KCB và
phòng bệnh cho người dân trên khắp các vùng miền đất nước.
Y tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong KCB. Số liệu điều tra hộ gia đình
cho thấy trong tổng số lượt khám bệnh ngoại trú, có khoảng 1/3 khám tại cơ sở y tế tư
nhân và 2% tổng số lượt điều trị nội trú. Tuy nhiên, do chưa cấp chứng chỉ hành nghề
và quản lý đội ngũ y tế tư nhân còn hạn chế, nên không có thống kê đầy đủ về nhân
lực khu vực tư nhân trong cả nước. Số lượng nhân lực y tế tư nhân ngày càng phát
triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngoài đội ngũ y tế tư nhân đăng ký chính
thức thì còn khá nhiều NVYT tư nhân hoạt động không đăng ký và CBYT công lập
đương chức có hành nghề ngoài công lập. Đội ngũ y tế ngoà ̀i công lập đóng góp rất
nhiều trong công việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tạo điều kiện cho dân dễ tiếp cận
với các dịch vụ y tế và góp phần giảm quá tải ở các bệnh viện công.
Số lượng 90 bệnh viện tư nhân với 5800 giường bệnh hiện có chỉ tương đương
gần 3% số giường công lập, khoảng 0,7 giường bệnh tư nhân/10 000 dân. Theo Quy
hoạch Phát triển hệ thống y tế Việt Nam, phấn đấu đến năm 2010 có 2 giường của
bệnh viện tư nhân/10 000 dân và đến năm 2020 là 5 giường của bệnh viện tư nhân/10
000 dân. Với xu hướng phát triển hiện nay, y tế tư nhân sẽ ngày càng mở rộng, tuy
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
53
nhiên vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị. Nhu cầu nhân lực cho y tế tư nhân ngày
càng lớn, thu hút những NVYT giỏi, nhiều kinh nghiệm từ các cơ sở y tế công lập, kể
cả NVYT đã nghỉ hưu và NVYT mới tốt nghiệp. Trong tương lai do sử dụng nguồn
nhân lực khá lớn với trình độ giỏi nên cần xác định trách nhiệm của khu vực y tế
ngoài công lập trong việc đào tạo nguồn nhân lực y tế.
1.2. Nhu cầu nhân lực y tế và khả năng đáp ứng trong những năm tới
1.2.1. Ước tính nhu cầu nhân lực y tế đến năm 2020
Dựa trên dân số hiện tại và dân số phát triển; trên định mức CBYT nhà nước
đã được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Nội vụ phê duyệt; số CBYT hiện có, số sẽ nghỉ
hưu, số cần bổ sung; điều kiện kinh tế-xã hội; năng lực đào tạo của hệ thống nhà
trường y tế Bộ Y tế đang lập Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y
tế đến năm 2020 để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 2010 và
tầm nhìn 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì sẽ phải phát triển nguồn
nhân lực y tế cân đối và hợp lý. Bảo đảm đạt được các chỉ tiêu cơ bản: có trên 8 bác
sỹ/10 000 dân vào năm 2020 và 2 - 2,5 dược sỹ đại học/10 000 dân vào năm 2020.
Bảo đảm cơ cấu CBYT tại các cơ sở KCB là 3,5 điều dưỡng trên 1 bác sỹ (tức là hơn
28 điều dưỡng/10 000 dân). Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực y tế và hệ thống
đào tạo đến năm 2020 đã cụ thể hoá mục tiêu về nhân lực y tế theo Quy hoạch tổng
thể phát triển ngành y tế Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 và đưa ra
mục tiêu 41 CBYT/10 000 dân vào năm 2015 và 52 CBYT/10 000 dân vào năm 2020
(Bảng 10).
Bảng 10: Số cán bộ y tế trên 1 vạn dân năm 2008 và mục tiêu đến 2020
Chỉ số 2008 Mục tiêu
theo dự
thảo Quy
hoạch năm
2015†
Mục tiêu
theo dự
thảo Quy
hoạch năm
2020†
Mục tiêu
Quy hoạch
tổng thể
năm 2020*
Tổng số 34,7 41 52
Số bác sỹ 6,5 8 10 >8
Số dược sỹ đại học 1,2 2 2,5 2-2,5
Số Điều dưỡng và hộ sinh 10,4 20 >28
CBYT khác 16,6 31‡ 19,5
*Mục tiêu theo Quy hoạch tổng thể phát triển ngành y tế Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020 [35]. †Mục tiêu theo dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm
2020 [41]. ‡Số này gồm cả điều dưỡng và CBYT khác
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2007-2008 [7, 12]
Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm 2020
đã dựa vào chỉ tiêu về các loại CBYT trên 1 vạn dân vào năm 2015 và năm 2020 (với
số dân ước tính tương ứng khoảng 90 và 92,6 triệu người, để dự báo tổng số CBYT
cần cho cả nước là khoảng 369 000 người năm 2015 và 478 000 CBYT năm 2020.
Ước đoán số CBYT sẽ nghỉ hưu, chuyển ngành, hao hụt do các nguyên nhân khác, Vụ
Khoa học- Đào tạo, Bộ Y tế đã ước tính số CBYT cần đào tạo hằng năm (Bảng 11).
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
54
Bảng 11: Ước tính nhu cầu đào tạo hằng năm, 2015 và 2020
Năm 2015 Năm 2020 Loại hình CBYT
Chỉ tiêu trên
1 vạn dân
Cần đào tạo
hằng năm
Chỉ tiêu trên
1 vạn dân
Cần đào tạo
hằng năm
Bác sỹ 8,0 5 299 10 7 030
Dược sỹ đại học 1,6 1 337 2 1 724
Điều dưỡng các bậc học 24 24 268 30 27 652
Các số liệu nêu trên chưa bao gồm số lượng NVYT trong khu vực tư nhân -
khu vực đang phát triển rất mạnh. Những thống kê sau này cần phải bao gồm cả số
NVYT tư nhân đang làm việc và nhu cầu trong tương lai thì mới có thể lập quy hoạch
phát triển và sử dụng nhân lực toàn diện. Cũng cần thống kê được số liệu phản ánh
tình hình sử dụng nhân lực y tế sau khi đào tạo xong.
Nhu cầu nhân lực y tế theo mô hình bệnh tật: Mô hình bệnh tật đang thay
đổi rõ rệt, các bệnh lây có xu hướng giảm, các bệnh không lây và thương tích tăng
(Bảng 12). Vì vậy cần chú ý đào tạo CBYT cho các chuyên ngành bệnh không lây và
thương tích, như tim mạch, ung thư, tiểu đường, chấn thương
Bảng 12: Xu hướng bệnh tật tử vong (%), 1976~2008
Nhóm bệnh 1976 1986 1996 2006 2008
Bệnh lây Mắc 55,5 59,2 37,6 24,9 25,2
Chết 53,1 52,1 33,1 13,2 17,2
Bệnh không lây Mắc 42,7 39,0 50,0 62,4 63,1
Chết 44,7 41,8 43,7 61,6 60,0
Tai nạn thương tích Mắc 1,8 1,8 12,4 12,7 11,7
Chết 2,2 6,1 23,2 25,2 22,8
Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2008 [7].
1.2.2. Khả năng đáp ứng về số lượng nhân lực y tế
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong tương lai, Bộ Y tế đang xây dựng Quy
hoạch phát triển nhân lực y tế. Quy hoạch nêu các mục tiêu và giải pháp nhằm:
- Đến năm 2020, khắc phục về cơ bản tình trạng thiếu nhân lực y tế cho vùng
khó khăn và đảm bảo đủ nhân lực cho các chuyên ngành y học dự phòng, nhi và cận
lâm sàng.
- Đến năm 2020, 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trường
đào tạo nhân lực y tế từ trung cấp đến cao đẳng, tối thiểu 80% là trường cao đẳng.
- Đến năm 2015, có ít nhất 5% và 2020 có ít nhất 20% số học viên, sinh viên
và học sinh khối ngành khoa học sức khỏe học tại các trường ngoài công lập.
