Luận văn dài 98 trang, được thể hiện dưới dạng WORD nên các bạn dễ chỉnh sửa, chúc các bạn học tốt
I. Đặt vấn đề:
Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương nói chung và Toà án nhân dân tối cao nói riêng cũng đã ban hành một số Thông tư liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
II. Thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự
1. Thẩm quyền của Tòa án
Cũng có một số quan điểm khác nhau về thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự. Có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự không phải là một công tác chủ yếu của Toà án mà đó chỉ là những việc liên quan đến Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là việc chung của nhiều cơ quan tư pháp chứ không phải của riêng Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là một trong những công tác chủ yếu của Toà án. Thực tế thì các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cũng không phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng "chủ trì" trong thi hành án, do đó mỗi quan điểm trên đều đưa ra những lập luận riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Xét về góc độ thực tiễn thì hiện nay một bản án, quyết định về hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành, nhất là trong trường hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại hình phạt được áp dụng hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ sung.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong công tác thi hành án mà không đi sâu về việc phân tích xem các quan điểm nào về việc "chủ trì" thi hành án hình sự là của cơ quan tư pháp nào.
Theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây xin viết tắt là BLHS và BLTTHS) thì Toà án có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là:
- Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án hình sự.
- Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
- Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp hành hình phạt tù;
- Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo;
- Quyết định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích;
- Theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án hoặc theo dõi việc thi hành án của những người bị kết án mà Toà án đã giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án làm việc.
- Xem xét việc miễn, giảm thi hành án đói với khoản tiền phạt, án phí;
- Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình;
- Tham gia giúp Hội đồng đặc xá trung ương thực hiện việc đặc xá.
Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án, quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành được thực hiện nghiêm chỉnh.
2. Thời hiệu thi hành bản án
III. Một số vấn đề về công tác thi hành án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án
1. Ra quyết định thi hành án hình sự
2. Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù
2.1. Về Điều 261 của BLTTHS: "Hoãn chấp hành hình phạt tù"
a. Thẩm quyền và thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù
b. Thủ tục để hoãn chấp hành hình phạt tù: Viện kiểm sát và cơ quan Công an cùng cấp có văn bản đề nghị hoặc người bị kết án có đơn xin hoãn chấp hành
c. Các căn cứ và thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù:
d. Thời hạn ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù
đ. Về việc tiếp tục ra quyết định thi hành án khi sắp hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù (khoản 2 Điều 261 BLTTHS).
e. Một số vướng mắc trong hoãn chấp hành hình phạt tù
2.2. Về Điều 262 BLTTHS "Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù"
a. Thẩm quyền và thủ tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
b. Thủ tục để tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
c. Các căn cứ tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
d. Thời hạn ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
đ. Thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
2. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
e. Về việc dùng thuật ngữ trong tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
g. Về một số vướng mắc trong tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
3. Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp hành hình phạt.
a. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là việc Toà án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào những quy định tại Điều 58 BLHS, Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của TANDTC tại Mục IV Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007 ngày 2/10/2007 để quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người bị kết án.
a.1. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù
Cần chú ý: - Thời gian sớm hơn tức là người bị kết án đã chấp hành được một phần tư mức hình phạt đã tuyên hoặc mười năm đối với tù chung thân.
5. Quyết định miễn chấp hành hình phạt
6. Miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ
6.1. Giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ
6.2. Miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ
7. Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí
7.1. Một số vấn đề chung
7.2. Nguyên tắc xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí
7.3. Các trường hợp được giảm thi hành án
7.4. Các trường hợp được miễn thi hành án khoản tiền phạt, án phí
7.5. Thủ tục xét miễn, giảm thi hành án
a. Hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án bao gồm:
b. Lập hồ sơ đề nghị xét miễn giảm thi hành án
c. Thẩm quyền đề nghị miễn, giảm thi hành án và thẩm quyền của Toà án trong việc xét miễn, giảm thi hành án.
d. Kháng nghị quyết định của Toà án về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước (tiền phạt, án phí).
8. Rút ngắn thời gian thử thách của án treo
9. Thi hành một số các hình phạt khác
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Tước một số quyền công dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
- Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
10. Xoá án tích
10.1. Đương nhiên xoá án tích
10.2. Xoá án tích do Toà án quyết định
11. Thi hành hình phạt tử hình
IV. Một số kiến nghị
1. Về hướng dẫn, áp dụng pháp luật
2. Về công tác quản lý nhà nước và tổ chức thi hành án dân sự
3. Về nhận thức
4. Về thi hành án tử hình
5. Về thi hành án phạt tù
6. Về xoá án tích
7. Về xét miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù
8. Về việc thi hành một số hình phạt như hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo
9. Việc thi hành các hình phạt bổ sung
10. Đối với công tác thi hành án hình sự của các Toà án
91 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3589 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề Lý luận, thực tiễn và phương hướng khắc phục về thi hành án hình sự của Tòa án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười phải thi hành án có đủ điều kiện để họ làm đơn xin miễn, giảm thi hành án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn xin miễn giảm thi hành án, chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải kiểm tra và tiến hành xác minh điều kiện về tài sản của người phải thi hành án.
Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà phải thi hành án khoản tiền phạt, án phí, thì ngoài biên bản xác minh về điều kiện thi hành án nơi người đó cư trú hoặc làm việc, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự gửi phiếu đề nghị Giám thị trại giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù xác nhận những vấn đề sau: lập công lớn khi chấp hành hình phạt tù, bị bệnh nặng, tài sản mà họ gửi ở bộ phận lưu ký của Trại giam (nếu có).
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phiếu yêu cầu, Giám thị trại giam phải kiểm tra, xác nhận và chuyển kết quả cho cơ quan Thi hành án dân sự đã có yêu cầu.
- Căn cứ kết quả xác minh, Chấp hành viên báo cáo Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét việc, miễn giảm thi hành án. Biên bản xác minh điều kiện thi hành án được thực hiện trong thời hạn không quá ba tháng trước khi đề nghị xét miễn, giảm.
