Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu các thuật ngữ sau: « Phá sản doanh nghiệp» là thuật ngữ vừa chỉ tình trạng một con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vừa chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp luật hiện đại đặc biệt là trong pháp luật Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ "phá sản", người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác như « thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán», « phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp » hoặc « thủ tục giải quyết nợ tập thể ». Hiện nay thuật ngữ này còn mang một ý nghĩa mới, nó chỉ một biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó chủ doanh nghiệp sẽ không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh nghiệp. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "phá sản" bởi vì thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài. Theo nghĩa hẹp, phá sản « có yếu tố nước ngoài » là trường hợp con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ « phá sản có yếu tố nước ngoài » được sử dụng đối với những trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho hoạt động đó không có sự hỗ trợ của tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh nghiệp ở nước ngoài. Tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Những thay đổi của ngành luật này trong thời gian vừa qua không làm cho nó đơn giản hơn. Trước hết, phức tạp bởi vì nguồn của tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Ví dụ: trong pháp luật Pháp, nguồn của ngành luật này rất nhiều, cụ thể: 􀂃 Án lệ : Cho đến thời gian gần đây, án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án Tư pháp tối cao (Tòa dân sự và thương mại) gần như là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sau một thời gian vắng bóng, đến giữa những năm 1980, án lệ lấy lại vị trí của mình. Trong pháp luật Pháp, án lệ tạo thành các quy định chung của tư pháp quốc tế về phá sản. 􀂃 Các văn bản pháp luật trong nước: Ở Pháp, có rất ít văn bản pháp luật về vấn đề này. Nhìn chung, nhà làm luật của Pháp ít khi đề cập đến những vấn đề có tính chất kỹ thuật liên quan đến những xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử về phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản trong lĩnh vực này như điều 52, khoản 2 Luật ngày 25 tháng 1 năm 1985 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh nghiệp, đã được pháp điển hóa thành điều L. 621-44 Bộ luật Thương mại về các khoản nợ bằng ngoại tệ hoặc điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985 hướng dẫn thi hành Luật năm 1985. Nghị định này quy định cụ thể các tiêu chí xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án trong nước trong việc mở thủ tục giải quyết phá sản tại Pháp, thực tế đó cũng là thẩm quyền quốc tế của Tòa án. 􀂃 Các văn bản của Liên minh Châu Âu: Nước Pháp là một thành viên của Liên minh Châu Âu Với tư cách đó, trước hết nước Pháp chịu sự điều chỉnh của Nghị định (CE) số 1346/2000 của Hội đồng Liên minh Châu Âu ngày 29 tháng 5 năm 2000 về thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, áp dụng từ ngày 31 tháng 5 năm 2002 đối với các nước thành viên của Liên mình Châu Âu trừ Đan Mạch. Nghị định của Liên minh Châu Âu được áp dụng trực tiếp tại các nước thành viên mà không cần qua thủ tục chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Theo phụ lục A của Nghị định, thủ tục thanh lý và phục hồi doanh nghiệp có thể được thực hiện ở Pháp. Trong trường hợp tiến hành phục hồi doanh nghiệp tại Pháp thì phải chỉ định một người điều hành thủ tục. Cũng với tư cách là thành viên Liên minh Châu Âu, nước Pháp nằm trong đối tượng điều chỉnh của các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu (Luật khung). Đối với các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu, nước Pháp phải tiến hành chuyển hóa vào nội luật. Trong lĩnh vực phá sản, có nhiều văn bản quy định riêng đối với từng loại doanh nghiệp: Chỉ thị số 2001/17 (CE) ngày 19 tháng 3 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 2004-504 ngày 7 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 2005-8 ngày 5 tháng 1 năm 2005. Chỉ thị số 2001/24 (CE) ngày 4 tháng 4 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý các cơ sở tín dụng. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 2004- 1127 ngày 21 tháng 10 năm 2004. Các Công ước quốc tế. Hiện nay, chưa có công ước đa phương nào trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, chỉ có 4 Hiệp định song phương mà nước Pháp đã ký kết trong đó có một số quy định cụ thể về phá sản. Ba trong số 4 Hiệp định đó gần như đã được thay thế bởi Nghị định số 1346/2000 (3 Hiệp định đó gồm: Hiệp định Pháp-Bỉ, ngày 8 tháng 7 năm 1899, Hiệp định Pháp-Ý ngày 3 tháng 6 năm 1930 gồm 2 Thỏa thuận hợp tác tư pháp có nội dung rộng hơn trong đó có vấn đề phá sản doanh nghiệp, Hiệp định Pháp-Áo ngày 27 tháng 2 năm 1979 chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp). Hiệp định thứ 4 ngày 15 tháng 9 năm 1950 được ký kết giữa Pháp và Monaco cũng chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp. Ngược lại, luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh toán có yếu tố nước ngoài do Ủy ban của Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và được thông qua ngày 30 tháng 5 năm 1997 không có ảnh hưởng đối với pháp luật Pháp. Tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất phức tạp còn bởi các quan điểm về vấn đề này thường đối lập nhau và việc lựa chọn một quan điểm nào đó không phải là một việc dễ dàng. Trong lĩnh vực này, xét về hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản hiện có 2 quan điểm đối lập nhau: 􀂃 Quan điểm thứ nhất cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính thống nhất và có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm này chỉ cần mở 1 thủ tục phá sản tại trụ sở chính của doanh nghiệp mắc nợ và thủ tục này sẽ có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản mà không cần phải mở thêm thủ tục phá sản tại những nơi đó. 