Hệ thống các trường đào tạo cán bộ y tế ở Việt Nam
Hệ thống trường đào tạo CBYT ở Việt Nam khá phát triển. Cả nước có 21
trường/khoa đại học y, dược công lập (17 trường thuộc dân sự, 1 trường thuộc quân
đội) và 3 trường/khoa y đại học tư thục. Các trường này đào tạo một, một số hoặc
nhiều loại cán bộ y, dược khác nhau. Hầu hết các tỉnh đều có trường trung cấp hoặc
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
55
cao đẳng y tế. Phân bổ các cơ sở đào tạo đại học và sau đại học về y dược được trình
bày ở Bảng 13.
Bảng 13: Các cơ sở đào tạo nhân lực y tế bậc đại học, sau đại học theo các
vùng địa lý, 2009
Vùng Trường Cơ quan quản lý
Đông Bắc Đại học Y khoa Thái Nguyên Bộ Giáo dục-Đào tạo
Tây Bắc Chưa có trường đại học y tế
Đồng bằng sông
Hồng
Trường Đại học Y khoa Hà Nội Bộ Y tế
Trường Đại học Dược Hà Nội Bộ Y tế
Trường Đại học Y tế công cộng Bộ Y tế
Học viện Y Dược học cổ truyền VN Bộ Y tế
Khoa điều dưỡng, Đại học Thăng Long Bộ Giáo dục-Đào tạo
Khoa khoa học sức khỏe, ĐH Thăng Long Bộ Giáo dục-Đào tạo
Trường Đại học Răng- Hàm- Mặt Bộ Y tế
Trường ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương Bộ Y tế
Trường Đại học Y Hải Phòng Bộ Y tế
Trường Đại học Y Thái Bình Bộ Y tế
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định Bộ Y tế
Học viện Quân y Bộ Quốc phòng
Bắc Trung Bộ Đại học Y Dược Huế Bộ Giáo dục-Đào tạo
Nam Trung Bộ Khoa Y, Đại học Đà Nẵng Bộ Giáo dục-Đào tạo
Tây Nguyên Khoa Y, đại học Tây Nguyên Bộ Giáo dục-Đào tạo
Khoa Điều dưỡng, Đại học Yersin- Đà Lạt Bộ Giáo dục-Đào tạo
Đông Nam Bộ Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Bộ Y tế
Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch UBND TPHCM
Khoa Điều dưỡng, ĐH Hồng Bàng Bộ Giáo dục-Đào tạo
Đồng bằng sông
Cửu Long
Trường đại học Y Dược Cần Thơ Bộ Y tế
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo đến năm 2020 [41].
Có 30 trường cao đẳng ở 30 tỉnh đào tạo cao đẳng điều dưỡng, hộ sinh, kỹ
thuật y học, xét nghiệm y học. Một số trường cao đẳng trực thuộc Bộ Y tế, đa số các
trường cao đẳng trực thuộc tỉnh.
Có 35 trường trung cấp y tế ở 35 tỉnh đào tạo NVYT trình độ trung cấp và sơ
học.
Trường hoặc khoa trong Viện nghiên cứu hoặc Viện có giường bệnh: Trường
trung cấp kỹ thuật, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng trung ương; Khoa đào
tạo, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Quy Nhơn; Khoa đào tạo, Bệnh viện
Bạch Mai; Khoa đào tạo, Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh
Một số tỉnh mới thành lập chưa có trường trung cấp y tế, như Hậu Giang, Đăk
Nông, nhưng có Trung tâm đào tạo và thực hiện liên kết đào tạo.
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
56
Nhìn chung, số trường y tế phát triển rộng khắp trên toàn quốc. Hình thức đa
dạng, có trường thuộc Bộ Y tế, có trường thuộc Bộ Giáo dục – Đào tạo quản lý; có
trường thuộc tỉnh quản lý, có trường/khoa thuộc Viện – Bệnh viện; có trường công
lập, có trường/khoa tư thục; trường đơn ngạch, đơn cấp, có trường đa ngạch, đa cấp
Điều đó chứng tỏ Việt Nam trong những thập kỷ qua rất quan tâm đến đào tạo nhân
lực cho ngành y tế.
Số lượng NVYT có trình độ cao đẳng, cử nhân, đại học và sau đại học chiếm
một tỷ lệ đáng kể vì đã có trên 40 trường/khoa đại học, cao đẳng y tế.
Trong những năm tới nếu các trường được đầu tư thích đáng thì việc thực hiện
chỉ tiêu số lượng NVYT và số lượng NVYT cơ bản (bác sỹ, dược sỹ đại học, hộ sinh,
điều dưỡng, kỹ thuật viên) trên 1 vạn dân ở Việt Nam sẽ đạt ngang mức các nước
trong khu vực là điều khả thi.
Tuyển sinh
Những năm trước đây, dựa vào năng lực của trường, nhu cầu nhân lực và kinh
phí của Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào Tạo, Bộ Y tế hoặc cơ quan chủ quản phân bổ
chỉ tiêu tuyển sinh, dựa vào chỉ tiêu tuyển sinh cấp trên phân bổ kinh phí đào tạo. Từ
năm 2007, Chính phủ đã cho phép các trường tự xác định chỉ tiêu đào tạo dựa vào
năng lực đào tạo của từng trường. Việc tự xác định chỉ tiêu và tăng chỉ tiêu tuyển sinh
là một trong những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề thiếu nhân lực y tế, đặc biệt ở
các vùng khó khăn [42].
Để tuyển sinh vào các trường đào tạo y tế, có cơ chế cử tuyển, đào tạo theo địa
chỉ và thi tuyển. Các đặc trưng của 3 cơ chế này được giải thích trong Bảng 14.
Đối với những vùng khó khăn, thiếu nhiều nhân lực y tế, thiếu nguồn tuyển
sinh, Nhà nước có nhiều chính sách, đề án để hỗ trợ giải quyết. Chế độ đào tạo cử
tuyển theo Nghị định 134/2006/NĐ-CP; Quyết định số 1544/QĐ-TTg phê duyệt “Đề
án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh thuộc miền Bắc và
miền Trung, vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây Nguyên theo chế độ cử
tuyển”. Cử tuyển là việc tuyển sinh không qua thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung
cấp để đào tạo cán bộ, công chức, viên chức cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn và các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại
học, cao đẳng, trung cấp. Sau khi tốt nghiệp, người được cử đi học theo chế độ cử
tuyển sẽ được UBND cấp tỉnh tiếp nhận và phân công công tác. Đề án dự định sử
dụng vốn NSNN để đào tạo trên 11 000 CBYT phục vụ vùng khó khăn từ năm 2007-
2018 (Bảng 14).
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
57
Bảng 14: Các đặc trưng của các cơ chế tuyển sinh
Thi tuyển
Cử tuyển Đào tạo hợp đồng
theo địa chỉ Đào tạo bình thường
Đối tượng Thường trú ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn
từ 5 năm liên tục,
người dân tộc thiểu
số mà dân tộc đó
chưa có hoặc có rất ít
cán bộ đạt trình độ
đại học, cao đẳng,
trung cấp. Tỷ lệ người
dân tộc Kinh được cử
tuyển không vượt quá
15% so với tổng số
chỉ tiêu được giao.
Học sinh tốt nghiệp
phổ thông (học hệ tập
trung)
CBYT vùng đặc biệt
khó khăn hoặc vùng
nông thôn đang làm
việc tại y tế xã, y tế
huyện không thuộc
thành phố trực thuộc
trung ương và đã làm
việc liên tục tại các
khu vực, đơn vị này
từ 24 tháng trở lên.
(học hệ vừa làm vừa
học)
Các đối tượng còn lại
Tiêu chuẩn về
trình độ
Tốt nghiệp trung
học phổ thông hoặc
trung học cơ sở
Xếp loại hạnh kiểm
năm cuối cấp đạt
loại khá trở lên
Xếp loại học tập
năm cuối cấp đạt
trung bình trở lên
đối với người dân
tộc thiểu số và loại
khá trở lên đối với
người dân tộc Kinh
Các thí sinh diện đào
tạo hợp đồng theo địa
chỉ phải tham dự kỳ
thi tuyển sinh chung
cùng với các thí sinh
diện thi tuyển và
được xét trúng tuyển
theo điểm chuẩn riêng
cho đối tượng này, ưu
tiên tối đa 2 điểm.