Trường hợp không đủ điều kiện để xét miễn, giảm thi hành án, thì trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải có văn bản trả lời, nêu rõ lý do của việc không đề nghị cho người phải thi hành án biết.
Trường hợp xét thấy người phải thi hành án có đủ điều kiện đề nghị xét miễn, giảm thi hành án nhưng không xác định được nơi cư trú của người đó hoặc người phải thi hành án là người nước ngoài không có tài sản và không còn cư trú tại Việt Nam, thì cơ quan Thi hành án dân sự có văn bản đề nghị miễn, giảm thi hành án kèm theo hồ sơ đối với trường hợp.
- Vào tuần đầu tiên của tháng giêng (tháng 1), tháng tư, tháng bảy và tháng mười hàng năm, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chuyển hồ sơ đề nghị miễn, giảm thi hành án cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo văn bản đề nghị Toà án xét miễn, giảm thi hành án. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Viện kiểm sát phải xem xét và chuyển hồ sơ cho Toà án cùng cấp kèm theo văn bản nêu rõ ý kiến của Viện kiểm sát về hồ sơ xin miễn giảm thi hành án và thông báo cho cơ quan Thi hành án dân sự biết.
Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự giải thích những điểm chưa rõ hoặc bổ sung những tài liệu, giấy tờ cần thiết. Trường hợp có căn cứ là người phải thi hành án có điều kiện được xét miễn, giảm thi hành án mà cơ quan thi hành án không lập hồ sơ, Viện kiểm sát chó quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự phải lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm thi hành án cho người đó.
- Người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có quyền khiếu nại việc Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên lập hồ sơ không đúng hoặc không lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm tiền phạt, án phí, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc giải quyết khiếu nại đối với cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Chương VI Luật thi hành án dân sự.
c. Thẩm quyền đề nghị miễn, giảm thi hành án và thẩm quyền của Toà án trong việc xét miễn, giảm thi hành án.
Thẩm quyền của Toà án
Theo quy định tại Điều 63 Luật thi hành án dân sự thì:
"Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) nơ cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở.
+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Toà án phải thụ lý hồ sơ.
+ Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phải mở phiên họp xét miễn, giảm án phí, tiền phạt (nghĩa vụ thi hành án).
+ Phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan Thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm.
Khi tiến hành xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đại diện cơ quan Thi hành án trình bày tóm tắt hồ sơ đề nghị miễn, giảm; đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về hồ sơ miễn, giảm. Trên cơ sở xem xét ý kiến của cơ quan Thi hành án, của Viện kiểm sát và căn cứ vào hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm, Thẩm phán ra quyết định chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án (tiền phạt, án phí).
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án (án phí, tiền phạt), Toà án phải gửi quyết định cho người được xét miễn, giảm thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Trại giam, Trại tạm giam nơi người được xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí đang chấp hành hình phạt tù.
- Thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm tiền phạt, án phí
Theo Điều 62 Luật thi hành án dân sự thì "Cơ quan thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án…".
Luật không quy định rõ Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan cấp nào, nhưng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 17/6/2005 thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc trực tiếp đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án. Trường hợp vụ việc do Thi hành án cấp tỉnh thụ lý thi hành thì uỷ thác cho Thi hành án cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc lập hồ sơ đề nghị, thực hiện việc đề nghị và thông báo cho đương sự (người được xét miễn, giảm thi hành án) biết. Nếu cơ quan thi hành án cấp tỉnh đã tiến hành xác minh điều kiện miễn, giảm thì phải gửi các tài liệu này kèm theo hồ sơ cùng quyết định uỷ thác cho Thi hành án cấp huyện.
d. Kháng nghị quyết định của Toà án về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước (tiền phạt, án phí).
- Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định.
- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát, Toà án phải chuyển hồ sơ và văn bản kháng nghị đến Toà án cấp trên trực tiếp.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng nghị, Toà án cấp trên trực tiếp phải mở phiên họp để xét kháng nghị. Phiên họp này do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp cần thiết Toà án yêu cầu đại diện cơ quan Thi hành án dân sự đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm cùng tham dự. Thẩm phán chủ trì phiên họp ra quyết định giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát. Quyết định này có hiệu lực thi hành.
Trường hợp Viện kiểm sát rút kháng nghị trước hoặc trong phiên họp xét kháng nghị thì Toà ra ra quyết định đình chỉ việc xét kháng nghị và quyết định xét miễn, giảm tiền phạt, án phí của Toà án cấp dưới có hiệu lực thi hành.
- Trường hợp sau khi đã có quyết định cho miễn, giảm tiền phạt, án phí (quyết định đã có hiệu lực pháp luật) mà phát hiện được người phải thi hành án đã cất giấu, tẩu tán tài sản, xin được miễn, giảm, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, thì cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát có thẩm quyền đã đề nghị Toà án xét miễn, giảm có trách nhiệm đề nghị Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
8. Rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Án treo không phải là một loại hình phạt riêng quy định trong Bộ luật hình sự mà là một chế định miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn, có điều kiện. Do vậy, khi quyết định hình phạt, Toà án phải xác định mức hình phạt tù đó, tức là Toà án phải căn cứ vào các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự, các hướng dẫn của TANDTC để xem xét bị cáo có đủ các điều kiện để có thể cho bị cáo được hưởng án treo hay không.
- Các điều kiện cần và đủ để cho bị cáo hưởng án treo gồm:
+ Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt đó là tội gì;
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần (trong một vụ án) về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt tù chung không quá ba năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo.
+ Có nhân thân tốt, được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, cụ thể;
+ Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;
+ Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm;
+ Đối với người bị xử phạt tù đã bị tạm giam, thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự "Án treo" thì khi cho người bị phạt tù hưởng án treo, trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Cách tính thời gian thử thách của án treo đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 'Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt" và tại mục 1 Công văn số 99-TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 của TANDTC "về việc thi hành một số quy định của các văn bản quy phạm pháp luật".