􀂃 Quan điểm thứ hai cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ. Theo quan điểm này, cần phải mở thủ tục phá sản doanh nghiệp tại tất cả các nước nơi có tài sản của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, không có quốc gia nào chỉ đơn thuần áp dụng một cơ chế duy nhất mà thường có sự kết hợp nhiều loại cơ chế trung gian, ví dụ như cơ chế được quy định tại Nghị định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu với sự kết hợp hai cơ chế nêu trên, theo đó có thể mở một thủ tục chính tại một nước và nhiều thủ tục phụ tại nhiều nước khác để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2860 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu các thuật ngữ sau: « Phá sản doanh nghiệp» là thuật ngữ vừa chỉ tình trạng một con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vừa chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp luật hiện đại đặc biệt là trong pháp luật Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ "phá sản", người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác như « thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán», « phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp » hoặc « thủ tục giải quyết nợ tập thể ». Hiện nay thuật ngữ này còn mang một ý nghĩa mới, nó chỉ một biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó chủ doanh nghiệp sẽ không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh nghiệp. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "phá sản" bởi vì thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài. Theo nghĩa hẹp, phá sản « có yếu tố nước ngoài » là trường hợp con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ « phá sản có yếu tố nước ngoài » được sử dụng đối với những trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho hoạt động đó không có sự hỗ trợ của tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh nghiệp ở nước ngoài. Tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Những thay đổi của ngành luật này trong thời gian vừa qua không làm cho nó đơn giản hơn. Trước hết, phức tạp bởi vì nguồn của tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Ví dụ: trong pháp luật Pháp, nguồn của ngành luật này rất nhiều, cụ thể: 􀂃 Án lệ : Cho đến thời gian gần đây, án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án Tư pháp tối cao (Tòa dân sự và thương mại) gần như là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sau một thời gian vắng bóng, đến giữa những năm 1980, án lệ lấy lại vị trí của mình. Trong pháp luật Pháp, án lệ tạo thành các quy định chung của tư pháp quốc tế về phá sản. 􀂃 Các văn bản pháp luật trong nước: Ở Pháp, có rất ít văn bản pháp luật về vấn đề này. Nhìn chung, nhà làm luật của Pháp ít khi đề cập đến những vấn đề có tính chất kỹ thuật liên quan đến những xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử về phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản trong lĩnh vực này như điều 52, khoản 2 Luật ngày 25 tháng 1 năm 1985 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh nghiệp, đã được pháp điển hóa thành điều L. 621-44 Bộ luật Thương mại về các khoản nợ bằng ngoại tệ hoặc điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985 hướng dẫn thi hành Luật năm 1985. Nghị định này quy định cụ thể các tiêu chí xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án trong nước trong việc mở thủ tục giải quyết phá sản tại Pháp, thực tế đó cũng là thẩm quyền quốc tế của Tòa án. 􀂃 Các văn bản của Liên minh Châu Âu: Nước Pháp là một thành viên của Liên minh Châu Âu Với tư cách đó, trước hết nước Pháp chịu sự điều chỉnh của Nghị định (CE) số 1346/2000 của Hội đồng Liên minh Châu Âu ngày 29 tháng 5 năm 2000 về thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, áp dụng từ ngày 31 tháng 5 năm 2002 đối với các nước thành viên của Liên mình Châu Âu trừ Đan Mạch. Nghị định của Liên minh Châu Âu được áp dụng trực tiếp tại các nước thành viên mà không cần qua thủ tục chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Theo phụ lục A của Nghị định, thủ tục thanh lý và phục hồi doanh nghiệp có thể được thực hiện ở Pháp. Trong trường hợp tiến hành phục hồi doanh nghiệp tại Pháp thì phải chỉ định một người điều hành thủ tục. Cũng với tư cách là thành viên Liên minh Châu Âu, nước Pháp nằm trong đối tượng điều chỉnh của các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu (Luật khung). Đối với các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu, nước Pháp phải tiến hành chuyển hóa vào nội luật. Trong lĩnh vực phá sản, có nhiều văn bản quy định riêng đối với từng loại doanh nghiệp: Chỉ thị số 2001/17 (CE) ngày 19 tháng 3 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 2004-504 ngày 7 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 2005-8 ngày 5 tháng 1 năm 2005. Chỉ thị số 2001/24 (CE) ngày 4 tháng 4 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý các cơ sở tín dụng. