Những thuận lợi và khó khăn cho Việt nam khi gia nhập WTO

PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đó là quy luật tất yếu và khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế Để cùng chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những vấn đề chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện được. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế thì sự hợp tác này ngày càng cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp cho các nước có thể lưu thông hàng hóa một cách thuận lợi, có thể trao đổi kinh nghiệm, khoa học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất lao động và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giúp cho việc lưu thông nguồn vốn một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mà hàng loạt các tổ chức thương mại thế giới lần lượt ra đời như :WTO, NAFTA, ASEAN, EU Trong đó WTO là tổ chức thương mại trên thế giới thu hút nhiều quốc gia gia nhập vào tổ chức này. WTO ra đời nhằm thúc đẩy tự do thương mại trên toàn cầu. Các nước tham gia WTO sẽ nhận được nhiều thuận lợi và cơ hội. Đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Lợi ích của việc gia nhập WTO là các nước thành viên được mở rộng cơ hội thương mại, được hưởng các quyền lợi có trong các hiệp định WTO Với Việt Nam, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung là việc làm vô cùng cấp bách để phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, việc tham gia WTO sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và trải nghiệm mới, tiếp xúc với môi trường làm việc mới để mở rộng thị trường, từng bước gây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển. Đó cũng chính là lí do mà chúng tôi chọn WTO là đề tài làm tiểu luận. 2.Mục đích chọn đề tài Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta rất nhiếu cơ hội và thuận lợi nhưng song song đó cũng tồn tại không ít những khó khăn và thách thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cách vận dụng tối đa những cơ hội đó để sử dụng triệt để vào công cụ phát triển nền kinh tế vững mạnh, phải biết cách phối hợp những cơ hội đó với những ưu thế sẵn có của quốc gia để tối đa hóa lợi ích mà WTO đem lại. Đồng thời phải biết cách hạn chế tối thiểu những khó khăn và thách thức từ việc gia nhập WTO. Phải biết cách dung hòa cơ hội và thách thức làm sao để việt nam gia nhập WTO chỉ hòa nhập không hòa tan. Để làm rõ việc này, chúng ta cần tìm hiểu cách thức quản lí và hoạt động của WTO. Mục đích của việc tìm hiểu này là để vạch ra những kế hoạch và hướng đi cho chúng ta bước vào môi trường WTO một cách tự tin, không đi nhầm đường. Tạo một nền kinh tế phát triển thực sự vững mạnh. Cũng như hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa nước ta với tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.

pdf103 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 28023 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những thuận lợi và khó khăn cho Việt nam khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam, không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng. 3.2.13.7 Dịch vụ chứng khoán Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO 3.2.13.8 Các cam kết khác Với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. 3.2.14.Cam kết về minh bạch cơ chế chình sách thương mại Thành lập wedsite của chính phủ Việt Nam công bố toàn bộ chính sách thương mại,đầu tư,sở hữu trí tuệ.Các văn bản pháp lý có liên quan đến thương mại,đấu tư..chỉ có hiệu lực khi được dăng công báo.Các chính sách thương mại có tác động không thuận lợi đến hoạt động của doanhnghiệp phải được công bố trên wedsite của chính phủ trước 60 ngày để xin ý kiến dư luận 3.2.15.Sở hữu trí tuệ Sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực được các thành viên của tổ chức thương mại Thế giới hết sức quan tâm. Những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ(TRIPS) là một trong những nội dung lớn trong những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Trong những năm đầu gia nhập WTO, quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam sẽ là vấn đề có ảnh hưởng rõ nét nhất đến hoạt động kinh doanh, thương mại do những tác động trực tiếp từ các nguyên tắc, yêu cầu thực thi “luật” của WTO. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) ,WTO buộc VN phải đạt được hai chuẩn mực lớn về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và về hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) của hệ thống sở hữu trí tuệ . Do đó, việc thực thi tốt quyền sở hữu trí tuệ là một trong những đòi hỏi hàng đầu của WTO. 3.2.15.1 Về bản quyền tác giả Theo luật sở hữu trí tuệ 2005 và Bộ Luật Dân sự 2005 quyền tác giả đối với những tác phẩm gốc được bảo hộ không phân biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng của tác phẩm. Về thù lao, nhuận bút, các tổ chức, cá nhân sử dụng các tác phẩm đã được công bố hoặc bản ghi âm/ghi hình để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của chính phủ. Tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc khi bị xâm hại có quyền yêu cầu tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm hoặc khởi kiện ra toà án có thẩm quyền hoặc thông qua trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 3.2.15.2 Về nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ Theo bộ luật dân sự 2005 và phần III của luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Không có yêu cầu bắt buộc đăng ký nhãn hiệu đối với bất kỳ hàng hóa và dịch vụ nào. Tất cả các đăng ký nhãn hiệu đều được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp 3.2.15.3 Về chỉ dẫn địa lý,bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa Bộ luật dân sự năm 2005 và Phần III của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Việt Nam lưu ý một chỉ dẫn địa lý sẽ không được bảo hộ nếu đã trở thành tên gọi chung ở Việt Nam. Chỉ dẫn địa lý nước ngoài được bảo hộ ở nước xuất xứ mới có thể được bảo hộ ở Việt Nam. Bất kỳ chủ thể nào có quyền, theo luật pháp của nước ngoài, sở hữu, sử dụng hoặc nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước xuất xứ đều có quyền nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó tại Việt Nam và có thể được ghi nhận trong đăng bạ chỉ dẫn địa lý Việt Nam 3.2.15.4 Kiểu dáng công nghiệp Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng đã quy định việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm mang kiểu dáng “về cơ bản là bản sao” của kiểu dáng được bảo hộ. Thời hạn bảo hộ ban đầu đối với kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn,có hiệu lực từ ngày đăng ký và có thể được gia hạn 2 lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm 3.2.15.5 Sáng chế Sáng chế có tính mới đối với thế giới, và có khả năng áp dụng công nghiệp thậm chí không có trình độ sáng tạo nhưng không phải là hiểu biết thông thường có thể được bảo hộ theo bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế hoặc bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu, và chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác.Có quyền yêu cầu người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Thời hạn hiệu lực của những bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích tương ứng là 20 và 10 năm tính từ ngày nộp đơn có hiệu lực từ ngày cấp 3.2.15.6 Bảo hộ cây trồng Thời hạn bảo hộ quyền của người tạo giống là 25 năm đối với cây thân gỗ và cây nho và 20 năm đối với các giống cây trồng khác kể từ ngày các quyền được xác lập. Không mở rộng quyền của người tạo giống đối với sản phẩm thu hoạch hoặc sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ sản phẩm thu hoạch được từ việc sử dụng trái phép vật liệu nhân giống của giống cây được bảo hộ. 3.2.15.7 Thiết kế bố trí mạch tích hợp 3.2.15.8 Các yêu cầu đối với thông tin bí mật, bao gồm bí mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định mà không phải đăng ký. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh có quyền cấm việc sử dụng trái phép bí mật kinh doanh của mình và yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra lệnh chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại. 3.3 Thành tựu và tiêu cực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 3.3.1 Thành tựu Việt nam gia nhập WTO tạo sự hợp tác toàn diện,và vị thế của nước ta đã được nâng lên một tầm cao mới. Đây không phải là đánh giá cảm tính, mà là đánh giá chung của lãnh đạo nhiều nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Lãnh đạo chính phủ, quốc hội các nước trên thế giới và lãnh đạo các tổ chức quốc tế nhận định, việc Việt Nam gia nhập WTO thực sự đã mở ra trang sử mới trong việc nâng cao mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế, không chỉ trong hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, mà còn trên nhiều lĩnh vực khác, như chính trị, văn hoá, ngoại giao, đào tạo... Sự hợp tác toàn diện với các nước và các tổ chức quốc tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 3.3.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam với một số nước trong WTO Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ lĩnh vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 đạt 48,38 tỉ USD, với tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trước tới nay. 3.3.1.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam với Achentina Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy trong năm 2009 trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Achentina gia tăng khá nhanh, cụ thể trong năm 2008 tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu song phương chỉ đạt 498 triệu USD, tăng 8% so với năm 2007 nhưng đến năm 2009 đã đạt hơn 643 triệu USD, tăng 29% so với một năm trước đó và cao gấp 15 lần so với năm 1999. Số liệu Thống kê Hải quan cập nhật mới nhất ghi nhận trong quý I năm 2010, tổng trị giá hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam-Aćhentina đạt hơn 200 triệu USD, tăng gấp 5 lần so với cùng thời gian một năm trước đó. Các số liệu thống kê cũng cho thấy trong buôn bán với thị trường lớn nhất Nam Mỹ này của Việt Nam, cán cân thương mại hàng hóa của nước ta luôn ở trạng thái nhập siêu. Minh chứng cu ̣ thể là trong năm 2009, Việt Nam nhập siêu hơn 530 triệu USD trong khi đó con số nhập siêu này của năm 2007 và 2008 đều lớn hơn 350 triệu USD. Một điểm đáng chú ý trong buôn bán với Áchentina là các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng la ̀ nguyên, vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất, xuất khẩu trong khi đó các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường gần 40 triệu người tiêu dùng (WTO, 2008) này ở Nam Mỹ phần lớn la ̀ các sản phẩm chế tạo. Bảng: Thống kê kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam – Achentina năm 2006- 2009 và quý I/2010 Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại (xuất khẩu - nhập khẩu ) Kim ngạch (Triệu USD) So với cùng kỳ năm trước (%) Kim ngạch (Triệu USD) So với cùng kỳ năm trước (%) Kim ngạc h (Triệ u USD) So với cùng kỳ năm trước (%) 2006 30,8 87 240,8 -11 - 210,0 -18 2007 49,8 62 409,4 70 - 359,6 71 2008 73,7 48 424,4 4 - 350,7 -2 2009 55,9 -24 587,3 38 - 531,4 52 Quý I/201 0 13,1 27 188,4 5,4 lần - 175,3 - Mặc dù trong năm 2009 trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Achentina giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Achentina tăng khá mạnh, trị giá nhập khẩu đạt hơn 587 triệu USD, tăng 38% so với năm 2008, đứng đầu là mặt hàng thức ăn gia súc & nguyên liệu đạt 451,3 triệu USD, tăng 97% so với một năm trước; dược phẩm đạt 10,2 triệu USD, tăng 98% so với năm 2009. Bảng: Tỷ trọng, thứ hạng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và Achentina năm 2009 và 3 tháng đầu năm 2010 Chỉ tiêu Năm 2009 3 tháng đầu năm 2010 Xuấ t Xuấ t Nhậ p Xuấ t Xuấ t Nhậ p nhậ p khẩ u khẩ u khẩ u nhậ p khẩ u khẩ u khẩ u Tỷ trọng so với tổng kim ngạch của Việt Nam(%) 0,5 0,1 0,8 0.6 0,1 1,1 Thứ hạng trong tổng số các thị trường của Việt Nam 25 61 17 25 61 16 Thứ hạng trong tổng số các thị trường châu Mỹ của Việt Nam 3 8 2 3 8 2 Số liệu thống kê ở Bảng trên cho thấy Achentina luôn là thị trường cung cấp nguồn hàng nhập khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam lớn thứ 2 khu vực châu Mỹ, chỉ sau các