Khi cho bị cáo hưởng án treo, căn cứ vào quy định nêu trên, các Toà án ấn định thời gian thử thách của bị cáo.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 60 Bộ luật hình sự thì:
"Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể rút ngắn thời gian thử thách".
- Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo (sau đây gọi tắt là Nghị định 61/CP) thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục nói trong Nghị định này là:
1. Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người được hưởng án treo, nếu người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo;
2. Đơn vị quân tội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người được hưởng án treo là quân nhân, công nhân quốc phòng;
3. Doanh nghiệp, hợp tác xã, nếu người được hưởng án treo là người lao động làm công ăn lương;
4. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo cư trú, nếu người được hưởng án treo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Những cơ quan, tổ chức trong Điều 3 Nghị định 61/CP là những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo và Toà án phải căn cứ vào người được hưởng án treo thuộc đối tượng nào của Điều 3 Nghị định 61/CP và hướng dẫn tại tiểu mục 6.6 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC để quyết định trong bản án về việc giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục họ trong thời gian thử thách.
- Hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 61/CP thì "Khi đề nghị Toà án rút ngắn thời gian thử thách quy định tại điểm g khoản 1 của Điều này, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo phải gửi kèm hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách.
Hồ sơ đề nghị gồm có:
a. Bản đề nghị của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục về việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo;
b. Sổ theo dõi người được hưởng án treo;
c. Quyết định của Toà án về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và trích lục bản án;
d. Đơn xin rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo (nếu họ có đề nghị);
đ. Bản tự kiểm điểm của người được hưởng án treo;
e. Biên bản cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo.
Chú ý: Nghị định 61/CP đánh máy nhầm là điểm e, khoản 1 Điều này, thực chất là phải căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều này mới đúng vì điểm g khoản 1 Điều 7 Nghị định 61/CP quy định "Tự mình hoặc theo đề nghị của người được hưởng án treo, đề nghị Toà án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo đang chịu thử thách xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách, khi người đó chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ". Còn điểm e khoản 1 Điều 7 Nghị định 61/CP quy định "Cho phép người được hưởng án treo được vắng mặt tại nơi cư trú", quy định này không liên quan đến việc rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo.
- Trình tự, thủ tục tiến hành, thời hạn xét rút ngắn thời gian thử thách, ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách, gửi quyết định, kháng nghị quyết định, phúc thẩm quyết định… được thực hiện như đối với việc xét miễn, giảm hình phạt tù, hình phạt cải tạo không giam giữ.
- Thẩm quyền quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo thuộc Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo đang chấp hành hình phạt, chịu thử thách.
- Mức rút ngắn thời gian thử thách
+ Mỗi lần người được hưởng án treo có thể được Toà án quyết định rút ngắn thời gian thử thách từ ba tháng đến một năm.
+ Người được hưởng án treo có thể được Toà án rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư. Có nghĩa là mức rút ngắn thời gian thử thách dù nhiều lần cũng chỉ được một phần tư thời gian thử thách. Ví dụ người được hưởng án treo phải chịu thời gian thử thách là 4 năm thì họ phải đảm bảo thời gian đã chấp hành là 3 năm. Thời gian được rút ngắn thử thách cao nhất chỉ là một năm.
+ Người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện: đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; thành thực hối cải, tích cực lao động, học tập; được cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương có trách nhiệm giám sát, giáo dục đề nghị bằng văn bản rút ngắn thời gian thử thách, thì Toà án có thể quyết định miễn chấp hành thời gian thử thách còn lại.
Các mẫu "Quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo" (mẫu 3i) và mẫu "Quyết định không chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án treo" (mẫu 3m) để được TANDTC ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007.
9. Thi hành một số các hình phạt khác
Ngoài các hình phạt chính, Toà án còn áp dụng các hình phạt bổ sung nếu như điều luật có quy định và xét thấy cần thiết phải áp dụng đối với bịcáo. Các hình phạt bổ sung bao gồm:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Tước một số quyền công dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
- Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Theo quy định tại Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan công an thi hành hình phạt trục xuất (không phân biệt đó là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung); Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án thi hành hình phạt quản chế, cấm cư trú, trước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản; việc thi hành bản án và quyết định của Toà án quân sự do các tổ chưc trong quân đội đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
Vì đây là những hình phạt bổ sung được quyết định trong bản án nên khi quyết định thi hành án thì cũng có nghĩa là thi hành các quyết định của bản án, trong đó có cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Vấn đề đặt ra là trong hệ thống biểu mẫu của TANDTC ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 có một số mẫu Quyết định thi hành hình phạt cấm cư trú (mẫu số 5), Quyết định thi hành án hình phạt quản chế (mẫu số 6) và nếu đã có các mẫu thi hành án các hình phạt bổ sung thì cũng có thể phải ban hành các mẫu quyết định thi hành án các hình phạt bổ sung thì cũng có thể phải ban hành các mẫu quyết định thi hành án các hình phạt bổ sung khác còn chưa ban hành. Như vậy, khi có hình phạt bổ sung được quyết định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật, được đưa ra thi hành án thì Toà án phải ban hành tới hai hoặc nhiều quyết định (nếu như Toà án áp dụng nhiều hình phạt bổ sung). Theo chúng tôi, hướng dẫn này không phù hợp và gây cồng kềnh trong thi hành án. Nên chăng, các hình phạt bổ sung cũng được đưa vào trong quyết định thi hành án và nếu thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thi hành án nào thì cơ quan, tổ chức thi hành án đó thi hành theo phần trách nhiệm đã được Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Trong thực tiễn thì một bản án hình sự có thể có tới năm cơ quan thi hành, Toà án chỉ ra quyết định thi hành về phần hình sự, còn những phần dân sự trong vụ án hình sự, hình phạt tịch thu tài sản lại do cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành.