Phải tham dự kỳ thi
tuyển sinh chung và xét
trúng tuyển theo điểm
chuẩn, có cơ chế ưu
tiên tối đa 1 điểm
Cấp học áp
dụng
Đại học, cao đẳng,
trung cấp
Đại học, cao đẳng,
trung cấp
Sau đại học, đại học,
cao đẳng, trung cấp
Yêu cầu học đại
học dự bị đối với
người học trước
khi học chương
trình khung về
khoa học sức
khỏe
1 năm 1 năm đối với hệ vừa
làm vừa học
Không đối với học hệ
chính quy
Không
Chương trình
học
Hệ chính quy Hệ chính quy; hệ vừa
làm vừ học; tập trung
4 năm.
Hệ chính quy, hệ vừa
làm vừa học, tập trung 4
năm
Trách nhiệm về
kinh phí
Kinh phí được bố trí
trong dự toán NSNN
chi cho giáo dục, đào
tạo hằng năm theo
các quy định hiện
hành.
Kinh phí do UBND
hoặc Bộ ngành, nơi
cử đi học cam kết hỗ
trợ khi ký hợp đồng
với trường
Tự đóng học phí, học
bổng
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
58
Thi tuyển
Cử tuyển Đào tạo hợp đồng
theo địa chỉ Đào tạo bình thường
Công việc sau
khi học xong
Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh tổ chức tiếp nhận
và phân công công
tác cho người được
cử đi học theo chế độ
cử tuyển sau khi tốt
nghiệp.
Cam kết sau khi tốt
nghiệp sẽ trở lại công
tác tại nơi cử đi học.
Không ràng buộc về nơi
làm việc
Đào tạo theo địa chỉ là hình thức đào tạo dựa theo hợp đồng thỏa thuận giữa
nhà trường và đơn vị có nhu cầu sử dụng nhân lực, trong đó đơn vị có nhu cầu sử
dụng nhân lực phải cam kết sẽ tiếp nhận học sinh sau khi tốt nghiệp về làm việc tại
đơn vị. Tuyển sinh đào tạo theo địa chỉ phải đăng ký với Bộ Giáo dục – Đào tạo và
chỉ được triển khai tuyển sinh đào tạo theo địa chỉ sau khi có ý kiến phê duyệt chính
thức của Bộ Giáo dục – Đào tạo.
Nhằm tăng cường bác sỹ, dược sỹ làm việc ở tuyến y tế cơ sở, Bộ Y tế chủ
trương tuyển sinh vào hệ tập trung 4 năm dưới các hình thức thi tuyển, cử tuyển,
tuyển sinh theo địa chỉ, tạo điều kiện thuận lợi cho y sỹ đang công tác tại TYT xã,
dược sỹ trung cấp đang công tác tại cơ sở y tế tuyến xã, huyện được đào tạo lên bậc
đại học để sau khi tốt nghiệp trở về địa phương nơi đã cử đi học tiếp tục làm việc tốt
hơn.
Hiện nay, Bộ Y tế đã cho phép tiếp tục đào tạo y sỹ cho những địa phương còn
gặp khó khăn về nhân lực y tế. Các trường Cao đẳng và Trung cấp được giao nhiệm
vụ đào tạo đối tượng này cần tăng cường công tác quản lý để đảm bảo chất lượng đào
tạo [42].
Nhờ phát triển mạnh phương thức đào tạo vừa làm vừa học trong nhiều năm
qua tại nhiều trường cho cả bậc cử nhân, đại học và sau đại học, nên đã tạo điều kiện
cho cán bộ đang làm việc có thể đi học, vừa giữ được cán bộ, vừa nâng cao trình độ
chuyên môn cho cán bộ, nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Số sinh viên đại học, sau đại học dự kiến tốt nghiệp hằng năm
Hằng năm khoảng 42 000 CBYT các loại, các bậc học được đào tạo trong hệ
dân sự, trong đó khoảng 3200 sau đại học, 6200 đại học/cử nhân, 500 cao đẳng, 18
000 trung cấp, 14 500 sơ cấp (Bảng 15). Có thể nói đó là một thành tựu lớn, một khối
lượng quá lớn, thậm chí quá tải so với nền kinh tế quốc dân và năng lực của hệ thống
nhà trường. Những năm tới số lượng sẽ tăng nhiều kể cả sau đại học. Nhờ số lượng
ngày càng phát triển nên số lượng NVYT ngày càng cao.
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
59
Bảng 15: Số lượng NVYT theo loại hình, bậc học tốt nghiệp hằng năm
Bậc Loại Số
lượng
Bậc Loại Số
lượng
Tống số 3200 Tống số 18 000
Tiến sỹ 140 Điều dưỡng trung cấp 12 000
Thạc sỹ 600 Hộ sinh trung cấp 3 000
Chuyên khoa cấp 1 2 000 Kỹ thuật viên trung cấp 700
Chuyên khoa cấp 2 340 Y sỹ 300
Sau đại
học
Bác sỹ nội trú 120
Trung
cấp
Dược sỹ trung cấp 2 000
Tống số 6 200 Tống số 14 500
Bác sỹ 3 000 Điều dưỡng/hộ sinh sơ
học
9 000
Dược sỹ 1 300 Dược tá 5 150
Cử nhân điều dưỡng 1 400 Công nhân thiết bị kỹ
thuật y học
300
Cử nhân kỹ thuật 250
Sơ
học
Công nhân kỹ thuật dược 50
Đại học,
cử nhân
Cử nhân y tế công
cộng
250
Tống số 500
Cao đẳng điều
dưỡng/Hộ sinh
250
Cao
đẳng
Cao đẳng kỹ thuật 250
Tống số
42 400
Chú thích: Số lượng trên không gồm nguồn nhân lực do Quân y đào tạo
Nguồn: Vụ Khoa học- Đào tạo, Bộ Y tế (2009) [43]
Năm 2008, số sinh viên tốt nghiệp trình độ cử nhân/đại học hằng năm khoảng
gần 6000 người. Tới năm 2012, số này sẽ tăng gần gấp đôi (Bảng 16). Như vậy sẽ có
khả năng khắc phục đáng kể tình trạng thiếu nhân lực y tế. Số lượng CBYT có trình
độ đại học tốt nghiệp hằng năm không phải là ít, nhưng vần đề ở đây là tuyển dụng, sử
dụng và phân bố hợp lý.
Bảng 16: Số sinh viên đại học tốt nghiệp & dự kiến ra trường hằng năm,
2007~2012
Chuyên ngành đào tạo Đã tốt nghiệp
Đã tốt
nghiệp
Dự kiến tốt nghiệp theo năm
2007 2008 2009 2010 2011 2012
Bác sỹ 2 994 3 520 3 435 3 970 4 210 4 890
Dược sỹ đại học 877 870 1 070 1 350 1 660 1 755
Cử nhân điều dưỡng 970 860 1 540 2 240 2 630 2 880
Cử nhân kỹ thuật y học 171 380 390 380 430 680
Cử nhân y tế công cộng 144 180 350 400 330 400
Tổng 4 976 5 810 6 785 8 340 9 260 10 605
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm 2020 [41].
Hằng năm có khoảng gần 4000 học viên sau đại học được tuyển vào các
trường, trong đó đa số là cao học và chuyên khoa 1 (Bảng 17). Lực lượng này chủ yếu
phục vụ ở tuyến trung ương và tuyển tỉnh. Số bác sỹ nội trú bệnh viện còn ít, cần đào
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
60
tạo nhiều hơn trong tương lai. Số liệu về số học viên sau đại học nhập học năm 2008
đã giảm trong tất cả các nhóm, trừ nhóm thạc sỹ. Đào tạo chuyên sâu, chuyên gia giỏi,
cán bộ cho nhóm đầu đàn, đào tạo một số chuyên ngành ngang tầm khu vực và quốc
tế thì chưa đáp ứng được theo nhu cầu.
Bảng 17: Số học viên sau đại học ngành y tế nhập học, 2007- 2008
Trình độ đào tạo 2007 2008
Tiến sỹ 244 188
Thạc sỹ 510 881
Chuyên khoa 2 547 480
Chuyên khoa 1 3 120 2 122
Bác sỹ nội trú bệnh viện 298 183
Tổng 4 719 3 854
Nguồn: Dự tháo quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm 2020 [41].
