Nuôi sinh khối artemiatrên bể lót bạt với mật độ cao

Nuôi ở ba mật độ khác nhau thì sự khác biệt có ý nghĩa về tăng trưởng và trọng lượng nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ sống và năng suất sinh khối. Mật độ 1.000 cá thể/L có tỷ lệ sống và năng suất sinh khối (2.226±262 g/1,8 m3) cao hơn mật độ 1.500 cá thể/L (2.010±149 g/1,8 m3) và 2.000 cá thể/L (1.917±145 g/1,8 m3).

pdf57 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2809 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nuôi sinh khối artemiatrên bể lót bạt với mật độ cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn bột mì tinh, vì thế nghiệm thức cho ăn bằng cám ủ men có tăng trưởng nhanh hơn. Do đó chọn cám ủ là thức ăn cho Artemia để nuôi sinh khối trên bể. ● Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí trong bể lót bạt xanh, mực nước ban đầu 40 cm, từ ngày thứ 4 về sau mực nước được nâng lên 45 cm, nauplii Artemia được bố trí với 3 nghiệm thức (NT) tương ứng với 3 mật độ và 3 lần lặp lại/ NT. NT1: 1000 nauplii/L NT2: 1500 nauplii/L NT3: 2000 nauplii/L Hình 3.3 : Bể thí nghiệm nuôi Artemia sinh khối ● Chăm sóc và quản lý Theo Nguyễn Văn Hòa (2007), theo dõi thường xuyên ao nuôi là hoạt động cần thiết giúp cho việc quản lý và điều chỉnh ao kịp thời. Do đó, trong thời gian thí nghiệm theo dõi các chỉ tiêu sau: Bảng 3.1: Theo dõi một số yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm Yếu tố Chỉ tiêu Số lần theo dõi Lý học Độ mặn Nhiệt độ pH Độ trong Ôxy 1 lần/ngày 2 lần/ngày 2 lần/ngày 2 lần/ngày 1 lần/ngày Hóa học NH3 NO2- 4 ngày/lần Hàng ngày, theo dõi biến động của các yếu tố môi trường, thường xuyên ghi nhận tình trạng sức khỏe của Artemia thông qua tập tính bơi lội, lượng thức ăn trong cơ thể và các biểu hiện khác. Thức ăn và cho ăn: thức ăn tảo và cám ủ cho ăn 3-4 lần/ngày tùy thuộc vào tốc độ lọc và độ trong của bể, thường duy trì độ trong 30-40 cm. Cám ủ được hòa chung với nước và được lọc qua túi 50 µm trước khi được tạt vào bể, tảo được cấp từ ao bón phân vào bể bằng máy bơm chìm qua lưới lọc 100 µm (lưới 50 µm làm nước khó lọt qua lưới). Thay nước: định kỳ thay nước khi bể có nhiều phân, chất thải của Artemia, nước được thay vào ngày thứ 4 sau khi nuôi và thay 20-30% nước vào mỗi ngày sau đó. Sục khí: được lắp đặt từ đáy bể để quá trình di chuyển của khí sẽ giúp cho thức ăn không bị lắng tụ xuống đáy, hiệu quả lọc của Artemia trong quá trình bơi lội cũng tốt hơn. ●Thu thập số liệu Tỷ lệ sống:được xác định 3 lần trong quá trình nuôi vào ngày thứ 5, 9 và 14 sau khi bố trí. Cách thu mẫu: thu ngẫu nhiên nhiều điểm trong bể vào xô 10 L, sục khí cho Artemia phân bố đều trong xô và lấy 1 L ra đếm và ghi nhận số cá thể có trong một lít, mỗi bể thu 3 mẫu và tỷ lệ sống của mỗi bể được lấy trung bình từ 3 lần thu mẫu trên. Tăng trưởng: chiều dài và trọng lượng được xác định vào ngày thứ 5, 9 và 14 sau khi bố trí. + Xác định chiều dài: thu ngẫu nhiên trong bể, cố định bằng Formol sau đó đo 30 cá thể dưới kính hiển vi (đo từ dỉnh đầu đến chạt đuôi). + Xác định trọng lượng: cân 1g Artemia, cố định bằng Lugol sau đó đếm số cá thể hiện diện trong 1 g. 3.2.6 Thu hoạch Sau 14 ngày nuôi thì tiến hành thu hoạch Artemia trong bể. Cách thu hoạch: tắt sục khí dùng lưới 1 mm thu hoạch sinh khối, tháo cạn 50% nước trong bể và dùng vợt thu sinh khối còn lại, sau đó đem cân. Hình 3.4: Thu hoạch sinh khối Artemia 3.3 Phương pháp tính toán một số chỉ tiêu - Tỷ lệ sống (%): SR SR = Do Dt *100 Do: số cá thể ban đầu Dt : số cá thể cuối - Chiều dài (mm) L = 10 1 x  A L: chiều dài A: số vạch đo được  : độ phóng đại của kính 3.4 Phương pháp phân tích mẫu và xử lý số liệu ● Phân tích mẫu - NO2- : bộ test SERA kết hợp với so màu quang phổ ở bước sóng 520 nm. - NH3 : bộ test SERA kết hợp với so màu quang phổ ở bước sóng 640 nm. ● Xử lý số liệu: số liệu được xử lý với bảng tính Exel và chương trình STATISTICA 5.0 với ANOVA một nhân tố và phép thử Turkey HSD để so sánh độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở mức p<0,05. Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 4.1 Thí nghiệm 1 4.1.1 Điều kiện môi trường Nhiệt độ Trong thời gian làm thí nghiệm, nhiệt độ trong phòng được ghi nhận là dao động trong mức 28-30oC. Kết quả này phù hợp với Lê Lệ Hiền (2000) khi nuôi Artemia sinh khối trong bể bố trí trong phòng thì nhiệt độ nằm trong khoảng 28oC-30oC và đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của Artemia. pH Sau 14 ngày nuôi, sự biến động pH giữa các nghiệm thức như sau: 7.6 7.8 8 8.2 8.4 8.6 5 8 11 14 Ngày pH ĐNR ĐNT CG CU MT Hình 4.1: Sự biến động pH trong quá trình nuôi Qua Hình 4.1 cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa pH của các nghiệm thức, thức ăn mì tinh có pH trung bình cao nhất, dao động từ 8,15-8,55, thức ăn cám ủ có pH giảm dần vào cuối thời gian nuôi (7,78±0,06), so với kết quả của Lê Hồng Nghi (2009) khi nuôi sinh khối trong phòng sau thời gian 14 ngày thì pH giảm còn 7,1 vì theo quan sát thì bể nuôi của Lê Hồng Nghi có thể tích lớn và lượng thức ăn dư thừa quá nhiều trong khi đó thí nghiệm được bố trí trong chai có thể tích nhỏ, vẫn có thức ăn thừa nhưng ít hơn, vì thế pH có giảm nhưng vẫn cao hơn thí nghiệm của Lê Hồng Nghi. Ammonia (NH3) và nitrite (NO2-) Theo Trương Quốc Phú (2006), NH3 trong các thủy vực được cung cấp từ quá trình phân hủy bình thường các protein, xác bã động thực vật phù du, sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón vô cơ, hữu cơ, nitrite trong các thủy vực được tạo thành từ quá trình oxi hóa ammonia (NH3) và ammonium (NH4+). Trong thời gian thí nghiệm, sự biến động hàm lượng NH3 và NO2- được ghi nhận như sau: 0 0.1 0.2 0.3 0.4 5 8 11 14 Ngày N H 3 (m g/ l) ĐNR ĐNT CG CU MT Hình 4.2a: Biến động hàm lượng NH3 (mg/L) trong thời gian thí nghiệm 0.000 0.100 0.200 0.300 0.400 0.500 0.600 5 8 11 14 Ngày N O 2 (m g/ l) ĐNR ĐNT CG CU MT Hình 4.2b: Biến động hàm lượng NO2- (mg/L) trong thời gian thí nghiệm Từ kết quả trên cho thấy hàm lượng NH3 giảm dần theo thời gian nuôi và dao động trong khoảng 0-0,38 mg/L. Hàm lượng nitrite có xu hướng tăng cao ở tất cả các nghiệm thức từ ngày 8 đến cuối thí nghiệm và biến động ở mức 0,01-0,5 mg/L. Từ Hình 4.2a và 4.2b cho thấy sự biến động giữa hai yếu tố này trái ngược nhau, như nhận định của Trương Quốc Phú (2006), nitrie có trong môi trường nước là sản phẩm của sự chuyển hóa ammonia (NH3) và ammonium (NH4+) dưới tác dụng của vi khuẩn. Do nước không được thay từ ngày 8 đến kết thúc thí nghiệm, cùng với sự tích tụ của thức ăn thừa, chất thải do Artemia thải ra và có thể đã xảy ra quá trình trên. Do đó, hàm lượng NH3 có xu hướng giảm trong khi đó NO2- lại tăng cao vào cuối thí nghiệm. Tuy nhiên sự biến động của hai yếu tố vẫn nằm trong khoảng thích hợp và không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của Artemia. 