MỤC LỤC
Phần A: Mở Đầu. 1
Phần B: Nội Dung . 4
Chương I:Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội - một trong những nền tảng lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học 4
Chương II. Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. 10
Chương III. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội qua phác thảo của Mác và Ănggen và lê nin và Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. 14
.
chương IV.Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta trong thế kỷ XXI. 22
Phần C: Kết luận . 23
Tài liệu tham khảo 24
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội qua phác thảo của Mác và Ănggen và lê nin và Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o gồm:
Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
2. Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Những quan hệ này, mặc dù về mặt khả năng, luôn luôn có xu thế phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất; song trong thực tế, trước hết chúng lại là những quan hệ hiện thực - lịch sử của con người ở những giai đoạn lịch sử xác định. Chính điều này đã nói lên quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản tương lai, trên thực tế là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Mác viết : "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có..., trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội".
c. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất xã hội, bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, tức là những quan hệ sản xuất đặc trưng cho mỗi phương thức sản xuất và tất cả những quan hệ sản xuất khác tồn tại hiện thực trong mỗi phương thức sản xuất " hợp thành " cơ cấu kinh tế của xã hội. Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội trong sự vận động hiện thựccủa chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của hình thái kinh tế - xã hôi đó.
Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sỏ hiện thực đó."
Như vậy kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế xã hội tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Căn cứ vào những tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của lịch sử loài người, chúng ta có thể xác định: hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2. Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong khoa học xã hội. Các nhà triết học đã không thể giải quyết một cách khoa học vẫn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội.
Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hóa trong việc xem xét đời sống xã hội. Trước hết, học thuyết này gắn bó hữu cơ với việc mở rộng các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật vào sự nhận thức các hiẹen tượng xã hội. Chính việc mở rộng chủ nghĩa duy vật vào lĩnh vực lịch sử xã hội đã cho phép vạch ra sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, sự thống nhất của toàn bộ thế giới vật chất.
Trong tất cả mọi quan hệ xã hội, Mác đã làm nổi bật những quan xã hội vậ chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác. Bằng cách này, chủ nghĩa duy vật cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội. Do đó, ''có thể đem những chế độ của các nước khác nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất là: hình thái xã hội. Chỉ có sự khái quát đó mới cho phép chuyển từ việc mô tả những hiện tượng xã hội sang việc phân tích hiện tượng đó một cách hết sức khoa học''.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã khắc phục được quan niệm trừu tượng về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung, phi lịch sử, không thay đổi về chất. Do việc hình thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội mà quan điểm phi lịch sử về xã hội đã phải nhường chỗ cho qua điểm lịch sử cụ thể.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở phương pháp luận của sự phân tích khoa học về xã hội, hòn đá tảng của khoa học xã hội; và do đó, là một trong những nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn thực sự duy vật vè phân kỳ lịch sử và cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử, hiểu được lôgic khách quan của quá trình đó. Học thuyết này giúp cho việc hiểu được sự vận động của xã hội theo các quy luật khách quan, vạch ra sự thống nhất trong cái muôn màu muôn vẻ của các sự kiện lịch sử ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế mà nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra nững mối liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rấy đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể được hiểu đúng khi gắn nó với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Ngày nay, thực tiễn lịch sử và kiến thức về lịch sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết về hình thái kinh tế xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà quan niệm duy vật về lịch sử đã đem đến cho khoa học xã hội vẫn giữ nguyên giá trị.
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quả trình lịch sử - tự nhiên.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội không chỉ xác định các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội, mà còn xem xét xã hội trong một quá trình biến đổi và phát triển không ngừng.Mác viết:''Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên''. Mác coi lực lượng sản xuất và qua hệ sản xuất , cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là nhứng yếu tố hợp thành không thể thiếu được của hình thái kinh tế - xã hội; đồng thời ông cũng coi mối qua hệ biện chứng giữa các yếu tố đó chính là những quy luật phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là quá trình lịch sử tự nhiên.
''... Lịch sử - tự nhiên'' nghĩa là quá trình lịch sử mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử của giới tự nhiên, vận động theo quy luật và xét đến cùng thì không phụ thuộc vào ý muốn con người. Chính là dựa vào tư tưởng vĩ đại này, dựa vào sự định hình khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội tạo ra cơ cấu kinh tế của xã hội, Mác đã tách ra các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó được coi như một cơ thể xã hội tự phát triển theo những quy luật vốn có của nó,''một cơ thể xã hội riêng biệt, có những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên một hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác". Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội: xã hội cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa...đã tạo nên trục đường tiến triển trong lịch sử loài người.
Theo Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của các cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sanr xuất, đặc biệt là khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ cách mạng, cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Từ những lập luận như vậy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đi đến kết luận: hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế đó được thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề vật chất quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp vô sản.
4. Phân tích hình thái kinh tế - xã hội, Mác - Ănghen đã dự báo về xã hội tương lai.
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Mác tập trung phân tích hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Ông viết: " Xã hội tư sản là một tổ chức sản xuất phát triển nhất và đại diện nhất trong lịch sử. Vì vậy, các phạm trù biểu thị những quan hệ của xã hội đó, kết cấu của xã hội đó, đồng thời cũng cho ta cái khả năng hiểu thấu được kết cấu và các quan hệ sản xuất của tất cả các hình thái - xã hội đã diệt vong..." Đồng thời, chính sự giải phẫu của Mác đối với xã hội tư bản và các quy luật vận động của nó đã cho phép ông dự báo một cách khoa học về xã hội tương lai.