nguồn hàng thứ nhất Hoa Kỳ và đứng thứ 16 trong tổng số các thị trường nước ngoài xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Bên cạnh đó, Achentina cũng là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 8 của các doanh nghiệp Việt Nam trong số các thị trường thuộc châu Mỹ. Tính từ đầu năm đến hết quý I/2010, tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa hai nước đã đạt hơn 201 triệu USD, cao gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2009. Achentina là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam ở khu vực châu Mỹ và đứng thứ 25 nếu tính trên phạm vi toàn cầu. Về nhập khẩu, số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan ghi nhận trong quý I năm 2010 tổng kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam từ thị trường Achentina tăng mạnh, đạt trị giá 188,4 triệu USD, tăng 5,4 lần so với cùng kỳ năm trước và chiếm hơn 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, qua đó nâng mức thâm hụt thương mại của Việt Nam với Achentina lên tới 175,3 triệu USD. Nguyên nhân chính khiến kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng mạnh là do sự gia tăng đột biến nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu, cụ thể tăng gần 5 lần so với cùng kỳ năm 2009 và đạt hơn 140 triệu USD, chiếm gần 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ nước này; tiếp đến là mặt hàng nguyên phụ liệu dệt, may, da và giày đạt 7,4 triệu USD, tăng 122%; mặt hàng linh kiện & phụ tùng ô tô nhập khẩu đạt 5,6 triệu USD, tăng 65%; dược phẩm đạt 3,4 triệu USD, tăng 62% so với cùng thời gian năm 2009. 3.3.1.1.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản của Việt Nam với ôxtrâylia Thuỷ sản là nhóm hàng xuất khẩu tới Ôxtrâylia đạt kim ngạch cao nhất sau mặt hàng đặc biệt là dầu thô. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tới Ôxtrâylia đạt 126,3 triệu USD chiếm 3,45% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và cũng là mặt hàng xuất khẩu đạt được kim ngạch cao nhất trên 100 triệu USD. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới Ôxtrâylia chiếm 3,45% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy nhiều năm qua mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu tới Ôxtrâylia luôn chiếm tỉ trọng cao nhất nếu không tính dầu thô. Qua số liệu thống kê cho thấy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới Ôxtrâylia có dấu hiệu chững lại về kim ngạch mặc dù lượng xuất khẩu liên tục tăng. Nguyên nhân chính là do có sự thay đổi mạnh về cơ cấu mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu. Theo số liệu thống kê 5 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới Ôxtrâylia đạt 8,89 nghìn tấn với kim ngạch đạt 45,75 triệu USD, tăng 20% về lượng và 21,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2007. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới thị trường này trong tháng 6 đạt 1.858 nghìn tấn với kim ngạch đạt 10,3 triệu USD đưa tổng lượng xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2008 đạt 10,75 nghìn tấn với kim ngạch đạt 55,54 triệu USD, tăng 19% về lượng và 20% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2007. Thống kê trong 5 tháng đầu năm 2008, đứng đầu là cá đông lạnh (chủ yếu là cá tra, ba sa) chiếm 56,22% về lượng và 38,54% về kim ngạch, tôm chiếm 25,42% về lượng và 47,78% về kim ngạch, bạch tuộc đông lạnh 3,91% về lượng và 1,96% về kim ngạch, chả cá chiếm 2,81% về lượng và 1,72% về kim ngạch, mực đông lạnh chiếm 2,47% về lượng và 1,72% về kim ngạch, cá đóng hộp chiếm 1,51% về lượng và 0,95% về kim ngạch. Kể từ đầu năm 2008, hai nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu đạt được tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là cá tra, ba sa và tôm đông lạnh. Các mặt hàng chủ lực khác như bạch tuộc đông lạnh, mực đông lạnh, chả cá đều giảm về lượng.Bạch tuộc giảm 23,11% về lượng và 26,14% về kim ngạch. Chả cá giảm 2,49% về lượng và tăng 21,66% về kim ngạch. Mực đông lạnh giảm 12,38% về lượng và tăng 4,92% về kim ngạch. Những nỗ lực tiếp thị và đẩy mạnh xuất khẩu cá tra, ba sa tới thị trường Ôxtrâylia đã có được kết quả rất tốt. Từ 9,58 nghìn tấn năm 2005 đến 12,5 nghìn tấn năm 2007 và tăng tới 15 triệu USD. Giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cá tra đông lạnh của Việt Nam tới Ôxtrâylia ổn định ở mức 3 đến 3,1 USD/kg kể từ đầu năm 2008 đến hết tháng 6/2008, giảm trung bình là 0,5 USD/kg so với cùng kỳ năm 2007. Mức giá xuất khẩu mặt hàng này năm 2007 dao động ở mức 3,4 đến 3,7 USD/kg. Hiện nay nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này vẫn đang tiếp tục tăng cao. Với mức giá xuất khẩu 3,1 USD/kg tới thị trường Ôxtrâylia thì cá tra của Việt Nam đang là mặt hàng có lợi thế cạnh tranh lớn nhất về giá. Tôm đông lạnh là nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có giá trị cao nhất tại Ôxtrâylia với giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này kể từ đầu năm 2008 chỉ dao động ở mức 9,4 đến 9,8 USD/kg. Theo số liệu thống kê, tôm đông lạnh lại là nhóm hàng có được tốc độ tăng trưởng lớn nhất về lượng tăng tới 41,79% về lượng và 27,85% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tới Ôxtrâylia đã đạt tiến độ tốt trong 6 tháng đầu năm 2008 và có triển vọng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2009 nhờ các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là tôm, cá tra, ba sa ngày càng được ưa chuộng 3.3.1.1.