4.2.2 Tỷ lệ sống và chiều dài của Artemia Qua thời gian thí nghiệm nuôi Artemia với các loại thức ăn khác nhau thu được kết quả sau: Bảng 4.1: Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 8, 11, và 14 ngày nuôi (TB±ĐLC) Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Từ kết quả Bảng 4.1 cho thấy đối với 5 loại thức ăn khác nhau thì tỷ lệ sống của Artemia ở các nghiệm thức sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05) khi so sánh giữa các trung bình mẫu. Tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức mì tinh (53,3±15,3%), và thấp nhất là đậu nành rang (3,0±0,7%), riêng nghiệm thức đậu nành tươi thì Artemia chết toàn bộ sau 5 ngày nuôi. Đối với thức ăn là cám gạo và cám ủ thì tỷ lệ sống tương đương nhau, tỷ lệ sống trung bình cám gạo là 41,3±5,4% và cám ủ là 46,6±9,3% và sai khác không có ý nghĩa thống kê với mì tinh. Xét về chiều dài của Artemia qua 7 và 14 ngày nuôi được trình bày ở Bảng 4.2. Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 8 Ngày 11 Ngày 14 ĐNR 100 3,5±3,5a 2,7±2,8a 2,0±1,8a ĐNT 100 0a 0a 0a CG 100 45,8±8,4b 43,0±6,3b 41,3±5,4b CU 100 52,3±11,6b 48,2±10,9b 46,6±9,3b MT 100 57,3±13,6b 55,7±14,2b 53,3±15,3b Bảng 4.2: Chiều dài của Artemia (mm) sau 7 và 14 ngày nuôi (TB±ĐLC) Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Trung bình chiều dài thân của Artemia có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p<0,05), kết quả cho thấy khi cho ăn cám ủ thì Artemia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (8,32±0,1 mm), kế đến là cám gạo (7,80±0,03 mm), mì tinh (5,52±0,47 mm) và tăng trưởng chậm nhất là đậu nành rang (2,20±0,2 mm). Đối với thức ăn cám gạo, kết quả chiều dài thân cao hơn kết quả của Nguyễn Thị Nhật Thu (1985) khi nuôi Artemia ở mật độ 1.000 cá thể/L với thức ăn là cám gạo thì trung bình chiều dài thân sau 7 ngày nuôi là 2,1 mm trong khi đó chiều dài Artemia ở thí nghiệm này vào ngày thứ 7 là 3,91 mm. Ở nghiệm thức đậu nành rang thì Artemia tăng trưởng chậm và sau 14 ngày nuôi chỉ đạt 2,20±0,2 mm. 4.2 Thí nghiệm 2 42.1 Điều kiện môi trường Nhiệt độ Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv (2007), nhiệt độ có ảnh hưởng rất nhiều đến sinh trưởng cũng như sinh sản của Artemia và chúng có thể phát triển tốt ở nhiệt độ 22-350C. Artemia được nuôi ở ruộng muối Vĩnh Châu và Bạc Liêu có thể tồn tại ở nhiệt độ 38-41oC. Theo Nguyễn Thị Phỉ và Nguyễn Thị Hồng Vân (1989) cho rằng nhiệt độ thích hợp cho Artemia franciscana Vĩnh Châu là 30-35oC, ngoài điều kiện tự nhiên thì mức nhiệt độ này có thể thay đổi tăng hơn nữa do nauplii thích nghi nhiệt độ từ nhỏ. Ở 38oC Artemia vẫn sống và sinh sản nhưng sinh sản không tốt. Ở 40oC, hầu như đều bị chết sau 3 ngày đối với con cái và 4,5 ngày đối với con đực (Nguyễn Thị Phỉ và Nguyễn Thị Hồng Vân, 1989). Trong thí nghiệm 2, với hình thức nuôi ngoài trời thì nhiệt độ biến động trong các bể lúc 7 giờ và 14 giờ được trình bày ở Hình 4.3: Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 7 Ngày 14 ĐNR 0,5 1,90±0,01a 2,20±0,2a CG 0,5 3,91±0,04ab 7,8±0,03ab CU 0,5 4,61±0,06ab 8,32±0,1ab MT 0,5 2,96±0,06b 5,52±0,47b 28.0 30.0 32.0 34.0 36.0 0 5 10 15 Ngày N h iệ t đ ộ sáng chiều Hình 4.3: Nhiệt độ trung bình lúc 7 giờ và 14 giờ trong thí nghiệm Kết quả cho thấy, trong thí nghiệm 2, do tác động của mưa nhiều làm cho nhiệt độ giữa sáng và chiều chênh lệch không nhiều. Nhiệt độ trung bình lúc 7 giờ là 28,1-29,4oC, trung bình lúc 14 giờ là 30,7-35,5oC. Bể lót bạt với thể tích nhỏ (4 m2), mực nước trong bể 45 cm, giúp cho bể có khả năng giữ nhiệt lâu hơn, mặc dù một vài ngày ít nắng nhưng nhiệt độ trung bình giữa sáng và chiều cũng biến động ở mức tương đương nhau. Kết quả này cũng tương đương với kết quả thí nghiệm của Lê Trung Tâm (2008) khi nuôi trong ao đầu mùa mưa ở độ sâu 44-46 cm, cũng đã ghi nhận nhiệt độ dao động từ 26,7-28,2oC vào 7 giờ và 30,1-32,9oC lúc 14 giờ. Nhìn chung, sự biến động nhiệt độ lúc 7 giờ và 14 giờ nằm trong khoảng thích hợp và ảnh hưởng không nhiều đến sự phát triển của quần thể và năng suất sinh khối trong bể. Bảng 4.3: Một số yếu tố môi trường trong bể nuôi (TB±ĐLC) Yếu tố môi trường NT1 NT2 NT3 Độ mặn 46,2±6,8 46,9±6,9 46,9±7,0 Độ trong 38,8±2,14 38,5±2,11 38,7±2,07 Oxy 3,71±0,49 3,63±0,47 3,74±0,50 Độ mặn Artemia là loài rộng muối, xuất hiện trong những thủy vực có nồng độ muối 0-250 ppt, phát triển tốt ở nồng độ muối 65-150‰ ‰. Ở độ mặn trên 250‰ Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt ngưỡng chịu đựng, Artemia franciscana Vĩnh Châu trong quá trình du nhập đã được thuần hóa theo điều kiện Việt Nam và có thể phát triển tốt ở độ mặn 80-120‰ (Nguyễn Văn Hòa et al, 2007). Nồng độ muối ban đầu là 57‰, được sử dụng để nuôi sinh khối trên bể, trong suốt quá trình nuôi do mưa nhiều cùng với việc cấp nước từ ao bón phân vào bể nuôi mỗi ngày đã làm độ mặn giảm xuống còn 39-40‰ vào cuối thí nghiệm, độ mặn trung bình của các nghiệm thức trong suốt quá trình thí nghiệm là 46,7±6,9‰. Độ mặn 40-45‰ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của Artemia, ở độ mặn 30%0 chúng tăng trưởng nhanh về chiều dài nhưng nước dễ bị nhiễm bẩn (Hồ Thị Nho, 1990). Còn theo tác giả Lê Lệ Hiền (2000), nuôi sinh khối trong bể ở các độ mặn 10, 15, 20, 25, 30, 35‰ , kết quả cho thấy rằng ở nồng độ muối 30‰ và 35‰ Artemia có tốc độ tăng trưởng cao ở các loại thức ăn. Và theo kết quả thí nghiệm gần đây của Phan Thị Mỹ Tho (2009) cho rằng khi nuôi Artemia ở nồng độ muối thấp (50‰) thì Artemia có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Vì vậy, nhìn chung sự biến động nồng độ muối vẫn thích hợp cho sự phát triển của Artemia. Độ trong Ở sông, độ đục của nước là do sự có mặt của các chất không hòa tan như phù sa (kích thước khoảng 2-50 µm), các chất