PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đó là quy
luật tất yếu và khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế Để cùng
chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những vấn đề
chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện
được. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế thì sự hợp tác này ngày càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp cho các nước có thể lưu thông
hàng hóa một cách thuận lợi, có thể trao đổi kinh nghiệm, khoa
học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất
lao động và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giúp
cho việc lưu thông nguồn vốn một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mà
hàng loạt các tổ chức thương mại thế giới lần lượt ra đời như
:WTO, NAFTA, ASEAN, EU
Trong đó WTO là tổ chức thương mại trên thế giới thu hút nhiều
quốc gia gia nhập vào tổ chức này. WTO ra đời nhằm thúc đẩy tự
do thương mại trên toàn cầu. Các nước tham gia WTO sẽ nhận
được nhiều thuận lợi và cơ hội. Đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức. Lợi ích của việc gia nhập WTO là
các nước thành viên được mở rộng cơ hội thương mại, được
hưởng các quyền lợi có trong các hiệp định WTO Với Việt
Nam, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực nói riêng và trên thế giới nói chung là việc làm vô cùng cấp
bách để phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, việc
tham gia WTO sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và trải nghiệm
mới, tiếp xúc với môi trường làm việc mới để mở rộng thị trường,
từng bước gây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển. Đó cũng
chính là lí do mà chúng tôi chọn WTO là đề tài làm tiểu luận.
2.Mục đích chọn đề tài
Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta rất nhiếu cơ hội và
thuận lợi nhưng song song đó cũng tồn tại không ít những khó
khăn và thách thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cách
vận dụng tối đa những cơ hội đó để sử dụng triệt để vào công cụ
phát triển nền kinh tế vững mạnh, phải biết cách phối hợp những
cơ hội đó với những ưu thế sẵn có của quốc gia để tối đa hóa lợi
ích mà WTO đem lại. Đồng thời phải biết cách hạn chế tối thiểu
những khó khăn và thách thức từ việc gia nhập WTO. Phải biết
cách dung hòa cơ hội và thách thức làm sao để việt nam gia nhập
WTO chỉ hòa nhập không hòa tan. Để làm rõ việc này, chúng ta
cần tìm hiểu cách thức quản lí và hoạt động của WTO. Mục đích
của việc tìm hiểu này là để vạch ra những kế hoạch và hướng đi
cho chúng ta bước vào môi trường WTO một cách tự tin, không đi
nhầm đường. Tạo một nền kinh tế phát triển thực sự vững mạnh.
Cũng như hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa nước ta với tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới này.
103 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 28004 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những thuận lợi và khó khăn cho Việt nam khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Nam nhưng chi
nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn
chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong
vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế
về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam, không quá 30%. Đây
là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng.
3.2.13.7 Dịch vụ chứng khoán
Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước
ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
3.2.13.8 Các cam kết khác
Với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán,
xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so
với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.
3.2.14.Cam kết về minh bạch cơ chế chình sách thương
mại
Thành lập wedsite của chính phủ Việt Nam công bố toàn bộ
chính sách thương mại,đầu tư,sở hữu trí tuệ.Các văn bản pháp lý
có liên quan đến thương mại,đấu tư..chỉ có hiệu lực khi được dăng
công báo.Các chính sách thương mại có tác động không thuận lợi
đến hoạt động của doanhnghiệp phải được công bố trên wedsite
của chính phủ trước 60 ngày để xin ý kiến dư luận
3.2.15.Sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực được các thành
viên của tổ chức thương mại Thế giới hết sức quan tâm. Những
vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ(TRIPS)
là một trong những nội dung lớn trong những cam kết của Việt
Nam khi gia nhập WTO. Trong những năm đầu gia nhập WTO,
quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam sẽ là vấn đề có ảnh hưởng rõ
nét nhất đến hoạt động kinh doanh, thương mại do những tác động
trực tiếp từ các nguyên tắc, yêu cầu thực thi “luật” của WTO. Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPS) ,WTO buộc VN phải đạt được hai chuẩn mực lớn
về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và về hiệu lực thực thi pháp luật
(tính hiệu quả) của hệ thống sở hữu trí tuệ . Do đó, việc thực thi tốt
quyền sở hữu trí tuệ là một trong những đòi hỏi hàng đầu của
WTO.
3.2.15.1 Về bản quyền tác giả
Theo luật sở hữu trí tuệ 2005 và Bộ Luật Dân sự 2005
quyền tác giả đối với những tác phẩm gốc được bảo hộ không phân
biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng của tác phẩm. Về
thù lao, nhuận bút, các tổ chức, cá nhân sử dụng các tác phẩm đã
được công bố hoặc bản ghi âm/ghi hình để thực hiện chương trình
phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức
nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho
chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của chính
phủ. Tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc khi bị
xâm hại có quyền yêu cầu tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi
thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
hành vi xâm phạm hoặc khởi kiện ra toà án có thẩm quyền hoặc
thông qua trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.2.15.2 Về nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ
Theo bộ luật dân sự 2005 và phần III của luật sở hữu trí tuệ
năm 2005. Không có yêu cầu bắt buộc đăng ký nhãn hiệu đối với
bất kỳ hàng hóa và dịch vụ nào. Tất cả các đăng ký nhãn hiệu đều
được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp
3.2.15.3 Về chỉ dẫn địa lý,bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng
hóa
Bộ luật dân sự năm 2005 và Phần III của Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005. Việt Nam lưu ý một chỉ dẫn địa lý sẽ không được bảo
hộ nếu đã trở thành tên gọi chung ở Việt Nam. Chỉ dẫn địa lý nước
ngoài được bảo hộ ở nước xuất xứ mới có thể được bảo hộ ở Việt
Nam. Bất kỳ chủ thể nào có quyền, theo luật pháp của nước ngoài,
sở hữu, sử dụng hoặc nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước xuất
xứ đều có quyền nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó tại Việt Nam
và có thể được ghi nhận trong đăng bạ chỉ dẫn địa lý Việt Nam
3.2.15.4 Kiểu dáng công nghiệp
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng đã quy định việc sản xuất,
bán hoặc nhập khẩu sản phẩm mang kiểu dáng “về cơ bản là bản
sao” của kiểu dáng được bảo hộ. Thời hạn bảo hộ ban đầu đối với
kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn,có hiệu lực
từ ngày đăng ký và có thể được gia hạn 2 lần liên tiếp, mỗi lần 5
năm
3.2.15.5 Sáng chế
Sáng chế có tính mới đối với thế giới, và có khả năng áp
dụng công nghiệp thậm chí không có trình độ sáng tạo nhưng
không phải là hiểu biết thông thường có thể được bảo hộ theo bằng
độc quyền giải pháp hữu ích. Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế
hoặc bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng,
chuyển giao quyền sở hữu, và chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
cho người khác.Có quyền yêu cầu người khác chấm dứt hành vi
xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm gây ra. Thời hạn hiệu lực của những bằng độc quyền
sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích tương ứng là 20 và
10 năm tính từ ngày nộp đơn có hiệu lực từ ngày cấp
3.2.15.6 Bảo hộ cây trồng
Thời hạn bảo hộ quyền của người tạo giống là 25 năm đối
với cây thân gỗ và cây nho và 20 năm đối với các giống cây trồng
khác kể từ ngày các quyền được xác lập. Không mở rộng quyền
của người tạo giống đối với sản phẩm thu hoạch hoặc sản phẩm
được sản xuất trực tiếp từ sản phẩm thu hoạch được từ việc sử
dụng trái phép vật liệu nhân giống của giống cây được bảo hộ.