Đào tạo có khả năng đáp ứng nhu cầu
Số liệu còn cho thấy, với số sinh viên ra trường hiện nay là đáp ứng được với
số lượng tuyển dụng hằng năm, thậm chí còn nhiều hơn số lượng tuyển dụng vào các
cơ sở y tế công năm 2007 [39]. Có báo cáo cho rằng nếu tiếp tục tăng chỉ tiêu đầu vào
như hiện nay thì số lượng đào tạo ra sẽ thừa [44]. Nhìn chung, Việt Nam có khả năng
đào tạo đủ đáp ứng về số lượng nguồn nhân lực phổ cập (bác sỹ, dược sỹ đại học, điều
dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên) vào khoảng năm 2020, nếu có chiến lược đào tạo hợp
lý và tăng cường đầu tư [45].
Tuy nhiên, số lượng các cơ sở y tế tư nhân tăng rất nhanh trong thời gian qua
đã thu hút một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp các trường công lập. Do vậy, số
lượng bác sỹ đào tạo ra có thể không đáp ứng đủ nhu cầu tuyển dụng ở hệ thống công
lập do thiếu cơ chế cạnh tranh thích hợp. Đặc biệt là thiếu nhân lực làm việc trong
lĩnh vực YTDP, nhi khoa, các bệnh xã hội và y học cơ sở. Tình hình trên một phần do
thiếu quy hoạch phát triển nhân lực y tế một cách tổng thể, trong đó chỉ ra số lượng
cần, số lượng hiện có và số lượng thiếu hụt, làm cơ sở cho các trường đưa ra số lượng
tuyển sinh phù hợp, đáp ứng nhu cầu của tương lai.
1.3. Bất cập và thách thức
1.3.1. Thiếu nhân lực y tế cho lĩnh vực KCB
Số lượng nhân lực y tế cho lĩnh vực KCB còn thiếu so với định mức biên chế
và nhu cầu thực tế. Định mức biên chế CBYT trong lĩnh vực KCB được tính theo 2
phương án: làm việc theo giờ hành chính và làm việc theo ca (theo Thông tư liên tịch
số 08/2007/TTLT-BYT-BNV, ngày 05/06/2007). Định mức biên chế theo giường
bệnh (số CBYT trên 1 giường bệnh) đối với phương án làm việc theo ca thường cao
hơn so với phương án làm việc theo giờ hành chính và đối với các cơ sở KCB ở tuyến
trên thì cao hơn tuyến dưới.
Hiện nay ngành y tế đang áp dụng chế độ làm việc theo giờ hành chính. Nếu
chuyển sang chế độ làm việc theo ca, thì số CBYT ở các bệnh viện công lập sẽ cần
tăng thêm khá nhiều. Cụ thể, trong khu vực KCB, hiện có 141 148 CBYT, nhu cầu
cần có theo định mức biên chế là 188 182 cán bộ. Trong lĩnh vực điều trị ở cả 3 tuyến
mới chỉ tính làm việc theo giờ hành chính đã cần bổ sung tới trên 47 000 CBYT, nếu
làm việc theo ca thì con số đó là trên 80 000 (Bảng 18).
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
61
Bảng 18: Thực trạng nhân lực y tế khu vực KCB tính theo giường bệnh ở các
tuyến
Làm việc theo giờ hành chính Làm việc theo ca
Hiện có Nhu cầu Cần bổ sung Nhu cầu Cần bổ sung
Trung ương 19 400 21 420 2 021 27 640 8 240
Tuyến tỉnh 68 994 104 809 35 815 119 782 50 788
Tuyến huyện 52 574 61 953 9 199 74 561 21 747
Tổng nhu cầu 141 148 188 182 47 035 221 983 80 775
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm 2020 [41].
Theo dự báo nhu cầu trên thì tuyến trung ương thiếu ít hơn, phù hợp với thực
tế hiện nay (CBYT tập trung nhiều ở tuyến trung ương); tuyến tỉnh và tuyến huyện có
nhu cầu CBYT nhiều hơn, nhất là tuyến tỉnh cần gấp đôi tuyến huyện. Y tế tuyến tỉnh
phát triển tốt sẽ giảm thiểu quá tải cho tuyến trung ương. Y tế tuyến huyện phát triển
sẽ làm giảm rất nhiếu số bệnh nhân từ cơ sở chuyển thẳng về tỉnh hoặc tuyến trung
ương. Vì vậy cần tăng số lượng CBYT thích hợp cho tuyến tỉnh và tuyến huyện.
Theo các quy định hiện nay, các cơ sở KCB (gồm bệnh viện, viện nghiên cứu
có giường bệnh và TTYT có giường bệnh) có 3 bộ phận chính là lâm sàng, cận lâm
sàng và dược, quản lý và hành chính. Tỷ lệ phân bổ nhân lực cho các bộ phận đó được
quy định tương ứng là 60 - 65%, 22 - 15% và 18 - 20%.
Theo dự thảo Quy hoạch nhân lực y tế, nhu cầu nhân lực cho khu vực KCB
tính theo định mức biên chế là 47 035 người (nếu theo chế độ làm việc theo giờ hành
chính) và 80 774 (nếu làm việc theo ca). Dự thảo Quy hoạch cũng ước tính nhu cầu
trên tính theo cơ cấu các bộ phận ở các cơ sở KCB (Bảng 19).
Bảng 19: Thực trạng nhân lực y tế khu vực KCB tính theo 3 bộ phận
Cần bổ sung theo định mức hiện nay
Các bộ phận của cơ sở
KCB
Tỷ lệ biên chế
nhân lực theo
quy định
Làm việc theo
giờ hành chính
Làm việc theo ca
Lâm sàng 60% 28 221 48 465
Cận lâm sàng và Dược 22% 10 347 17 770
Quản lý, hành chính 18% 8 466 14 539
Tổng nhu cầu 100% 47 035 80 774
Chú thích: Số liệu này không bao gồm các cơ sở trực thuộc Trường, Viện nghiên cứu và y tế tư nhân.
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực y tế đến năm 2020 [41].
Thiếu điều dưỡng làm việc trong khu vực y tế nhà nước
Tỷ số điều dưỡng và hộ sinh (gồm cả đại học, cao đẳng, trung cấp và sơ học)
so với số bác sỹ là 1,6. Số này thấp so với quy hoạch của Chính phủ yêu cầu tại các cơ
sở KCB có 3,5 điều dưỡng/bác sỹ. Số điều dưỡng và hộ sinh trên 1 vạn dân của Việt
Nam là 9, thấp so với các quốc gia trong vùng (trung bình của khu vực Đông Nam Á
là 12,2 điều dưỡng và hộ sinh/10 000 dân và của Tây Thái Bình Dương là 12,9.) Tỷ số
điều dưỡng và hộ sinh/bác sỹ đặc biệt thấp ở tuyến trung ương (0,82).
Tỷ lệ điều dưỡng trên bác sỹ thấp không phải do thiếu nguồn. Số lượng điều
dưỡng được đào tạo không phải là ít, nhưng ở đây là vấn đề tuyển và sử dụng, nhất là
ở tuyến trung ương. Hiện nay số điều dưỡng trung cấp được đào tạo ở hầu hết các
tỉnh, nên việc bảo đảm về số lượng không phải là vấn đề lớn, mà cần chú trọng chất
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
62
lượng và từng bước nâng cấp họ lên trình độ cử nhân, nhất là những cơ sở y tế chưa
có bác sỹ. Một tình hình cần lưu ý là nguy cơ các bệnh viện thực hiện tự chủ tài chính
tuyển ít điều dưỡng để tiết kiệm chi phí, vì vậy chưa thực hiện chăm sóc toàn diện
bệnh nhân, nhiều công việc chăm sóc lại để cho những người không được đào tạo
thực hiện, đó là những người được gọi là “đội quân áo vàng” do bệnh nhân thuê và
đựợc bệnh viện chấp nhận.
1.3.2. Thiếu nhân lực cho YTDP
Dự thảo quy hoạch phát triển nhân lực cũng phân tích thực trạng và nhu cầu
nhân lực trong lĩnh vực YTDP ở địa phương như sau (Bảng 20):
Bảng 20: Thực trạng và nhu cầu nhân lực y tế trong lĩnh vực YTDP
Hiện có Nhu cầu Cần bổ sung
Trung ương 2 890 Không thay đổi 0
Tuyến tỉnh 11 135 15 237 4 102
Tuyến huyện 15 276 27 133 11 877
Tổng 29 301 45 260 15 979
Chú thích: Số liệu này không bao gồm các cơ sở trực thuộc Trường, Viện nghiên cứu.