keo (kích thước nhỏ hơn 2 µm) có nguồn gốc vô cơ và hữu cơ. Ở ao, ngoài các nguyên nhân trên gây ra độ đục còn do vật chất hữu cơ từ phân bón, thức ăn, sự phát triển của tảo (Trương Quốc Phú et al., 2006). Đối với việc sử dụng cám gạo làm thức ăn cho Artemia khi nuôi trên bể tuần hoàn thì Trần Thị Thanh Hiền (2000) cho rằng nên cho ăn đều đều sao cho giữ được độ trong 15-20 cm trong tuần đầu và 20-25 cm trong các tuần tiếp theo. Tuy nhiên theo thực tế, trong điều kiện nuôi trên bể và không hút cặn thì độ trong này thích hợp đối với sử dụng tảo, nếu cho ăn cám ủ men sẽ gây ô nhiễm nguồn nước nuôi làm ảnh hưởng đến Artemia. Theo Mason (1962); Dhont và Lavens (1996) trích dẫn bởi Huỳnh Thanh Tới (2006) thì nuôi Artemia sinh khối cho kết quả tốt nhất chỉ khi liều lượng thức ăn vừa đủ, nếu dư thừa sẽ ảnh hưởng không tốt đến tỷ lệ sống của Artemia do thức ăn làm cản trở hoạt động bơi lội, tiêu hóa của Artemia mà còn có tác dụng xấu đến môi trường nuôi. Do đó, trong thời gian thí nghiệm chỉ cần cho ăn ở mức độ đảm bảo cho Artemia sống và phát triển tốt với độ trong là 35-40 cm để hạn chế sự tích tụ của thức ăn dư thừa ảnh hưởng đến môi trường bể nuôi. Theo Nguyễn Văn Hòa (2007), thức ăn tốt nhất cho Artemia là vi tảo thông qua việc cấp “nước xanh” từ ao bón phân, lượng tảo trong ao nuôi được ước lượng thông qua độ trong (được đo bằng đĩa secchi). Trong ao nuôi độ trong dao động từ 25-35 cm là tốt. Vì thế, từ ngày thứ 4 cấp tảo từ ao bón phân vào bể nuôi với độ trong 30-40 cm. Trong quá trình thí nghiệm thì độ trong trung bình các bể được ghi nhận 38,6±2,11cm. Trong bể nuôi, thì độ trong không hẳn hoàn toàn đánh giá lượng thức ăn trong bể vì khi bể được sục khí liên tục thì ngoài thức ăn (cám, tảo) mà Artemia có thể sử dụng được thì các chất hữu cơ, tảo có kích thước lớn (do được lọc qua lưới 100 µm) mà Artemia không sử dụng được hay phân của Artemia cũng ảnh hưởng đến độ trong. Do đó, ngoài việc cung cấp thức ăn thông qua độ trong thì kết hợp với quan sát ống tiêu hóa của Artemia (đường ruột màu xanh , xám và liên tục, không đứt đoạn là đầy đủ thức ăn). Hàm lượng Oxy hòa tan Theo Persoon và Sorgeloos (1980) Artemia có phạm vi thích ứng Oxy rộng, có thể sống ở môi trường có hàm lượng oxy hòa tan thấp (1 mg/L) đến mức oxy quá bảo hòa (ở môi trường có tảo rộ phát). Khi nuôi trên bể, oxy thấp 0,81 mg/l thì Artemia chết hàng loạt (Nguyễn Thị Nhật Thu, 1985). Hàm lượng oxy trong suốt quá trình thí nghiệm được ghi nhận ở mức 3,0-4,5 mg/L, hàm lượng oxy trung bình của các nghiệm thức là 3,69±0,48 mg/L. Nguyễn Văn Hòa (2007) cho rằng hàm lượng oxy hòa tan ≤2 mg/L sẽ ảnh hưởng đến sản xuất sinh khối, mức oxy thích hợp cho ao nuôi Artemia là cao hơn 2,5 mg/L. Như vậy, nhìn chung hàm lượng oxy hòa tan trong các bể dao động trong khoảng 3,63±0,47 mg/L đến 3,74±0,50 mg/L thuận lợi cho sự phát triển của Artemia. pH pH là một trong những nhân tố môi trường quan trọng có ảnh hưởng lớn đến đời sống thủy sinh vật như sinh trưởng, tỷ lệ sống, sinh sản và dinh dưỡng, pH thích hợp cho thủy sinh vật là 6,5-9 (Trương Quốc Phú et al., 2006). Theo Nguyễn Văn Hòa et al (2007), Artemia Vĩnh Châu hiện tại phát triển tốt trong điều kiện pH từ 7,0-9,0. Thực tế, sự biến động pH trong quá trình thí nghiệm của các bể được trình bày ở Hình 4.4 7.0 7.2 7.4 7.6 7.8 8.0 0 2 4 6 8 10 12 14 Ngày pH SÁNG CHIỀU Hình 4.4: Sự biến động pH trung bình sáng và chiều của các bể nuôi thí nghiệm Kết quả cho thấy pH trung bình vào lúc 7 giờ biến động trong khoảng 7,1-7,6. Trong khi đó pH trung bình vào lúc 14 giờ cao hơn và biến động trong khoảng 7,2-7,8. pH trung bình vào buổi sáng có chiều hướng giảm dần vào cuối thí nghiệm, có thể do ảnh hưởng của cám ủ, thức ăn dư thừa làm ảnh hưởng tới pH. Nhìn chung có sự chênh lệch giữa buổi sáng và chiều nhưng không lớn, từ ngày thứ 4 về sau, do bể nuôi được thay nước và cấp nước từ ao bón phân mỗi ngày nên pH có cao hơn nhờ sự quang hợp của tảo nên pH có tăng so với buổi sáng. Ammonia (NH3) NH3 trong thủy vực được cung cấp từ các quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ có chứa Nitơ (protein, xác động vật,…) nhờ các vi khuẩn hiếu khí, NH3 (dạng tự do) hòa tan trong nước tạo thành NH4+ (dạng ion). Amonia ở dạng tự do rất độc đối với tôm, cá (Trương Quốc Phú et al., 2006), trong môi trường nước luôn có sự chuyển hóa giữa ammonium và ammonia, tỷ lệ giữa hay chất này phụ thuộc vào sự biến động của pH , độ mặn và nhiệt độ trong môi trường nước. 0.000 0.005 0.010 0.015 0.020 0.025 0.030 1 5 9 13 Ngày N H 3 (m g/ l) NT1 NT2 NT3 Hình 4.5: Biến động NH3 (mg/l) theo thời gian nuôi Trong hệ thống sản xuất trứng bào xác Artemia Vĩnh Châu năm 1986 và năm 1987 hàm lượng NH3 nằm trong khoảng 0,01-0,04 mg/L (Nguyễn Văn Hòa et al, 2007). Theo Trương Quốc Phú (2006) thì hàm lượng NH3 an toàn cho ao nuôi là 0,13 mg/L. Kết quả ở Hình 4.5 cho thấy hàm lượng NH3 biến động có chiều hướng giảm dần vào cuối thí nghiệm. Lý do là trong những ngày đầu cho ăn cám ủ và không thay nước nên hàm lượng NH3 cao hơn, từ ngày thứ 4 về sau nước được thay mỗi ngày nên hàm lượng NH3 có giảm so với ban đầu. Nitrite (NO2-) Nitrie có trong môi trường nước là sản phẩm của sự chuyển hóa ammonia (NH3) và ammonium (NH4+) dưới tác dụng của vi khuẩn và nó là dạng đạm độc đối với thủy sinh vật. Ở các thủy vực nước lợ có hàm lượng Ca2+ và Cl- có khuynh hướng làm giảm tính độc của nitrite (Crawford and Allen, 1977; Perron and Meade, 1977; Russo et al., 1981, trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2006). 0 0.002 0.004 0.006 0.008 0.01 0.012 0.014 1 5 9 13 Ngày N O 2 (m g/ l) NT1 NT2 NT3 Hình 4.6: Hàm lượng NO2- (mg/L) trong các bể thí nghiệm Qua Hình 4.6 cho thấy hàm lượng NO2- trong các lần thu mẫu biến động theo chiều hướng tăng dần vào cuối thí nghiệm, nhưng đều ở trong phạm vi thích hợp từ 0,006-0,012 mg/L. Nhìn chung, hàm lượng nitrite ở các nghiệm thức không ảnh hưởng đến đời sống của Artemia vì nước được thay và được cấp tảo vào bể mỗi ngày nên hàm lượng nitrite vẫn duy trì ở mức mà Artemia vẫn có thể phát triển bình thường. 