3.2.15.7 Thiết kế bố trí mạch tích hợp
3.2.15.8 Các yêu cầu đối với thông tin bí mật, bao gồm bí
mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm
Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều
kiện theo quy định mà không phải đăng ký. Chủ sở hữu bí mật
kinh doanh có quyền cấm việc sử dụng trái phép bí mật kinh doanh
của mình và yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra lệnh
chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.
3.3 Thành tựu và tiêu cực của Việt Nam sau khi gia nhập
WTO
3.3.1 Thành tựu
Việt nam gia nhập WTO tạo sự hợp tác toàn diện,và vị
thế của nước ta đã được nâng lên một tầm cao mới. Đây không
phải là đánh giá cảm tính, mà là đánh giá chung của lãnh đạo
nhiều nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế.
Lãnh đạo chính phủ, quốc hội các nước trên thế giới và
lãnh đạo các tổ chức quốc tế nhận định, việc Việt Nam gia nhập
WTO thực sự đã mở ra trang sử mới trong việc nâng cao mối
quan hệ giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế, không
chỉ trong hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, thương
mại, đầu tư, mà còn trên nhiều lĩnh vực khác, như chính trị, văn
hoá, ngoại giao, đào tạo... Sự hợp tác toàn diện với các nước và
các tổ chức quốc tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
3.3.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam với một
số nước trong WTO
Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ
tăng chung, chứng tỏ lĩnh vực này đã tận dụng được cơ hội do vị
thế mới của thành viên WTO. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm
2007 đạt 48,38 tỉ USD, với tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân
đầu người đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trước tới nay.
3.3.1.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam với
Achentina
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy trong năm
2009 trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Achentina
gia tăng khá nhanh, cụ thể trong năm 2008 tổng kim ngạch hàng
hóa xuất nhập khẩu song phương chỉ đạt 498 triệu USD, tăng 8%
so với năm 2007 nhưng đến năm 2009 đã đạt hơn 643 triệu USD,
tăng 29% so với một năm trước đó và cao gấp 15 lần so với năm
1999. Số liệu Thống kê Hải quan cập nhật mới nhất ghi nhận
trong quý I năm 2010, tổng trị giá hàng hoá xuất nhập khẩu Việt
Nam-Aćhentina đạt hơn 200 triệu USD, tăng gấp 5 lần so với
cùng thời gian một năm trước đó.
Các số liệu thống kê cũng cho thấy trong buôn bán với thị
trường lớn nhất Nam Mỹ này của Việt Nam, cán cân thương mại
hàng hóa của nước ta luôn ở trạng thái nhập siêu. Minh chứng cu ̣
thể là trong năm 2009, Việt Nam nhập siêu hơn 530 triệu USD
trong khi đó con số nhập siêu này của năm 2007 và 2008 đều lớn
hơn 350 triệu USD.
Một điểm đáng chú ý trong buôn bán với Áchentina là các
doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng la ̀
nguyên, vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất, xuất khẩu trong khi
đó các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường gần 40
triệu người tiêu dùng (WTO, 2008) này ở Nam Mỹ phần lớn la ̀
các sản phẩm chế tạo.
Bảng: Thống kê kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
và cán cân thương mại Việt Nam – Achentina năm 2006-
2009 và quý I/2010
Năm
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương
mại (xuất khẩu -
nhập khẩu )
Kim
ngạch
(Triệu
USD)
So
với
cùng
kỳ
năm
trước
(%)
Kim
ngạch
(Triệu
USD)
So với
cùng
kỳ
năm
trước
(%)
Kim
ngạc
h
(Triệ
u
USD)
So với
cùng
kỳ năm
trước
(%)
2006 30,8 87 240,8 -11
-
210,0
-18
2007 49,8 62 409,4 70
-
359,6
71
2008 73,7 48 424,4 4
-
350,7
-2
2009 55,9 -24 587,3 38
-
531,4
52
Quý
I/201
0
13,1 27 188,4
5,4
lần
-
175,3
-
Mặc dù trong năm 2009 trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang
Achentina giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ
Achentina tăng khá mạnh, trị giá nhập khẩu đạt hơn 587 triệu
USD, tăng 38% so với năm 2008, đứng đầu là mặt hàng thức ăn
gia súc & nguyên liệu đạt 451,3 triệu USD, tăng 97% so với một
năm trước; dược phẩm đạt 10,2 triệu USD, tăng 98% so với năm
2009.
Bảng: Tỷ trọng, thứ hạng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu giữa Việt Nam và Achentina năm 2009 và 3 tháng
đầu năm 2010
Chỉ tiêu
Năm 2009
3 tháng đầu
năm 2010
Xuấ
t
Xuấ
t
Nhậ
p
Xuấ
t
Xuấ
t
Nhậ
p
nhậ
p
khẩ
u
khẩ
u
khẩ
u
nhậ
p
khẩ
u
khẩ
u
khẩ
u
Tỷ trọng so với
tổng kim ngạch
của Việt Nam(%)
0,5 0,1 0,8 0.6 0,1 1,1
Thứ hạng trong
tổng số các thị
trường của Việt
Nam
25 61 17 25 61 16
Thứ hạng trong
tổng số các thị
trường châu Mỹ
của Việt Nam
3 8 2 3 8 2
Số liệu thống kê ở Bảng trên cho thấy Achentina luôn là thị
trường cung cấp nguồn hàng nhập khẩu cho các doanh nghiệp
Việt Nam lớn thứ 2 khu vực châu Mỹ, chỉ sau các nguồn hàng
thứ nhất Hoa Kỳ và đứng thứ 16 trong tổng số các thị trường
nước ngoài xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Bên cạnh đó,
Achentina cũng là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 8 của
các doanh nghiệp Việt Nam trong số các thị trường thuộc châu
Mỹ.
Tính từ đầu năm đến hết quý I/2010, tổng trị giá trao đổi
hàng hoá giữa hai nước đã đạt hơn 201 triệu USD, cao gấp 5 lần
so với cùng kỳ năm 2009. Achentina là đối tác thương mại lớn
thứ 3 của Việt Nam ở khu vực châu Mỹ và đứng thứ 25 nếu tính
trên phạm vi toàn cầu.