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo tế đến năm 2020 [41].
Như vậy theo định mức biên chế thì cán bộ cho TTYT quận/huyện rất thiếu,
90% quận/huyện còn thiếu, có đơn vị thiếu trên 30 người. Nếu ước tính mỗi
quận/huyện cần thêm 5 người thì trên cả nước thiếu khoả̉ng 3 400 người cho YTDP.
Nếu tính theo dự thảo Quy hoạch của Bộ Y tế thì cần bổ sung 15 979 người cho tuyến
tỉnh và tuyến huyện.2
Trong nhân lực YTDP thì chủ yếu là thiếu bác sỹ, thiếu kỹ thuật viên YTDP.
Thời gian qua hệ thống đào tạo ít chú ý đào tạo kỹ thuật viên thuộc lĩnh vực YTDP
(xét nghiệm kiểm định nước, phân, đất, không khí, độc chất, thực phẩm, động vật,
môi trường công nghiệp - nông nghiệp,), thanh tra vệ sinh môi trường
Thông tin phục vụ dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực được thu thập trong
điều tra của Cục YTDP và Môi trường năm 2006 tại 60 quận/huyện đại diện trên cả
nước với 1512 cán bộ đã cho một số thông tin sau:
Trung cấp chiếm 67,5%, cao đẳng 2%, bác sỹ chiếm 11,2%, đại học khác
2,6%, chỉ có 2% có bằng/chứng chỉ chuyên ngành y học dự phòng (Y tế công
cộng, Y học lao động).
Mới có 26,7% số TTYT quận/huyện có đủ tỷ lệ bác sỹ theo quy định (bác sỹ
chiếm từ 20% trở lên trong tổng số định biên – Thông tư liên tịch
08/207/TTLT-BYT-BNV), 13,3% TTYT quận/huyện có dưới 10% là bác sỹ.
Số biên chế cho TTYT quận/huyện còn thiếu như sau: 1,7% thiếu trên 30
người so với định biên, 10% thiếu từ 21 đến 30 người, 23,3% thiếu 11 - 20
người, 51,7% thiếu 1 - 10 người, chỉ có 3,3% số TTYT có đủ số người theo
định biên.
2 Thực tế thì số nhân viên y tế làm công tác dự phòng có thể cao hơn nếu tính cả đội ngũ nhân viên y tế
ở tuyến xã/phường, nhân viên y tế thôn, bản mà hoạt động của họ chủ yếu là làm các công việc liên
quan đến lĩnh vực YTDP.
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
63
Như đã nêu trên, so với định mức biên chế thì cán bộ cho TTYT quận/huyện
rất thiếu. Nếu tính theo dự thảo Quy hoạch của Bộ Y tế thì cần bổ sung 15 979 người
cho tuyến tỉnh và tuyến huyện.
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến tình trạng thiếu nhân lực YTDP, như đào
tạo CBYT (đặc biệt là đào tạo trình độ đại học) cho hệ YTDP còn rất ít; thiếu các
chính sách thu hút, khuyến khích CBYT làm việc cho YTDP; điều kiện làm việc của
các cơ sở YTDP còn nhiều thiếu thốn; mô hình tổ chức hệ thống y tế trong đó có
YTDP tuyến huyện trong nhiều năm qua không ổn định; ít có nguồn thu ngoài lương
(ví dụ làm thêm) cho CBYT hệ YTDP...
1.3.3. Thiếu nhân lực cho hệ thống dân số - kế hoạch hoá gia đình
Theo Thông tư số 05/2008/TT-BYT quy định biên chế cho công tác dân số các
cấp, đối chiếu với số nhân lực có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên hiện có
trong cả nước, vẫn thiếu khoảng 502 cán bộ tuyến tỉnh, 2428 cán bộ cho tuyến huyện
và trên 7471 cán bộ cho tuyến xã (chưa kể cán bộ cộng tác viên dân số ở các
thôn/bản) (Bảng 21).
Bảng 21: Nhân lực làm công tác Dân số - KHHGĐ các tuyến, 2009
Tuyến Tổng số
hiện có
Trong
biên chế
Hợp đồng Cần theo
đinh mức
chế
Số cần bổ
sung*
Trung ương 282 152 130 319 167
Tỉnh 956 758 198 1 260 502
Huyện 3 416 3 044 372 5 472 2 428
Xã 11 027 3 528 7 499 10 999 7 471
Cộng 15 681 7 482 8 199 18 050 10 568
Thôn/bản** 149 429
* Số cần bổ sung theo định mức biên chế của Bộ Y tế để đủ 20 cán bộ Chi cục Dân số-KHHGĐ tỉnh; 6
cán bộ/Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện; 1 cán bộ dân số chuyên trách/TYT xã được đào tạo chuyên
ngành. ** Đối với tuyến thôn/bản chỉ có cộng tác viên là nhân viên dân số không qua đào tạo chuyên
nghiệp hoặc là NVYT thôn/bản kiêm nhiệm.
Nguồn: Tổng cục Dân số- KHHGĐ, 2009 [46]
1.3.4. Thiếu nhân lực y tế cho một số chuyên khoa
Chuyên ngành răng – hàm – mặt (RHM). Hiện không có số liệu thống kê
chung về chuyên ngành RHM của cả nước, mà chỉ có số liệu của các tỉnh/thành phố
phía Nam (Bảng 22). Trong chuyên ngành RHM thì số lượng các cơ sở tư nhân nhiều
hơn các cơ sở công lập, nên thống kê khó hơn. Một vài số liệu có được như sau:
Ở phía Bắc: 8 tỉnh có cán bộ nha học đường phủ khắp các xã năm 2008 (Nam
Định, Ninh Bình, Hải Dương, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thừa
Thiên Huế, Đà Nẵng) [47].
Các tỉnh phía Nam: Có 4 bệnh viện chuyên ngành, 26 khoa RHM, 2 liên khoa
RHM- Mắt- TMH, 295 cơ sở RHM thuộc 302 bệnh viện huyện, 240 phòng
khám RHM tại các TYT phường, 27 khoa RHM của bệnh viện đa khoa
chuyên ngành. Có 1733 NVYT các loại chuyên về RHM.
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
64
Bảng 22: Số lượng nhân lực y tế RHM ở các tỉnh/thành phố phía Nam, 2008
Loại hình Số lượng
Bác sỹ RHM chính quy 680
Bác sỹ RHM chuyên tu 82
Bác sỹ RHM định hướng 71
Bác sỹ đa khoa làm RHM 17
Y sỹ RHM chính quy 186
Y sỹ răng trẻ em 157
Điều dưỡng nha khoa 54
Y sỹ đa khoa định hướng 116
Điều dưỡng đa khoa làm RHM 39
Kỹ thuật viên phục hình răng 328
Kỹ thuật viên phục hình răng định hướng 47
Nguồn: Báo cáo tại Hội nghị giao ban ngành RHM các tỉnh phía Nam năm 2008
Việt Nam hiện có 01 trường Đại học RHM, 3 khoa RHM, một số trường đào
tạo kỹ thuật viên RHM. Như vậy với dân số khoảng gần 90 triệu thì số trường/khoa
đào tạo chuyên ngành RHM ở Việt Nam là quá ít.
Do là một chuyên khoa có thu nhập rất cao, nên những năm qua số lượng nhân
lực RHM được đào tạo ngày càng tăng, nhất là bác sỹ chuyên khoa định hướng. Hiện
có khoảng 100 huyện trong tổng số trên 500 huyện của cả nước có bác sỹ RHM, còn
nhiều xã chỉ có y sỹ nha học đường. Tỷ số bác sỹ RHM trong khu vực công trên số
dân là 1:25 000, quá thấp so với nhu cầu [48].
Số lượng nhân lực RHM thiếu gồm bác sỹ RHM, kỹ thuật viên phục hình
RHM, cán bộ nha học đường, nhất là các tỉnh phía Bắc và miền Trung. Các tỉnh phía
Nam do đã có từ trước giải phóng, nên cơ sở RHM và CBYT chuyên ngành RHM
phát triển hơn các tỉnh phía Bắc cả về số lượng và loại hình. Số lượng CBYT chuyên
ngành RHM đã quá ít lại bị chuyển dịch mạnh, nên sự phân bố càng quá chênh lệch.