4.2.2 Tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng -Tỷ lệ sống: Tỷ lệ sống của Artemia qua 14 ngày nuôi được trình bày ở Bảng 4.4. Bảng 4.4: Tỷ lệ sống của Artemia (%) trong quá trình nuôi (TB±ĐLC) Ngiệm thức Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1 32,4±3,5b 24,9±5,4a 19,9±6,4a NT2 22,2±0,8a 20,0±1,2a 17,4±2,4a NT3 20±0,8a 17,5±0,6a 14,6±2,0a Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Nhìn chung, tỷ lệ sống có khuynh hướng giảm dần theo thời gian nuôi ở tất cả các nghiệm thức. Sự khác biệt về tỷ lệ sống giữa các nghiệm thức chỉ ở ngày thứ 5, từ ngày thứ 9 đến lúc kết thúc thí nghiệm thì tỷ lệ sống cũng có khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Lý do trong NT1 có một bể có tỷ lệ sống thấp, theo quan sát bể này có nhiều rong bám ở thành bể và đáy bể (từ ngày 7), cùng với lượng thức ăn thừa bám vào, khi Artemia bị dính vào và không thoát ra được, có thể đây là nguyên nhân dẫn đến bể hao hụt nhiều. Vì vậy ĐLC của NT1 biến động cao dẫn đến khác biệt không có ý nghĩa với NT2 và NT3. Kết quả từ Bảng 4.4 cũng cho thấy Artemia hao hụt nhiều vào những ngày đầu, từ ngày thứ 5 đến lúc kết thúc thí nghiệm có hao hụt nhưng không nhiều. Tỷ lệ hao hụt những ngày đầu tương đương với kết quả của Nguyễn Thị Hồng Vân (2004) khi nuôi ngoài ao ở nồng độ muối 81-86‰ với mật độ 200 con/L và 60-120 con/L thì tỷ lệ sống sống giảm còn 25- 38% sau một tuần cấy thả. Theo tác giả này thì nguyên nhân chính của sự giảm đột ngột về mật độ có thể do lượng thức ăn thích hợp (mật độ tảo có kích thước nhỏ) cho giai đoạn này không đủ cộng với các thay đổi về môi trường trong quá trình cấy thả. Ở thí nghiệm, sau 14 ngày tỷ lệ sống cao nhất là NT1 (mật độ 1.000 con/L) với 19,9±6,4% và thấp nhất là NT3 (mật độ 2.000 con/L) tỷ lệ sống 14,6±2,0%. Thấp hơn kết quả thí nghiệm của Lê Lệ Hiền (2000) khi nuôi sinh khối trên bể raceway trong phòng ở độ mặn 20‰ với 3 mật độ 3.000, 5.000 và 10.000 con/L với thức ăn là cám gạo thì sau 8 ngày nuôi tỷ lệ sống là 43,2%, 26%, 18,25% tương ứng với ba mật độ. - Chiều dài và trọng lượng Bảng 4.5: Chiều dài của Artemia (mm) trong thời gian nuôi (TB±ĐLC) Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1 0,5 3,19±0,13b 6,06±0,27b 6,29±0,41b NT2 0,5 3,02±0,14ab 5,53±0,25ab 5,65±0,24ab NT3 0,5 2,79±0,05a 5,34±0,10a 5,52±0,18a Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Nhìn chung, chiều dài Artemia tăng nhanh vào những ngày đầu, từ ngày thứ 5 về sau sự tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ở NT1 cho kết quả dài nhất (6,29±0,41 mm/cá thể) kế đến là NT2 5,65±0,24 mm/cá thể) và cuối cùng là NT3 (5,52±0,18 mm/cá thể). Bảng 4.6: Trọng lượng của Artemia (mg/cá thể) trong thời gian nuôi (TB±ĐLC) Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1 0,002 1,14±0,07a 5,34±0,63b 6,47±1,29b NT2 0,002 0,89±0,28a 3,86±1ab 4,34±0,81ab NT3 0,002 0,76±0,17a 3,20±0,52a 3,70±0,76a Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Sự tăng trưởng về trọng lượng nhìn chung có sự chênh lệch giữa các nghiệm thức, sự khác biệt được ghi nhận vào ngày 9 và ngày 14 (p<0,05). NT3 tăng trưởng chậm nhất (3,74±0,76 mg/cá thể) và cao nhất vẫn là NT1 (6,47±1,29 mg/cá thể). Điều này có thể giải thích là do sự ảnh hưởng của mật độ lên sự tăng trưởng, ở mật độ cao nhìn chung Artemia tăng trưởng chậm hơn ở mật độ thấp do sự cạnh tranh thức ăn và không gian sống. Từ kết quả Bảng 4.6 cho thấy sự tăng trưởng không thay đổi nhiều từ ngày 9 đến ngày 14. Năng suất sinh khối Sau thời gian nuôi 14 ngày, năng suất sinh khối thu được như sau: 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1 NT2 NT3 Các chữ số giống nhau trên cùng một cột biểu thị sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Hình 4.7: Năng suất sinh khối (g/1,8 m3) thu được sau 14 ngày nuôi Kết quả từ Hình 4.7 cho thấy năng suất sinh khối khác biệt không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p<0,05). Năng suất cao nhất là NT1 (2.226±262 g/1,8 m3), kế đến là NT2 (2.010±149 g/1,8 m3) và thấp nhất là NT3 (1917±145 g/1,8 m3). Năng suất sinh khối từ ngày 9 đến ngày 14 có xu hướng giảm và không có hiện tượng bổ sung thế hệ mới. 4.3 Thảo Luận Trong thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2, các yếu môi trường đều nằm trong khoảng thích hợp nên không ảnh hưởng nhiều đến đời sống của Artemia, do vậy tác nhân thí nghiệm (thức ăn và mật độ) là những nhân tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ sống cũng như tăng trưởng của Artemia. Với 5 loại thức ăn được thử nghiệm để nuôi sinh khối thì cám ủ cho kết quả tốt nhất về tăng trưởng và cả tỷ lệ sống. Bên cạnh đó, thí nghiệm cũng cho thấy rằng thức ăn mì tinh cho kết quả tỷ lệ sống cao (>50%). Ở giai đoạn ấu trùng chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cỡ 25-30 µm và 40-50 µm khi trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980). Điều này có thể giải thích ở giai đoạn ấu trùng, khả năng sử dụng mì tinh hiệu quả hơn các phụ phẩm khác do kích cỡ thức ăn rất nhỏ và mịn, ít bị kết dính và lắng tụ. Tuy nhiên, hàm lượng dinh dưỡng có trong mì tinh chỉ có 1,6% protein (Asaduzzaman et al., 2008) thấp hơn rất nhiều so với cám ủ, vì thế mà mì tinh có tỷ lệ sống cao nhưng về tăng trưởng thì chậm. Bột đậu nành không cho kết quả khả quan khi được sử dụng để nuôi sinh khối, mặc dù hàm lượng protein trong đậu nành rất cao chiếm 42,2% (Mohanta et al., 2006), kết quả này cũng phù hợp với kết quả của Trần Hữu Đức và Lâm Hữu Thương (1988) là bột đậu nành cho kết quả thấp nhất trong tất cả các loại thức ăn mà tác giả thử nghiệm. Trong thí nghiệm, Artemia chết hết sau 5 ngày khi cho ăn đậu nành tươi, tuy nhiên ở đậu nành rang thì Artemia vẫn sống nhưng tỷ lệ sống rất thấp. Theo Trần Thị Thanh Hiền (2004) thì hạn chế của bột đậu nành là chứa nhiều loại men ức chế quá trình tiêu hóa protein và ức chế khả năng vận chuyển oxy. Tuy nhiên, ở đậu nành rang, trong chế biến đã được xử lý nhiệt, do đó cũng làm phân hủy các chất này. Ngoài ra, trong đậu nành có chứa hàm lượng protein hòa tan cao mà Artemia không thể sử dụng được, thức ăn sẽ bị phân hủy và tạo cơ hội cho vi khuẩn phát triển làm môi trường nước bị ô nhiễm (Sorgeloos et al.,1980). Theo quan sát, ở nghiệm thức đậu nành tươi và đậu nành rang đều có váng trên mặt nước, thức ăn dư thừa kết dính lại và lắng ở đáy chai, ngoài ra, ở nghiệm thức đậu nành tươi ở những ngày đầu quan sát thấy chân của Artemia bị dính nhiều hạt thức ăn (Hình 4.8) làm cản trở hoạt động bơi lội và làm giảm hiệu quả lọc thức ăn, hệ thống tiêu hóa rất ít thức ăn. Có thể đây là nguyên nhân làm Artemia chết hàng loạt. Hình 4.8: Artemia bị dính chân khi cho ăn bột đậu nành Cũng theo Sorgeloos et al (1980) thì cám gạo là thức ăn rẻ tiền, Artemia sinh trưởng nhanh và thích hợp cho hệ thống nuôi sinh khối. Theo kết quả thí nghiệm 1, thức ăn cám ủ khi nuôi cùng độ mặn 50%0 thì Artemia sinh trưởng tương đương với kết quả của Phan Thị Mỹ Tho (2009) khi cho ăn bằng tảo tươi. Như vậy, cám ủ được xem là thức ăn tốt cho Artemia bởi vì ngoài khả năng giúp Artemia phát triển tốt, còn là loại thức ăn rẻ tiền và sẵn có sẽ rất thích hợp cho việc nuôi đại trà trong các trại giống. Qua kết quả thí nghiệm 1 cho thấy thức ăn cám ủ là phù hợp để nuôi sinh khối trên bể. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vân (2009) về “ảnh hưởng của chất lượng sinh khối Artemia trong nuôi trồng thủy sản” thì thấy rằng sinh khối Artemia nuôi bằng cám ủ có hàm lượng HUFA (Highly Unsaturated Fatty Acid) thấp, trong khi đó hàm lượng HUFA trong sinh khối nuôi bằng tảo tươi khá cao (22,8%). Theo một số tài liệu thì vi tảo thường cho kết quả nuôi tốt nhất trong các loại thức ăn do nó là nguồn thức ăn tự nhiên thích hợp cho tất cả các động vật ăn phiêu sinh thực vật. Vì vậy, ngoài việc sử dụng cám ủ làm thức ăn cho Artemia thí nghiệm còn sử dụng tảo tươi từ ao bón phân để bổ sung thêm các acid béo vì dinh dưỡng của Artemia phản ánh loại thức ăn mà nó ăn vào. Tuy nhiên, thành phần tảo trong ao bón phân có một số tảo không phù hợp với Artemia như tảo lam (Oscillatoria) và tảo lục (Chlamydomonas). Tảo lam thường là nhóm tảo không thích hợp trong các thủy vực tự nhiên và ao nuôi tôm cá ngay cả đối với Artemia (Huỳnh Thanh Tới et al., 2006). Trong quá trình nuôi không có điều kiện hút cặn, do đó trong bể quan sát thấy còn nhiều hạt thức ăn lớn do thức ăn thừa kết lại cùng với chất thải của Artemia (xác lột, phân,…) và dính vào chân của Artemia làm cản trở hoạt động bơi lội và lọc thức ăn cùng với việc cấp tảo từ ao bón phân với một số tảo không thích hợp, đây có thể nguyên nhân làm cho tăng trưởng Artemia bị hạn chế và tỷ lệ sống giảm thấp ở các ngày sau. Ngoài tác nhân thức ăn thì mật độ cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của Artemia. Kết quả thí nghiệm cho thấy mật độ thấp thì Artemia sinh trưởng nhanh hơn và có tỷ lệ sống cao hơn những bể có mật độ cao. Nhận định này cũng phù hợp với nhận định của Lê Lệ Hiền (2000) khi nuôi sinh khối ở ba mật độ khác nhau thì tỷ lệ sống cao nhất vẫn là bể có mật độ thấp hơn. Theo kết quả thí nghiệm của Nguyễn Thị Nhật Thu (1985) khi nuôi sinh khối trên bể tuần hoàn ở hai mật độ 1.000 và 3.000 cá thể/L thì tỷ lệ sống rất thấp (0-0,25%) ở cả hai mật độ vào ngày thứ 9 mặc dù các yếu tố môi trường trong phạm vi thích hợp. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng từ ngày 9 đến ngày 14 rất chậm và có hao hụt nhiều. Do đó, nếu sử dụng sinh khối trong ương nuôi ấu trùng cua (giai đoạn Megalope), và ấu trùng tôm Hùm hay các loài cá có kích thước miệng ấu trùng lớn như cá tầm, cá hồi thì nên thu hoạch sinh khối từ ngày 7 đến ngày 9 vì kích thước Artemia phù hợp cho chúng trong giai đoạn này. Ngoài ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống thì kết quả thí nghiệm cho thấy rằng mật độ còn ảnh hưởng đến năng suất sinh khối, ở mật độ cao khối lượng sinh khối thu được thấp hơn ở mật độ thấp. Kết quả thí nghiệm của Lê Lệ Hiền (2000) khi nuôi ở ba mật độ 3.000, 5.000, 10.000 cá thể/L cho rằng nên nuôi ở mật mật độ 3.000 cá thể/L, tuy nhiên khối lượng sinh khối thu được ở mật này cũng không cao (3,25 kg). Theo kết quả của Nguyễn Văn Hòa (2007) nuôi sinh khối trên bể tuần hoàn ở mật độ 500 cá thể/L thì khối lượng sinh khối thu được tương đối cao từ 5-7 kg/2m3/2 tuần. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy nếu kéo dài thời gian nuôi thì lượng sinh khối không tăng thêm mà có xu hướng giảm dần và Artemia cũng không sinh sản. Vì thế, không bổ sung thêm thế hệ mới mà chỉ làm tăng chi phí nuôi. Từ những kết quả và nhận định trên, khi nuôi sinh khối mật độ cao nên thu hoạch ở giai đoạn thích hợp với kích cỡ bắt mồi của ấu trùng, nếu kéo dài thời gian nuôi sẽ không hiệu quả vì Artemia hao hụt nhiều và tốn chi phí nuôi. 4.4 Hoạch toán kinh tế Chi phí để sản xuất Artemia sinh khối trên bể 1,8 m3, ở mật độ 1.000, 1.500, 2.000 cá thể/L trong thời gian 14 ngày được hoạch toán như sau: Bảng 4.7: Hoạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1000 cá thể/L Vật liệu Số lượng Đơn giá Thành tiền (đồng) Công trình ( ngày công) 1 50.000 50.000 Trứng giống (gram) 6,7 4.000/g 27.000 Cám (kg) 2,8 3.500 9.800 Bạt (m) 3 38.000 114.000 Điện (máy thổi khí) 37 1.500 55.500 Chi phí khác 20.000 Tổng chi phí 276.300 Sinh khối thu được trong một đợt nuôi: 2,226 kg Bảng 4.8: Hoạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1500 cá thể/L Vật liệu Số lượng Đơn giá Thành tiền (đồng) Công trình ( ngày công) 1 50.000 50.000 Trứng giống (gram) 10 4.000/g 40.000 Cám (kg) 4,2 3.500 14.700 Bạt (m) 3 38.000 114.000 Điện (máy thổi khí) 37 1.500 55.500 Chi phí khác 20.000 Tổng chi phí 292.200 Sinh khối thu được trong một đợt nuôi: 2,010 kg Bảng 4.9: Hoạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 2000 cá thể/L Vật liệu Số lượng Đơn giá Thành tiền (đồng) Công trình ( ngày công) 1 50.000 50.000 Trứng giống (gram) 13,3 4.000/g 53.200 Cám (kg) 5,6 3.500 19.600 Bạt (m) 3 38.000 114.000 Điện (máy thổi khí) 37 1.500 55.500 Chi phí khác 20.000 Tổng chi phí 312.300 Sinh khối thu được trong một đợt nuôi: 1,917 kg Theo ước tính chi phí để sản xuất 1 kg sinh khối ở mật độ 1.000 cá thể/L là 124.124 đồng, mật độ 1.500 cá thể/L là 145.373 đồng, mật độ 2.000 cá thể/L là 162.911 đồng. Nhưng nếu thu ở giai đoạn từ 7 đến 9 ngày tuổi thì chi phí sẽ giảm thêm. Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1 Kết luận Qua thời gian thí nghiệm và từ kết quả thu được có thể đưa ra một số kết luận sau: Có sự khác biệt về tăng trưởng và tỷ lệ sống khi nuôi Artemia bằng các loại phụ phẩm nông nghiệp khác nhau. Cám ủ là loại thức ăn mà Artemia sinh trưởng nhanh và thích hợp để sử dụng nuôi sinh khối. Đối với bột mì tinh nếu sử dụng để nuôi sinh khối nên kết hợp với tảo tươi. Nuôi ở ba mật độ khác nhau thì sự khác biệt có ý nghĩa về tăng trưởng và trọng lượng nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ sống và năng suất sinh khối. Mật độ 1.000 cá thể/L có tỷ lệ sống và năng suất sinh khối (2.226±262 g/1,8 m3) cao hơn mật độ 1.500 cá thể/L (2.010±149 g/1,8 m3) và 2.000 cá thể/L (1.917±145 g/1,8 m3). Nuôi sinh khối với mật độ cao thì nên thu hoạch sau 7 đến 10 ngày nuôi. 5.2 Đề xuất Từ những kết quả thu được, có một số đề xuất sau: Nên xử lý nước trước khi thả giống vào bể. Điều chỉnh sục khí vừa phải đủ cung cấp oxy trong bể. Thiết kế hệ thống hút cặn mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của Artemia. Thu tỉa sinh khối từ ngày 7 để Artemia bổ sung thế hệ mới, từ đó có thể kéo dài thời gian nuôi và nâng cao năng suất sinh khối mà không cần thả giống mới. Tăng cường cung cấp thông tin tới người nuôi thủy sản và khuyến khích sử dụng sinh khối Artemia ở nhiều nơi nhằm tạo thị trường tiêu thụ, từ đó phát triển việc sản xuất sinh khối Artemia. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Thị Nho, 1990. Thử nghiệm một số thức ăn đối với đời sống Artemia trong môi trường nhân tạo. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 2. Hồ Thanh Hồng, 1986. Thực nghiệm nuôi Artemia trên ruộng muối Vĩnh Châu đầu mùa mưa. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 3. Huỳnh Thanh Tới, 1996. Ảnh hưởng mật độ nuôi khác nhau đến sinh trưởng và sinh sản của Artemia franciscana. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 4. Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Thị Hồng Vân, Dương Thị Mỹ Hận và Nguyễn Văn Hòa, 2006. Ảnh hưởng tảo Chaetoceros sp lên chất lượng Artemia sinh khối. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, số đặc biệt chuyên đề thủy sản; quyển 1: 62-73. 5. http: //www.elsevier.com/locate/aqua-online 6. Leger, Ph., Bengtson, D.A., Simpson, K.L and Sorgeloos, P., 1986. The use and nutritional value of Artemia as a food source Oceanography Marine Biol. Ann. Rev. 24: 521-623. 7. Lim L.C.,Soh, A., Dehrt, P. and Sorgeloos, P. 2001. Production and application of ongrown Artemia in freshwater ornamental fish farm, Aquaculture Economics and Management 5, 211-288. 8. Lê Lệ Hiền, 2000. Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ muối, thức ăn và mật độ trong việc sản xuất sinh khối Artemia trên bể. Luận văn tốt nghiệp. Trường Đại học Cần Thơ. 9. Lê Trung Tâm, 2008. Thử nghiệm sản xuất trứng Artemia có kích thước nhỏ trên ruộng muối Vĩnh Châu bằng phương pháp chọn giống qua các thế hệ. Luận văn tốt nghiệp Đại học. Trường Đại học Cần Thơ. 10. K.N. Mohanta, S.N. Mohanty, J.K. Jena & N.P. Sahu, 2006. Apparent protein, lipid and energy digestibility coefficients of some commonly used feed ingredients in formulated pelleted diets for silver barb, Puntius gonionotus. 11. Nguyễn Thị Ngọc Anh, 1993-1994. Thử nghiệm sản xuất sinh khối Artemia trong hệ thống nước tĩnh. Báo cáo Khoa học. 12. Nguyễn Thị Nhật Thu, 1985. Thử nghiệm nuôi Artemia trong bể. Luận văn tốt nghiệp. Trường Đại học Cần Thơ. 13. Nguyễn Thị Hồng Vân, Huỳnh Thanh Tới, Lê Văn Thông và Nguyễn Văn Hòa, 2008. Sử dụng các nguồn sinh khối Artemia khác nhau trong ương nuôi tôm sú Penaus monodon. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, Quyển 1: 128-133. 14. Nguyễn Thị Hồng Vân, Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Văn Hòa, Trần Hữu Lễ và Lê Văn Thông, 2009. Ảnh hưởng của chất lượng sinh khối Artemia trong nuôi trồng thủy sản. Báo cáo khoa học. Đại học Cần Thơ. 15. Nguyễn Thị Phỉ, Nguyễn Thị Hồng Vân, 1989. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên tuổi thọ và khả năng sinh sản của Artemia franciscana. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 16. Nguyễn Văn Hòa và ctv, 2007. Artemia- Nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. 134 trang. 17. Nguyễn Văn Hòa, Vũ Đỗ Quỳnh, Nguyễn Kim Quang, 1994. Kỹ thuật nuôi Artemia ở ruộng muối Vĩnh Châu. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. 40 trang. 18. Nguyễn Văn Hòa, Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Thị Hồng Vân và Trần Hữu Lễ, 2006. Nuôi tảo Cheatoceros sp làm thức ăn trong hệ thống nuôi Artemia. Tạp chí khoa học, số đặc biệt chuyên đề thủy sản; quyển 1: 52-61. 19. Nguyễn Thị Thanh Thảo, 1990. Bước đầu tìm hiểu khả năng sản xuất Artemia thu sinh khối ở ruộng muối Vĩnh Châu. Luận văn Tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 20. Trần Thị Thanh Hiền, 2002. Sử dụng sinh khối Artemia làm thức ăn ương ấu trùng tôm sú và tôm càng xanh. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ: 272-277. 21. Trần Thị Thanh Hiền, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Văn Hòa và Trần Sương Ngọc, 2000. Bài giảng môn học: Kỹ thuật nuôi thức ăn tự nhiên. Khoa Thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ. 22. Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Anh Tuấn, Huỳnh Thị Tú, 2004. Giáo trình dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Khoa Thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ. 23. P. Sorgeloos, P. Lavens, Ph. Leger, W. Tackaert, D. Versichele, 1986. Manual for the culture and use of brine shrimp Artemia in Aquaculture. 319p. 24. Sorgeloos (editor), Dhont, Laven, P. 1996. Tank production and use of ongrown Artemia . In: Manual on the productionand use of life food for Aquacuture Lavens, P. and Sorgeloos; P., FAO Fisheries technical, 1996, Paper No.361, Rome, Italy. 25. Sorgeloos, P., P. Dehrt, P. Candreva, (2001). Use of the brine shirmp, Artemia sp., in marine fish laviculture, Aquaculture 200, 147-159. 26. Sorgeloos, P., (1980). Life history of the brine shirmp Artemia, Proceeding of the International Symposium on the brine shirmp Artemia salina. Corpus Chritis, Texas, USA, August 20-23, 1979. Volume 1: Morphology, Genetics, Radiobiology, Toxicology, G. Persoone, P. Sorgeloos, O. Roels and E. Jaspers, (Eds)., Universa Press, Wettern, Belgium, 19-22. 27. Sorgeloos, P., Bengtson, D.A., Decleir, W., Jaspers, E. (Eds)., 1987. Artemia Reseach and its Applications. Ecology, culturing, Use in Aquaculture, vol.3. Universa Press, Wetteren, Belgium, pp. 201-213. 28. Olsen Atle Ivar, Yngve Attramadal, Arne Jensen, Yngvar Olsen, (1999). Influence of the size and nutritional value of Artemia franciscana on growth and quality of halibut larvae- Hippoglossus hippoglossus/during the live feed Period, Aquacutlture 179, 475-487. 