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Ucraina Năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 546 triệu USD, tăng gần 4 lần so với năm 2007. Năm 2009 nhập khẩu từ Ucraina đạt 335 triệu USD, tăng 15,6% , tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt khoảng 500 triệu USD, giảm 8,4% so với năm 2008 và chiếm 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bảng : Tỷ trọng và thứ hạng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam- Ucraina năm 2009 Chỉ tiêu Xuấ t khẩ Nhậ p khẩ Xuất nhập khẩu u u Tỷ trọng so với tổng kim ngạch của Việt Nam (%) 0,2 0,5 0,4 Thứ hạng trong tổng số các thị trường của Việt Nam 38 25 31 Thứ hạng trong tổng số các thị trường châu Âu của Việt Nam 14 9 11 Tính từ đầu năm 2010 đến hết tháng 2/2010, trị giá hàng hoá trao đổi giữa hai nước là 64,7 triệu USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2009 và chỉ chiếm 0,3% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Ucraina đạt 19,5 triệu USD, giảm 12,3% và chiếm 0,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Ucraina là 45,2 triệu USD, tăng 40,5% và chiếm 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cùng với xu hướng tăng lên của trao đổi hàng hóa giữa hai nước, thâm hụt thương mại nghiêng về phía Việt Nam với trị giá tuyệt đối ngày càng tăng cao. Nếu như giai đoạn 2004- 2007, mức thâm hụt giảm dần, thậm chí năm 2007 cán cân thương mại đạt thặng dư thì đến năm 2008 mức nhập siêu lại gia tăng. Năm 2009 nhập siêu là 205 triệu USD, cao gấp 6 lần so với năm 2008. Số liệu thống kê mới nhất cho thấy trong 2 tháng đầu năm 2010, cán cân thương mại thâm hụt 25,7 triệu USD, tăng 159% so với cùng kỳ năm trước. Biểu đồ : Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam- Ucraina giai đoạn 2004- 2009 và 2 tháng đầu năm 2010 Trong những năm qua, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Ucraina các mặt hàng nông thuỷ sản, công nghiệp nhẹ và tiêu dùng (chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu sang Ucraina) như: hàng thủy sản, gạo, hàng dệt may, hạt tiêu, hạt điều, chè, giày dép các loại, túi xách ví vali mũ & ôdù. Chiếm tỷ trọng trên 85% kim ngạch nhập khẩu từ Ucraina, chủ yếu là các mặt hàng nhập khẩu như sản phẩm sắt thép, sắt thép các loại, phân bón các loại, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện và lúa mì. 3.3.1.1.4 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nga Kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều giữa Việt Nam và Nga tăng trưởng trên 30%/năm trong giai đoạn 2006-2009. Số liệu Thống kê Hải quan Việt Nam cho thấy trong năm 2006 kim ngạch buôn bán hàng hóa hai chiều Việt Nam- Nga chỉ đạt 869 triệu USD thì đến năm 2007 con số này đã vượt 1 tỷ USD, tăng 16,2% so với năm 2006 và năm 2008 đạt 1,64 tỷ USD, tăng 62,4% so với một năm trước đó 3.3.1.2 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO 3.3.1.2.1.Tổng quan về dòng FDI vào Việt Nam thời kì chưa gia nhập WTO Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ. Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao. Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các nước mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được lợi thế từ các yếu tố này. Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn. Giai đoạn 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn (2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD- CG Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. Có rất nhiều nguyên nhân làm FDI giảm xuống. Nguyên nhân thứ nhất là do sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công nghệ cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước châu Á Năm Nguồn số liệu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 TỔNG CỤC THỐNG KÊ 2.414 2.450 2.591 2.650 2.852 3.309 3.956 UNCTA D 1.289 1.300 1.200 1.450 1.610 2.021 2.315 ADB 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.889 2.315 IMF 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.954 WORL D BANK 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.954 Bảng: Nguồn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000- 2006(triệu USD) ● ● ● 3.3.1.2.2 Nguồn FDI vào Việt Nam năm 2007 Cơ cấu đầu tư năm 2007 rất khả quan, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghiệp, xây dựng, điện tử, viễn thông và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công nghệ cao. Ngoài ra, các lĩnh vực dịch vụ, hiện đại hóa đô thị, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, chế biến nông lâm hải sản….cũng được các nhà đầu tư rất quan tâm. Tỉ lệ giải ngân năm 2007 đã tăng trên 30% so với năm 2006, đạt trên 5 tỷ USD. Năm 2007 cũng được coi là năm “bội thu” của lĩnh vực công nghệ cao với hàng loạt các dự án quy mô lớn được triển khai, chẳng hạn như dự án nhà máy lắp ráp và kiểm tra các bản mạch in của Công ty TNHH Jabil Circuit (Mỹ) tại Thành phố Hồ Chí Minh với tổng vốn 100 triệu USD, hai nhà máy công nghệ cao của tập đoàn Foxconn (Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD. Quy mô vốn đầu tư bình quân của các dự án trong năm 2007 cũng cao hơn mức bình quân của năm 2006, đạt khoảng 11 triệu USD. Nhiều địa phương đã thu hút được các dự án đầu tư lớn từ các tập đoàn đa quốc gia như Phú Yên có dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô, số vốn 1,7 tỷ USD của Công ty Technostar Management (Anh) và Công ty Telloil (Nga). Hà Nội có dự án khách sạn-căn hộ cao cấp Keangnam của Hàn Quốc trị giá 500 triệu USD. Vĩnh Phúc hứa hẹn trong tương lai gần sẽ trở thành tỉnh công nghiệp với sự hiện diện của nhiều dự án công nghiệp có quy mô lớn như dự án nhà máy sản xuất xe Vespa của tập đoàn Piaggio (Italia) có số vốn 45 triệu USD, nhà máy sản xuất máy tính xách tay của tập đoàn Intelligent Universal (Đài Loan) tổng vốn 500 triệu USD. Về phía các nhà đầu tư nước ngoài, trong năm 2007, Hàn Quốc đã chứng tỏ là nhà đầu tư thành công tại Việt Nam khi tiếp tục dẫn đầu danh sách 81 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam. Hiện quốc gia này có 1.655 dự án ở Việt Nam với tổng vốn đăng ký 11,5 tỷ USD, chiếm gần 22,7% tổng số dự án và trên 16,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam kể từ năm 1988 đến nay. Bên cạnh việc rót vốn vào các lĩnh vực như công nghệ cao, dịch vụ, năm nay các nhà đầu tư Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực bất động sản. Số dự án đầu tư của Hàn Quốc vào lĩnh vực này tăng đáng kể và phạm vi triển khai được trải rộng trên cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. Năm 2007 cũng đánh dấu bước chuyển biến lớn trong chiến lược đầu tư của Ấn Độ vào Việt Nam. Với việc triển khai hai dự án lớn là nhà máy thép cán nóng tại Bà Rịa-Vũng Tàu với tổng vốn 527 triệu USD của tập đoàn ESSAR và dự án xây dựng khu liên hợp thép Hà Tĩnh của tập đoàn