Về nhập khẩu, số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải
quan ghi nhận trong quý I năm 2010 tổng kim ngạch nhập khẩu
của các doanh nghiệp Việt Nam từ thị trường Achentina tăng
mạnh, đạt trị giá 188,4 triệu USD, tăng 5,4 lần so với cùng kỳ
năm trước và chiếm hơn 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam, qua đó nâng mức thâm hụt thương mại của Việt Nam với
Achentina lên tới 175,3 triệu USD. Nguyên nhân chính khiến
kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng mạnh là do sự gia
tăng đột biến nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu,
cụ thể tăng gần 5 lần so với cùng kỳ năm 2009 và đạt hơn 140
triệu USD, chiếm gần 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ nước này; tiếp đến là mặt hàng nguyên phụ liệu dệt,
may, da và giày đạt 7,4 triệu USD, tăng 122%; mặt hàng linh
kiện & phụ tùng ô tô nhập khẩu đạt 5,6 triệu USD, tăng 65%;
dược phẩm đạt 3,4 triệu USD, tăng 62% so với cùng thời gian
năm 2009.
3.3.1.1.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản của Việt
Nam với ôxtrâylia
Thuỷ sản là nhóm hàng xuất khẩu tới Ôxtrâylia đạt kim ngạch cao nhất sau mặt hàng đặc biệt là
dầu thô. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tới Ôxtrâylia đạt 126,3 triệu USD chiếm
3,45% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và cũng là mặt hàng xuất khẩu đạt được kim
ngạch cao nhất trên 100 triệu USD. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới
Ôxtrâylia chiếm 3,45% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy nhiều năm qua mặt
hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu tới Ôxtrâylia luôn chiếm tỉ trọng cao nhất nếu không tính
dầu thô.
Qua số liệu thống kê cho thấy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
tới Ôxtrâylia có dấu hiệu chững lại về kim ngạch mặc dù lượng xuất
khẩu liên tục tăng. Nguyên nhân chính là do có sự thay đổi mạnh về cơ
cấu mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê 5 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam tới Ôxtrâylia đạt 8,89 nghìn tấn với kim ngạch đạt 45,75
triệu USD, tăng 20% về lượng và 21,4% về kim ngạch so với cùng kỳ
năm 2007. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới thị trường này trong
tháng 6 đạt 1.858 nghìn tấn với kim ngạch đạt 10,3 triệu USD đưa tổng
lượng xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2008 đạt 10,75 nghìn tấn với kim
ngạch đạt 55,54 triệu USD, tăng 19% về lượng và 20% về kim ngạch
so với cùng kỳ năm 2007.
Thống kê trong 5 tháng đầu năm 2008, đứng đầu là cá đông lạnh
(chủ yếu là cá tra, ba sa) chiếm 56,22% về lượng và 38,54% về kim
ngạch, tôm chiếm 25,42% về lượng và 47,78% về kim ngạch, bạch tuộc
đông lạnh 3,91% về lượng và 1,96% về kim ngạch, chả cá chiếm 2,81%
về lượng và 1,72% về kim ngạch, mực đông lạnh chiếm 2,47% về
lượng và 1,72% về kim ngạch, cá đóng hộp chiếm 1,51% về lượng và
0,95% về kim ngạch.
Kể từ đầu năm 2008, hai nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu đạt được
tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là cá tra, ba sa và tôm đông lạnh. Các mặt
hàng chủ lực khác như bạch tuộc đông lạnh, mực đông lạnh, chả cá đều
giảm về lượng.Bạch tuộc giảm 23,11% về lượng và 26,14% về kim
ngạch. Chả cá giảm 2,49% về lượng và tăng 21,66% về kim ngạch.
Mực đông lạnh giảm 12,38% về lượng và tăng 4,92% về kim ngạch.
Những nỗ lực tiếp thị và đẩy mạnh xuất khẩu cá tra, ba sa tới thị
trường Ôxtrâylia đã có được kết quả rất tốt. Từ 9,58 nghìn tấn năm
2005 đến 12,5 nghìn tấn năm 2007 và tăng tới 15 triệu USD.
Giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cá tra đông lạnh của Việt Nam
tới Ôxtrâylia ổn định ở mức 3 đến 3,1 USD/kg kể từ đầu năm 2008 đến
hết tháng 6/2008, giảm trung bình là 0,5 USD/kg so với cùng kỳ năm
2007. Mức giá xuất khẩu mặt hàng này năm 2007 dao động ở mức 3,4
đến 3,7 USD/kg. Hiện nay nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này vẫn đang
tiếp tục tăng cao. Với mức giá xuất khẩu 3,1 USD/kg tới thị trường
Ôxtrâylia thì cá tra của Việt Nam đang là mặt hàng có lợi thế cạnh
tranh lớn nhất về giá.
Tôm đông lạnh là nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có
giá trị cao nhất tại Ôxtrâylia với giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này
kể từ đầu năm 2008 chỉ dao động ở mức 9,4 đến 9,8 USD/kg. Theo số
liệu thống kê, tôm đông lạnh lại là nhóm hàng có được tốc độ tăng
trưởng lớn nhất về lượng tăng tới 41,79% về lượng và 27,85% về kim
ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tới Ôxtrâylia đã đạt tiến độ tốt
trong 6 tháng đầu năm 2008 và có triển vọng tiếp tục tăng trưởng trong
năm 2009 nhờ các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là tôm, cá tra, ba sa
ngày càng được ưa chuộng
3.3.1.1.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với
Ucraina
Năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 546
triệu USD, tăng gần 4 lần so với năm 2007. Năm 2009 nhập khẩu từ
Ucraina đạt 335 triệu USD, tăng 15,6% , tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa hai nước đạt khoảng 500 triệu USD, giảm 8,4% so với năm
2008 và chiếm 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Bảng : Tỷ trọng và thứ hạng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu
giữa Việt Nam- Ucraina năm 2009
Chỉ tiêu Xuấ
t
khẩ
Nhậ
p
khẩ
Xuất
nhập
khẩu
u u
Tỷ trọng so với tổng kim ngạch
của Việt Nam (%) 0,2 0,5 0,4
Thứ hạng trong tổng số các thị
trường của Việt Nam 38 25 31
Thứ hạng trong tổng số các thị
trường châu Âu của Việt Nam 14 9 11
Tính từ đầu năm 2010 đến hết tháng 2/2010, trị giá hàng hoá trao đổi
giữa hai nước là 64,7 triệu USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2009
và chỉ chiếm 0,3% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong
đó, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Ucraina đạt 19,5 triệu USD,
giảm 12,3% và chiếm 0,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Ucraina là 45,2 triệu USD,
tăng 40,5% và chiếm 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Cùng với xu hướng tăng lên của trao đổi hàng hóa giữa hai nước, thâm
hụt thương mại nghiêng về phía Việt Nam với trị giá tuyệt đối ngày
càng tăng cao. Nếu như giai đoạn 2004- 2007, mức thâm hụt giảm dần,
thậm chí năm 2007 cán cân thương mại đạt thặng dư thì đến năm 2008
mức nhập siêu lại gia tăng. Năm 2009 nhập siêu là 205 triệu USD, cao
gấp 6 lần so với năm 2008. Số liệu thống kê mới nhất cho thấy trong 2
tháng đầu năm 2010, cán cân thương mại thâm hụt 25,7 triệu USD, tăng
159% so với cùng kỳ năm trước.