Nhiều học viên ở nông thôn, miền núi sau khi học xong không về quê hương, vì làm
RHM ở thành thị kiếm được nhiều tiền hơn so với ở nông thôn.
Chuyên ngành Lao và bệnh phổi rất thiếu, nhất là thiếu nhiều bác sỹ. Thiếu
chuyên gia, cán bộ giỏi đầu ngành (kể cả cho tuyến trung ương). Ngoài việc thiếu
nhân lực cho khu vực điều trị tại bệnh viện còn rất thiếu NVYT thực hiện chương
trình phòng chống lao tại cộng đồng [49].
Chuyên ngành Da liễu rất thiếu bác sỹ, điều dưỡng và kỹ thuật viên. So sánh
với khu vực thì số NVYT chuyên ngành da liễu trên số dân ở Việt Nam thấp [50].
Chuyên ngành Nhi rất thiếu bác sỹ, thiếu điều dưỡng chuyên ngành sâu (điều
dưỡng sơ sinh), thiếu nhân lực CSSK vị thành niên... để CSSK cho trên 22 triệu trẻ
em. Vì nhiều lý do, trong đó có miễn viện phí cho trẻ từ 6 tuổi trở xuống, nên nhiều
bệnh viện không mấy chú trọng phát triển khoa Nhi. Chuyên ngành nhi ít hấp dẫn,
đào tạo chuyên khoa ít người đi học. Riêng các tỉnh phía Nam nguồn nhân lực y tế về
Nhi có khá hơn do khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn [51].
Chuyên ngành truyền nhiễm & HIV/AIDS. Trong hơn 10 năm qua do không
đào tạo chuyên khoa truyền nhiễm trong đại học nên rất thiếu bác sỹ cho chuyên
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
65
ngành này. Từ tuyến trung ương đến tuyến tỉnh đều rất thiếu bác sỹ chuyên khoa, phải
tuyển bác sỹ đa khoa làm truyền nhiễm, nhưng không đủ. Nhiều bệnh viện do thiếu
cán bộ chuyên khoa nên đã sáp nhập thành khoa Nội – Nhi – Lây. Bậc sau đại học thì
có đào tạo hằng năm, nhưng số lượng rất ít. Hiện cả nước có khoảng 200 điểm khám
và điều trị HIV/AIDS, mỗi điểm cần có từ 1-2 bác sỹ đa khoa, nhưng rất thiếu cán bộ
[52].
Chuyên ngành giải phẫu bệnh học. Những năm qua, do nhu cầu chẩn đoán
mô bệnh học, tế bào học tăng cao nên việc đào tạo NVYT cho chuyên ngành giải
phẫu bệnh học được đẩy mạnh với các loại hình đa dạng: bác sỹ chuyên khoa định
hướng, bác sỹ chuyên khoa cấp 1, bác sỹ chuyên khoa cấp 2, ThS, TS, kỹ thuật viên...
Hiện nay chỉ còn 1 tỉnh ở phía Bắc và 2 tỉnh phía Nam chưa có cơ sở giải phẫu bệnh
lý. Tuy nhiên, do bệnh u bướu ngày càng gia tăng, để sàng lọc và phát hiện sớm, thực
hiện chủ trương của ngành giải phẫu bệnh lý là phát triển chẩn đoán tế bào tới tận
tuyến hụyện, nên trong tương lai cần đào tạo nhiều cán bộ chuyên ngành này [53].
Chuyên ngành Y pháp. Đội ngũ làm y pháp vừa rất thiếu vừa yếu, yếu cả về
chuyên ngành y pháp và chuyên ngành giải phẫu bệnh học. Hằng năm Việt Nam có
hàng ngàn vụ án, không đủ cán bộ y pháp để làm việc [53].
Chuyên ngành Ung thư. Theo Hội phòng, chống Ung thư Việt Nam, chúng ta
thiếu các loại nhân viên chuyên ngành sâu: bác sỹ chuyên khoa, kỹ sư vật lý trị liệu,
nhân viên hoá trị liệu, điều dưỡng, kỹ thuật viên. Thiếu rất nhiều CBYT chuyên ngành
để xây dựng các đơn vị phòng chống ung thư ở các tỉnh.
Chuyên ngành Sốt rét - Ký sinh trùng - Vi nấm - Côn trùng y học. Trong
hàng chục năm qua, nhiều cơ sở chuyên khoa không tuyển được bác sỹ (kể cả tuyến
trung ương, như Bộ môn Ký sinh trùng của trường đại học, Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng). Ngày nay các bệnh nhiễm cơ hội rất phát triển trong đó đặc biệt là
các bệnh do vi nấm, nhưng rất hiếm NVYT chuyên về vi nấm y học. Hiện nay thiếu
hàng trăm bác sỹ làm ký sinh trùng cho các các Trường, Viện và 63 trung tâm YTDP
tỉnh trong cả nước [54].
1.3.5. Cơ cấu dân tộc và giới trong NVYT chưa cân đối
Cán bộ y tế người dân tộc thiểu số còn ít
Theo thống kê năm 2008, trong tổng số CBYT nhà nước từ tuyến tỉnh trở
xuống trong cả nước thì CBYT người dân tộc thiểu số là 21 637 người, trong đó đa số
ở xã (9400 người) và huyện (7780 người) (Bảng 23). Số lượng như vậy là còn quá
thấp. Dân tộc thiểu số tuy số dân không nhiều, nhưng lại sống phân tán trên các vùng
rộng lớn chiếm 2/3 diện tích đất nước, nên phải có tỷ lệ phân bổ khác, so với vùng
đồng bằng đông đúc.
Việc tăng số lượng CBYT là người dân tộc là không đơn giản, vì thiếu nguồn
để đào tạo. Nhưng với đặc thù văn hóa - xã hội của cộng đồng dân tộc thiểu số, để làm
tốt công việc CSSK, cần tăng hơn nữa tỷ lệ CBYT là người dân tộc.
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
66
Bảng 23: Phân bố cán bộ y tế là người dân tộc thiểu số theo các tuyến, 2007
Người dân tộc theo các tuyến Số lượng Tỷ lệ %
Tỉnh 4 493 20,7
Huyện 7 780 35,9
Xã 9 400 43,4
Tổng số 21 673 100%
Nguồn: Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo nhân lực y tế [41]
Cơ cấu giới trong cán bộ y tế chưa cân đối
Cơ cấu về giới của CBYT khác nhau tùy từng loại CBYT. Cơ cấu giới của kỹ
thuật viên rất cân đối. Nhưng đối với bác sỹ thì mất cân đối theo hướng nhiều nam
giới hơn. Đối với các loại hình còn lại thì nhiều nữ hơn nam, đặc biệt đối với hộ sinh
và điều dưỡng, cứ 100 phụ nữ chỉ có 14 hoặc 19 điều dưỡng hoặc hộ sinh nam tương
ứng (Hình 7).
Hình 7: Cơ cấu nhân lực y tế theo giới, 2008
Bác sỹ
Y sỹ
Dược sỹ
Điều dưỡng
Hộ sinh
KTV
50 000 30 000 10 000 10 000 30 000 50 000
Nam Nữ
Số cán bộ y tế
Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2008 [7].
Do đặc thù ngành nên phụ nữ chiếm trên 50% tổng số CBYT nhà nước. Tuy
nhiên, ở những loại CBYT trình độ cao hơn như bác sỹ, tỷ lệ nữ thấp. Và ở các huyện
xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi có nền văn hóa riêng, lại thiếu phụ
nữ làm CBYT, mà nam giới làm sản phụ khoa thì đồng bào khó tiếp cận hơn.
1.3.6. Phân bố nguồn nhân lực theo địa lý còn bất cập
Xét về số lượng, phân bố nhân lực y tế tương đối hợp lý (Bảng 9). Tuy nhiên
như trên đã nói, sự bao phủ không chỉ xác định bằng số lượng nhân lực y tế, mà phải
bằng cả những kỹ năng thực hành thích hợp theo nhu cầu của địa phương. Đây là một
thách thức rất lớn không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước, nhất là các nước đang
phát triển. Nổi cộm ở Việt Nam hiện nay là:
Khác nhau lớn về trình độ chuyên môn giữa các tuyến. Năm 2008 số lượng
cán bộ tuyến trung ương là 38 578, chiếm 15% tổng số CBYT khu vực công, tuyến
tỉnh với 97 906 cán bộ, chiếm tỷ lệ cao nhất là 37%, tuyến huyện có 73 345 cán bộ,
tương ứng với 29% và tuyến xã là 56 205 người, chiếm tỷ lệ 21% (Bảng 24).