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, do áp dụng triệt để phương pháp duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu xã hội, Mác và Ănghen không chỉ phân chia lịch sử xã hội loài người ra thành các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân chia mỗi hình thái kinh tế - xã hội ra thnàh các giai đoạn phát triển nhất định. Theo Mác, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có tính chất qua độ và tính chất lịch sử nghĩa là đều phải trải qua quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để chuyển sang một hình thái cao hơn. Từ khi xuất hiện đến khi kết thúc sư tồn tại của mình, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều trải qua ba giai đoạn cơ bản: giai đoạn phát sinh, giai đoạn phát triển và giai đoạn kết thúc. Mỗi giai đoạn ấy đều có độ dài, giới hạn về thời gian, cũng như nội dung và đặc điểm riêng của nó. Mỗi giai đoạn ấy lại được phân chia ra thành các thời kỳ, các thời đoạn phát triển khác nhau.
Mác coi hình thái kinh tế - xã hội mới là một cơ thể xã hội vận động và biến đổi không ngừng. Mác kiên quyết đấu tranh chống những biểu niện lãng mạn và duy tâm trong việc mô tả xã hội tương lai. Vì trong thời Mác, cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa giành được thắng lợi, cho nên khi nói về xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản, Mác không xác định trước những hình thức cụ thể của nó, không muốn vẽ bức tranh tỉ mỉ với những chi tiết về những quan hệ của nó mà ông chỉ nói đến những luận điểm về tính tất yếu và những đặc trưng tiêu biểu của xã hội đó. Ông đã có công biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, đặt nền móng cho lý luận về sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ông đã nhìn thấy trước rằng xã hội mới phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Chương II:
SỰ HÌNH THÀNH LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Nghiên cứu quá trình hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, có thể thấy rõ từng luận điểm của các nhà sáng lập ra CNXHKH đã xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể nào; phải đấu tranh ra sao để bảo vệ quan điểm của mình; những luận điểm nào đã được bổ sung, thậm chí thay đổi trong qua trình phát triển lý luận gắn với những thay đổi của hiện thực xã hội; vì sao hai ông lại gọi học thuyết của mình là chủ nghĩa xã hội khoa học.
Điều kiện quan trọng nhất cho chủ nghĩa Mác nói chung và cho chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng ra đời là sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử.
Nghiên cứu quá trình hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, có thể phân chia quá trình đó thành các giai đoạn dưới đây:
1. Giai đoạn thứ nhất (1842-1845)
a. Thời kỳ Mác hoạt động ở Báo sông Ranh là cái mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
b. Bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản được hoàn thành trong những bức thư và những bài báo của Mác đăng trong tạp chí Niên giám Pháp - Đức.
c. Tác phẩm bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 giữ vị trí quan trọng trong việc hình thành CNXHKH. Trong tác phẩm này cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác nằm trong qua trình hình thành với tư cách là một chỉnh thể thống nhất. ở đây, Mác thực hiện hai nhiệm vụ gắn liền với nhau: tổng kết những nghiên cứu kinh tế đầu tiên của mình và luận chứng tính tất yếu của sự cải tạo cộng sản chủ nghĩa đối với xã hội.
Điểm xuất phát trong phân tích của Mác về khoa kinh tế chính trị là mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản. Theo Mác, sự đối kháng đó có mặt trong quan hệ giữa tiền công của công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản. Qua sự phân tích mâu thuẫn đó, Mác đặt cơ sở cho lý luận đấu tranh giai cấp trong giai đoạn phát triển cao nhất của chế độ tư hữu, tương ứng với nó là sự phân cực xã hội thành giai cấp chủ sở hữu và giai cấp vô sản.
2. Giai đoạn thứ hai (1845 - 1848)
Từ mùa xuân năm 1845 đến tháng 2 năm 1848 là giai đoạn có ý nghĩa quyết định của quá trình hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học, Mác và Ăngghen đã viết một só tác phẩm quan trọng nhằm luận chứng về mặt triết học cho chủ nghĩa xã hội khoa học và soạn thảo cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản.
a. Hệ tư tưởng Đức là tác phẩm rấy quan trọng của Mác và Ănggen, trong đó hai ông đem đối lập hệ tư tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản nói chung và với hệ tư tưởng Đức nói riêng.Đặc biệt ở đây,Mác và Ănggen đã làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đó là những tư tưởng quan trọng để hình thành học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Hai ông nhấn mạnh rằng, sự phát triển các mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của xã hội tư bản tất yếu dẫn tới cách mạng vô sản.
Điều đáng chú ý trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức là Mác và Ănggen đã trình bày một cách rõ rệt luận điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học về hai tiền đề vật chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa - đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng.