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 2004- 1127 ngày 21 tháng 10 năm 2004. Các Công ước quốc tế. Hiện nay, chưa có công ước đa phương nào trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, chỉ có 4 Hiệp định song phương mà nước Pháp đã ký kết trong đó có một số quy định cụ thể về phá sản. Ba trong số 4 Hiệp định đó gần như đã được thay thế bởi Nghị định số 1346/2000 (3 Hiệp định đó gồm: Hiệp định Pháp-Bỉ, ngày 8 tháng 7 năm 1899, Hiệp định Pháp-Ý ngày 3 tháng 6 năm 1930 gồm 2 Thỏa thuận hợp tác tư pháp có nội dung rộng hơn trong đó có vấn đề phá sản doanh nghiệp, Hiệp định Pháp-Áo ngày 27 tháng 2 năm 1979 chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp). Hiệp định thứ 4 ngày 15 tháng 9 năm 1950 được ký kết giữa Pháp và Monaco cũng chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp. Ngược lại, luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh toán có yếu tố nước ngoài do Ủy ban của Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và được thông qua ngày 30 tháng 5 năm 1997 không có ảnh hưởng đối với pháp luật Pháp. Tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất phức tạp còn bởi các quan điểm về vấn đề này thường đối lập nhau và việc lựa chọn một quan điểm nào đó không phải là một việc dễ dàng. Trong lĩnh vực này, xét về hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản hiện có 2 quan điểm đối lập nhau: 􀂃 Quan điểm thứ nhất cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính thống nhất và có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm này chỉ cần mở 1 thủ tục phá sản tại trụ sở chính của doanh nghiệp mắc nợ và thủ tục này sẽ có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản mà không cần phải mở thêm thủ tục phá sản tại những nơi đó. 􀂃 Quan điểm thứ hai cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ. Theo quan điểm này, cần phải mở thủ tục phá sản doanh nghiệp tại tất cả các nước nơi có tài sản của doanh nghiệp. Dĩ nhiên, không có quốc gia nào chỉ đơn thuần áp dụng một cơ chế duy nhất mà thường có sự kết hợp nhiều loại cơ chế trung gian, ví dụ như cơ chế được quy định tại Nghị định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu với sự kết hợp hai cơ chế nêu trên, theo đó có thể mở một thủ tục chính tại một nước và nhiều thủ tục phụ tại nhiều nước khác để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. I. MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ Đây là vấn đề chủ yếu được tư pháp quốc tế quan tâm. Thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia trong việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp được xác định theo 2 cơ chế: cơ chế thẩm quyền trực tiếp (Tòa án trực tiếp thụ lý đơn giải quyết vụ phá sản) và cơ chế thẩm quyền gián tiếp (thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Tòa án nước ngoài). A. MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO CƠ CHẾ THẨM QUYỀN TRỰC TIẾP Thẩm quyền trực tiếp của Tòa án trong việc quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp được xác định theo 2 loại tiêu chí. Theo quan điểm của pháp luật quốc tế, đặc biệt là theo tập quán quốc tế, loại tiêu chí thứ nhất được coi là tiêu chí cơ bản và không phải bàn cãi về tính phổ biến của nó (a). Các tiêu chí khác là tiêu chí phụ và còn có nhiều vấn đề cần làm rõ(b). a. Tiêu chí cơ bản: Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp Như chúng ta đã xem xét trong phần dẫn đề, quan điểm cho rằng thủ tục giải quyết phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu được xây dựng dựa trên tiêu chí này. Thực vậy, dường như trong mọi trường hợp, thủ tục phá sản đều có thể mở tại nước có trụ sở chính của doanh nghiệp, tức là tại nơi doanh nghiệp mắc nợ thực sự quản lý lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, do đó doanh nghiệp mắc nợ có thể đưa ra được những chứng cứ về những lợi nhuận đó. Tiêu chí này được quy định trong tư pháp quốc tế của Cộng hòa Pháp để xác định thẩm quyền của Tòa án Pháp đối với việc mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp cả đối với thủ tục thuần túy trong nước và thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài. Theo điều 1 khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1980: "Trên phương diện lãnh thổ, tòa án có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp là tòa án nơi doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính". Do đó, nếu không trái với trường hợp quy định tại phần b sau đây thì chúng ta có thể suy ra rằng nếu doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính tại nước Pháp thì tòa án Pháp có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý đối với doanh nghiệp mắc nợ. Tiêu chí này cũng được quy định trong Nghị định số 1346/2000 nhưng dưới một hình thức khác. Điều 3 Nghị định này quy định: "Tòa án của nước thành viên có thẩm quyền mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán là tòa án nơi tập trung những lợi ích chính của doanh nghiệp mắc nợ". Cũng theo điều khoản này, nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi tập trung các lợi ích chính của công ty hoặc pháp nhân được xác định theo điều lệ. Điều này cũng được công nhận trong án lệ của Pháp. Tuy nhiên, nơi đặt trụ sở hoặc nơi tập trung các lợi ích chính xác định theo điều lệ chỉ là một suy đoán đơn giản và có thể bị phản bác nếu có chứng cứ ngược lại chứng minh rằng trụ sở được quy định trong điều lệ là không có thật và "tất cả hoặc hầu như tất cả các hoạt động của công ty đều thực hiện ở một nơi khác" (theo một bản án của Tòa án Tư pháp tối cao). Chúng ta cũng thường gặp khó khăn khi xác định trụ sở chính thực tế của nhóm công ty bởi lẽ trên phương diện pháp lý, các công ty con trong tập đoàn là những pháp nhân hoàn toàn độc lập quan hệ với nhau thông qua các mối quan hệ về tiền vốn. Tuy nhiên, do tất cả các công ty con nằm dưới sự quản lý của công ty mẹ cho nên chỉ có trụ sở chính của công ty mẹ được coi là trụ sở chính thực tế. Điều này còn gây nhiều tranh cãi. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp này trong phần sau. b. Các tiêu chí phụ Một số tiêu chí có thể được chấp nhận, một số khác thì ít được chấp nhận hơn. o Điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985 nói trên cho phép mở thủ tục phá sản trên lãnh thổ Pháp, nếu lãnh thổ Pháp là nơi "tập trung các lợi ích chủ yếu của doanh nghiệp mắc nợ ". Nếu đọc sơ qua thì có thể tưởng rằng quy định này giống với quy định trong Nghị định số 1346/2000 nhưng thực chất đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong Nghị định của Liên minh Châu Âu đề cập đến nơi tập trung các lợi ích chính, tức là trụ sở chính trong khi đó theo Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985 thì nơi tập trung các lợi ích chủ yếu tương ứng với cơ sở chính đặt tại Pháp. Ví dụ, doanh nghiệp không có trụ sở chính ở Pháp mà chỉ đặt một cơ sở thứ hai ở đó. Về mặt pháp lý, cơ sở thứ hai này khá độc lập, có ban lãnh đạo và một đội ngũ nhân viên cho phép nó có thể tiến hành đàm phán với các bên thứ 3. Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ thì có thể mở thủ tục phá sản tại nơi doanh nghiệp có cơ sở thứ hai nếu việc này nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ lợi ích của quốc gia hoặc, theo quan điểm hiện đại hơn, để đơn giản hóa thủ tục thanh lý các tài sản nằm tại nhiều nước khác nhau. Với mục đích đó, Nghị định 1346/2000 (điều 3.2° và các điều tiếp theo) quy định việc mở các thủ tục, còn gọi là các thủ tục phụ hoặc các thủ tục có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ tại các nước mà doanh nghiệp mắc nợ có cơ sở thứ hai, tức là tại các nước khác ngoài nước nơi tập trung các lợi ích chính hoặc nơi có trụ sở chính. o Trong tình hình phát triển mạnh mẽ hiện nay, pháp luật Pháp còn chấp nhận trường hợp mở thủ tục phá sản trong phạm vi lãnh thổ Pháp nếu doanh nghiệp mắc nợ chỉ có tài sản riêng lẻ ở Pháp hoặc nếu doanh nghiệp mắc nợ có quan hệ hợp đồng ở Pháp, thậm chí nếu các bên (doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ) có quốc tịch Pháp. Trường hợp cuối cùng được chấp nhận trên cơ sở áp dụng điều 14 và 15 Bộ luật Dân sự Pháp. Hai điều luật này tạo ra đặc quyền về thẩm quyền xét xử. Các điều kiện cho phép mở thủ tục giải quyết phá sản nói trên không giống với các điều kiện trong trường hợp mở thủ tục phụ giải quyết phá sản quy định tại Nghị định 1346/2000 do đó các trường hợp này không được đưa vào phạm vi áp dụng của Nghị định nêu trên. Hơn nữa, các điều kiện này cũng không phù hợp với cơ chế mở thủ tục giải quyết phá sản thứ hai: công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản do Tòa án nước ngoài tuyên. B. THẨM QUYỀN GIÁN TIẾP: VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI MỎ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, khi thủ tục phá sản được mở ở một nước thì liệu thủ tục đó có thể có hiệu lực đối với tất cả các nước khác thông qua cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản đó? a. Tư pháp quốc tế của Pháp mới đây đã chấp nhận quan niệm về hiệu lực toàn cầu của quyết định mở thủ tục phá sản trong bản án Banque Worms nổi tiếng ngày 19 tháng 11 năm 2002. Lần đầu tiên, bản án này tuyên: "Căn cứ nguyên tắc hiệu lực toàn cầu của thủ tục giải quyết phá sản… … Nếu không trái với các điều ước quốc tế hoặc các văn bản của Liên minh Châu Âu và phù hợp với trật tự pháp luật của các nước khác thì thủ tục phục hồi doanh nghiệp được mở tại Pháp có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản …" Phản ứng của các cơ quan chức năng nước ngoài về vấn đề này là điều tất yếu. Họ có thể không thừa nhận hiệu lực của quyết định mở thủ tục phá sản của Toà án Pháp trên lãnh thổ nước mình ngay cả khi trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại Pháp. Trong khi đó, về lý thuyết quyết định mở thủ tục phá sản đó có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Ngược lại, án lệ của Pháp luôn luôn thừa nhận hiệu lực tại Pháp của các quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản của Toà án nước ngoài thông qua thủ tục công nhận và thi hành quyết định, bản án của tòa án nước ngoài trên nước Pháp, với những điều kiện được đánh giá tuỳ từng trường hợp cụ thể. Bản án Banque Worms chỉ có thể củng cố thêm quan điểm này là một quan điểm có lợi cho giao lưu, hợp tác quốc tế. Trở ngại duy nhất đối với việc công nhận quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản của tòa án nước ngoài xuất hiện trong trường hợp một thủ tục giải quyết phá sản khác cũng đồng thời được mở tại Pháp. Tòa Thương mại Tòa án Tư pháp tối cao của Pháp đã ngầm khẳng định điều này trong bản án ngày 11 tháng 4 năm 1995 liên quan đến vụ phá sản của ngân hàng BCCI Overseas: "Quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản của Toà án nước ngoài chỉ cản trở việc mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp đó tại Pháp trong trường hợp quyết định mở thủ tục phá sản đó được mặc nhiên thừa nhận trên cơ sở