Từ những vướng mắc này, chúng tôi cũng đề nghị TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành các hình phạt bổ sung để Toà án và các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương nơi người bị kết án có căn cứ thi hành đúng đắn quyết định của Toà án, đồng thời cũng tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong giám sát, giáo dục, quản lý những người bị Toà án áp dụng hình phạt bổ sung.
10. Xoá án tích
Xoá án tích là một chế định được quy định tại Chương IX Bộ luật hình sự và Chương XXIX Bộ luật tố tụng hình sự. Theo các quy định của hai Bộ luật này thì có hai hình thức xoá án tích, đó là "Đương nhiên được xoá án tích" và "xoá án tích theo quyết định của Toà án".
Xoá án tích là việc xoá đi vết tích phạm tội của người bị kết án, làm cho người đó được coi như chưa bị kết án, họ có quyền được ghi trong lý lịch của mình chưa có tiền án sau khi đã được Toà án cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích.
10.1. Đương nhiên xoá án tích
Đương nhiên xoá án tích được áp dụng đối với những trường hợp quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự, đó là:
- Người được miễn hình phạt;
- Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia" và Chương XXIV "Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh" của Bộ luật hình sự, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau:
+ Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo;
+ Ba năm trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm;
+ Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm.
+ Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.
Một số vấn đề cần chú ý:
- Chấp hành xong bản án tức là người bị kết án đã tự mình chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trường hợp các quyết định của bản án hình sự về tài sản, án phí, tiền phạt… đã có người thân của người bị kết án nộp thay hoặc người có trách nhiệm liên đới bồi thường đã thực hiện bồi thường đầy đủ toàn bộ theo quyết định của bản án thì cũng được coi là người bị kết án đã chấp hành xong.
+ Người bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo đã chấp hành xong thời gian thử thách và chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án (tiền bồi thường, tiền phạt, án phí… nếu có).
- Thời hiệu thi hành bản án
Khi xem xét thời hiệu thi hành bản án đã hết hay chưa để xem xét việc xoá án tích, thì cần phải căn cứ vào Điều 55 Bộ luật hình sự. Đặc biệt cần chú ý là thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với trường hợp áp dụng hình phạt tiền trước đây chưa được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985, do đó được thi hành theo Pháp lệnh thi hành án dân sự. Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung tại điểm a, khoản 2 Điều 55 và theo quy định này thì thời hiệu thi hành án đối với hình phạt trên là năm năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Đối với các quyết định khác về tài sản trong bản án hình sự (tiền bồi thường thiệt hại; trả lại tài sản; tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến thiệt hại; tịch thu tài sản; án phí…) thì vẫn thi hành theo các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự.
Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã quy định cụ thể về thời hiệu thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Tuy nhiên để xác định thời hiệu thi hành án đối với các quyết định về tài sản trong bản án hình sự còn hay hết thì cần phân biệt:
+ Đã hết thời hiệu thi hành án đối với các quyết định về tài sản trong bản án hình sự khi hết thời hạn quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự mà không có trở ngại khách quan, nhưng người được thi hành án không có đơn gửi cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành án hoặc trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành án, nhưng không ra quyết định này. (thời hạn là năm đối với các trường hợp phải yêu cầu thi hành án.
+ Nếu trong thời hạn quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành án đã có đơn gửi cơ quan thi hành án yêu cầu thi hành án hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã chủ động ra quyết định thi hành án, thì chỉ khi nào người bị kết án thi hành xong các quyết định về tài sản hoặc có quyết định đình chỉ thi hành án thì mới được coi là đã chấp hành xong các quyết định của Toà án về tài sản trong bản án hình sự.
- Thủ tục đương nhiên xoá án tích được thực hiện theo Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 01/8/1986 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an); Thông tư liên ngành số 03/89 ngày 15/7/1989 của liên ngành tư pháp trung ương.
10.2. Xoá án tích do Toà án quyết định
Xoá án tích do Toà án quyết định là việc trên cơ sở xem xét những điều kiện được quy định tại Điều 65 và Điều 66 Bộ luật hình sự, ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, đơn của người bị kết án, nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc, Toà án ra quyết định về việc xoá án tích.
- Các điều kiện để xoá án tích do Toà án quyết định:
+ Những người đã bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia (chương XI Bộ luật hình sự) và các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (chương XXIV Bộ luật hình sự). Khi quyết định xoá án tích đối với những người bị kết án về những tội phạm này, Toà án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân dân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của họ trong các trường hợp sau:
a. Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
b. Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
Như vậy, xoá án tích do Toà án quyết định được pháp luật giới hạn trong phạm vi đối với những người bị kết án theo Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật hình sự.
- Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 66 Bộ luật hình sự).
Để được xoá án tích trong trường hợp đặc biệt, người bị kết án phải có đủ các điều kiện: có những tiến bộ rõ rệt; đã lập công; được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị; đã đủ một phần ba thời hạn quy định tại Điều 64, Điều 65 Bộ luật hình sự, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
+ Có những tiến bộ rõ rệt là sau khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người bị kết án đã hoà nhập vào cộng đồng, tham gia làm ăn lương thiện, chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước…
+ Đã lập công là có thành tích xuất sắc trong cuộc sống, trong sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì bao gồm cả lập công và lập công lớn. Người bị kết án lập công lớn thì càng đáng được khoan hồng và xem xét khi xoá án tích cho họ.
- Cách tính thời hạn để xoá án tích (Điều 67 Bộ luật hình sự).
Khi áp dụng khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự thì cần chú ý là thời hạn để xoá án tích được căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên mà không căn cứ vào hình phạt bổ sung; thời hạn này bắt đầu được tính kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án, chứ không phải là tính từ ngày chấp hành xong hình phạt chính. (xem ví dụ tại mục 11 Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000).
+ Theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự thì "Người bị Toà án bác đơn xin xoá án tich lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xoá án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải hai năm mới được xin xoá án tích".
- Thủ tục xoá án tích do Toà án quyết định:
Người bị kết án phải có đơn gửi cho Toà án đã xét xử sơ thẩm; kèm theo giấy xác nhận được trả tự do sau khi đã chấp hành xong hình phạt tù của Trại giam nơi họ chấp hành hình phạt tù; Giấy chứng nhận của Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc cơ quan, tổ chức về việc người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt không phải là tù giam; quyết định của Toà án giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù… Nếu người bị kết án bị Toà án áp dụng các hình phạt bổ sung thì phải có giấy chứng nhận của cơ quan, tổ chức, chính quyền có trách nhiệm giám sát, giáo dục về việc họ đã chấp hành xong các hình phạt bổ sung đó; nếu bản án có quyết định về phần tài sản, các quyết định khác về án phí, tiền phạt… thì người bị kết án cũng phải nộp các giấy tờ chứng minh họ đã chấp hành xong các quyết định đó của bản án.
Sau khi đã nhận đơn xin xoá án tích và các tài liệu cần thiết kèm theo đơn, Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm kiểm tra các điều kiện để được xoá án tích. Nếu thấy cần thiết phải xác minh tính đúng đắn của các tài liệu do người bị kết án nộp thì Toà án áp dụng các biện pháp để xác minh, làm rõ. Khi đã xác định hồ sơ xin xoá án tích đã đầy đủ các điều kiện, Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu và phát biểu ý kiến bằng văn bản. Trong thời hạn mười ngày, kể từ nhận được hồ sơ xin xoá án tích do Toà án chuyển đến, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải có ý kiến bằng văn bản gửi kèm với hồ sơ xoá án tích cho Toà án.
Toà án có quyền quyết định chấp nhận hoặc bác đơn xin xoá án tích của người bị kết án mà không lệ thuộc vào ý kiến đồng ý hay không đồng ý của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
Quyết định xoá án tích phải được gửi cho người bị kết án có đơn xin án tích, Viện kiểm sát cùng cấp, Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người có đơn xin xoá án tích thường trú.
Trong trường hợp bác đơn xin xoá án tích thì trong quyết định, Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải nêu rõ lý do không chấp nhận xoá án tích.
Quyết định xoá án tích có thể bị kháng nghị theo trình tự phúc thẩm hoặc trình tự giám đốc thẩm (nếu quyết định đã có hiệu lực pháp luật). Việc giải quyết kháng nghị quyết định của Toà án được thực hiện theo thủ tục chung.
Như vậy, các chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo không giam giữ, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, rút ngắn thời gian thử thách của án treo, xoá án tích, các quy định về thời hiệu thi hành bản án… được quy định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự là sự thể hiện sâu sắc nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật. Sau khi bị kết án, người bị kết án vẫn có thể được hưởng các quyền, các chính sách nhân đạo mà từ đó họ có thể yên tâm cải tạo, tích cực trong cuộc sống để sớm được hoà nhập cộng đồng. Do vậy, các chế định này còn có ý nghĩa giáo dục, cảm hoá rất lớn, rất có hiệu quả và thể hiện rõ quan điểm, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là trừng trị đi đôi với giáo dục và lấy giáo dục làm chính.
11. Thi hành hình phạt tử hình
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này không được áp dụng đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang có con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Nếu người bị kết án tử hình được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.
Như vậy, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, tước đi quyền được sống của người phạm tội. Vì vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tử hình đều phải hết sức thận trọng, không được phép sai sót. Chính vì vậy pháp luật quy định rất chặt chẽ các trình tự đặc biệt về hình phạt tử hình. Bộ luật tố tụng hình sự quy định thành một chương (chương XXVI Thi hành hình phạt tử hình). Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng dành mục II trong Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 để hướng dẫn áp dụng thống nhất Chương XXVI-BLTTHS "Thi hành hình phạt tử hình". Hướng dẫn của TANDTC rất cụ thể, rõ ràng về việc kháng cáo, kháng nghị hoặc xem xét đơn xin ân giảm v.v… (xem tiểu mục 1.1 điểm 1 Mục II Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán TANDTC số 02/2007).
Bản án tử hình chỉ được thi hành khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định không kháng nghị của Chánh án TANDTC và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC.
b. Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm để nhận được quyết định không kháng nghị của Chánh án TANDTC, quyết định không kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC và bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình (do TANDTC gửi đến).
c. Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình.
d. Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án tử hình và bản sao Quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình (do TANDTC gửi đến).
Việc thi hành hình phạt tử hình phải được thực hiện theo đúng "Quy trình thi hành án tử hình" được ban hành kèm theo Quyết định số 810/2006/QĐ-BCA-C11 ngày 04/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Công an.
Trường hợp một người bị kết án tử hình mà lại bị xét xử về một hoặc nhiều tội phạm mới (tội phạm mới này được hiểu là có thể thực hiện trước hoặc sau khi đã bị kết án tử hình), nhưng tội mới này không bị xử phạt tới mức tử hình, cho dù khi tổng hợp hình phạt chung của các bản án vẫn là tử hình, thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm về tội phạm mà họ bị kết án tử hình ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình.
- Trường hợp một người bị kết án tử hình nhiều lần theo nhiều bản án của các Toà án đã xử sơ thẩm khác nhau (cũng có thể là nhiều bản án tử hình của cùng một Toà án), thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm vụ án sau cùng ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình.
- Chú ý: Các tình tiết đặc biệt xảy ra khi thi hành hình phạt tử hình phải là những thông tin, tình tiết do người bị kết án tử hình hoặc người khác khai báo, cung cấp hoặc do Hội đồng thi hành án biết được từ những nguồn tin khác; các thông tin, tình tiết này phải có căn cứ và nó có thể làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án, để khởi tố vụ án mới, người phạm tội mới (ví dụ: người bị thi hành hình phạt tử hình khai ra các tình tiết mới của vụ án, khai ra người phạm tội mới…), nếu thi hành án với họ thì có thể sẽ rất khó khăn trong việc điều tra, mở rộng vụ án, khó khăn trong việc xử lý đối với các loại tội phạm khác…
Những trường hợp này, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án TANDTC.