Trong hệ tư tưởng Đức, Mác và Ănggen đã dự báo những thay đổi về chất trong mọi lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội của xã hội tương lai. Cùng với việc thủ tiêu chế độ tư hữu và xã hội hóa kinh tế gia đình thì quan hệ gia đình cũng đổi khác. Cùng với việc cải tạo tồn tại xã hội thì ý thức xã hội cũng sẽ thay đổi. Chủ nghĩa cộng sản là xã hội tạo ra những điều kiện cho sự phát triển tự do toàn diện của mỗi ngừơi.
Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa không tưởng, Mác và Ănggen đã nêu lên những tư tưởng rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học:'' Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra...''.
Hệ tư tưởng Đức là tác phẩm đã đặt nền tảng lý luận cho việc phát triển tiếp theo lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách là một hệ thống. Trong tác phẩm này, chủ nghĩa xã hội khoa học được trình bày không những đối lập với hệ tư tưởng tư sản, mà còn đối lập với chủ nghĩa không tưởng tiểu tư sản.
b. Nếu việc phê phán '' chủ nghĩa xã hội chân chính'' là nhằm chống lạicách kiến giải duy tâm tư biện chứng về chủ nghĩa xã hội, thì việc phê phán chủ nghĩa Pruđông không những chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà còn bác bỏ quan điểm kinh tế sai lầm của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
Song song với việc phê phán những cơ sở kinh tế và triết học của chủ nghĩa Pruđông, Mác tiếp tục phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông coi sự phát triển của lực lượng sản xuất là tiền đề cho sự giải phóng giai cấp vô sản và xây dựng xã hội mới.
Tuyên ngôn của đảng cộng sản do Mác - Ănghen viết vào cuối 1847 đầu 1848 là tác phẩm giữ một vị trí đặc biệt trong lịch sử lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong tác phẩm này lý luận đấu tranh giai cấp chiếm vị trí quan trọng. Hai ông khẳng định: lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản không phải là ngoại lệ, mà là đỉnh cao của đấu tranh giữa giai cấp chủ sở hữu và giai cấp người lao động. Bởi vì, chủ nghĩa tư bản đưa mọi mâu thuẫn vốn có ở xã hội có giai cấp đối kháng lên tới đỉnh điểm của chúng. Hai ông còn chỉ rõ sự xung đột giữa lực lượng sản suất và quan hệ sản xuất thể hiện ra là xung đột giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Cách mạng xã hội phải giải quyết mâu thuẫn đối kháng đó.
Vạch ra nội dung của các cuộc cách mạng xã hội và các kiểu nhà nước, hai ông đi tới kết luận: Việc xóa bỏ các giai cấp bóc lột chỉ có thể nhờ chuyên chính của giai cấp vô sản. Việc giai cấp vô sản duy nhất có thể trở thành giai cấp cách mạng, được hai ông luận chứng qua phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Theo Mác và Ănghen, sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ thi hành bản án tử hình đối với chủ nghĩa tư bản. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau. Chủ nghĩa xã hội chỉ đạt được nhờ cuộc đấu tranh lâu dài của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, cuộc đấu tranh tất yếu nổ bùng ra thành cách mạng công khai, mà giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản.
Nghiên cứu sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp trong chủ nghĩa tư bản, Mác và Ănghen đã có một kết luận quan trọng: kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh đó là chuyên chính vô sản.
3. Giai đoạn ba (1848 - 1867)
Giai đoạn này bắt đầu từ cuộc cách mạng châu Âu 1848 - 1849. Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học phát triển chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cách mạng.
Đây là giai đoạn mà Mác và Ănghen quan tâm nhiều tới quá trình cải tạo cách mạng sắp tới. Do vật, hai ông đã soạn thảo học thuyết đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề trước đây, một loạt luận điểm lý luận mới đã được đưa ra, những tư tưởng và những luận điểm đưa ra trước đây, lúc này được trình bày và phát triển tới mức hoàn hảo.
Khi nghiên cứu nguyên nhân của cách mạng, Mác và Ănghen đã đi đến kết luận rằng không có khủng hoảng kinh tế thì không thể có cách mạng. "Trong cảnh phồn vinh phổ biến như vậy, khi mà lực lượng sản xuất của xã hội tư sản phát triển rực rỡ tới mức nói chung có thể có được trong khuôn khổ những quan hệ tư sản, thì không thể nói đến chuyện có một cuộc caqchs mạng thật sự. Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có thể có trong những thời kỳ mà cả hai nhân tố đó, lực lượng sản xuất hiện đại và các hình thức sản xuất tư sản mâu thuẫn với nhau... Cuộc cách mạng mới chỉ có thể xảy ra tiếp theo sau một cuộc khủng hoảng mới. Nhưng việc cách mạng sẽ xảy đến cũng tất yếu không thể tránh khỏi như việc khủng hoảng sẽ xảy đến".
Quá trình hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học có thể tóm tắt như sau:
Một là: lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học đã ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đang kết thúc những cải tạo dân chủ tư sản và ở vào thời kỳ cạnh tranh tự do. Đặc trưng của thời kỳ này là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, là xoá bỏ những tàn dư của chế độ phong kiến, là tập trung và tích tụ sở hữu vào tay một nhóm nhỏ cac nhà tư bản, là sự xuất hiện giai cấp vô sản, là sự xung đột giữa giai cấp tư sản và giai cấp vo sản.