Biểu đồ : Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại
Việt Nam- Ucraina giai đoạn 2004- 2009 và 2 tháng đầu năm 2010
Trong những năm qua, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Ucraina
các mặt hàng nông thuỷ sản, công nghiệp nhẹ và tiêu dùng (chiếm gần
90% kim ngạch xuất khẩu sang Ucraina) như: hàng thủy sản, gạo, hàng
dệt may, hạt tiêu, hạt điều, chè, giày dép các loại, túi xách ví vali mũ &
ôdù.
Chiếm tỷ trọng trên 85% kim ngạch nhập khẩu từ Ucraina, chủ yếu là
các mặt hàng nhập khẩu như sản phẩm sắt thép, sắt thép các loại, phân
bón các loại, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng, máy vi tính sản
phẩm điện tử & linh kiện và lúa mì.
3.3.1.1.4 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nga
Kim ngạch thương mại hàng hóa hai chiều giữa Việt Nam và Nga
tăng trưởng trên 30%/năm trong giai đoạn 2006-2009. Số liệu Thống kê
Hải quan Việt Nam cho thấy trong năm 2006 kim ngạch buôn bán hàng
hóa hai chiều Việt Nam- Nga chỉ đạt 869 triệu USD thì đến năm 2007
con số này đã vượt 1 tỷ USD, tăng 16,2% so với năm 2006 và năm 2008
đạt 1,64 tỷ USD, tăng 62,4% so với một năm trước đó
3.3.1.2 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt
Nam từ sau khi gia nhập WTO
3.3.1.2.1.Tổng quan về dòng FDI vào Việt Nam thời kì
chưa gia nhập WTO
Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt
Nam còn nhỏ. Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là
213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số FDI đăng ký đã tăng mạnh
từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên đến
8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên
nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một
nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần
lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước
ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như
lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao.
Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài
đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy
dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những
năm 90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính
nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng
dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn nước
ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây,
nơi mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi
nhuận. Thứ ba, là các nước mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a,
Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu vốn. Là một nền kinh
tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được lợi
thế từ các yếu tố này.
Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò
quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng
lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai
đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997,
16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài
chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều từ khu
vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc
gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước
mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch
mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu
tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng
hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á
bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn đối với
những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư
nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị
trường đã bị thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng
trở nên rõ ràng hơn.
Giai đoạn 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào
năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn
chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI đăng ký tăng vào
năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn
(2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-
CG Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm
2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt
khoảng 54,5% của mức năm 2001. Có rất nhiều nguyên nhân làm
FDI giảm xuống. Nguyên nhân thứ nhất là do sự xuống dốc của
nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công nghệ
cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến các nước châu Á
Năm
Nguồn
số liệu
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
TỔNG
CỤC
THỐNG
KÊ
2.414
2.450
2.591 2.650 2.852 3.309 3.956
UNCTA
D
1.289 1.300 1.200 1.450 1.610 2.021 2.315
ADB 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.889 2.315
IMF 1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.954
WORL
D
BANK
1.298 1.300 1.400 1.450 1.610 1.954
Bảng: Nguồn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000-
2006(triệu USD)
● ● ●
3.3.1.2.2 Nguồn FDI vào Việt Nam năm 2007
Cơ cấu đầu tư năm 2007 rất khả quan, tập trung vào các lĩnh
vực kinh tế chủ chốt như công nghiệp, xây dựng, điện tử, viễn
thông và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công nghệ cao. Ngoài ra,
các lĩnh vực dịch vụ, hiện đại hóa đô thị, phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất, chế biến nông lâm hải sản….cũng được các
nhà đầu tư rất quan tâm. Tỉ lệ giải ngân năm 2007 đã tăng trên
30% so với năm 2006, đạt trên 5 tỷ USD.
Năm 2007 cũng được coi là năm “bội thu” của lĩnh vực công
nghệ cao với hàng loạt các dự án quy mô lớn được triển khai,
chẳng hạn như dự án nhà máy lắp ráp và kiểm tra các bản mạch in
của Công ty TNHH Jabil Circuit (Mỹ) tại Thành phố Hồ Chí Minh
với tổng vốn 100 triệu USD, hai nhà máy công nghệ cao của tập
đoàn Foxconn (Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD.
Quy mô vốn đầu tư bình quân của các dự án trong năm 2007
cũng cao hơn mức bình quân của năm 2006, đạt khoảng 11 triệu
USD. Nhiều địa phương đã thu hút được các dự án đầu tư lớn từ
các tập đoàn đa quốc gia như Phú Yên có dự án nhà máy lọc dầu
Vũng Rô, số vốn 1,7 tỷ USD của Công ty Technostar Management
(Anh) và Công ty Telloil (Nga).
Hà Nội có dự án khách sạn-căn hộ cao cấp Keangnam của
Hàn Quốc trị giá 500 triệu USD. Vĩnh Phúc hứa hẹn trong tương
lai gần sẽ trở thành tỉnh công nghiệp với sự hiện diện của nhiều dự
án công nghiệp có quy mô lớn như dự án nhà máy sản xuất xe
Vespa của tập đoàn Piaggio (Italia) có số vốn 45 triệu USD, nhà
máy sản xuất máy tính xách tay của tập đoàn Intelligent Universal
(Đài Loan) tổng vốn 500 triệu USD.
Về phía các nhà đầu tư nước ngoài, trong năm 2007, Hàn
Quốc đã chứng tỏ là nhà đầu tư thành công tại Việt Nam khi tiếp
tục dẫn đầu danh sách 81 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư
vào Việt Nam. Hiện quốc gia này có 1.655 dự án ở Việt Nam với
tổng vốn đăng ký 11,5 tỷ USD, chiếm gần 22,7% tổng số dự án và
trên 16,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam kể từ năm 1988 đến nay.
Bên cạnh việc rót vốn vào các lĩnh vực như công nghệ cao,
dịch vụ, năm nay các nhà đầu tư Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến
lĩnh vực bất động sản. Số dự án đầu tư của Hàn Quốc vào lĩnh vực
này tăng đáng kể và phạm vi triển khai được trải rộng trên cả 3
miền Bắc, Trung và Nam.
Năm 2007 cũng đánh dấu bước chuyển biến lớn trong chiến
lược đầu tư của Ấn Độ vào Việt Nam. Với việc triển khai hai dự án
lớn là nhà máy thép cán nóng tại Bà Rịa-Vũng Tàu với tổng vốn
527 triệu USD của tập đoàn ESSAR và dự án xây dựng khu liên
hợp thép Hà Tĩnh của tập đoàn TATA, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10
nước có vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Kết quả này cũng đã
đưa Việt Nam trở thành nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp lớn
nhất từ Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á.