TATA, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Kết quả này cũng đã đưa Việt Nam trở thành nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp lớn nhất từ Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á. Có được những thành tựu trên chủ yếu là nhờ sự phấn đấu, nỗ lực cải cách của Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Bên cạnh đó, việc trở thành thành viên của WTO cũng đã giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn và thuận lợi hơn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.1.2.3 Nguồn FDI vào Việt Nam năm 2008 Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã có con số sơ bộ về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong năm 2008. Theo đó, tổng vốn FDI đăng năm 2008 đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Đây là mức thu hút vốn FDI kỷ lục từ trước đến nay của Việt Nam. Điều này rất có ý nghĩa trong trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng. Cụ thể, trong tháng 12/2008, cả nước đã cấp mới thêm 112 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký đạt 1,17 tỷ USD.Tính chung từ đầu năm 2008, đã có tổng số 1.171 dự án FDI được cấp phép đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 60,2 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007. Bên cạnh đó, trong năm 2008, có 311 dự án đăng ký tăng vốn, tổng số vốn tăng thêm đạt 3,74 tỷ USD. Trong các lĩnh vực đầu tư, vốn FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, gồm 572 dự án với tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% về số dự án và 54,12% về vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án, tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD, chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp. Năm 2008, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu, với 55 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỷ USD, Đài Loan đứng thứ hai, với 132 dự án, vốn đầu tư 8,64 tỷ USD. Nhật Bản đứng thứ ba, với 105 dự án, vốn đầu tư 7,28 tỷ USD. Tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu về số vốn đăng ký do có dự án liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia và Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu đứng thứ hai trong số 43 địa phương của cả nước có vốn FDI, với 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,35 tỷ USD. Thống kế của Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, tính đến hết tháng 12/2008, giải ngân vốn trong năm 2008 của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. 3.3.1.2.4 Nguồn FDI vào Việt nam năm 2009 Vốn FDI vào Việt Nam năm 2009 suy giảm mạnh ,Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD. Đây là mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH-ĐT, tổng lượng xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008. Nếu không tính dầu thô, khu vực đầu tư nước ngoài xuất khẩu 23,6 tỷ USD. Nhập khẩu của khu vực này đạt 24,8 tỷ USD. Nhìn chung, cả năm 2009, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu tổng cộng 5,03 tỷ USD. Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, theo số liệu tính đến 15/12, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008. Riêng trong tháng 12, FDI vào Việt Nam đạt 1,78 tỷ USD Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008. Dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Đứng thứ 2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam Nam Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép trong năm như Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai và dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và 1,68 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm. Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%. Đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất trong năm 2009 với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đứng ở các vị trí tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD. 3.3.1.2.5 Nguồn FDI vào Việt nam năm 2010 Theo báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong tháng 9/2010 có 62 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt 616 triệu USD. Nếu so với các con số tương ứng của tháng 8 là 72 dự án và gần 2,5 tỷ USD, kết quả đạt được trong tháng qua khá khiêm tốn. Tính chung 9 tháng đầu năm, cả nước đã thu hút được 720 dự án đăng ký cấp mới với tổng vốn đăng ký 11,4 tỷ USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ 2009. Mức bình quân gần 1,3 tỷ USD/tháng cũng cho thấy phần nào sự “tụt lại” của lượng vốn FDI đổ vào trong tháng 9. Lũy kế đến tháng 9/2010, số vốn FDI cấp mới và tăng vốn đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam là 12,19 tỷ USD, bằng 87,3% so với cùng kỳ 2009. Với con số quan trọng nhất, giải ngân vốn FDI trong tháng 9 đạt khoảng 800 triệu USD, đưa tổng số vốn thực hiện 9 tháng đầu năm lên mức 8,05 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2010. Như vậy, mức giải ngân tháng này đã thấp hơn 50 triệu USD so với tháng 8 và kém xa con số giải ngân bình quân 9 tháng đầu năm, gần 900 triệu USD/tháng. Tuy nhiên ,năm 2010, gồm có dự án Công ty TNHH Điện lực AES-TKV Mông Dương vốn đầu tư là 2,1 tỷ USD; dự án Công ty Sắt xốp Kobelco Việt Nam tổng vốn 1 tỷ USD; dự án Công ty TNHH Skybridge Dragon Sea vốn đăng ký 902,5 triệu USD… Theo báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đã liên tục tăng cao trong các tháng gần đây. Với 275 dự án cấp mới, tổng số vốn cấp mới trên 3 tỷ USD và 106 lượt dự án tăng vốn, tổng số vốn đăng ký tăng thêm 653,6 triệu USD đã đưa lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu thu hút FDI trong 9 tháng qua, chiếm 30,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Không có nhiều dự án đăng ký thêm, nhưng với quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án khá cao, 144,9 triệu USD/dự án, nên lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 3. Tổng vốn đầu tư đăng ký trong lĩnh vực này là 2,75 tỷ USD, chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Cũng trong 9 tháng đầu năm 2010, đã có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hà Lan với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,2 tỷ USD chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ 2 với trên 2 tỷ USD, chiếm 17%; Hoa Kỳ đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký 1,87 tỷ USD. 3.3.2 Những tiêu cực khi gia nhập WTO Gia nhập WTO là một cơ hội cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Sau thời gian gia nhập WTO nền kinh tế VN đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận là các doanh nghiệp VN cũng gặp phải không ít khó khăn, và vẫn chưa có đủ thế và lực trên trường quốc tế. Từ những năm trước khi gia nhập WTO chúng ta đã phải đối mặt với những vụ kiện bán phá giá tiêu biểu như vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ năm 2002 cuối cùng phải chịu mức thuế suất bán phá giá ca basa từ 36,84 đến 63,88%, đã gây ra cho người dân nuôi cá không ít lao đao. Một lần nữa ngành thủy sản của VN lại phải đương đầu với một vụ kiện bán phá giá đối với mặt hàng tôm đông lạnh khi Liên minh tôm miền Nam (SSA) đã đệ đơn lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Uỷ ban thương mại Quốc tế (USITC) của nước này để kiện 6 nước, trong đó có Việt Nam, bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ. Theo phán quyết cuối cùng của đợt xem xét hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ hai đối với tôm nước cấm nhập khẩu từ Việt Nam trong giai đoạn từ 2006 – 2007 được Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đưa ra, có 4 DN của VN được miễn thuế chống bán phá giá, 23 doanh nghiệp chịu mức thuế 4,57%, các công ty còn lại phải chịu mức thuế 25,76%. Phán quyết cuối cùng này của DOC đã đẩy con tôm Việt Nam vào thế khó khi cạnh tranh với một số nước đối thủ như Thái Lan, Ấn Độ. Đây là hai nước cũng cũng bị Hoa Kỳ kiện bán phá giá và còn bị áp thuế cao hơn nước ta nhưng cuối cùng lại được áp thuế thấp hơn nước ta. Chính điều này đã gây ra nhiều tranh cãi do đó Việt Nam đã kiện lên WTO nhờ phân xử. Năm 2005 xe đạp VN xuất khẩu sang trị trường EU cũng bị áp thuế chống bán phá giá với mức thuế là 34,5% trong suốt 5 năm, Trong 5 năm áp thuế chống bán phá giá, hàng loạt doanh nghiệp sản xuất xe đạp đi vào tình trạng phá sản, buộc phải chuyển đổi lĩnh vực kinh doanh. Cuối cùng đến ngày 15/7 vừa qua thì cũng được bãi bỏ mức thuế này. Trong năm này VN cũng đứng trước vụ kiện bán phá giá giày mũ da nhập khẩu vào EU từ Việt Nam và Trung Quốc EC đã đề xuất các mức thuế sơ bộ đối với VN là 16,8% và 19,4% với Trung Quốc. Mức thuế này được áp dụng theo từng giai đoạn trong khoảng thời gian 6 tháng, bắt đầu từ mức 4%. Việc áp dụng mức thuế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới ngành giày da của VN, đặc biệt là hơn 500.000 lao động và 80% trong số đó là lao động nữ. Ngoài ra, việc áp dụng mức thuế này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ở 25 nước thành viên EU. Sau khi gia nhập WTO chúng ta lại đứng trước những vụ kiện bán phá giá như vụ kiên bán phá giá cá tra năm 2008. Mỹ (DOC) thông báo áp mức thuế chống bán phá giá trên 100% đối với cá tra philê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Cá tra phile đông lạnh Việt Nam bị áp mức thuế chống bán phá giá trên 100% khi... review thuế bán phá giá lần này, nhiều doanh nghiệp cá tra Việt Nam phải đóng đến 4,22 USD cho một kg cá phi lê đông lạnh. Năm 2009 là năm khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chưa thực sự thoát khỏi khủng hoảng, bên cạnh sự sụt giảm về số lượng các đơn hàng ở hầu khắp các thị trường, hàng hóa Việt Nam còn phải đối mặt với một loạt rào cản không dễ vượt qua mà đáng kể nhất là các biện pháp phòng vệ thương mại. Trên thực tế, năm 2009 là năm giữ kỷ lục về số lượng các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam với 42 vụ kiện. Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, ngày 31/3/2009, công ty luật King & Spalding LLP, đại diện cho bên nguyên là hai công ty Hilex Poly Co., LLC và Super Corporation đã đệ đơn đến Bộ Thương mại Mỹ và Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ, kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm túi PE đựng hàng hóa bán lẻ (polyethylene retail carrier bags) nhập khẩu từ Việt Nam, Đài Loan và Indonesia Nguyên cớ quan trọng nhất dẫn đến bị kiện bán phá giá là giá xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam rẻ hơn so với giá bán mặt hàng cùng loại tại quốc gia nhập khẩu. Ông Lâm Viễn Minh, tổng giám đốc công ty 99 Plastic Packaging (có tên trong 59 doanh nghiệp nhựa Việt Nam bị kiện) thừa nhận, do xuất khẩu khó khăn, nhiều doanh nghiệp buộc phải hạ giá để có đơn hàng, giữ công nhân. Ông Minh dẫn chứng, Wal-mart đặt hàng doanh nghiệp Việt Nam làm khoảng 800 container (mỗi container tương đương với 20 tấn túi bao bì)/tháng. Wal-mart luôn ép giá thu mua xuống thấp nhất, nếu doanh nghiệp không bán hàng, họ sẽ đi tìm đối tác khác. Và giá trung bình mà các doanh nghiệp nhựa Việt Nam xuất hàng cho Wal-mart rẻ hơn 10% so với giá bán ở thị trường Mỹ. Trước đó có các vụ: Ấn Độ đã áp thuế chống bán phá giá ở mức cao nhất với hàng sợi nhập từ Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan; tổng cục Chống bán phá giá Ấn Độ (DGAD) cũng xác định các nhà sản xuất của Việt Nam đã bán sản phẩm đèn huỳnh quang tại thị trường Ấn Độ; hiệp hội Các nhà sản xuất giày Canada khởi kiện một số doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá mặt hàng đế giày không thấm nước; hiệp hội Công nghiệp giày Brazil - Abicalcado yêu cầu tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với một số loại giày xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam từ cuối tháng 2/2009… Các vụ kiện này không chỉ tác động đến một vài doanh nghiệp bị kiện mà có thể ảnh hưởng tiêu cực tới toàn ngành hàng khi nhiều đối tác nhập khẩu lo ngại, chuyển qua đặt hàng ở các nước khác. Mới đây Tổng cục Thu nhập thuộc Bộ Tài chính Ấn Độ đã ban hành thông tư số 98/2010 - Customs, áp thuế chống bán phá giá đĩa DVD, mã HS 8523 (Recordable Digital Versatile Disc) nhập khẩu từ Việt Nam, Thái Lan và Malaysia. Đối với Việt Nam: Hàng do Cty Ritex Việt Nam (Ritex Co. Ltd.) phải chịu suất thuế 29,75USD cho 1.000 chiếc và có hiệu lực trong vòng 5 năm. Ông Adam Mc Carty, Viện