một Hiệp định hoặc có thủ tục công nhận và thi hành trên lãnh thổ Pháp đối với quyết định đó…". Nếu không có quy định nào khác trong các công ước quốc tế hoặc trong các văn bản pháp luật của Liên minh Châu Âu thì quy định này có nghĩa là nếu một thủ tục giải quyết phá sản đối với 1 doanh nghiệp đã được mở ở Pháp thì sau đó sẽ không chấp nhận thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án nước ngoài đối với cùng doanh nghiệp đó vì việc thực hiện cả hai quyết định này bị coi là không thể dung hòa được. Ngược lại, việc kiểm tra những điều kiện khác về công nhận các bản án của tòa án nước ngoài không có gì đặc biệt. Cụ thể, các tòa án của Pháp hầu như không viện dẫn quan điểm về trật tự công quốc tế, trước đây được sử dụng làm căn cứ không công nhận quyết định về phá sản doanh nghiệp của toà án nước ngoài. Chính vì vậy, toà án Pháp đã công nhận quyết định mở thủ tục phá sản của một người không phải là thương nhân của toà án nước ngoài. Pháp luật Pháp hiện nay và trong tương lai ngày càng thừa nhận nhiều trường hợp toà án nước ngoài mở thủ tục phá sản đối với một người không phải là thương nhân hoặc thừa nhận các trường hợp giải quyết phá sản mà thời gian thử thách lớn hơn 18 tháng là thời gian được quy định trong pháp luật của Cộng hòa Pháp. Về hiệu lực theo thời gian của quyết định công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Pháp quyết định của tòa án nước ngoài, nhận thức được khó khăn phát sinh do có một khoảng thời gian tương đối dài giữa thời điểm bản án nước ngoài được tuyên và việc công nhận, thi hành nó trên nước Pháp, cho nên Tòa án Tư pháp tối cao đã cho phép quyết định công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Pháp quyết định của tòa án nước ngoài có hiệu lực hồi tố. Điều này được thể hiện trong bản án Kléber ngày 25 tháng 2 năm 1986. Trong vụ việc này, một toà án ở Đan Mạch ra quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ và doanh nghiệp đó có một bất động sản ở Pháp, chủ nợ muốn kê biên tài sản đó trong khoảng thời gian sau khi có quyết định của tòa án Đan Mạch và trước khi có quyết định thừa nhận bản án đó trên lãnh thổ Pháp. Tòa án Tư pháp tối cao đã cho phép Tòa Phúc thẩm hủy bỏ những điều tra cá nhân trước khi có thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án Đan Mạch. b. Theo cơ chế quy định trong Nghị định số 1346/2000, cần phải nhấn mạnh hai yếu tố sau. o Điều 16 và 17 Nghị định khẳng định nguyên tắc một nước thành viên trong Liên minh Châu Âu sẽ thừa nhận các quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của toà án các nước thành viên khác. Điều 16, khoản 1 quy định: "Tất cả các quyết định mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của tòa án có thẩm quyền của một quốc gia thành viên … được thừa nhận tại tất cả các quốc gia thành viên khác ngay khi quyết định đó có hiệu lực tại quốc gia mở thủ tục" và điều 17 khoản 1 nhấn mạnh rằng quyết định này được mặc nhiên thừa nhận mà không cần phải qua bất cứ một thủ tục nào. Do đó, theo pháp luật của Liên minh Châu Âu, chúng ta không gặp phải vấn đề khó khăn như khi giải quyết vụ án Kléber bởi vì ở đây không còn khoảng thời gian trống, cùng một lúc quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản có hiệu lực ở tất cả các nước. Tuy nhiên, một khó khăn lớn đặt ra liên quan đến vụ việc đang được Toà án Tư pháp tối cao xem xét. Nghị định của Liên minh Châu Âu không hề quy định cụ thể về việc xác định xem toà án nước ngoài có thực sự có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản đó hay không. Phần nói đầu của Nghị định cũng không đề cập vấn đề này. Nguyên tắc tin tưởng lẫn nhau giữa các toà án của các quốc gia thành viên là cơ sở cho việc xây dựng một không gian tư pháp Châu Âu dường như đã cản trở việc kiểm tra thẩm quyền của thẩm phán nước ngoài. Tuy nhiên, nguyên tắc trên đã bộc lộ nhược điểm trong vụ việc mà Toà án Tư pháp tối cao đang giải quyết liên quan đến một tập đoàn đa quốc gia. Trong vụ việc này, công ty mẹ có trụ sở chính tại Anh, các công ty con đặt tại nhiều nước Châu Âu trong đó có nước Pháp. Theo phần (A, a) trên đây, các công ty con được coi là các con nợ độc lập. Do vậy, một Tòa án thương mại của Pháp đã tuyên bố mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp đối với công ty con ở Pháp và đưa ra kế hoạch chuyển nhượng tài sản đối với công ty con đó. Tuy nhiên, trước đó, một tòa án ở Anh cho rằng, trụ sở chính theo điều lệ của công ty con đó đặt tại Pháp (nơi đăng ký kinh doanh của công ty con), còn trụ sở chính thực tế của công ty con lại ở Anh (nơi có trụ sở chính của công ty mẹ). Dựa trên căn cứ này, Tòa án Anh đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với công ty con ở Pháp. Về phần mình, trong bản án phúc thẩm ngày 4 tháng 9 năm 2003, Tòa Phúc thẩm Versailles của Cộng hòa Pháp cho rằng, áp dụng Nghị định số 1346/2000, phải công nhận quyết định của tòa án Anh và chấm dứt thủ tục giải quyết phá sản mở tại Pháp cũng như kế hoạch phục hồi doanh nghiệp nói trên. Tòa án Tư pháp tối cao có thể đưa vụ việc này lên Tòa án Công lý Châu Âu. Tuy nhiên, điều đáng lo là trong trường hợp xảy ra những vụ việc khác tương tự, thì sẽ khó có thể đồng thời mở tại Pháp một thủ tục phụ giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, vì tòa án Anh vẫn cho rằng công ty con ở Pháp chỉ là một cơ sở hai của công ty mẹ. Như vậy, có lẽ cần phải có một giải pháp dung hòa. o Thực vậy, khác với cơ chế của tư pháp quốc tế, mặc dù vẫn công