Lúc đó nước Đức, quê hương của Mác và Ănghen đang đứng trước cuộc cách mạng tư sản. Tâng lớp tư sản Đức đã thống trị về kinh tế song chưa giành được chính quyền, nên họ có nhu cầu cải tạo thượng tầng chính trị phong kiến thành thượng tầng chính trị tư bản chủ nghĩa.
Trong tình hình như vậy, Mác vag Ănghen đã tự thể hiện là các nhà cách mạng dân chủ, đấu tranh cho những cải tạo dân chủ tư sản chống lại chế độ phong kiến. Việc tiếp xúc với thực tiễn, việc nghiên cứu khoa học kinh tế chính trị tư sản, việc kế thừa có phê phán triết học cổ điển Đức và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp đã cho phép các ông thực hiện bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội cách mạng.
Hai là: Trong suốt quả trình hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, Mác và Ănghen luôn hướng tới mục đích nhân đạo là giải phóng con người. Kinh tế chính trị học tư sản giữ vai trò quan trọng trong quá trình Mác và Ănghen nghiên cứu xã hội đương thời. Hai ông đã chỉ ra hạn chế và mâu thuẫn nội tại của khoa học kinh tế chính trị tư sản, vì nó không nghiên cứu chế độ tư hữu.
Các ông bác bỏ quan niệm coi tôn giáo là nguyên nhân của tha hóa, do vậy các ông đòi hỏi phải biến phê phán tôn giáo thành phê phán chính trị. Như vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành học thuyết về điều kiện giải phóng giai cấp vô sản.
Ba là: Do coi nội dung của chủ nghĩa xã hội khoa học là học thuyết về điều kiện giải phóng giai cấp vô sản, nên Mác và Ănghen và Lênin đã nhấn mạnh rằng, xoá bỏ chế độ tư hữu là yêu cầu chủ yếu của những người vô sản. Song, đói với nước Đức nửa phong kiến, để làm được điều đó thì nhiệm vụ trưíc tiên là làm cách mạng tư sản nhằm tạo ra cơ sở cho chủ nghĩa tư bản phát triển - tiền đề của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là: Trên cơ sở phân tích chủ nghĩa tư bản, Mác và Ănghen và Lênin đã vạch ra những đặc trưng của xã hội tương lai: Lực lượng sản xuất phát triển cao; xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất; thủ tiêu chế độ người bóc lột người; xoá bỏ những đối kháng giai cấp và những phân biệt giai cấp; tổ chức sản xuất một cách có ý thức và có kế hoạch; xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; xoá bỏ các quan hệ hàng hóa và quan hệ giá trị; sự phát triển tự do và toàn diện của con người,...
Chương III
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI QUA PHÁC THẢO CỦA MÁC VÀ ĂNGGEN VÀ LÊ NIN
Chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét với hai tư cách: tư cách là học thuyết khoa học và tư cách là một chế độ xã hội. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học có một quá trình hình thành như đã được trình bày ở trên. ở đây, chỉ tập trung tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội qua phác thảo của Mác, Ănghen và Lênin.
Tuy nhiên, theo Mác và Ănghen khi gọi chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cộng sản thì không được quên một điều rằng đó chưa phải là chủ nghĩa cộng sản phát triển trên những cơ sở của chính nó, chưa phải là chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn. Trái lại, chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mác viết:''Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên nhưng cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mạng những dấu vết của xã hội cũ mà đã lọt lòng ra''. Ănghen cho rằng:''... Cái mà người ta gọi là ''xã hội xã hội chủ nghĩa'' không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên''. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội :
1. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí.
Nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Mác và Ănghen cho rằng chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản, vì vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng mở rộng sản xuất một cách vô hạn.
Mặt khác, theo Mác và Ănghen, bản thân nền đại công nghiệp hiện đại không dung hợp với chế độ tư hữ tư bản chủ nghĩa; nó đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hứu về tư liệu sản xuất.
2. Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Mác và Ănghen quan niệm rằng mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải ''đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào.Vì vậy, theo các ông, thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Xuất phát từ quan niệm như vậy, các ông đã đi đến kết luận rằng những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế ddộ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình, rằng những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là:xoá bỏ chế độ tư hữu.
Tuy nhiên, theo Mác và Ănghen, mục đích của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu, chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ quyền chiếm hữu sản phẩm xã hội của những người lao động mà chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác. Vì thế, việc xoá bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản; đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản.
Với quan niệm đó, trong hầu hết các tác phẩm của mình, khi đề cập đến những đặc trưng của xã hội tương lai mà giai cấp vô sản có sứ mệnh phải xây dựng. Mác và Ănghen luôn nói đến vấn đề sở hữu và coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất để trên cơ sở đó phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng một nền kinh tế có kế hoạch và tiến hành phân phối sản phẩm làm ra theo lao động là một trong những đực trưng cơ bản của xã hội tương lai đó - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, quan niệm về việc thủ tiêu chế độ sở tư sản, thiết lập chế độ sở hữu công cộng vè tư liệu sản xuất ở Mác và Ănghen đã đạt đến trình đọ hoàn thiện trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), khi các ông coi đó là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.Các ông đã chỉ rõ rằng một khi toàn bộ tư liệu sản xuất ''biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không phải là một sở cá nhân chuển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó''.