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
67
Số lượng CBYT tập trung nhiều ở tuyến trung ương, tỉnh, chủ yếu ở khu vực
thành thị. Đây là điều tất yếu, nhưng nếu tập trung quá đông thì chưa hợp lý (Bảng
24). Thành thị chiếm 51,3% tổng số CBYT (15% ở trung ương và 37% ở tuyến tỉnh),
trong khi dân số thành thị chỉ chiếm 28,1% dân số cả nước (mặc dầu CBYT ở thành
thị không chỉ phục vụ cho dân sống ở thành phố). CBYT tuyến huyện chiếm gần 28%
và tuyến xã chiếm ít hơn: 21% tổng số CBYT. Tỷ lệ như vậy là chấp nhận được, vì
tuyến huyện có nhiếu cơ sở y tế (Phòng y tế, bệnh viện huyện, TTYT), hơn nữa các cơ
sở y tế huyện phục vụ trực tiếp cho dân sống ở thôn xã. Sự phân bố bất cập thể hiện
rõ nhất ở nhóm nhân lực y tế trình độ cao, nhất là bác sỹ với tỷ lệ 60% ở thành thị
(20% ở trung ương và 40% ở tuyến tỉnh) và dược sỹ đại học với tỷ lệ 84% ở thành thị
(45% ở trung ương và 39% ở tuyến tỉnh). Hơn một nửa số điều dưỡng (57%) tập trung
ở thành thị. Các cán bộ khác không thuộc chuyên môn y tế có trình độ văn hóa cao
cũng phân bổ rất không đồng đều với 73% đại học và 64% cao đẳng, trung cấp ở
thành thị. Chỉ có y sỹ và hộ sinh được phân bổ tương đối hợp lý giữa thành thị và
nông thôn, với tỷ lệ ở thành thị tương ứng là 18% và 26%.
Bảng 24: Phân bổ nhân lực y tế công theo thành thị/nông thôn, 2008
Phân loại Thành thị Nông thôn Tổng số
Tuyến
trung ương
Tuyến tỉnh Tuyến
huyện
Tuyến xã
Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
%
Bác sỹ 10 627 20 21 678 40 14 657 27 6 957 13 53 919 100
Y sỹ 302 1 7 985 17 14 759 31 24 842 52 47 888 100
Dược sỹ ĐH 1 749 45 1 503 39 608 16 8 0 3 868 100
Dược sỹ TC và kỹ thuật
viên TC dược 1 965 17 4 028 34 3 867 33 1 912 12 11 772 100
Điều dưỡng 7 933 13 27 631 44 17 063 27 10 413 17 63 040 100
Hộ sinh 734 3 5 200 23 7 047 31 9 739 42 22 720 100
Kỹ thuật viên y học 2 451 20 5 944 49 3 564 29 279 2 12 238 100
Dược tá 1 732 36 1 099 23 877 18 1 080 21 4 788 100
Lương Y 495 57 48 6 137 16 188 13 868 100
Đại học khác 4 441 38 5 433 47 1 772 15 4 0 11 650 100
Cao đẳng và trung cấp
khác 1 833 19 4 421 45 3 386 34 267 0 9 907 100
Cán bộ khác 4 316 18 12 936 55 5 608 24 516 0 23 376 100
Tổng số 38 578 15 97 906 37 73 345 28 56 205 21 266 034 100
Chú thích: Bác sỹ và dược sỹ bao gồm cả Tiến sỹ, Thạc sỹ; Điều dưỡng bao gồm cả đại học, trung cấp
và sơ học; Hộ sinh bao gồm cả đại học, trung cấp và sơ học.).
Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2008 [7].
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
68
Cán bộ y tế ở tuyến cơ sở phân bổ không đều
Tổng số 65,9% các TYT có bác sỹ và trên 90% các TYT xã có y sỹ sản nhi
hoặc hộ sinh. Tỷ lệ TYT xã có bác sỹ cao nhất ở các vùng Đồng bằng sông Hồng,
vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng Tây Bắc có độ bao phủ bác
sỹ ở TYT xã thấp nhất – chỉ 32,4%. Bình quân cả nước mới có hai phần ba xã có bác
sỹ là một tỷ lệ thấp (Bảng 8 ở trên), trong khi bác sỹ tập trung ở thành thị rất nhiều và
còn nhiều bác sỹ không hành nghề y là một bất cập cần giải quyết.
Tỷ lệ TYT xã có y sỹ sản nhi hoặc hộ sinh cao nhất ở các vùng Bắc Trung Bộ
và vùng Đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ trên 96%. Ở Trung du và miền núi phía
Bắc (Tây Bắc, Đông Bắc) heo hút, đi lại khó khăn lại có tỷ lệ thấp hơn.
Ở ba vùng có tỷ lệ thôn ấp có NVYT còn thấp, nên nghiên cứu tìm hiểu xem
có phải là do nhu cầu thấp trong khu vực thành thị, hoặc vì vùng xuôi không được
trung ương hỗ trợ trả phụ cấp và nhiều địa phương không dành ngân sách cho hoạt
động này. Tuy nhiên, đối với NVYT thôn/bản vần đề cốt lõi không chỉ là số lượng mà
là hoạt động ổn định và lâu dài, cũng như đào tạo để bổ sung, thay thế số bỏ việc/thôi
việc (điều này rất thường xảy ra).
Nguyên nhân phân bố nguồn nhân lực chưa hợp lý
Sự khác biệt lớn về kinh tế - xã hội, điều kiện giao thông, điều kiện sống và
điều kiện, phương tiện làm việc giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng NVYT tập trung đông ở thành thị và rất
thiếu ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi, vùng xa, vùng khó khăn. Nguyên nhân
này bản thân ngành y tế không thể tự giải quyết được.
Chính sách thu hút về tài chính và phi tài chính đối với NVYT công tác ở các
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi còn yếu. Dù có tăng phụ cấp khu
vực cho CBYT làm việc ở các vùng khó khăn theo Nghị định của Chính phủ số
64/2009/NĐ-CP, ngày 30/07/2009, về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công
tác ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và phụ cấp cho NVYT
thôn/bản theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 75/2009/QĐ-TTg ngày
11/05/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với NVYT thôn, bản, nhưng nguồn
ngân sách để bảo đảm trả những phụ cấp đó vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tài
chính ở địa phương.
Chưa có chế tài cụ thể đủ mạnh để bắt buộc các đối tượng được hưởng chế độ
tuyển sinh theo địa chỉ, theo vùng miền sau khi tốt nghiệp phải trở về làm việc tại địa
phương. Điều kiện hành nghề chuyên môn ở xã, huyện rất thiếu thốn nên khó thu hút
và giữ chân được NVYT.
Phân bố mạng lưới các trường đại học y, dược trên phạm vi lãnh thổ cả nước
chưa bảo đảm cung ứng đủ nhân lực y tế theo vùng lãnh thổ. Vùng khó khăn ít có
hoặc chưa có trường đại học y tế. Ví dụ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông
Cửu Long với dân số tương tự (khoảng 18 và 17 triệu) trong khi Đồng bằng sông
Hồng có tới 7 trường đại học y dược thì Đồng bằng sông Cửu Long (nếu không kể
Thành phố Hồ Chí Minh) chỉ có một trường đại học y dược trên địa bàn với quy mô
hiện tại không lớn và vẫn đang trong thời kỳ vừa đào tạo vừa xây dựng trường sở.
Khu vực Tây Bắc rộng lớn chưa có trường/khoa y dược đóng trên địa bàn.
Học sinh, học viên có thể dự thi tuyển vào bất kỳ trường nào nếu chịu tuân
theo các quy định hiện hành và trên thực tế thì đã thường xuyên xảy ra như vậy. Tuy
nhiên việc xa cách về địa lý dẫn đến tình trạng:
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
69
Nhiều học sinh, học viên ở các vùng xa, vùng khó khăn, vùng rừng núi không
đủ điều kiện để có thể theo học hoặc theo học hết khóa tại các trường ở xa, ở
trung tâm đô thị/thành phố lớn.
Nhiều học sinh, học viên ở các vùng kể trên không đủ trình văn hóa để có thể
thi đỗ vào các trường ở xa, ở trung tâm đô thị/thành phố lớn.