Có được những thành tựu trên chủ yếu là nhờ sự phấn đấu,
nỗ lực cải cách của Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Bên cạnh đó,
việc trở thành thành viên của WTO cũng đã giúp Việt Nam trở nên
hấp dẫn và thuận lợi hơn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
3.3.1.2.3 Nguồn FDI vào Việt Nam năm 2008
Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã có con số
sơ bộ về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong
năm 2008. Theo đó, tổng vốn FDI đăng năm 2008 đã đạt hơn 64 tỷ
USD, gấp gần ba lần năm 2007. Đây là mức thu hút vốn FDI kỷ
lục từ trước đến nay của Việt Nam. Điều này rất có ý nghĩa trong
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khủng hoảng. Cụ thể, trong tháng
12/2008, cả nước đã cấp mới thêm 112 dự án FDI với tổng số vốn
đăng ký đạt 1,17 tỷ USD.Tính chung từ đầu năm 2008, đã có tổng
số 1.171 dự án FDI được cấp phép đầu tư vào Việt Nam với tổng
số vốn đăng ký đạt hơn 60,2 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007.
Bên cạnh đó, trong năm 2008, có 311 dự án đăng ký tăng vốn, tổng
số vốn tăng thêm đạt 3,74 tỷ USD.
Trong các lĩnh vực đầu tư, vốn FDI tập trung chủ yếu vào
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, gồm 572 dự án với tổng vốn
đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% về số dự án và 54,12% về
vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án, tổng vốn đăng
ký 27,4 tỷ USD, chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư
đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp.
Năm 2008, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu
tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký
đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu, với 55 dự án, vốn
đăng ký 14,9 tỷ USD, Đài Loan đứng thứ hai, với 132 dự án, vốn
đầu tư 8,64 tỷ USD. Nhật Bản đứng thứ ba, với 105 dự án, vốn
đầu tư 7,28 tỷ USD.
Tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu về số vốn đăng ký do
có dự án liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia và
Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu đứng
thứ hai trong số 43 địa phương của cả nước có vốn FDI, với 4 dự
án, tổng vốn đăng ký 9,35 tỷ USD.
Thống kế của Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, tính đến
hết tháng 12/2008, giải ngân vốn trong năm 2008 của các doanh
nghiệp FDI tại Việt Nam đã đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với
năm 2007.
3.3.1.2.4 Nguồn FDI vào Việt nam năm 2009
Vốn FDI vào Việt Nam năm 2009 suy giảm mạnh ,Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho biết vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực
hiện đạt 10 tỷ USD. Đây là mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng
30% so với năm 2008. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH-ĐT,
tổng lượng xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu
khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008.
Nếu không tính dầu thô, khu vực đầu tư nước ngoài xuất khẩu 23,6
tỷ USD. Nhập khẩu của khu vực này đạt 24,8 tỷ USD. Nhìn chung,
cả năm 2009, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu tổng cộng 5,03
tỷ USD. Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, theo số liệu tính
đến 15/12, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp
giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy
chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá
cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng
vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm
2008. Riêng trong tháng 12, FDI vào Việt Nam đạt 1,78 tỷ USD
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD,
bằng 30% so với năm 2008.
Dịch vụ lưu
trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các
nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm.
Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD
và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Đứng thứ
2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký
mới và tăng thêm.
Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam Nam
Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép trong
năm như Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam, dự án
Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai
và dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo
Investment Group Việt Nam có tổng vốn
đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và 1,68 tỷ USD. Lĩnh vực
công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba
trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ
USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm.
Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng
vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt
Nam, Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ
USD chiếm 9,4%. Đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7
tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn
đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất trong
năm 2009 với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đứng ở
các vị trí tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú
Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD;
2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD.
3.3.1.2.5 Nguồn FDI vào Việt nam năm 2010
Theo báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), trong tháng 9/2010 có 62 dự án được cấp giấy chứng nhận
đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt 616 triệu USD. Nếu so với các
con số tương ứng của tháng 8 là 72 dự án và gần 2,5 tỷ USD, kết
quả đạt được trong tháng qua khá khiêm tốn.
Tính chung 9 tháng đầu năm, cả nước đã thu hút được 720 dự
án đăng ký cấp mới với tổng vốn đăng ký 11,4 tỷ USD, tăng 37,3%
so với cùng kỳ 2009. Mức bình quân gần 1,3 tỷ USD/tháng cũng
cho thấy phần nào sự “tụt lại” của lượng vốn FDI đổ vào trong
tháng 9.
Lũy kế đến tháng 9/2010, số vốn FDI cấp mới và tăng vốn đã
đăng ký đầu tư vào Việt Nam là 12,19 tỷ USD, bằng 87,3% so với
cùng kỳ 2009. Với con số quan trọng nhất, giải ngân vốn FDI trong
tháng 9 đạt khoảng 800 triệu USD, đưa tổng số vốn thực hiện 9
tháng đầu năm lên mức 8,05 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ
năm 2010. Như vậy, mức giải ngân tháng này đã thấp hơn 50 triệu
USD so với tháng 8 và kém xa con số giải ngân bình quân 9 tháng
đầu năm, gần 900 triệu USD/tháng.
Tuy nhiên ,năm 2010, gồm có dự án Công ty TNHH Điện lực
AES-TKV Mông Dương vốn đầu tư là 2,1 tỷ USD; dự án Công ty
Sắt xốp Kobelco Việt Nam tổng vốn 1 tỷ USD; dự án Công ty
TNHH Skybridge Dragon Sea vốn đăng ký 902,5 triệu USD…
Theo báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài, lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo đã liên tục tăng cao trong các tháng gần
đây. Với 275 dự án cấp mới, tổng số vốn cấp mới trên 3 tỷ USD và
106 lượt dự án tăng vốn, tổng số vốn đăng ký tăng thêm 653,6 triệu
USD đã đưa lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu thu
hút FDI trong 9 tháng qua, chiếm 30,2% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Không có nhiều dự án đăng ký thêm, nhưng với quy mô vốn
đầu tư trung bình của một dự án khá cao, 144,9 triệu USD/dự án,
nên lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 3. Tổng vốn đầu tư
đăng ký trong lĩnh vực này là 2,75 tỷ USD, chiếm 22,6% tổng vốn
đầu tư đăng ký.
Cũng trong 9 tháng đầu năm 2010, đã có 48 quốc gia và vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Các nhà đầu tư lớn nhất lần
lượt là Hà Lan với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,2 tỷ USD chiếm
18,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ 2 với
trên 2 tỷ USD, chiếm 17%; Hoa Kỳ đứng thứ 3 với tổng vốn đăng
ký 1,87 tỷ USD.
3.3.2 Những tiêu cực khi gia nhập WTO
Gia nhập WTO là một cơ hội cũng là một thách thức lớn đối
với các doanh nghiệp Việt Nam. Sau thời gian gia nhập WTO nền
kinh tế VN đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng chúng ta
cũng phải thừa nhận là các doanh nghiệp VN cũng gặp phải không
ít khó khăn, và vẫn chưa có đủ thế và lực trên trường quốc tế.
Từ những năm trước khi gia nhập WTO chúng ta đã phải đối
mặt với những vụ kiện bán phá giá tiêu biểu như vụ kiện chống
bán phá giá cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ năm 2002 cuối cùng
phải chịu mức thuế suất bán phá giá ca basa từ 36,84 đến 63,88%,
đã gây ra cho người dân nuôi cá không ít lao đao.