29. Phan Thị Mỹ Tho, 2009. So sánh ảnh hưởng nồng độ muối lên sinh trưởng, các chỉ tiêu sinh sản của Artemia SFB và GSL. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ. 30. Võ Thị Thúy Vinh, 1990. Hiệu quả của cám gạo và phân gà lên sản xuất trứng bào xác Artemia- khả năng sản xuất cyst trong mùa mưa. Luận văn tốt nghiệp. Đại học Cần Thơ PHỤ LỤC Phụ lục A: Các yếu môi trường trong ao nuôi Artemia Phụ lục A. 1 : Thí nghiệm 1 Hàm lượng NO2 - Ngày Nghiệm thức 5 8 14 NT1.1 0,014 0,021 0,5 NT1.2 0,016 0,021 0,5 NT1.3 0,018 0,019 0,5 NT2.1 0,062 - - NT2.2 0,067 - - NT2.3 0,105 - - NT3.1 0,011 0,023 0,5 NT3.2 0,011 0,018 0,46 NT3.3 0,009 0,027 0,5 NT4.1 0,016 0,023 0,46 NT4.2 0,027 0,019 0,46 NT4.3 0,023 0,019 0,5 NT5.1 0,018 0,021 0,46 NT5.2 0,018 0,016 0,5 NT5.3 0,016 0,011 0,5 Hàm lượng NH3 Nghiệm thức Ngày 5 Ngày 8 Ngày 14 NT1 0,27 0,11 0,06 NT2 0,27 - - NT3 0,38 0,026 0,05 NT4 0,38 0 0,02 NT5 0,05 0 0,08 Phụ lục A.2: Thí nghiệm 2 Hàm lượng NO2 - Hàm lượng NH3 Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1.1 0,007 0,007 0,012 0,014 NT1.2 0,021 0,006 0,011 0,014 NT1.3 0,006 0,006 0,009 0,009 NT2.1 0,001 0,009 0,009 0,012 NT2.2 0,003 0,006 0,009 0,009 NT2.3 0 0,009 0,011 0,012 NT3.1 0,011 0,009 0,011 0,011 NT3.2 0,007 0,007 0,009 0,012 NT3.3 0,007 0,007 0,009 0,012 Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1.1 0,01 0,014 0,009 0,012 NT1.2 0,02 0,018 0,012 0,017 NT1.3 0,026 0,014 0,009 0,014 NT2.1 0,026 0,026 0,009 0,014 NT2.2 0,02 0,018 0,009 0,007 NT2.3 0,026 0,022 0,009 0,012 NT3.1 0,026 0,026 0,009 0,012 NT3.2 0,026 0,022 0,024 0,007 NT3.3 0,026 0,026 0,009 0,012 Nhiệt độ lúc 7 giờ (0C) NT1 NT2 NT3 Ngày 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1/5/09 28,2 28,2 28,3 28,2 28,2 28,3 28,2 28,2 28,3 2/5/09 28,3 28,1 28,3 28,3 28,3 28,2 28,1 28,3 28,4 3/5/09 28,6 28,5 28,5 28,5 28,5 28,5 28,4 28,5 28,6 4/5/09 28,6 28,5 28,6 28,5 28,7 28,5 28,3 28,6 28,5 5/5/09 29,3 29,1 29,3 29,2 29,3 29,2 29,1 29,3 29,3 6/5/09 28,2 27,9 28,2 28,0 28,4 28 27,9 28,2 28,2 7/5/09 28,2 28,2 28,4 28,2 28,5 28,2 28,1 28,4 28,3 8/5/09 28,6 28,4 28,6 28,5 28,6 28,6 28,3 28,7 28,7 9/5/09 28,9 28,7 28,9 29,0 29,1 28,8 28,7 29 29 10/5/09 28,1 28,1 28,0 28,1 28,2 28,1 27,9 28,1 28,2 11/5/09 28,4 28,4 28,4 28,3 28,6 28,4 28,3 28,6 28,5 12/5/09 29,3 29,1 29,0 29,3 29,5 29,3 29,2 29,2 29,4 13/5/09 28,3 28,4 28,1 28,3 28,4 28,4 28,4 28,2 28,3 14/5/09 28,5 28,3 28,2 28,4 28,6 28,6 28,7 28,4 28,4 Nhiệt độ lúc 14 giờ (0C) NT1 NT2 NT3 Ngày 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1/5/09 31,0 30,5 30,5 31,0 31,0 31,2 31,0 31,2 31,0 2/5/09 31,2 30,9 30,9 31,3 31,2 31,1 31,1 31,4 31,3 3/5/09 31,4 31,4 31,4 31,4 31,3 31,3 31,3 31,6 31,3 4/5/09 32,1 31,8 31,8 32,1 31,8 31,9 32,0 32,1 32 5/5/09 31,5 31,5 31,5 31,5 31,5 31,3 31,1 31,6 31,3 6/5/09 31,1 31,8 31,8 32,1 32,0 31,8 31,8 32,2 32 7/5/09 30,6 30,6 30,6 30,7 30,5 30,9 30,7 31 30,9 8/5/09 34,0 33,6 33,6 33,8 33,7 33,8 33,8 34,3 34 9/5/09 32,6 32,6 32,6 32,8 32,4 32,4 32,6 32,8 32,6 10/5/09 32,1 32,1 32,1 32,0 32,1 31,9 31,1 31,1 31,2 11/5/09 35,2 35,6 35,6 35,5 35,5 35,1 35,3 35 35 12/5/09 32,0 31,9 31,9 32,0 31,9 31,8 32,1 31,7 31,8 13/5/09 33,9 33,9 33,9 33,7 33,7 33,8 33,9 33,7 33,6 14/5/09 33,9 33,8 33,8 33,7 33,5 34,0 34,2 33,7 33,4 Độ mặn NT1 NT2 NT3 Ngày NT1. 1 NT1. 2 NT1. 3 NT2. 1 NT2. 2 NT2. 3 NT3. 1 NT3. 2 NT3. 3 1/5/09 56 55 56 55 57 57 57 56 56 2/5/09 56 55 56 55 57 57 57 56 56 3/5/09 55 54 54 54 54 55 56 54 54 4/5/09 55 54 54 54 56 55 56 54 54 5/5/09 52 51 50 50 54 53 54 53 52 6/5/09 51 50 50 50 54 52 52 52 51 7/5/09 42 42 42 40 47 43 44 44 42 8/5/09 40 40 40 40 45 41 43 42 40 9/5/09 40 40 40 40 44 40 42 41 40 10/5/09 43 40 44 42 42 42 42 42 42 11/5/09 42 40 42 41 42 42 41 42 42 12/5/09 40 40 40 40 40 40 40 40 40 13/5/09 40 39 40 40 40 40 40 40 40 14/5/09 40 40 40 40 40 40 39 40 40 Hàm lượng oxy Ngày NT1 NT2 NT3 1/5/2009 3,2 4,2 4,2 3,2 3,3 3,4 4,3 3,2 3,8 2/5/2009 3,2 4,1 3,1 3,2 3,2 3,3 3 3,9 3,6 3/5/2009 3,6 3,5 3,6 3,5 3,6 3,6 3,5 3,6 3,5 4/5/2009 3,6 3,4 3,8 3,5 3,7 3,9 3,2 3,9 3,5 5/5/2009 3,8 4 3,5 3,5 4,1 3,7 3,4 4 4,4 6/5/2009 2,9 3,6 3,3 3,9 3 3 3,5 3,5 4 7/5/2009 3,8 4 3 3,8 3 3 3,1 3,6 3,4 8/5/2009 4,3 4 4,1 3,8 4,1 3,5 4 3,5 4 9/5/2009 3,5 3,8 3,2 3,7 3,6 3,7 3,9 3,5 3,5 10/5/2009 3,2 3 3 3,1 3,1 3,2 3,3 3 3,2 11/5/2009 4,1 4 4 4,2 4,1 4,1 4,6 4 4,2 12/5/2009 3,2 3,2 3,4 3,3 3,4 3 3,1 3,1 3,3 13/5/2009 4,5 4,6 4,5 4,4 4,6 4,5 4,5 4,7 4,5 14/5/2009 4,2 4,7 4 4,1 4,4 4,3 4,4 4,6 4,1 Độ trong NT1 NT2 NT3 Ngày 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1/5/2009 42 40 40 40 40 39 42 40 40 2/5/2009 41 40 40 40 40 38 40 40 40 3/5/2009 40 40 38 38 38 38 40 41 39 4/5/2009 40 38 39 39 40 38 38 39 39 5/5/2009 38 40 40 40 40 38 36 40 39 6/5/2009 40 38 39 38 39 37 38 40 36 7/5/2009 40 41 40 40 41 40 40 38 38 8/5/2009 40 38 41 40 38 37 38 38 38 9/5/2009 40 40 38 39 40 40 39 40 42 10/5/2009 36 38 30 32 32 36 34 40 39 11/5/2009 35 38 35 34 36 36 38 40 37 12/5/2009 36 36 40 38 38 40 34 34 34 13/5/2009 41 40 40 40 40 41 40 41 41 14/5/2009 38 38 36 38 39 40 36 40 40 pH lúc 7 giờ NT1 NT2 NT3 Ngày 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1/5/09 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,5 7,6 2/5/09 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,5 7,6 3/5/09 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 4/5/09 7,2 7,3 7,2 7,2 7,2 7,3 7,3 7,2 7,3 5/5/09 7,3 7,3 7,3 7,4 7,4 7,3 7,4 7,3 7,4 6/5/09 7,1 7,2 7,2 7,2 7,2 7,1 7,2 7,2 7,2 7/5/09 7,1 7,1 7 7 7 7,1 7,1 7 7,1 8/5/09 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,3 7,1 7,2 9/5/09 7,1 7,2 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 10/5/09 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 7,1 11/5/09 7,3 7,2 7,3 7,4 7,4 7,3 7,3 7,3 7,3 12/5/09 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 13/5/09 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,4 7,4 14/5/09 7,2 7,4 7,3 7,3 7,3 7,2 7,2 7,3 7,2 pH lúc 14 giờ Ngày NT1 NT2 NT3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1/5/09 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,6 7,5 7,6 2/5/09 7,5 7,5 7,7 7,5 7,5 7,5 7,5 7,5 7,5 3/5/09 7,3 7,3 7,4 7,3 7,3 7,3 7,3 7,4 7,3 4/5/09 7,5 7,5 