nghiên cứu kinh tế Mê Kông cho biết: Khi bị điều tra chống bán phá giá, yếu tố kinh tế thị trường hay phi thị trường sẽ được xem xét. Nếu Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường thì trong các vụ kiện bán phá giá, giá trị tính toán sẽ phụ thuộc vào giá của một nước thay thế tương tự để xác định, và thuế bán phá giá của nước nào cao hơn sẽ được áp dụng. Đây là khiến các doanh nghiệp Việt Nam có thể bị bất lợi. Cụ thể là trong vụ kiện cá tra, ba sa, mặc dù giá bán trong nước là thấp hơn giá xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng VN vẫn bị coi là bán phá giá vì giá bán sang Mỹ rẻ hơn giá thành sản xuất của nước tham chiếu là Ấn Độ. Mặc dù WTO có thể phân xử các tranh chấp về bán phá giá nhưng do WTO không có một định nghĩa rõ ràng rằng nền kinh tế phi thị trường là gì, không có một phương pháp đo lường. Điều này khiến cho WTO hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết các cách tiếp cận tuỳ tiện của các nước khởi kiện. Trong khi mải miết với cuộc chạy đua xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài thì chúng ta hầu như bỏ quên mất thị trường nội địa. tạo cơ hội cho hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, không khẳng định được vị thế chủ nhà của mình. Thiết nghĩ các doanh nghiệp VN cần có những chiến lược để khai thác tiềm năng của thị trường trong nước hơn nữa Mặc dù đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu cả nước, đứng thứ 4 trong 10 nước sản xuất giày trên thế giới và lượng giày xuất khẩu đạt kim ngạch hàng năm hơn 4 tỷ USD (dự kiến năm 2010 sẽ là 6,2 tỷ USD), nhưng Hiệp hội Da giày Việt Nam khẳng định 800 doanh nghiệp ngành da giày với năng lực sản xuất khoảng 780 triệu đôi giày dép/năm chỉ chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, bỏ ngỏ thị trường trong nước với sức tiêu thụ hơn 85 triệu dân. Dạo quanh thị trường Hà Nội, tại những trung tâm bán đồ dùng văn phòng phẩm nổi tiếng như: hiệu sách Tràng Tiền, hiệu sách Hà Nội, phố Lý Thường Kiệt... thì những đồ dùng văn phòng phẩm như từ chiếc dập ghim, cặp file, chiếc kẹp phù hiệu... đến những hộp đựng bút, chặn giấy, bút xoá, bút viết... phần lớn là hàng nhập khẩu, mà chủ yếu từ Trung Quốc. Ngay tại cửa hàng trưng bày sản phẩm của Công ty Hồng Hà, một trong những doanh nghiệp lớn nhất nước ta trong lĩnh vực hàng văn phòng phẩm, thì bên cạnh những sản phảm mang thương hiệu Hồng Hà nổi tiếng mấy chục năm nay như: bút Hồng Hà, vở Hồng Hà... vẫn có rất nhiều sản phẩm ngoại được bày bán như: cặp file, túi đựng hồ sơ,... thậm chí có cả những sản phẩm nhập khẩu là đối thủ cạnh tranh với sản phẩm Hồng Hà cũng được bày bán tại đây. Ông Thái, chủ cửa hàng ở phố Lý Thường Kiệt cho biết hiện nay chỉ có khoảng chưa đầy 20% mặt hàng văn phẩm có trên thị trường là sản phẩm trong nước sản xuất được, còn lại hầu hết là hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là nhập khẩu từ Trung Quốc. Một thực trạng đáng buồn nữa chính là VN vẫn chưa làm tốt được khâu giải quyết vốn đầu tư, sau khi gia nhập WTO chúng ta đã được đầu tư một lượng lớn nguồn vốn FDI và ODA từ các nước phát triển đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những dự án lớn nhưng trong khâu quản lý và đầu tư nguồn vốn chúng ta vẫn chưa thực hiện tốt. để gây ra những tình trạng thất thoát và chậm trễ trong khâu thi công. Một ví dụ điển hình nhất là vụ PMU, xây dựng đại lộ Đông Tây tại tpHCM vừa qua và nhiều vụ việc khác .v.v. Các doanh nghiệp VN cần phải chú trọng hơn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Sau một thời gian nhất định nữa, những mặt tích cực và tiêu cực sẽ xuất hiện rõ nét hơn. Nhưng điều quan trọng mà chúng ta cần lưu ý ở đây là: những tác động tiêu cực của việc gia nhập WTO thì đã và đang hiện hữu ở ngành này hay ngành khác, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của nền kinh tế, còn những tác động tích cực của nó nhiều hay ít là hoàn toàn do ý chí, quyết tâm của chúng ta quyết định. Việc thành công nhiều hay ít sau khi nước ta gia nhập WTO phụ thuộc phần lớn vào việc tố chức triển khai linh hoạt các cam kết. Chương 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO 4.1 Cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO 4.1.1 Việt Nam được hưởng ngay thành tựu và kết quả đàm phán của GATT và WTO 4.1.2 Vào WTO mang lại động lực cho cải cách nền kinh tế Việt Nam. Thúc đẩy Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mang tính đầy đủ theo chuẩn mực quốc tế tạo hàng lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam đây được coi là nền tảng cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, tham gia hội nhập thành công nền kinh tế toàn cầu. Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế có điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục và chi phí khi tiếp cận với thị trường thế giới trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Minh bạch và công khai cơ chế chính sách. Nổ lực và kiên trì hơn trong chống tham nhũng. Cải cách bộ máy quản lý nhà nước theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, giảm thiểu các biện pháp hành chính can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Các doanh nghiệp có thể lập kế hoạch đầu tư và hoạt động thương mại dài hạn hơn. Thay đổi tư duy kinh tế: từ kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân làm động lực cơ bản cho phát triện kinh tế;từ kinh tế nhà nước sang kinh tế thị trường 4.1.3 Doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi hơn để phát triển Có hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ mang chuẩn mực quốc tế. Không bị phân biệt đối xử, tất cả các thành phần kinh tế điều phải hoạt động theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp được tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước. Độc quyền tiếp cận với thị trường. Có môi trường hành chính đơn giản công khai. Hạ tầng cơ sở kinh doanh tốt hơn (Nhà nước bỏ hoặc giảm tài trợ trực tiếp và đầu tư nhiều hơn vào phát triển cơ sở hạ tầng) 4.1.4 Việt Nam thêm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài Môi trường pháp lý Việt Nam mang chuẩn mực quốc tế và cải cách theo hướng hấp dẫn hơn. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền đầu tư nhiều hơn vào thị trường tài chính, ngân hàng chứng khoáng sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhà đầu tư nước ngoài không bị phân biệt đối xử.Việt Nam cam kết cho nhà đầu tư nước ngoài được thưởng quy chế tối huệ quốc MFN và chịu sự điều tiết bởi luật đầu tư, luật kinh doanh, thuế…giống như các doanh nghiệp ở Việt Nam. 4.1.5 Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp có điều kiện giảm Thuế nhập khẩu giảm nên mua nguyên nhiên vật liệu máy móc sẽ rẻ hơn, giá thành sản phẩm hạ. Cạnh tranh lớn thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, quản lí tối ưu chi phí kinh doanh. Chính sách thuế nhập khẩu mới sẽ giúp nền kinh tế và doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn,chi phí thủ tục hành chính ít hơn, tham nhũng được kiểm soát chăt chẽ hơn. 4.1.6 Giảm chi phí vì cơ sở hạ tầng phát triển tốt hơn Xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn. Sản phẩm do Việt Nam sản xuất mang tính cạnh tranh về giá hơn (chi phí kinh doanh giảm). Năng lực cạnh tranh tốt hơn. Hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam khi thâm nhập vào các nước thành viên khác được đối xử bình đẳng như hàng hóa dịch vụ ở nước sở tại theo nguyên tắc NT. Việt Nam được hưởng ngay lập tức và vô điều kiện kết quả thành tựu cắt giảm thuế đa phương của WTO qua 50 năm nổ lực khi xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ sang các nước thành viên khác. Việt nam được xếp vào nước có thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD/năm nên khi vào WTO sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi nhập khẩu, khi thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển. Ngoài ra, Việt Nam còn được phép duy trì các loại trợ cấp xuất khẩu bị cấm đối đa số các nước thành viên WTO khác. Gia tăng cơ hội cho ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là nghành Dệt May vì theo tinh thần hiệp định ATC thì các hạn ngạch xuất khẩu sẽ được bãi bỏ sau năm 2005. Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với thông tin về thị trường nhập khẩu (WTO yêu cầu mỗi nước thành viên phải công khai minh bạch chính sách ngoại thương của mình) 4.1.7 Hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn Do phát triển nhiều nhà cung cấp cho nên sự lựa chọn của doanh nghiệp và người dân sẽ nhiều hơn, hàng hóa rẽ hơn, dịch vụ chất lượng hơn, phong phú về mẫu mã hơn. 4.1.8 Doanh nghiệp có điều kiện được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình tốt hơn trên thị trường trong và ngoài nước Giải quyết tranh chấp thương mại với các nước thành viên. Tác phẩm, sáng chế, thương hiệu kiểu dáng của sản phẩm Việt Nam được thừa nhận và bảo vệ trên thị trường, quyền sở hữu trí tuệ được tôn trọng và bảo vệ 4.1.9 Đời sống nhân dân được cải thiện Nhiều cơ hội việc làm thu nhập gia tăng: Các bằng cấp giáo dục đào tạo do Việt Nam cấp được thừa nhận ở các nước thành viên nên lực lượng lao động ở Việt Nam có điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường lao động quốc tế. Nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn, giá cả cạnh tranh giúp người lao động thỏa mãn tốt hơn, sử dụng sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Có điều kiện học tập, chữa bệnh, du lịch tốt hơn, tiếp cận vời thông tin phương tiện giải trí nhiều hơn. Có điều kiện phát huy nội lực của mỗi cá nhân nhiều hơn. 4.1.10 Gia nhập WTO: Hòa nhập chứ không hòa tan Có tính đến trình độ và điều kiện phát triển không đồng đều của các nước thành viên để ứng xử phù hợp với tình hình kinh tế mỗi nước, kéo dài lộ trình giảm thuế, cho các nước đang phát triển, đã giúp Việt Nam có thời gian chuẩn bị ứng phó nhằm khắc phục sự hòa tan hay thôn tính trong thực hiện tự do hóa thương mại khi mà thế và lực của chúng ta chưa hội đủ năng lực cạnh tranh sòng phẳng 4.2. Thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO 4.2.1 Sự lệ thuộc của kinh tế Việt Nam vào tiến trình toàn cầu hoá gia tăng Xây dựng hệ thống luật lệ kinh doanh, thương mại phải tuân thủ theo chuẩn mực của WTO. Chính sách thương mại kinh tế chịu sự giám sát của WTO. Sự biến động về chính trị, xã hội, kinh tế của khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam và doanh nghiệp trong nước 4.2.2 Sự cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn Vào WTO bắt buộc Việt Nam phải mở cửa thị trường bằng cách giảm thuế hoặc bãi bỏ hàng rào thuế quan, trao quy chế tối huệ quốc cho các nước thành viên khi họ đưa hàng hoá dịch vụ của mình vào Việt nam kinh doanh vì vậy háng hoá và dịch vụ ở Việt nam phải trực diện đối đầu với cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu và các loại dịch vụ do nước ngoài cung cấp. Một số doanh nghiệp nhà nước sẽ mất đi đặc quyền đặc lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện mất đi sự bảo hộ ưu đãi nhà nước với các nhà kinh doanh hàng đầu Thế Giới. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với nhà đầu tư nước ngoài khi được hưởng quyền lợi tương tự 4.2.3 Môi trường kinh doanh phức tạp hơn Doanh nghiệp phải nắm rõ luật lệ kinh doanh trong nước và quốc tế. Phải nắm thông tin về hội nhập về kinh tế toàn cầu về đối thủ cạnh ranh trong nước và nước ngoài 4.2.4 Rào cản xuất khẩu tinh vi hơn phức tạp hơn Rào cản kỹ thuật, quy cách mẫu mã, về an toàn vệ sinh thực phẩm, về môi trường…Các biện pháp chống bán phá giá, các tài trợ của nước nhập khẩu 4.2.5 Nhiều chi phí kinh doanh sẽ tăng lên Chi phí cho việc sát lập quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu…Chi phí cho đầu tư xây dựng về tiêu chuẩn giá trị chất lượng: ISO-9000, SA-8000,… Chi phí cho thu hút đào tạo nguồn nhân lực. Chi phí cho tiếp thị quảng cáo, duy trì và phát triển thị phần 4.2.6 Việt nam đứng trước những thay đổi lớn về mặt tài chính - tiền tệ Kiểm soát và khảo sát giá cả, chống bán phá giá, thực hiện lộ trình giảm thuế, xoá bỏ trợ cấp giá nông sản, vấn đề về tỷ gia hối đối, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf74231634-60869099-Viet-Nam-Gia-Nhap-Wto-Nhung-Thuan-Loi-Kho-Khan.pdf
Luận văn liên quan