Một lần nữa ngành thủy sản của VN lại phải đương đầu với
một vụ kiện bán phá giá đối với mặt hàng tôm đông lạnh khi Liên
minh tôm miền Nam (SSA) đã đệ đơn lên Bộ Thương mại Mỹ
(DOC) và Uỷ ban thương mại Quốc tế (USITC) của nước này để
kiện 6 nước, trong đó có Việt Nam, bán phá giá tôm vào thị trường
Mỹ. Theo phán quyết cuối cùng của đợt xem xét hành chính thuế
chống bán phá giá lần thứ hai đối với tôm nước cấm nhập khẩu từ
Việt Nam trong giai đoạn từ 2006 – 2007 được Bộ Thương mại
Mỹ (DOC) đưa ra, có 4 DN của VN được miễn thuế chống bán phá
giá, 23 doanh nghiệp chịu mức thuế 4,57%, các công ty còn lại
phải chịu mức thuế 25,76%. Phán quyết cuối cùng này của DOC
đã đẩy con tôm Việt Nam vào thế khó khi cạnh tranh với một số
nước đối thủ như Thái Lan, Ấn Độ. Đây là hai nước cũng cũng bị
Hoa Kỳ kiện bán phá giá và còn bị áp thuế cao hơn nước ta nhưng
cuối cùng lại được áp thuế thấp hơn nước ta. Chính điều này đã
gây ra nhiều tranh cãi do đó Việt Nam đã kiện lên WTO nhờ phân
xử.
Năm 2005 xe đạp VN xuất khẩu sang trị trường EU cũng bị
áp thuế chống bán phá giá với mức thuế là 34,5% trong suốt 5
năm, Trong 5 năm áp thuế chống bán phá giá, hàng loạt doanh
nghiệp sản xuất xe đạp đi vào tình trạng phá sản, buộc phải chuyển
đổi lĩnh vực kinh doanh. Cuối cùng đến ngày 15/7 vừa qua thì
cũng được bãi bỏ mức thuế này. Trong năm này VN cũng đứng
trước vụ kiện bán phá giá giày mũ da nhập khẩu vào EU từ Việt
Nam và Trung Quốc EC đã đề xuất các mức thuế sơ bộ đối với VN
là 16,8% và 19,4% với Trung Quốc. Mức thuế này được áp dụng
theo từng giai đoạn trong khoảng thời gian 6 tháng, bắt đầu từ mức
4%. Việc áp dụng mức thuế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới ngành
giày da của VN, đặc biệt là hơn 500.000 lao động và 80% trong số
đó là lao động nữ. Ngoài ra, việc áp dụng mức thuế này cũng gây
ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ở
25 nước thành viên EU.
Sau khi gia nhập WTO chúng ta lại đứng trước những vụ
kiện bán phá giá như vụ kiên bán phá giá cá tra năm 2008. Mỹ
(DOC) thông báo áp mức thuế chống bán phá giá trên 100% đối
với cá tra philê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Cá tra phile
đông lạnh Việt Nam bị áp mức thuế chống bán phá giá trên 100%
khi... review thuế bán phá giá lần này, nhiều doanh nghiệp cá tra
Việt Nam phải đóng đến 4,22 USD cho một kg cá phi lê đông lạnh.
Năm 2009 là năm khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chưa thực sự thoát khỏi khủng
hoảng, bên cạnh sự sụt giảm về số lượng các đơn hàng ở hầu khắp
các thị trường, hàng hóa Việt Nam còn phải đối mặt với một loạt
rào cản không dễ vượt qua mà đáng kể nhất là các biện pháp phòng
vệ thương mại. Trên thực tế, năm 2009 là năm giữ kỷ lục về số
lượng các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối
với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam với 42 vụ kiện.
Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, ngày 31/3/2009,
công ty luật King & Spalding LLP, đại diện cho bên nguyên là hai
công ty Hilex Poly Co., LLC và Super Corporation đã đệ đơn đến
Bộ Thương mại Mỹ và Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ, kiện
chống bán phá giá đối với sản phẩm túi PE đựng hàng hóa bán lẻ
(polyethylene retail carrier bags) nhập khẩu từ Việt Nam, Đài Loan
và Indonesia Nguyên cớ quan trọng nhất dẫn đến bị kiện bán phá
giá là giá xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam rẻ hơn so với giá
bán mặt hàng cùng loại tại quốc gia nhập khẩu. Ông Lâm Viễn
Minh, tổng giám đốc công ty 99 Plastic Packaging (có tên trong 59
doanh nghiệp nhựa Việt Nam bị kiện) thừa nhận, do xuất khẩu khó
khăn, nhiều doanh nghiệp buộc phải hạ giá để có đơn hàng, giữ
công nhân. Ông Minh dẫn chứng, Wal-mart đặt hàng doanh nghiệp
Việt Nam làm khoảng 800 container (mỗi container tương đương
với 20 tấn túi bao bì)/tháng. Wal-mart luôn ép giá thu mua xuống
thấp nhất, nếu doanh nghiệp không bán hàng, họ sẽ đi tìm đối tác
khác. Và giá trung bình mà các doanh nghiệp nhựa Việt Nam xuất
hàng cho Wal-mart rẻ hơn 10% so với giá bán ở thị trường Mỹ.
Trước đó có các vụ: Ấn Độ đã áp thuế chống bán phá giá ở
mức cao nhất với hàng sợi nhập từ Việt Nam, Trung Quốc, Thái
Lan; tổng cục Chống bán phá giá Ấn Độ (DGAD) cũng xác định
các nhà sản xuất của Việt Nam đã bán sản phẩm đèn huỳnh quang
tại thị trường Ấn Độ; hiệp hội Các nhà sản xuất giày Canada khởi
kiện một số doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá mặt hàng đế giày
không thấm nước; hiệp hội Công nghiệp giày Brazil - Abicalcado
yêu cầu tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với một số loại
giày xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam từ cuối tháng 2/2009…
Các vụ kiện này không chỉ tác động đến một vài doanh
nghiệp bị kiện mà có thể ảnh hưởng tiêu cực tới toàn ngành hàng
khi nhiều đối tác nhập khẩu lo ngại, chuyển qua đặt hàng ở các
nước khác.
Mới đây Tổng cục Thu nhập thuộc Bộ Tài chính Ấn Độ đã
ban hành thông tư số 98/2010 - Customs, áp thuế chống bán phá
giá đĩa DVD, mã HS 8523 (Recordable Digital Versatile Disc)
nhập khẩu từ Việt Nam, Thái Lan và Malaysia. Đối với Việt Nam:
Hàng do Cty Ritex Việt Nam (Ritex Co. Ltd.) phải chịu suất thuế
29,75USD cho 1.000 chiếc và có hiệu lực trong vòng 5 năm.
Ông Adam Mc Carty, Viện nghiên cứu kinh tế Mê Kông cho
biết: Khi bị điều tra chống bán phá giá, yếu tố kinh tế thị trường
hay phi thị trường sẽ được xem xét.