7,5 7,6 7,6 7,5 7,5 7,4 7,5 5/5/09 7,3 7,3 7,3 7,4 7,4 7,3 7,3 7,3 7,3 6/5/09 7,3 7,4 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7,3 7/5/09 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,2 7,1 7,2 8/5/09 7,4 7,4 7,5 7,4 7,4 7,4 7,4 7,4 7,5 9/5/09 7,5 7,7 7,8 7,3 7,3 7,5 7,5 7,4 7,6 10/5/09 7,7 7,8 7,9 7,8 7,8 7,9 7,9 7,8 7,8 11/5/09 7,6 7,5 7,8 7,6 7,6 7,6 7,6 7,7 7,6 12/5/09 7,6 7,6 7,8 7,6 7,6 7,5 7,5 7,7 7,5 13/5/09 7,4 7,5 7,5 7,5 7,5 7,3 7,3 7,4 7,3 14/5/09 7,6 7,6 7,7 7,6 7,6 7,6 7,6 7,7 7,7 Phụ lục B: Tăng trưởng và tỷ lệ sống của Artemia Phụ lục B,1: Thí nghiệm 1 Chiều dài Artemia ngày thứ 7 NT1 NT3 NT4 NT5 TT 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 20 26 45 55 45 60 53 69 30 30 33 2 23 23 40 60 44 50 55 54 32 32 31 3 30 17 55 44 46 50 60 50 31 34 29 4 34 19 55 39 45 60 49 63 40 30 35 5 21 18 42 38 47 49 45 54 45 30 42 6 19 28 49 45 50 47 58 46 44 30 43 7 17 25 42 50 51 61 59 35 31 41 30 8 25 25 48 60 47 70 60 57 34 46 35 9 20 30 46 35 50 65 50 59 35 40 32 10 19 16 50 45 38 35 71 65 39 35 37  =1,2 Chiều dài Artemia ngày thứ 14 NT1 NT3 NT4 NT5 TT 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 20 26 80 79 76 92 90 88 70 66 65 2 23 23 84 82 81 74 82 85 81 68 70 3 30 17 79 63 96 97 85 72 70 72 75 4 34 19 70 80 82 85 85 95 82 49 81 5 21 18 60 82 68 98 70 80 71 71 75 6 19 83 71 83 65 91 87 69 44 49 7 17 90 85 67 89 92 82 68 71 60 8 77 80 98 75 76 86 60 60 54 9 90 80 59 90 75 84 80 65 49 10 69 75 70 75 75 75 75 55 61  =1,2 Tỷ lệ sống (%) Artemia Nghiệm thức Ngày 8 Ngày 11 Ngày 14 NT1.1 7,0 5,5 3,5 NT1.2 3,5 2,5 2,5 NT1.3 0,0 0,0 0,0 NT2.1 0,0 0,0 0,0 NT2.2 0,0 0,0 0,0 NT2.3 0,0 0,0 0,0 NT3.1 38,5 38,0 37,5 NT3.2 55,0 50,1 47,5 NT3.3 44,0 41,0 39,0 NT4.1 65,5 60,5 63,5 NT4.2 43,5 40,0 40,0 NT4.3 48,0 44,0 42,5 NT5.1 49,0 46,5 34,5 NT5.2 50,0 48,5 45,0 NT5.3 73,0 72,0 71,0 Phụ lục B.2: Thí nghiệm 2 Chiều dài Artemia sau 5 ngày nuôi TT NT I NT II NT III 1 40 40 41 35 37 40 33 30 30 2 44 35 32 40 35 41 32 35 30 3 39 35 45 36 23 43 30 22 35 4 44 33 40 46 31 38 30 39 35 5 35 40 40 40 45 33 34 35 40 6 37 35 35 35 20 40 30 33 29 7 35 35 37 35 36 40 32 35 31 8 42 30 47 32 35 33 40 34 36 9 43 30 45 32 31 35 45 32 35 10 30 45 30 40 31 36 33 37 27 11 45 40 50 45 30 37 33 30 35 12 40 32 48 45 35 31 37 48 30 13 35 35 43 25 45 37 30 32 30 14 30 30 25 35 36 37 26 37 31 15 45 36 42 40 33 45 33 30 32 16 37 38 45 32 41 40 32 33 26 17 37 40 37 46 42 44 35 34 35 18 45 41 45 31 33 45 34 30 30 19 35 45 40 35 31 35 34 35 35 20 40 39 42 45 31 45 34 32 36 21 31 30 43 40 36 30 29 35 31 22 40 35 40 33 35 40 34 31 41 23 40 38 43 47 33 46 34 30 37 24 30 40 32 32 30 33 37 40 27 25 37 42 40 33 38 43 33 35 35 26 47 40 35 35 45 35 35 32 25 27 40 37 40 35 29 30 36 34 37 28 35 30 34 31 30 26 34 39 26 29 40 40 44 37 36 31 37 40 42 30 35 35 35 36 35 30 35 30 35 Chiều dài Artemia sau 9 ngày nuôi TT NT I NT II NT III 1 75 75 60 71 62 65 61 55 65 2 72 65 70 50 67 50 61 67 56 3 74 79 80 67 69 60 70 55 66 4 79 79 64 73 65 57 49 68 70 5 72 85 91 75 61 67 55 66 65 6 80 84 73 76 75 65 83 70 72 7 62 70 70 71 69 65 79 55 65 8 65 74 70 64 66 66 60 60 65 9 84 73 80 67 65 63 61 65 60 10 73 80 65 81 71 70 62 64 70 11 63 75 55 58 60 60 65 60 55 12 65 77 73 58 70 65 53 65 54 13 84 85 70 76 61 70 58 60 76 14 67 80 56 70 60 62 52 65 58 15 74 65 64 78 70 61 67 72 56 16 70 75 65 65 71 74 61 70 57 17 75 71 75 73 70 60 60 71 65 18 71 65 60 70 70 50 55 75 67 19 60 81 65 54 74 60 78 70 59 20 70 75 74 50 65 50 72 68 73 21 60 80 70 61 67 55 67 45 76 22 67 85 73 67 65 75 52 77 70 23 71 90 55 72 77 60 70 55 65 24 72 71 80 75 80 60 65 55 72 25 81 80 78 75 70 66 65 70 68 26 77 85 75 75 63 70 60 58 58 27 81 61 71 81 69 65 69 70 65 28 64 81 72 71 61 60 57 65 66 29 76 70 72 60 71 65 60 66 74 30 73 70 73 63 70 70 60 64 72 Chiều dài Artemia sau 14 ngày nuôi TT NT I NT II NT III 1 70 90 80 70 75 61 65 60 58 2 75 85 82 61 65 72 60 73 77 3 82 69 77 70 65 64 55 61 70 4 72 95 75 70 70 55 60 61 82 5 73 70 70 70 73 60 61 65 77 6 78 80 75 75 70 60 57 55 73 7 75 85 71 75 63 56 76 80 65 8 60 75 70 79 65 55 70 60 67 9 63 75 65 78 74 60 75 65 71 10 81 95 56 81 61 70 52 70 66 11 78 75 65 70 61 65 68 73 65 12 71 80 67 65 84 68 67 74 70 13 87 81 65 64 75 75 68 70 70 14 90 75 80 62 62 69 73 68 65 15 81 75 70 73 70 80 74 67 70 16 62 70 80 80 64 61 55 68 52 17 75 80 75 72 67 62 56 67 65 18 65 80 80 60 70 67 55 60 73 19 62 74 75 65 70 68 63 70 73 20 65 80 75 65 70 68 60 79 69 21 57 82 72 70 68 71 75 68 70 22 80 75 73 65 70 70 70 70 53 23 70 85 70 69 67 66 65 70 73 24 72 90 80 79 69 59 65 75 65 25 70 76 65 65 70 60 71 57 64 26 75 85 70 70 70 61 51 60 60 27 71 80 65 71 61 61 57 84 51 28 69 82 66 65 69 62 55 65 67 29 80 90 67 65 69 65 64 70 64 30 75 85 66 75 74 67 73 65 73 Trọng lượng cùa Artemia (mg/cá thể) trong thời gian nuôi Nghiệm thức Ngày 0 Ngày 5 Ngày 9 Ngày14 NT1.1 0,002 1,1 4,69 5,18 NT1.2 0,002 1,22 5,95 7,75 NT1.3 0,002 1,1 5,38 6,49 NT2.1 0,002 0,84 4,46 4,72 NT2.2 0,002 0,64 4,41 4,9 NT2.3 0,002 1,19 2,7 3,41 NT3.1 0,002 0,73 3,8 4,61 NT3.2 0,002 0,95 2,87 3,22 NT3.3 0,002 0,61 2,93 3,28 Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 5 ngày nuôi Nghiệm thức Mật độ (con/lít) Tỷ lệ sống (%) Tỷ lệ sống trung bình (%) NT1.1 332 33,2 NT1.2 286 28,6 NT1.3 355 35,5 32,4 NT2.1 325 21,7 NT2.2 328 21,9 NT2.3 347 23,1 22,2 NT3.1 414 20,7 NT3.2 382 19,1 NT3.3 401 20,1 20,0 Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 9 ngày nuôi Nghiệm thức Mật độ (con/lít) Tỷ lệ sống (%) Tỷ lệ sống trung bình (%) NT1.1 310 31 NT1.2 210 21 NT1.3 226 22,6 24,9 NT2.1 290 19,0 NT2.2 294 19,6 NT2.3 337 21,3 20,0 NT3.1 337 16,85 NT3.2 358 17,9 NT3.3 355 17,8 17,5 Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 14 ngày nuôi Nghiệm thức Mật độ (con/lít) Tỷ lệ sống (%) Tỷ lệ sống trung bình (%) NT1.1 268 26,8 NT1.2 142 14,2 NT1.3 188 18,8 19,9 NT2.1 236 15,8 NT2.2 245 16,3 NT2.3 303 20,2 17,4 NT3.1 250 12,5 NT3.2 327 16,4 NT3.3 302 15,1 14,6 Năng suất sinh khối Artemia Nghiệm thức Ngày 5 Ngày 9 Ngày 14 NT1.1 645 2620 2502 NT1.2 623 2160 1980 NT1.3 736 2338 2196 NT2.1 487 2364 2007 NT2.2 388 2405 2160 NT2.3 760 1584 1863 NT3.1 529 2306 2070 NT3.2 652 1901 1899 NT3.3 461 2009 1782

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_dk_thanh_0455.pdf
Luận văn liên quan