Cho dù được ưu tiên, được cử tuyển, được học bổng và miễn học phí thì nhiều
học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số, vì nhiều lý do (văn hóa,
phong tục, tập quán, lối sống,...), nên khó hòa nhập được với môi trường học
tập ở các trường xa lạ.
Với tình trạng trên nên sự phân bố các cơ sở đào tạo quá chênh lệch về mặt địa
lý tất yếu ảnh hưởng rất nhiều đến số lượng nguồn nhân lực và sự phân bố NVYT tới
các vùng miền, nhất là trong khi các chính sách bắt buộc hoặc thu hút NVYT làm việc
ở các vùng khó khăn lại chưa có hoặc ít hấp dẫn.
Dịch chuyển NVYT
Xu hướng dịch chuyển NVYT không mong muốn là dịch chuyển từ huyện lên
tỉnh và trung ương, từ nông thôn ra thành phố, từ miền núi về đồng bằng, từ lĩnh vực
dự phòng sang lĩnh vực điều trị, cận lâm sàng sang lâm sàng, từ trường sang bệnh
viện, từ chuyên ngành ít hấp dẫn/rủi ro sang chuyên ngành hấp dẫn, từ công lập sang
tư nhân, từ ngành y, dược sang ngành nghề khác...
Việc dịch chuyển NVYT nhìn chung không làm thay đổi số NVYT, nhưng do
dịch chuyển mạnh đội ngũ NVYT và khó kiểm soát trong những năm qua đã gây biến
động về phân bố nguồn nhân lực giữa các vùng miền, giữa các tuyến, giữa các khu
vực chuyên môn, giữa các chuyên ngành... Hậu quả là mất cân đối trong phân bổ
NVYT, thiếu NVYT ở tuyến dưới, ở vùng sâu vùng xa, ít người làm y tế dự phòng và
cận lâm sàng, thiếu người làm chuyên ngành khó khăn...
Việc dịch chuyển NVYT từ y tế công sang y tế tư (các bệnh viện tư nhân,
bệnh viện vốn nước ngoài...) ngày càng phổ biến, đặc biệt là đối với một số CBYT có
trình độ chuyên môn giỏi.
Thiếu, thừa “giả tạo” và đội ngũ NVYT chưa được huy động
Trong khi nhân lực y tế ở những nơi khó khăn và một số chuyên ngành ít hấp
dẫn rất thiếu thì lại có tình trạng nhiều NVYT không làm nghề y tế đã học, do không
tìm được việc làm ở thành phố lớn, hoặc sẵn sàng làm không công tại các cơ sở y tế
công hoặc tư để chờ cơ hội là khá phổ biến, gây ra tình trạng “thừa giả tạo”.
Còn khá nhiều nhân lực y tế chưa đựợc huy động để sử dụng, gồm NVYT mới
tốt nghiệp nhưng chưa tìm được việc, NVYT đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn sức khỏe và
nguyện vọng làm việc (đặc biệt là đội ngũ quân y). Cũng cần khảo sát, đánh giá và có
giải pháp để huy động nguồn lực chưa được sử dụng này, đặc biệt là đối với tuyến cơ
sở.
Mặt khác, ở nhiều bệnh viện lớn có tình trạng thiếu cán bộ là do hiện tượng
quá tải bệnh viện. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu thì tình trạng nhân lực y tế
vừa rất thiếu vừa thừa càng thêm trầm trọng. Đào tạo nhiều, không sử dụng hết, sử
dụng không đúng mục đích, dẫn đến thiếu nhân lực y tế và gây lãng phí về nhân lực y
tế.
Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2009
70
1.3.7. Mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng cán bộ y tế
Mâu thuẫn này bao giờ cũng xảy ra khi muốn tăng nhanh về số lượng. Cần lưu
ý rằng, tăng nhanh chóng về số lượng trong điều kiện kinh tế Việt Nam chưa phát
triển trong khung cảnh nhìn chung các cơ sở đào tạo CBYT còn rất khó khăn, thiếu
thốn, yếu cả về chuyên môn và cơ sở vật chất, thì chất lượng đào tạo vẫn còn hạn chế.
Muốn giải quyết vấn đề thiếu nhân lực cần tăng số lượng tuyển sinh. Theo cơ
chế hiện nay, số sinh viên/học viên vào học ngày càng nhiều, thậm chí có trường
tuyển sinh vượt quá năng lực đào tạo, khó bảo đảm chất lượng đào tạo. Vấn đề khác là
đào tạo xong, ngành y tế có chính sách, chế độ đủ hấp dẫn để thu hút và giữ chân
CBYT giỏi một cách hợp lý. Muốn tăng nhanh số lượng CBYT, phải mở rộng hình
thức đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ..., nhưng như vậy sẽ làm hạ chất lượng
CBYT.
Hiện rất thiếu cán bộ chuyên môn giỏi (chuyên sâu) ở tất cả các tuyến, nhất là
ở tuyến huyện và tuyến tỉnh3 dẫn đến chất lượng dịch vụ y tế còn hạn chế (sẽ được
phân tích rõ hơn ở chương 4).
2. Những vấn đề ưu tiên
2.1. Thiếu cán bộ y tế trong lĩnh vực YTDP và một số chuyên ngành khác
So với kế hoạch và chính sách phát triển các trung tâm YTDP, phòng chống
HIV/AIDS, thanh tra ATVSTP, số lượng cán bộ YTDP rất thiếu.
Tỷ lệ điều dưỡng làm trong khu vực công lập trên 1 vạn dân và tỷ số điều
dưỡng trên 1 bác sỹ rất thấp so với các quốc gia khác, trong khi hằng năm số
điều dưỡng được đào tạo rất đông.
Thiếu cân đối giữa các chuyên ngành hẹp, đặc biệt là thiếu nghiêm trọng dược
sỹ đại học, nhân viên thuộc lĩnh vực YTDP, cận lâm sàng, chuyên ngành ít
hấp dẫn
2.2. Phân bố nhân lực y tế chưa hợp lý
Nhiều huyện, xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thiếu nhân lực và không
đồng bộ về cơ cấu. Vùng thiếu nhiều thì rất thiếu nguồn để đào tạo và không
có chính sách mạnh để thu hút nhân lực từ nơi khác tới, thêm vào đó lại còn bị
dịch chuyển/chảy máu chất xám nặng.
Đưa NVYT có trình độ về cơ sở xã, phường (bác sỹ, hộ sinh trung cấp,) tại
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và tạo điều kiện để họ sống, an tâm làm
việc, còn rất nhiều khó khăn và vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Đào tạo đủ
các loại hình cán bộ phù hợp, có chất lượng cho tuyến huyện (nhất là các
huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa) là một mắt xích rất quan trọng trong hệ
thống y tế, nhưng không dễ giải quyết trong thời gian ngắn.
Thiếu nghiêm trọng cán bộ chuyên môn giỏi cho tuyến tỉnh và tuyến huyện.
Chưa có chế tài, chính sách hợp lý để đưa và giữ NVYT có trình độ cử nhân,
đại học làm việc ổn định và lâu dài tại cơ sở.
3 Theo kế hoạch thì chủ nhiệm khoa tuyến tỉnh phải có bằng TS hoặc chuyên khoa cấp 2, tuyến huyện
thì tối thiểu là chuyên khoa cấp 1.
Chương 3: Số lượng và phân bổ nguồn nhân lực y tế
71
2.3. Thiếu chuyên gia y tế giỏi, cán bộ y tế chuyên sâu
Nhiều chuyên ngành hẫng hụt cán bộ đầu đàn về chuyên môn. Chưa chú ý đào
tạo chuyên gia y tế giỏi, cán bộ y tế chuyên sâu cho một số chuyên ngành mũi
nhọn mà Việt Nam có khả năng phát triển ngang tầm khu vực/quốc tế. Mặt
khác cũng chưa chú ý đào tạo, bồi dưỡng NVYT giỏi cho các chuyên ngành.
Ít chú ý phát triển thày thuốc gia đình (bác sỹ gia đình), bác sỹ còn tập trung
nhiều ở các bệnh viện, trong khi bệnh nhân ít được chăm sóc và tư vấn tại
cộng đồng, tại nhà (kể cả thành phố).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- jahr2009_vn_p1_4621.pdf