Nếu Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường thì trong
các vụ kiện bán phá giá, giá trị tính toán sẽ phụ thuộc vào giá của
một nước thay thế tương tự để xác định, và thuế bán phá giá của
nước nào cao hơn sẽ được áp dụng.
Đây là khiến các doanh nghiệp Việt Nam có thể bị bất lợi. Cụ
thể là trong vụ kiện cá tra, ba sa, mặc dù giá bán trong nước là thấp
hơn giá xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng VN vẫn bị coi là bán
phá giá vì giá bán sang Mỹ rẻ hơn giá thành sản xuất của nước
tham chiếu là Ấn Độ.
Mặc dù WTO có thể phân xử các tranh chấp về bán phá giá
nhưng do WTO không có một định nghĩa rõ ràng rằng nền kinh tế
phi thị trường là gì, không có một phương pháp đo lường. Điều
này khiến cho WTO hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết các
cách tiếp cận tuỳ tiện của các nước khởi kiện.
Trong khi mải miết với cuộc chạy đua xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài thì chúng ta hầu như bỏ quên mất thị trường nội địa.
tạo cơ hội cho hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, không
khẳng định được vị thế chủ nhà của mình. Thiết nghĩ các doanh
nghiệp VN cần có những chiến lược để khai thác tiềm năng của thị
trường trong nước hơn nữa
Mặc dù đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu cả nước, đứng
thứ 4 trong 10 nước sản xuất giày trên thế giới và lượng giày xuất
khẩu đạt kim ngạch hàng năm hơn 4 tỷ USD (dự kiến năm 2010 sẽ
là 6,2 tỷ USD), nhưng Hiệp hội Da giày Việt Nam khẳng định 800
doanh nghiệp ngành da giày với năng lực sản xuất khoảng 780
triệu đôi giày dép/năm chỉ chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, bỏ ngỏ
thị trường trong nước với sức tiêu thụ hơn 85 triệu dân.
Dạo quanh thị trường Hà Nội, tại những trung tâm bán đồ
dùng văn phòng phẩm nổi tiếng như: hiệu sách Tràng Tiền, hiệu
sách Hà Nội, phố Lý Thường Kiệt... thì những đồ dùng văn phòng
phẩm như từ chiếc dập ghim, cặp file, chiếc kẹp phù hiệu... đến
những hộp đựng bút, chặn giấy, bút xoá, bút viết... phần lớn là
hàng nhập khẩu, mà chủ yếu từ Trung Quốc.
Ngay tại cửa hàng trưng bày sản phẩm của Công ty Hồng Hà,
một trong những doanh nghiệp lớn nhất nước ta trong lĩnh vực
hàng văn phòng phẩm, thì bên cạnh những sản phảm mang thương
hiệu Hồng Hà nổi tiếng mấy chục năm nay như: bút Hồng Hà, vở
Hồng Hà... vẫn có rất nhiều sản phẩm ngoại được bày bán như: cặp
file, túi đựng hồ sơ,... thậm chí có cả những sản phẩm nhập khẩu là
đối thủ cạnh tranh với sản phẩm Hồng Hà cũng được bày bán tại
đây.
Ông Thái, chủ cửa hàng ở phố Lý Thường Kiệt cho biết hiện
nay chỉ có khoảng chưa đầy 20% mặt hàng văn phẩm có trên thị
trường là sản phẩm trong nước sản xuất được, còn lại hầu hết là
hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là nhập khẩu từ Trung Quốc.
Một thực trạng đáng buồn nữa chính là VN vẫn chưa làm tốt
được khâu giải quyết vốn đầu tư, sau khi gia nhập WTO chúng ta
đã được đầu tư một lượng lớn nguồn vốn FDI và ODA từ các nước
phát triển đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng cơ sở hạ
tầng, đầu tư vào những dự án lớn nhưng trong khâu quản lý và đầu
tư nguồn vốn chúng ta vẫn chưa thực hiện tốt. để gây ra những tình
trạng thất thoát và chậm trễ trong khâu thi công. Một ví dụ điển
hình nhất là vụ PMU, xây dựng đại lộ Đông Tây tại tpHCM vừa
qua và nhiều vụ việc khác .v.v.
Các doanh nghiệp VN cần phải chú trọng hơn trong việc
nâng cao khả năng cạnh tranh. Sau một thời gian nhất định nữa,
những mặt tích cực và tiêu cực sẽ xuất hiện rõ nét hơn. Nhưng điều
quan trọng mà chúng ta cần lưu ý ở đây là: những tác động tiêu
cực của việc gia nhập WTO thì đã và đang hiện hữu ở ngành này
hay ngành khác, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của nền kinh tế,
còn những tác động tích cực của nó nhiều hay ít là hoàn toàn do ý
chí, quyết tâm của chúng ta quyết định. Việc thành công nhiều hay
ít sau khi nước ta gia nhập WTO phụ thuộc phần lớn vào việc tố
chức triển khai linh hoạt các cam kết.
Chương 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO
4.1 Cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO
4.1.1 Việt Nam được hưởng ngay thành tựu và kết quả
đàm phán của GATT và WTO
4.1.2 Vào WTO mang lại động lực cho cải cách nền kinh
tế Việt Nam.
Thúc đẩy Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật mang tính đầy đủ theo chuẩn mực quốc tế tạo hàng lang pháp
lý cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam đây được coi là
nền tảng cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, tham gia hội nhập
thành công nền kinh tế toàn cầu. Xây dựng môi trường kinh doanh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc các thành phần kinh tế có điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục
và chi phí khi tiếp cận với thị trường thế giới trong hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu. Minh bạch và công khai cơ chế chính sách.
Nổ lực và kiên trì hơn trong chống tham nhũng. Cải cách bộ máy
quản lý nhà nước theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, giảm
thiểu các biện pháp hành chính can thiệp vào hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.Các doanh nghiệp có thể lập kế hoạch đầu tư và
hoạt động thương mại dài hạn hơn. Thay đổi tư duy kinh tế: từ
kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân làm động lực cơ bản cho
phát triện kinh tế;từ kinh tế nhà nước sang kinh tế thị trường
4.1.3 Doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi
hơn để phát triển
Có hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ mang chuẩn mực quốc
tế. Không bị phân biệt đối xử, tất cả các thành phần kinh tế điều
phải hoạt động theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp được tiếp cận
với thị trường trong và ngoài nước. Độc quyền tiếp cận với thị
trường. Có môi trường hành chính đơn giản công khai. Hạ tầng cơ
sở kinh doanh tốt hơn (Nhà nước bỏ hoặc giảm tài trợ trực tiếp và
đầu tư nhiều hơn vào phát triển cơ sở hạ tầng)
4.1.4 Việt Nam thêm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
Môi trường pháp lý Việt Nam mang chuẩn mực quốc tế và
cải cách theo hướng hấp dẫn hơn. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền
đầu tư nhiều hơn vào thị trường tài chính, ngân hàng chứng khoáng
sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhà đầu tư nước ngoài không bị
phân biệt đối xử.Việt Nam cam kết cho nhà đầu tư nước ngoài
được thưởng quy chế tối huệ quốc MFN và chịu sự điều tiết bởi
luật đầu tư, luật kinh doanh, thuế…giống như các doanh nghiệp ở
Việt Nam.