Tóm lại, việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là một trong những đặc trưng cơ bản, thậm chí là cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ mạng lại cho xã hội một loạt hệ quả mà trước hết là tạo ra cho nó khả năng điều tiết một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội và tạo điêù kiện để xóa bỏ sản xuất hàng hóa.
3. Chủ nghĩa xã hội điều tiết một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội và nền sản xuất hàng hóa về cơ bản sẽ trở nên thừa.
Mác và Ănghen đều khẳng định rằng chế độ tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân dẫn tới tình trạng vô chính phủ, tự do cạnh tranh, cá lớn nuốt cá bé và cuối cùng dẫn tới tình trạng khủng hoảng trong chủ nghĩa tư bản. Để khắc phục tình trạng đó cần phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tạo ra khả năng điều khiển xã hội theo một kế hoạch chung. Vì thế, bên cạnh việc thủ tiêu chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn coi việc điều tiết nền sản xuất theo một kế hoạch là một trong những đặc trưng cơ bản, là mục tiêu và thực chất của chủ nghĩa xã hội.
Mác và Ănghen cho rằng, một khi chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất đã bị xóa bỏ, xã hội tự mình nắm lấy toàn bộ tư liệu sản xuất để đem dùng chung cho toàn thể xã hội theo một kế hoạch thống nhất, thì không những tình trạng con người bị nô dịch bởi tư liệu sản xuất của chính họ bị xóa bỏ và tình trạng vô chính phủ trong nền sản xuất xã hội được thay thế bằng sự tổ chức có kế hoạch, có ý thức mà cả nền sản xuất hàng hóa cũng bị thủ tiêu.Các ông còn cho rằng cùng với việc thủ tiêu nền sản xuất hàng hóa thì tính chất hàng hóa của sức lao động cũng không còn nữa.Ănghen viết:''Đối với chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa muốn giải phóng sức lao động của con người khỏi địa vị hàng hóa, thì điều rất quan trọng là phải hiểu rằng lao động không có giá trị và không thể có giá trị được''. Thêm vào đó, cùng với việc thủ tiêu nền sản xuất hàng hóa, mối quan hệ hàng - tiền cũng chấm dứt. Bởi vì, ''trong nền sản xuất có tính chất xã hội thì không còn tư bản tiền tệ nữa.Xã hội phân phối sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Có thể nói là người sản xuất lĩnh những giấy chứng nhận để đến các kho công cộng chứa tư liệu tiêu dùng lĩnh một số lượng sản phẩm tương ứng với thời gian lao động của họ. Những giấy chứng nhận đó không phải là tiền. Chúng không lưu thông''.Khi nền sản xuất hàng hoá không còn nữa thì cả quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa đó cũng sẽ biến mất, bởi vì giá trị kinh tế là một phạm trù thuộc nền sản xuất hàng hóa và biến mất cùng với nền sản xuất hàng hóa, như nó đã không tồn tại trước nền sản xuất hàng hóa. Mối liên hệ giữa lao động với sản phẩm trước và sau nền sản xuất hàng hóa không còn biểu hiện dưới hình thức giá trị nữa. Do đó, tình trạng cạnh tranh giữa những người lao động cũng không còn nữa, nó sẽ được thay thế bằng sự hợp tác và thi đua.
4. Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Nhiều tác phẩm của Mác và Ănghen đã luận giải rằng, một khi xã hội đã lấy toàn bộ các tư liệu sản xuất để sử dụng chung cho toàn thể xã hội theo một kế hoạch thống nhất, nhằm cùng nhau khai thác lực lượng sản xuất vì lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội, thì việc quản lý các ngành sản xuất không thể là công việc của một cá nhân nào đó mà phải là công việc của tất cả các thành viên trong xã hội.
Mác và Ănghen đều khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; còn kỷ luật của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác. Theo các ông, kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa xã hội sở dĩ cao hơn so với kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa tư bản là vì nó dựa vào và sẽ ngày càng dựa vào một kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động. Điều đó cũng là sản phẩm tất yếu của việc thủ tiêu chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, của việc điều hành nền sản xuất xã hội theo một kế hoạch chung.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ sở của sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối việc sản xuất và phân phối sản phẩm.
5. Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Mác chỉ rõ rằng trong xã hội mới - một liên minh những người lao động tự do, lao động bằng những tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội và tiêu phí sức lao động cá nhân của họ một cách tự giác với tư cách là sức lao động xã hội duy nhất, thì ''toàn bộ sản phẩm của liên minh những người tự do là một sản phẩm xã hội. Một phần của sản phẩm ấy lại được dùng làm tư liệu sản xuất. Phần đó vẫn thuộc về xã hội. Nhưng phần kia thì do các thành viên trong liên minh tiêu dùng với tư cách là những tư liệu sinh hoạt. Vì thế, phần đó phải được phân phối giữa họ với nhau''; người giữ trách nhiệm điều tiết và phân phối những sản phẩm ấy là xã hội. Việc phân phối phần tư liệu sinh hoạt đó cho mỗi người sản xuất, theo Mác, ''sẽ do thời gian lao động của người đó quyết định'', bởi vì thời gian lao động là cái để đo phần tham gia của cá nhân người sản xuất vào lao động chung và do đó,cả cái phần tham dự của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản phẩm. Nhưng phương thức phân phối đó - phương thức phân phối theo lao động, theo ông sẽ thay đổi tuỳ theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và tuỳ theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những người sản xuất.