nhận thủ tục chính giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, cơ chế quy định trong Nghị định 1346/2000 cho phép mở thủ tục phụ giải quyết phá sản và quyết định mở thủ tục này chỉ có hiệu lực đối với những tài sản của con nợ nằm trên lãnh thổ của quốc gia nơi con nợ đặt cơ sở thứ hai. Tuy vậy, các thủ tục phụ phải phối hợp chặt chẽ với thủ tục chính. Điều này đặt ra vấn đề tổ chức việc mở thủ tục giải quyết phá sản nói chung. II. TRÌNH TỰ TIẾN HÀNH THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ Trong tư pháp quốc tế, việc xác định nơi mở thủ tục phá sản có ý nghĩa quyết định vì nó liên quan đến vấn đề mấu chốt là giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, một khi đã mở thì trình tự thủ tục phá sản được tiến hành xoay quanh hai nội dung cơ bản. Đó là xác định luật áp dụng (A) và phối hợp các thủ tục phá sản doanh nghiệp diễn ra đồng thời tại hai hay nhiều quốc gia khác nhau (B). A. LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI THỦ TỤC PHÁ SẢN a. Theo quy định chung trong tư pháp quốc tế của Cộng hòa Pháp, luật áp dụng đối với thủ tục phá sản – thuật ngữ La tinh gọi là lex concursus – là luật của quốc gia nơi mở thủ tục phá sản. Như vậy, trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, chính giải pháp giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử sẽ quyết định giải pháp giải quyết xung đột pháp luật, bởi vì pháp luật của nước nơi có tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản (lex fori) là luật áp dụng đối với thủ tục phá sản. Quan điểm này của pháp luật Pháp không thay đổi, cho dù thủ tục phá sản được trực tiếp mở theo quyết định của tòa án Pháp (xem phần I, A, ở trên) hay theo quyết định của tòa án nước ngoài rồi được công nhận tại Pháp (xem phần I, B, ở trên), bởi vì về nguyên tắc, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài về phá sản không có hiệu lực làm cho bản án, quyết định đó trở thành bản án, quyết định của tòa án trong nước. Thủ tục phá sản nếu được mở theo quyết định của tòa án nước ngoài, thì về cơ bản, vẫn là thủ tục của nước ngoài và chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước đó. Gần như không có hạn chế nào về phạm vi áp dụng của pháp luật được dẫn chiếu để điều chỉnh quan hệ phá sản. Pháp luật của một nước nếu được lựa chọn sẽ được áp dụng đối với mọi vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết phá sản, trong đó xác minh các khoản nợ là thủ tục cơ bản nhất. b. Quan điểm chủ đạo này của Pháp cũng được thể hiện trong Nghị định số 1346/2000. Khoản 1°, Điều 4 của Nghị định này khẳng định nguyên tắc chung theo đó, "…luật áp dụng đối với thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán và hiệu lực của thủ tục đó là luật của quốc gia thành viên nơi mở thủ tục". Nguyên tắc này cũng áp dụng đối với các thủ tục phụ (Điều 28). Khoản 2° Điều 4 đã liệt kê cụ thể và tương đối đầy đủ mọi vấn đề liên quan: các vấn đề chung gồm có điều kiện mở thủ tục, trình tự diễn biến và chấm dứt thủ tục; các vấn đề cụ thể hơn gồm có những người mắc nợ liên quan, tài sản cần xử lý theo thủ tục, cách xử lý đối với những tài sản mà doanh nghiệp mắc nợ có sau khi mở thủ tục, quyền của doanh nghiệp mắc nợ và đại diện chủ nợ, bù trừ nghĩa vụ, cách giải quyết đối với các hợp đồng đang có hiệu lực, quyền tham gia tố tụng của chủ nợ với tư cách cá nhân, nộp giấy đòi nợ và các giấy tờ chứng minh, phân chia tiền bán tài sản thanh lý, quyền của các chủ nợ sau khi chấm dứt thủ tục, các giao dịch bị coi là vô hiệu, giao dịch không có hiệu lực pháp lý đối với tập thể chủ nợ… Tuy nhiên, bên cạnh nguyên tắc chung này, Nghị định còn đưa ra hai ngoại lệ rất quan trọng như sau: o Về giải quyết xung đột pháp luật, đôi khi, không giống như quy định trong tư pháp quốc tế của Pháp, đối với một số vấn đề nhất định, Nghị định quy định luật áp dụng là các hệ thống pháp luật khác với pháp luật áp dụng đối với thủ tục phá sản. Đó là các vấn đề như: * quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng bất động sản: chịu sự điều chỉnh của luật của quốc gia nơi có bất động sản (Điều 8), * hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản doanh nghiệp đối với hợp đồng lao động: chịu sự điều chỉnh của luật áp dụng đối với hợp đồng lao động (Điều 10), * hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản doanh nghiệp đối với một vụ kiện đang trong quá trình xét xử: áp dụng luật của quốc gia thành viên nơi vụ kiện đang được xét xử (Điều 15), * các vật quyền (Điều 5) – gồm cả các quyền phát sinh từ bảo lưu quyền sở hữu (Điều 7) – của các chủ nợ hoặc của người thứ ba đối với động sản hoặc bất động sản mà doanh nghiệp mắc nợ đang chiếm hữu vào thời điểm mở thủ tục và tài sản đó nằm trên lãnh thổ một nước không phải là nước nơi mở thủ tục. Các quyền này không bị ảnh hưởng bởi việc mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, cho nên không phải chịu sự điều chỉnh của luật áp dụng đối với thủ tục này. Đây là ngoại lệ lớn nhất của Nghị định liên quan đến phạm vi áp dụng của pháp luật được dẫn chiếu để điều chỉnh thủ tục phá sản. Điều này cũng làm giảm tính chất toàn cầu của Nghị định này. o Đôi khi, Nghị định không sử dụng phương pháp xung đột mà sử dụng các quy phạm thực chất, tức là các quy phạm trực tiếp đưa ra một giải pháp điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, độc lập với các hệ thống pháp luật có thể áp dụng đối với quan hệ này, chứ không dẫn chiếu đến bất cứ quy định nội luật nào như trường