4.1.5 Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp có điều kiện
giảm
Thuế nhập khẩu giảm nên mua nguyên nhiên vật liệu máy
móc sẽ rẻ hơn, giá thành sản phẩm hạ. Cạnh tranh lớn thúc đẩy các
doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc, quản lí tối ưu
chi phí kinh doanh. Chính sách thuế nhập khẩu mới sẽ giúp nền
kinh tế và doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất theo hướng có hiệu quả
hơn,chi phí thủ tục hành chính ít hơn, tham nhũng được kiểm soát
chăt chẽ hơn.
4.1.6 Giảm chi phí vì cơ sở hạ tầng phát triển tốt hơn
Xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn. Sản phẩm do Việt Nam sản xuất
mang tính cạnh tranh về giá hơn (chi phí kinh doanh giảm). Năng
lực cạnh tranh tốt hơn. Hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam khi
thâm nhập vào các nước thành viên khác được đối xử bình đẳng
như hàng hóa dịch vụ ở nước sở tại theo nguyên tắc NT. Việt Nam
được hưởng ngay lập tức và vô điều kiện kết quả thành tựu cắt
giảm thuế đa phương của WTO qua 50 năm nổ lực khi xuất khẩu
sản phẩm và dịch vụ sang các nước thành viên khác. Việt nam
được xếp vào nước có thu nhập bình quân đầu người trên 1000
USD/năm nên khi vào WTO sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ
được hưởng nhiều ưu đãi nhập khẩu, khi thâm nhập vào thị trường
của các nước phát triển. Ngoài ra, Việt Nam còn được phép duy trì
các loại trợ cấp xuất khẩu bị cấm đối đa số các nước thành viên
WTO khác. Gia tăng cơ hội cho ngành hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam là nghành Dệt May vì theo tinh thần hiệp định ATC thì
các hạn ngạch xuất khẩu sẽ được bãi bỏ sau năm 2005. Doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận với thông tin về thị trường nhập khẩu
(WTO yêu cầu mỗi nước thành viên phải công khai minh bạch
chính sách ngoại thương của mình)
4.1.7 Hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn
Do phát triển nhiều nhà cung cấp cho nên sự lựa chọn của
doanh nghiệp và người dân sẽ nhiều hơn, hàng hóa rẽ hơn, dịch vụ
chất lượng hơn, phong phú về mẫu mã hơn.
4.1.8 Doanh nghiệp có điều kiện được bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình tốt hơn trên thị trường trong và ngoài
nước
Giải quyết tranh chấp thương mại với các nước thành viên.
Tác phẩm, sáng chế, thương hiệu kiểu dáng của sản phẩm Việt
Nam được thừa nhận và bảo vệ trên thị trường, quyền sở hữu trí
tuệ được tôn trọng và bảo vệ
4.1.9 Đời sống nhân dân được cải thiện
Nhiều cơ hội việc làm thu nhập gia tăng: Các bằng cấp giáo
dục đào tạo do Việt Nam cấp được thừa nhận ở các nước thành
viên nên lực lượng lao động ở Việt Nam có điều kiện thuận lợi tiếp
cận với thị trường lao động quốc tế. Nhiều hàng hóa và dịch vụ
hơn, giá cả cạnh tranh giúp người lao động thỏa mãn tốt hơn, sử
dụng sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Có điều kiện học tập, chữa
bệnh, du lịch tốt hơn, tiếp cận vời thông tin phương tiện giải trí
nhiều hơn. Có điều kiện phát huy nội lực của mỗi cá nhân nhiều
hơn.
4.1.10 Gia nhập WTO: Hòa nhập chứ không hòa tan
Có tính đến trình độ và điều kiện phát triển không đồng đều
của các nước thành viên để ứng xử phù hợp với tình hình kinh tế
mỗi nước, kéo dài lộ trình giảm thuế, cho các nước đang phát triển,
đã giúp Việt Nam có thời gian chuẩn bị ứng phó nhằm khắc phục
sự hòa tan hay thôn tính trong thực hiện tự do hóa thương mại khi
mà thế và lực của chúng ta chưa hội đủ năng lực cạnh tranh sòng
phẳng
4.2. Thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO
4.2.1 Sự lệ thuộc của kinh tế Việt Nam vào tiến trình toàn
cầu hoá gia tăng
Xây dựng hệ thống luật lệ kinh doanh, thương mại phải tuân
thủ theo chuẩn mực của WTO. Chính sách thương mại kinh tế chịu
sự giám sát của WTO. Sự biến động về chính trị, xã hội, kinh tế
của khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến nền kinh tế Việt
Nam và doanh nghiệp trong nước
4.2.2 Sự cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn
Vào WTO bắt buộc Việt Nam phải mở cửa thị trường bằng
cách giảm thuế hoặc bãi bỏ hàng rào thuế quan, trao quy chế tối
huệ quốc cho các nước thành viên khi họ đưa hàng hoá dịch vụ của
mình vào Việt nam kinh doanh vì vậy háng hoá và dịch vụ ở Việt
nam phải trực diện đối đầu với cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu và
các loại dịch vụ do nước ngoài cung cấp. Một số doanh nghiệp nhà
nước sẽ mất đi đặc quyền đặc lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện
mất đi sự bảo hộ ưu đãi nhà nước với các nhà kinh doanh hàng đầu
Thế Giới. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp
nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với nhà đầu tư nước ngoài khi
được hưởng quyền lợi tương tự
4.2.3 Môi trường kinh doanh phức tạp hơn
Doanh nghiệp phải nắm rõ luật lệ kinh doanh trong nước và quốc
tế. Phải nắm thông tin về hội nhập về kinh tế toàn cầu về đối thủ
cạnh ranh trong nước và nước ngoài
4.2.4 Rào cản xuất khẩu tinh vi hơn phức tạp hơn
Rào cản kỹ thuật, quy cách mẫu mã, về an toàn vệ sinh thực
phẩm, về môi trường…Các biện pháp chống bán phá giá, các tài
trợ của nước nhập khẩu
4.2.5 Nhiều chi phí kinh doanh sẽ tăng lên
Chi phí cho việc sát lập quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng thương
hiệu…Chi phí cho đầu tư xây dựng về tiêu chuẩn giá trị chất
lượng: ISO-9000, SA-8000,… Chi phí cho thu hút đào tạo nguồn
nhân lực. Chi phí cho tiếp thị quảng cáo, duy trì và phát triển thị
phần
4.2.6 Việt nam đứng trước những thay đổi lớn về mặt tài
chính - tiền tệ
Kiểm soát và khảo sát giá cả, chống bán phá giá, thực hiện
lộ trình giảm thuế, xoá bỏ trợ cấp giá nông sản, vấn đề về tỷ gia
hối đối, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74231634-60869099-Viet-Nam-Gia-Nhap-Wto-Nhung-Thuan-Loi-Kho-Khan.pdf