IV. Một số kiến nghị
1. Về hướng dẫn, áp dụng pháp luật
Luật thi hành án dân sự đã được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 14/11/2008. Theo đó, một số quy định trước đây của Pháp lệnh thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung, thế nhưng một số văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh này vẫn không được sửa đổi cho phù hợp với Luật mới. Ví dụ như Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán TANDTC số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm "Thi hành bản án và quyết định của Toà án" của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt; Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 17/6/2005 của TANDTC, VKSNDTC, BTP, BCA, BTC hướng dẫn việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí. Một số viện dẫn trong các văn bản hướng dẫn này vẫn dựa trên quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự mà theo Luật thi hành án dân sự thì đã có thay đổi.
Ví dụ như hướng dẫn về việc người phải thi hành án phải làm đơn xin miễn, giảm thi hành án tiền phạt, án phí. (tiểu mục 1.1 điểm 1 mục II Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 17/6/2005 của Liên ngành Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Tài chính). Hướng dẫn này không còn phù hợp với quy định tại Điều 62 Luật thi hành án dân sự "Hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước".
Ngay trong thuật ngữ "khoản tiền phạt, án phí" với "nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước" cũng đã có sự khác nhau. Theo chúng tôi khái niệm "khoản thu nộp ngân sách nhà nước" rộng hơn so với khái niệm "tiền phạt, án phí" bởi khoản thu nộp ngân sách nhà nước không chỉ có tiền phạt, án phí mà còn có thể có cả các khoản tiền khác mà người bị kết án phải có nghĩa vụ nộp vào ngân sách nhà nước. Ví dụ như tiền thu lợi bất chính, các khoản tiền, tài sản mà Toà án tuyên tịch thu xung công quỹ nhà nước… Vấn đề này cũng cần được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể bằng Thông tư liên tịch, hay nói cách khác, cần có sửa đổi, bổ sung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 17/6/2005 hoặc ban hành một Thông tư liên tịch mới để hướng dẫn áp dụng một số điều của Luật thi hành án dân sự.
2. Về công tác quản lý nhà nước và tổ chức thi hành án dân sự
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc tổ chức thi hành án dân sự được giao cho nhiều cơ quan thi hành. Như vậy một bản án, quyết định hình sự có thể có nhiều cơ quan thi hành, mỗi cơ quan được giao trách nhiệm thi hành mọto phần trong quyết định của bản án. Điều này đã làm cho công tác thi hành án hình sự bị cắt khúc, gián đoạn, công tác quản lý nhà nước không chặt chẽ. Ví dụ Toà án thì ra các quyết định, cơ quan công an thi hành phần hình phạt tù, tử hình; Uỷ ban nhân dân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục đối với người bị kết án không phải là phạt tù giam; cơ quan tư pháp thi hành phần dân sự…
Ngay trong một cơ quan thì việc thi hành án hình sự cũng được giao cho nhiều bộ phận khác nhau. Ví dụ Bộ Công an giao cho lực lượng cảnh sách Bảo vệ và Hỗ trợ tư pháp thi hành hình phạt tử hình, V26 (trại giam) thi hành hình phạt tù; Cục quản lý xuất nhập cảng thi hành hình phạt trục xuất…
Việc giao cho quá nhiều cơ quan thi hành một bản án, quyết định hình sự, rõ ràng đây là một bất cập của pháp luật và cần phải nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Theo chúng tôi, cần ban hành Luật thi hành án hình sự, trong đó xác định rõ cơ quan chủ trì, các cơ quan có trách nhiệm phối hợp trong việc tổ chức thi hành án hình sự.
3. Về nhận thức
Theo chúng tôi thi hành án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự (tố tụng hình sự được hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm tất cả các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự). Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng tại Toà án, thi hành án hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Tất nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử, ra bản án, quyết định đều có giai đoạn thi hành án vì có một số trường hợp Toà án không phải ra quyết định thi hành án như trường hợp tuyên không có tội, miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, phạt tiền (là hình phạt chính)… xét xử và Thi hành án hình sự chỉ là hai mặt thống nhất khi mà bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phải ra quyết định thi hành.
Thi hành án hình sự được quy định tại phần thứ năm, chương XXV của Bộ luật tố tụng hình sự. Các điều luật trong chương này quy định rất rõ về trình tự, thủ tục thi hành án…., đó cũng chính là tố tụng trong thi hành án hình sự. Mọi vi phạm tố tụng này đều bị kháng nghị bởi Viện kiểm sát hoặc giải quyết theo quy định tại chương XXXV Bộ luật tố tụng hình sự "Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự". Về vấn đề này cũng có những quan điểm khác như không coi thi hành án hình sự là một giai đoạn tố tụng mà thi hành án hình sự chỉ là một quá trình thực thi các phán quyết của Toà án và đó không phải là một quá trình tố tụng hình sự; cũng có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự mang nặng màu sắc của hành chính tư pháp vì hầu hết quá trình thi hành án này chủ yếu do các cơ quan hành chính (cơ quan Công an, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức…) thực hiện.
Sự chưa thống nhất trong nhận thức về thi hành án hình sự cũng là một trở ngại đáng kể trong việc xây dựng, củng cố, bố trí tổ chức, xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong công tác thi hành án và cao hơn là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về thi hành án hình sự.
4. Về thi hành án tử hình
Cần nghiên cứu và quy định phương pháp thi hành án tử hình thay cho phương pháp bắn bằng súng hiện nay. Cũng có thể quy định "mở" về phương pháp, hình thức thi hành án tử hình, tức là đa dạng về hình thức chứ không chỉ quy định cứng nhắc một hình thức; có các quy định về việc cho phép thân nhân người bị thi hành án tử hình nhận xác về mai táng; cho phép người bị thi hành án tử hình được quyền hiến một phần hoặc toàn bộ cơ thể cho y học hoặc vì nhân đạo xã hội.