hợp của quy phạm xung đột. o Các quy phạm thực chất có trong Nghị định chủ yếu liên quan đến thủ tục xác minh các khoản nợ của doanh nghiệp mắc nợ. Trong khi Điều 4.2.g) và h) dẫn chiếu đến luật của quốc gia nơi mở thủ tục phá sản để xác định các khoản nợ cần xuất trình giấy tờ chứng minh và các thủ tục liên quan đến việc xuất trình, thì Điều 32.1 và Điều 39 lại khẳng định rằng mọi chủ nợ, cụ thể là mọi chủ nợ có trụ sở tại một quốc gia thành viên khác với quốc gia nơi mở thủ tục, đều có quyền gửi giấy tờ chứng minh nợ trong mọi thủ tục chính hoặc thủ tục phụ về giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán. Như vậy, tất cả những quy định hạn chế về vấn đề này nếu có trong luật áp dụng đối với thủ tục phá sản (lex concursus) (thường do quy phạm xung đột của Nghị định dẫn chiếu đến) thì đều không được áp dụng. Hơn nữa, Nghị định còn trực tiếp quy định cụ thể về các phương thức thông báo cho từng chủ nợ và phương thức khai báo nợ của "các chủ nợ đã biết và có nơi thường trú, nơi cư trú hoặc trụ sở tại các quốc gia thành viên khác", theo mẫu quy định tại Điều 40. Theo Nghị định, nội dung thông tin bắt buộc phải nêu trong thông báo vẫn là những thông tin tương đối quen thuộc (thời hạn khai báo nợ, các biện pháp chế tài liên quan đến thời hạn, cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận chứng từ, tài liệu được xuất. trình, nghĩa vụ khai báo nợ có được áp dụng đối với chủ nợ có bảo đảm hoặc có quyền ưu tiên hay không). Tuy nhiên, về ngôn ngữ sử dụng trong thông báo yêu cầu khai báo nợ và nhất là việc thông báo cho ai, thì cần được làm rõ thêm: 􀂃 Theo Điều 42, yêu cầu cung cấp thông tin về khoản nợ phải sử dụng ngôn ngữ chính thức của quốc gia nơi mở thủ tục, nhưng để thu hút sự chú ý của người nhận, thì thông báo yêu cầu cung cấp thông tin hoặc mẫu khai báo phải có một tiêu đề thống nhất ("Thông báo yêu cầu khai báo nợ. Thời hạn khai báo") được ghi bằng mọi ngôn ngữ chính thức - hiện nay là 20 - của Liên minh Châu Âu. 􀂃 Chúng ta đã biết là việc mở thủ tục phá sản không làm ảnh hưởng đến quyền của một số chủ nợ. Do vậy, để có thể áp dụng Nghị định này tại Pháp thì vấn đề cần đặt ra một cách nghiêm túc là liệu có phải thông báo cho các chủ nợ mà vật quyền của họ được thực hiện bên ngoài quốc gia nơi mở thủ tục hay không. Hiện nay có hai quan điểm đối lập nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng Điều 40 nói trên yêu cầu phải thông báo cho mọi chủ nợ và không có ngoại lệ khi áp dụng. Như vậy, nếu thủ tục phá sản được mở theo quyết định của tòa án Pháp, thì chủ nợ phải khai báo nợ, nếu không sẽ mất quyền đòi nợ, trừ trường hợp chủ nợ đó không được thông báo. Vì thế, cần phải thông báo cho mọi chủ nợ liên quan. Từ đó có thể suy ra rằng nếu chủ nợ đã được thông báo theo đúng quy định mà không tiến hành khai báo nợ thì chủ nợ đó sẽ không thể thực hiện được quyền của mình nữa, trừ phi theo luật của nước nơi có tài sản bảo đảm, quyền này có một biện pháp bảo đảm riêng. Quan điểm thứ hai – và có lẽ đây là giải pháp hợp lý – căn cứ vào Điều 5 của Nghị định, quy định về các quyền mà chủ nợ có thể giữ. Theo quan điểm này, nếu như vật quyền của một chủ nợ nào đó không bị ảnh hưởng bởi việc mở thủ tục phá sản theo quyết định của tòa án Pháp (do tòa án Pháp không thể tiến hành kê biên tài sản ở nước ngoài), thì chủ nợ đó không cần phải khai báo nợ, bởi vì anh ta không thể mất quyền của mình (do theo quy định của Nghị định, quyền đó không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Pháp là luật được áp dụng đối với thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp), và hơn nữa, cũng bởi vì không cần phải thông báo yêu cầu chủ nợ thực hiện một thủ tục vô ích đối với họ và nếu không tuân thủ thì cũng không bị áp dụng chế tài. Về vấn đề khai báo nợ của chủ nợ, Nghị định cũng sử dụng các quy phạm thực chất. Trước hết, liên quan đến khả năng khai báo nợ với tư cách tập thể do đại diện chủ nợ nước ngoài thực hiện, mặc dù Điều 18 của Nghị định đã quy định nguyên tắc theo đó, đại diện chủ nợ trong thủ tục chính có thể thực hiện tại tất cả các nước thành viên không phải là nước nơi mở thủ tục "mọi quyền theo quy định của pháp luật của nước nơi mở thủ tục", nhưng đến quy phạm thực chất tại Điều 32.2, Nghị định lại quy định thêm rằng trong trường hợp cần thiết, đại diện chủ nợ trong thủ tục chính cũng như trong thủ tục phụ đều có thể khai báo trong mọi thủ tục phá sản khác các khoản nợ đã được khai báo trong thủ tục mà họ được chỉ định làm đại diện. Tuy nhiên, các chủ nợ liên quan tham gia tố tụng với tư cách cá nhân có thể phản đối việc đó. Tất nhiên, đại diện chủ nợ nước ngoài phải chứng minh tư cách được chỉ định làm đại diện của mình, nhưng việc này rất dễ, vì theo quy định tại Điều 19, họ chỉ cần xuất trình bản sao y bản chính (không cần thủ tục nào khác như hợp thức hóa...) của quyết định chỉ định họ làm đại diện chủ nợ, hoặc được tòa án nước ngoài chứng nhận; nếu có yêu cầu, các tài liệu này phải được dịch sang ngôn ngữ theo quy định. Liên quan đến ngôn ngữ sử dụng trong tài liệu khai báo nợ, Điều 42.2) có quy định rõ ràng cho phép chủ nợ nộp giấy đòi nợ và tài liệu chứng minh nợ bằng ngôn ngữ chính thức hoặc một trong các ngôn ngữ chính thức của nước nơi lập chứng từ đó, với điều kiện duy nhất là sử dụng song song nhiều ngôn ngữ (tương tự như trong trường hợp thông báo cho các chủ nợ) nhằm thu hút được sự chú ý về nội dung của các cơ quan có nhiệm vụ tiếp nhận tài liệu xuất trình, bằng