Ănghen nhận đinh rằng phương thức phân phối, về căn bản, là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối và số lượng này chắc chắn phải thay đổi cùng với sự tiến bộ của sản xuất và tổ chức xã hội, thành thử phương thức phân phối cũng phải thay đổi.
6. Chủ nghĩa xã hội khi đã xây dựng xong, chủ nghĩa cộng sản đã được thực hiện thì xã hội sẽ không còn giai cấp.
Mác đã đến khẳng định rằng giai cấp công nhân trong quá trình phát triển của mình, trong sự nghiệp giải phóng giai cấp mình phải sáng lập ra một xã hội mới, phải thay thế xã hội tư sản cũ bằng một tổ chức liên hiệp, tổ chức liên hiệp này sẽ loại bỏ các giai cấp và sự đối kháng giai cấp. Trong tác phẩm Chế độ thuế quan bảo hộ hay là chế độ mậu dịch tự do (1847), Ănghen cũng khẳng định: Giai cấp vô sản cần phải đánh đổ và sẽ đánh đổ giai cấp tư sản ...., và thắng lợi cảu giai cấp công nhân sẽ vĩnh viễn chấm dứt mọi sự thống trị giai cấp và đẳng cấp. Ông tin rằng sự diệt vong của xã hội cũ sẽ dẫn tới việc hình thành một xã hội mới không còn dựa trên cơ sở những đối lập giai cấp nữa.
Tiếp tục phát triển tư tưởng đó, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản(1848), khi đề cập tới vấn đề các quan hệ giai cấp, Mác và Ănghen đã xuất phát từ diễn biến lịch sử của quá trình cách mạng và hướng vào sự phát triển cụ thể. Các ông viết:''Giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.
Nhằm luận chứng cho những mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, Mác và Ănghen đã chỉ rõ sự khác biệt căn bản giữa quan điểm của các ông với quan điểm xã hội chủ nghĩa tieẻu tư sản và xã hội cải lương về vấn đề xóa bỏ mọi sự khác biệt giai cấp. Sự khác biệt căn bản đó đã được các ông chỉ rõ trong Lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản, tháng 3 năm 1850 bằng những lời lẽ như sau:''Đối với chúng ta,....không phải là xóa nhòa các mâu thuẫn giai cấp, mà thủ tiêu các giai cấp.
Khi đánh giá những kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848 - 1849, trên cơ sở phân tích cụ thể cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã diễn ra ở Pháp từ năm 1848 đến 1850, trong đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850, Mác coi chủ nghĩa xã hội là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung.
Để xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà giai cấp vô sản có sứ mệnh phải xây dựng, Ănghen coi việc xóa bỏ khác biệt giai cấp là một trong những mục tiêu cần đạt tới của chủ nghĩa xã hội.
Các ông luôn tin rằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đã được thiết lập thì cùng với nhà nước, mọi sự khác biệt giai cấp, mọi đối kháng giai cấp sẽ không còn nữa, và chế độ người bóc lột người cũng bị xóa bỏ.
Mặt khác, Ănghen cũng chỉ rõ: Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước. Nhưng chính do đó, giai cấp vô sản cũng tự xóa bỏ tính cách vô sản của nó, nó xóa bỏ mọi sự phan biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp, và cũng xóa bỏ nhà nước với tư cách là nhà nước. Đồng thời, các ông cũng luôn khẳng định rằng chỉ khi nào đạt tới một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, một giai đoạn có thể phát triển nền sản xuất xã hội lên một trình độ cao và khiến cho việc xóa bỏ những khác biệt giai cấp chẳng những trở thành tất yếu mà còn có được một cơ sở vững chắc, thì khi đó mới có thể xóa bỏ mọi sự khác biệt giai cấp và đối kháng giai cấp.
7. Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Khi đề cập đến vấn đề xóa bỏ giai cấp, Mác và Ănghen luôn gắn bó với vấn đề xóa bỏ sự khác biệt giữa các dân tộc, với vấn đề giải phóng dân tộc.Ănghen khẳng định:''Chỉ có người vô sản mới có khả năng xóa bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc với nhau''.
Ănghen coi thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức và klhẳng định rằng: Không một dân tộc nào có thể trở thành tự do trong khi còn tiếp tục áp bức những dân tộc khác.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột, khỏi tình trạng dân tộc này thống trị dân tộc khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự gần gũi và sự hợp nhất giữa các dân tộc. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Đó là một trong những đặc trưng cơ bản, chủ yếu của chủ nghĩa xã hội.Ngay sau khi chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản, Mác và Ănghen đã coi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sự giải phóng con người và xem sự phát triển con người toàn diện là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, theo Mác, lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại, là giai cấp vô sản - giai cấp ''tuyên bố sự giải thể của trật tự thế giới trước kia''. Bởi vì ông cho rằng chỉ có giai cấp vô sản mới có khả năng bảo đảm mọi tự do và bình đẳng thật sự cho tất cả mọi thành viên trong xã hội.Và chỉ khi nào những lực lượng sản xuất hiện đại đã phát triển thì khi đó ''sự phát triển độc đáo và tự do cảu cá nhân''mới''không còn là lời nới suông''.