Hiện nay, việc người bị kết án tử hình phải chờ đợi thi hành án quá lâu trong xà lim của trại giam vừa gây nhiều khó khăn cho trại giam, vừa gây tâm nặng nề cho người bị kết án. Nhiều trường hợp kéo dài năm bảy năm, thậm chí hàng chục năm nhưng không thi hành án. Có nhiều lý do về việc chậm trễ này mà hầu hết đều không phải do người bị thi hành án tử hình gây ra. Trong trường hợp này nên chăng, pháp luật cũng có quy định về thời hạn thi hành án tử hình, nếu quá thời hạn đó mà các cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án tử hình thì không thi hành án tử hình mà chuyển xuống tù chung thân. Chúng tôi nghĩ rằng nếu Nhà nước nghiên cứu, chấp nhận đề xuất này thì sẽ có những tác dụng nhất định:
- Một là: Khi quy định thời hạn thì buộc các cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm túc thực hiện. Nếu không thực hiện được thì phải tự chịu trách nhiệm (tương tự như thời hiệu thi hành bản án, thời hiệu chấp hành hình phạt tù…).
- Hai là: Thời hạn (thời gian) quá lâu không thi hành án tử hình cũng làm cho tính thời sự của vụ án hạn chế, tác dụng cũng hạn chế. Chẳng hạn một vụ án xét xử đã 10 năm rồi mới thi hành án tử hình thì dự luận xã hội, thậm chí những người tiến hành tố tụng cũng không còn nhớ được nội dung vụ án.
- Ba là: Xét về góc độ nhân đạo thì một người bị thi hành án tử hình, phải biệt giam trong nhiều năm, chờ ngày thi hành án quá dài, họ nuôi hy vọng được sống, dù hy vọng đó là nhỏ nhoi, mong manh, nhưng được họ trân trọng. Pháp luật có nên nhân đạo với họ không?
Ngoài ra, còn một số vướng mắc cần được hướng dẫn cụ thể như thủ tục tố tụng đối với những trường hợp người bị kết án tử hình chết trước khi thi hành án; chết trước khi nhận được quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC (đối với người bị kết án tử hình không viết đơn xin ân giảm); chết trước khi nhận được quyết định ân giảm hoặc quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ tịch nước; việc thi hành án tử hình đối với trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà Hội đồng Thẩm phán TANDTC không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án tử hình và người bị kết án tử hình không viết đơn xin ân giảm.
5. Về thi hành án phạt tù
- Cần có văn bản hướng dẫn về thủ tục giải quyết đối với các trường hợp người bị kết án chết trước khi có quyết định thi hành án, đã có quyết định thi hành án, chết trong thời gian chấp hành hình phạt, trong thời gian hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù. Hiện nay pháp luật không quy định cơ quan nào ra quyết định giải quyết. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại điểm 8.4 mục 8 Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT ngày 18/5/2006 của TANDTC, VKSNTC, BCA, BQP, BYT hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng thì "Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù vì người bị kết án đã chết". Theo chúng tôi, hướng dẫn này cũng chưa sát vì Luật không có điều nào quy định về việc này nên không thể lấy quy định của Luật về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để hướng dẫn về đình chỉ chấp hành án phạt tù. Mặt khác, đây cũng chỉ là hướng dẫn đối với trường hợp người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng, còn các trường hợp khác (lý do tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù khác) thì cũng chưa có hướng dẫn.
Trong thực tiễn, khi gặp phải các trường hợp người bị kết án chết trước, trong, sau khi có quyết định thi hành án, tạm đình chỉ, hoãn chấp hành hình phạt, các Toà án không ra quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà mặc nhiên coi như đã thi hành án xong (để treo). Hiện nay, TANDTC cũng chưa có hướng dẫn hoặc ban hành mẫu về đình chỉ chấp hành án phạt tù. Đây là một trong vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự, cần được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, đặc biệt cần phải bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự quy định về đình chỉ chấp hành án phạt tù.
- Cần có hướng dẫn cụ thể trong việc xác định "Sức khoẻ đã phục hồi" để Toà án có căn cứ quyết định có ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ hay không.
- Một số vướng mắc khác về hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, chúng tôi đã nêu tại mục 3 "Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù".
6. Về xoá án tích
Nhìn chung, thủ tục xoá án tích còn nhiều rườm rà. Người xin được xoá án tích hay đương nhiên được xoá án tích phải thực hiện quá nhiều thủ tục phức tạp. Mặt khác việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chế định này của pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Không phải tất cả những người đã bị kết án hoặc thân nhân của họ đều biết về chế định này. Chính vì vậy, hàng năm mặc dù số người có đủ điều kiện để được xoá án tích là rất nhiều nhưng Toà án cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích không đáng kể. Từ thực trạng này, chúng tôi kiến nghị:
- Các cơ quan Toà án, thi hành án dân sự cần tạo các điều kiện thuận lợi để cung cấp cho người xin xoá án tích các tài liệu liên quan.
- Giảm bớt các thủ tục giấy tờ khi cấp giấy chứng nhận hoặc quyết định xoá án tích.
- Tuyên truyền rộng rãi chế định này; Tại trụ sở các Toà án cần phải công khai các mẫu, hướng dẫn các trình tự, thủ tục, các điều kiện được xoá án tích.
- Xoá án tích là một chế định xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN, do vậy trách nhiệm trước hết thuộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo chúng tôi, tương tự như quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước, nên chăng không nên yêu cầu (quy định) người có đủ điều kiện xoá án tích phải làm đơn xin Toà án chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích mà Toà án phải tự lập hồ sơ, tự xác minh và cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích.
7. Về xét miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù
Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì mức được xét giảm từ 03 tháng đến 03 năm cho mỗi lần được xét giảm. Hội đồng xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù quyết định, căn cứ vào hồ sơ đề nghị của Ban giám thị Trại giam (Trại tạm giam) và ý kiến của Viện kiểm sát.
Để việc xét miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù chính xác, đúng đắn, công bằng và khuyến khích người phải chấp hành hình phạt tù tích cực cải tạo, tốt, khá, trung bình, yếu kém. Theo phân loại này thì chỉ xét giảm cho những người được xếp loại tốt và khá. Trong đó cũng cần quy định cụ thể như người cải tạo khá có thể được giảm từ 03 tháng đến 18 tháng; người cải tạo tốt có thể được xét giảm từ trên 18 tháng đến 36 tháng.
8. Về việc thi hành một số hình phạt như hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo…
Tuy đã có những hướng dẫn của Chính phủ tại các Nghị định 60, 61/CP nhưng trong thực tiễn cũng còn nhiều bất cập trong việc phối hợp quản lý, giám sát, giáo dục. TANDTC cũng chưa ban hành sổ theo dõi việc chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, chính quyền địa phương cũng chưa quản lý được các đối tượng này trên địa bàn, đặc biệt khi họ thay đổi nơi cư trú, ở vùng sâu, vùng xa, thay đổi nơi làm việc, học tập… Một số mẫu về Quyết định miễn, giảm, không chấp nhận miễn, giảm hình phạt cải tạo không giam giữ cũng chưa được TANDTC ban hành.
Hình phạt cải tạo không giam giữ nếu bị khấu trừ thu nhập cũng khó có điều kiện để thi hành quyết định của Toà án. Một phần vì thu nhập của nhiều trường hợp không ổn định và họ cũng không cư trú cố định, ổn định ở một nơi. Trong thực tiễn, hình phạt cải tạo không giam giữ ít được Toà án áp dụng và hiệu quả thi hành án hình phạt này không cao.
9. Việc thi hành các hình phạt bổ sung
Các hình phạt bổ sung mà Toà án thường áp dụng như phạt tiền, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định, tước một số quyền công dân. Nhìn chung, các hình phạt bổ sung này được thi hành tương đối tốt và do chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức nơi người phải chấp hành hình phạt thực hiện.
Đối với một số hình phạt bổ sung như Cấm cư trú và trục xuất (là hình phạt bổ sung) thường ít được áp dụng hơn.
Hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính và do nhiều cơ quan thi hành. Thông thường hình phạt bổ sung thường được thi hành sau khi đã chấp hành xong hình phạt chính. Ví dụ quản chế, cấm cư trú được thực hiện (thi hành) sau khi chấp hành xong hình phạt chính (thường là phạt tù), tước một số quyền công dân thường áp dụng đối với các bị cáo bị xử phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia nên cũng thường được thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt chính. Tuy nhiên cũng có những trường hợp hình phạt chính và hình phạt bổ sung cùng được thi hành. Ví dụ một người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo về một tội nào đó nhưng họ bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định thì hai hình phạt này cũng được thi hành.
Vướng mắc trong việc có ra quyết định thi hành hình phạt bổ sung hay không, chúng tôi đã nêu tại mục 2 "Quyết định thi hành án" và mục 9 "Thi hành các hình phạt khác".
Tóm lại: Thi hành án các hình phạt bổ sung cũng còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể. Hiện nay hình phạt bổ sung cũng giao cho nhiều cơ quan, tổ chức thi hành nên cũng tương tự như thi hành án đối với các hình phạt chính khác, không tránh khỏi những bất cập và hiệu quả của các hình phạt bổ sung chưa được như mong muốn.
10. Đối với công tác thi hành án hình sự của các Toà án
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Toà án phải chịu trách nhiệm với rất nhiều công việc về thi hành án hình sự. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy để thực hiện nhiệm vụ này từ lâu rồi không được củng cố, hoàn thiện. Ngay ở TANDTC cũng không phân công, bố trí một bộ phận, đơn vị nào đảm nhiệm công tác này. Các Toà án địa phương cũng không có bộ phận, đơn vị chuyên trách về thi hành án hình sự.
Cán bộ làm công tác thi hành án hình sự đều là kiêm nhiệm, không có chuyên sâu, không được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên và thường không ổn định. Trong khi đó, khối lượng công việc rất lớn vì hầu hết các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật đều phải ra quyết định thi hành. Một người bị kết án có thể phải ra rất nhiều quyết định: Quyết định thi hành án phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù, xoá án tích… Hàng năm, Toà án nhân dân tỉnh phải xem xét để giảm án, tha tù cho hàng ngàn bị cáo, tức là phải nghiên cứu hàng ngàn hồ sơ đề nghị miễn, giảm; phải xem xét hàng trăm hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách… Thế nhưng thực trạng về tổ chức, cán bộ nêu trên làm cho các Toà án địa phương rất vất vả, phải điều động cán bộ, Thẩm phán để tập trung giải quyết.
Mặt khác, cơ cấu tổ chức bộ máy, lực lượng cán bộ không chuyên cũng làm cho sự chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng pháp luật về thi hành án hình sự cũng còn quá nhiều hạn chế, bất cập.
Tự thực trạng trên, chúng tôi kiến nghị TANDTC cần củng cố lại tổ chức cả về bộ máy và cả về cán bộ làm công tác thi hành án hình sự. Bên cạnh đó, cần tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật, có ý kiến đề nghị Quốc hội giải thích pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật không còn phù hợp thực tiễn hoặc bổ sung một số quy định chưa có trong pháp luật về thi hành án hình sự.
Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi xung quanh các vấn đề mà chúng tôi đã nêu ra trong bài viết này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề Lý luận, thực tiễn và phương hướng khắc phục về thi hành án hình sự của Tòa án.docx