Mác và Ănghen cũng chỉ rõ sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại và phát triển con người toàn diệnkhông phải là việc làm giản đơn, chốc lát mà là quá trình hết sức lâu dài, đầy phức tạp, đầy những bước thăng trầm. Song ông luôn tin rằng cuối cùng thì tất cả mọi thành viên trong xã hội đều phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Tóm lại, với quan điểm ''chủ nghĩa cộng sản là học thuyết bàn về những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản'', các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người và coi sự giải phóng con người, giải phóng nhân loại là mục tiêu cao nhất cao nhất của nó.Quá trình đó đòi hỏi phải được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội, bằng việc lật đổ trật tự xã hội cũ và tất phải bao hàm việc sáng lập ra một xã hội mới, đó là một liên hợp trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Với thời gian và nỗ lực của con người, nhất là lực lượng tiến bộ lãnh đạo sự nghiệp này sẽ dần được thực hiện.
8. Chủ nghĩa xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội
Ngay từ đầu, khi quan niệm chủ nghĩa xã hội là một xã hội mới tốt đẹp, Mác và Ănghgen đã xuất phát từ ước mơ bao đời về công bằng xã hội, về việc xóa bỏ chế độ người bóc lột người đã từng tồn tại trong xã hội loài người nhiều thế kỷ, ước mơ về việc tổ chức một xã hội kiểu mới, trong đó mọi người đều bình đẳng, đều có quyền tham gia lao động sản xuất, đều có hạnh phúc.
Các ông đã nhận thấy niềm hy vọng mà quần chúng nhân dân lao động đặt vào tự do, bình đẳng, bác ái do cuộc cách mạng tư sản đem lại đã không được thực hiện mà bị thay thế bằng một hệ thống bóc lột mới - tư bản chủ nghĩa. Bởi thế, khi đưa ra quan niệm của mình về một xã hội đem lại cho quần chúng nhân dân lao động những giá trị vĩnh hằng đó, Mác đã coi việc tạo ra sự bình đẳng giữa người với người là nền tảng, là cơ sở của chế độ xã hội mới.
Quan niệm xã hội xã hội chủ nghĩa như là giang sơn của bình đẳng là một quan niệm phiến diện của người Pháp, dựa trên khẩu hiệu ''tự do, bình đẳng, bác ái'' - quan niệm đó đã có lý do tồn tại trong thời gian và không gian của nó, vì đã thích hợp với một giai đoạn tiến hóa, nhưng cũng như tất cả những quan niệm phiến diện của các trường phái xã hội chủ nghĩa có trước chúng ta, quan niệm ấy ngày nay đã lỗi thời, vì nó chỉ gây rối loạn trong đầu óc người ta và nó đã được thay thế bằng những quan niệm chính xác hơn và thích hợp hơn với hiện thực.
Có thể nói, khi những người xã hội chủ nghĩa nói tới bình đẳng thì họ hểu rằng đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội, chứ quyết không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân.
Như vậy, ngoài bình đẳng xã hội, trong chủ nghĩa xã hội vẫn còn có rất nhiều sự chưa bình đẳng khác. Những gì chưa bình đẳng đó là tất yếu và không thể tránh khỏi trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội.Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội vẫn là xã hội bình đẳng hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó thể hiện trước hết ở sự bình đảng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Qúa trình phát triển của chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình khắc phục và xóa bỏ dần những bất bình đẳng trong xã hội.
9. Chủ nghĩa xã hội thực sự là sự nghiệp của bản thân quần chúng, là kết quả của quá trình sáng tạo của quần chúng.
Ngay từ khi chuyển từ lập trường dân chủ - cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa, Mác và Ănghen đã đưa ra một quan niệm mới về xã hội tương lai trên cơ sở ''phê phán mổ xẻ'' xã hội tư bản đương thời: Chúng ta không cố đoán trước về tương lai một cách giáo điều, mà chỉ mong tìm ra thế giới mới qua sự phê phán thế giới cũ. Mác đã viết như vậy và khẳng định: nếu việc cấu tạo tương lai và tuyên bố dứt khoát những quyết định in sẵn cho tất cả mọi thời kỳ sắp đến không phải là việc chúng ta, thì chúng ta cần biết rõ là mình cần phải làm gì hiện tại. Theo cái mà giai cấp vô sản ''cần phải làm trong hiện tại'' đó là Phê phán thẳng tay toàn bộ cái hiện tồn.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ănghen đã tuyên bố rõ ràng nhiệm vụ của những người vô sản là chiến đấu cho những lợi ích và những mục đích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
Ănghen khẳng định chủ nghĩa cộng sản không phải là mọt học thuyết mà là một cuộc vận động. Nó xuát phát không phải từ những nguyên tắc, mà từ những sự thật. Những người cộng sản không lấy thứ triết học này nọ, mà lấy toàn bộ quá trình lịch sử trước đây và đặc biệt là những kết quả thực tế trước mắt tại các nước văn minh làm tiền đề của họ ...
Mặt khác, Mác và Ănghen khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của bản thân quần chúng, mọi cuộc cách mạng chỉ có thể thu được thắng lợi khi nó thu hút được sự tham gia đông đảo của quàan chúng nhân dân lao động. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thu hút sự tham gia của tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội, do đó nó thực sự là cuộc cách mạng mang tính chất quần chúng.
Tóm lại tư tưởng cốt lõi của Mác và Ănghen về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, Mác và Ănghen đã vạch ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế - xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trên cơ sở phân tích, đối chiếu và so sánh cới chủ nghĩa tư bản thời bấy giờ. Những đặc trưng đó được các ông coi là những đặc trưng thể hiện trình độ phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, do những điều kiện lịch sử quy định cho nên bản thân các ông không tránh khỏi những thiếu sót khi đưa ra một số nhận định về chủ nghĩa tư bản, hoặc một số dự đoán về chủ nghĩa xã hội.
Mác và Ănghen chưa thấy hết khả năng phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng và khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản nói chung nhờ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới.Các ông chưa dự đoán hết được những khó khăn của công cuộc xây dựng xã hội mới -xã hội xã hội chủ nghĩa, do đó, tin tưởng rằng chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đối lập với chủ nghĩa tư bản có thể được xây dựng nhanh chóng.
Thứ ba, vào thời điểm lịch sử mà Mác và Ănghen đưa ra dự đoán về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thì những đặc trưng ấy đúng là những cái cao hơn và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản.Nhưng đến thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một giai đoạn mới. Do dó , khi xã định chủ nghĩa xã hội là gì, một mặt, chúng ta phải dựa vào các đặc điểm cụ thể, tuy là khó có thể liệt kê được đầy đủ các đặc điểm ấy; mặt khác, cần xác định chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản.
Chương IV
VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NƯỚC TA
TRONG THẾ KỶ XXI.
Tại đại hội đại biểu lần thứ IX của đảng đã dự báo “ thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi .” khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. đặc biệt là trong những lĩnh vực: Điện tử tin học, sinh học, vật liệu mới , năng lượng, nghiên cứu vũ trụ. Kinh tế trí thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt là vấn đề toan cầu hóa kinh tế đang là một vấn đề được quan tâm. Đúng như Mác và Ăngghen đã dự báo tư thế kỷ trước khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến quốc tế hóa sản xuất thương mại. Cho nên nó là xu thế khách quan do lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
Trước những đánh giá như trên Đảng ta đã xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn, gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, có những khuyết điểm và sai lầm là khó tránh khỏi. Cần phải thừa nhận và tìm cách khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm ấy. Nhưng cần khẳng định rằng những khuyết điểm, sai lầm ấy không thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hóa hiện đại đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, có được cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.
Đảng cũng chỉ rõ, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. điều đó thể hiện sự đánh giá đúng đắn và sáng suốt của đảng ta. Nước ta còn nghèo, lực lượng sản xuất kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung phát triển lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế.
Báo cáo chính trị đại hội IX chỉ rõ “ Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xá lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đồng thời phải từng bước xây dưng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về vật chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn và lâu dài cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế – xã hội. Điều này nó vừa phù hợp với những lý luận của Mác và Lênin vùa thể hiện những điểm mới cần thiết áp dụng vào mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng những quan điểm cơ bản của Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn thấm đượm tính cách mạng và tính khoa học; lý tưởng cao đẹp và cách thức thay đổi thế giới hiện thực nhằm mục tiêu triệt để giải phóng con người. Dĩ nhiên, sự biến đổi mạnh mẽ của lịch sử, sự hạn chế của điều kiện xã hội thế kỷ trước không khỏi làm cho một số luận điểm do Mác và Ănghen nêu ra không còn thích hợp với điều kiện lịch sử mới. Trước những đánh giá như trên Đảng ta đã xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn, gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, có những khuyết điểm và sai lầm là khó tránh khỏi. Cần phải thừa nhận và tìm cách khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm ấy. Song hoàn toàn không thể vì những cái đó mà phủ nhận giá trị của những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, không vì sự thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội mà chối bỏ một học thuyết khoa học. Bởi vậy, việc Đảng ta xác định kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nên tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng là hoàn toàn đúng đắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1999.
triết học tập 3 Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên nghành triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1999.
Những quan điểm của C.Mác - Ăngghen – Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1997.
Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam, Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1998.
Tập bài giảng môn triết học Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên nghành triết học, Ts. Nguyễn Lương Bằng.
Văn kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
MỤC LỤC
Phần A: Mở Đầu. ………………………………………………………… 1
Phần B: Nội Dung…………………………………………………………. 4
Chương I:Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội - một trong những nền tảng lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học 4
Chương II. Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. 10
Chương III. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội qua phác thảo của Mác và Ănggen và lê nin và Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. 14
.
chương IV.Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta trong thế kỷ XXI. 22
Phần C: Kết luận . 23
Tài liệu tham khảo 24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội qua phác thảo của Mác và Ănggen và lê nin và Sự hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.doc