cách sử dụng tiêu đề bằng ngôn ngữ của quốc gia nơi mở thủ tục phá sản: "khai báo nợ". Khi nhìn vào tiêu đề này, đại diện của chủ nợ hoặc người thanh lý tài sản ở Pháp không thể không biết nội dung của tài liệu họ nhận được và họ có thể, chứ không bắt buộc, yêu cầu chủ nợ nộp bản dịch toàn vẹn nội dung của tài liệu. Như vậy, bản dịch không còn là điều kiện bắt buộc để giấy tờ chứng minh nợ có hiệu lực pháp luật. Về nội dung, hồ sơ khai báo nợ không cần phải có nhận xét cụ thể, mà chỉ cần bao gồm các thông tin cơ bản như: tính chất của khoản nợ, ngày phát sinh nợ, giá trị khoản nợ, các chứng từ chứng minh, yêu cầu có biện pháp bảo đảm. Pháp luật Pháp cũng như pháp luật Châu Âu (Điều 41 Nghị định) đều quy định như vậy. Điều kỳ lạ là không có quy định cụ thể về loại tiền tệ sử dụng trong khai báo nợ, có thể là do đã có đồng euro, đồng tiền gần như duy nhất tại Châu Âu, nên sẽ giúp cho vấn đề trở nên đơn giản hơn nhiều. Vì thế, theo nguyên tắc chung, cần phải tuân theo luật được lựa chọn để áp dụng đối với thủ tục phá sản. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Pháp, Điều 51, khoản 2 của Luật ban hành ngày 25/1/1985 (nay là Điều L. 621-44 của Bộ luật thương mại) yêu cầu chủ nợ khi khai báo khoản nợ của mình đối với doanh nghiệp mắc nợ bị áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thanh lý tài sản, phải đổi giá trị khoản nợ của mình sang đồng euro "theo tỷ giá của ngày có quyết định mở thủ tục phá sản", nếu số tiền trên hợp đồng ghi bằng ngoại tệ. Quy định này ngược với quy định chung về thanh toán, bởi vì giá trị chuyển đổi sang đồng tiền của địa điểm thanh toán thường được xác định theo tỷ giá của ngày thanh toán. Tuy nhiên, đây lại là quy định truyền thống trong pháp luật về phá sản (Bản án của Tòa dân sự, Tòa án Tư pháp tối cao, tuyên ngày 17/11/1930 cũng giải quyết theo hướng này). Hệ quả của nó là quy giá trị của khoản nợ vào giá trị trong ngày có quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ, nhằm mục đích đơn giản hóa việc thanh toán nợ và tránh phải tính đến sự biến động của tỷ giá sau này. Nhưng cùng với thủ tục phục hồi doanh nghiệp, thanh toán nợ là mục tiêu của pháp luật về phá sản nên chúng ta cũng cần quan tâm đến mối quan hệ giữa các thủ tục phá sản được mở theo quyết định của các tòa án ở các nước khác nhau. B. PHỐI HỢP CÁC THỦ TỤC PHÁ SẢN ĐƯỢC MỞ TẠI NHIỀU NƯỚC KHÁC NHAU Ở đây không xem xét trường hợp một quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án nước ngoài được mở rộng phạm vi hiệu lực sang một nước khác, như nước Pháp, qua thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài. Bởi vì trong trường hợp đó, xét trên phương diện pháp lý thì vẫn chỉ có một thủ tục phá sản duy nhất. Vấn đề cần xem xét ở đây là vấn đề tồn tại song song đồng thời nhiều thủ tục giải quyết phá sản. Tư pháp quốc tế của Pháp và Nghị định số 1346/2000 đưa ra hai mô hình phối hợp rất khác nhau, trong đó, mô hình theo Nghị định được quy định cụ thể hơn nhiều. Vấn đề chính đặt ra ở đây là việc công nhận cho các chủ nợ tham gia vào thủ tục mở theo quyết định của tòa án nước này hay thủ tục mở theo quyết định của tòa án nước kia. a. Tư pháp quốc tế của Pháp chỉ có một án lệ đã cũ về hậu quả xảy ra khi một chủ nợ tham gia vào nhiều thủ tục phá sản diễn ra đồng thời trên thực tế, trong đó một thủ tục được mở theo quyết định của tòa án Pháp, thủ tục kia được mở theo quyết định của tòa án nước ngoài (tuy chưa được công nhận và cho thi hành tại Pháp, nhưng rất khó có thể phủ nhận sự tồn tại của nó). Phải làm sao để có thể tính đến các khoản nợ đã được thanh toán ở nước ngoài trong khuôn khổ một thủ tục phá sản được mở đồng thời với thủ tục mở tại Pháp. Có thể sử dụng một hay đúng hơn là nhiều biện pháp hiệu chỉnh. Tòa án Pháp chưa có ý kiến gì vì cho đến nay, chưa có vụ việc nào được đưa ra Tòa án Tư pháp tối cao. Trái lại, các nhà lý luận đã đề xuất nhiều cách thức để lập lại sự bình đẳng giữa các chủ nợ, từ việc khấu trừ số tiền đã được thanh toán trong thủ tục phá sản mở theo quyết định của tòa án nước ngoài vào giá trị khoản nợ khai báo tại Pháp hoặc vào giá trị khoản lợi tức nhận được trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án Pháp, cho đến việc báo cáo trong thủ tục mở tại Pháp về khoản lợi tức đã nhận được ở nước ngoài. Nhưng lập lại sự bình đẳng vẫn là một việc không dễ, do gặp phải khó khăn về chứng cứ. Một bản án cũ của Tòa giải quyết kháng nghị, kháng cáo, Tòa án Tư pháp tối cao, tuyên ngày 30/6/1887 trong vụ Faillite Lyonnet, đã chứng minh điều đó: đại diện chủ nợ có nghĩa vụ chứng minh về việc một chủ nợ đã nhận được một khoản thanh toán trên số tiền thu được từ việc xử lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ở ngoài nước Pháp, nếu không chứng minh được thì toàn bộ khoản nợ theo khai báo của chủ nợ đó sẽ được công nhận trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án Pháp mà không bị khấu trừ. Còn trong trường hợp đã có một thỏa thuận xử lý nợ ở nước ngoài, bản án của Tòa dân sự, Tòa án Tư pháp tối cao, tuyên ngày 21/7/1903 - tuy đã cũ nhưng vẫn là án lệ xác đáng nhất – quyết định rằng các chủ nợ dù đã thỏa thuận xóa nợ cho doanh nghiệp mắc nợ trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án nước ngoài, vẫn có thể kiện đòi doanh nghiệp mắc nợ đó tại Pháp mà không tính đến thỏa thuận xóa nợ kia, chừng nào quyết định công nhận thỏa thuận xử lý nợ của tòa án nước ngoài chưa được công nhận và cho thi hành tại Pháp. Như vậy, quyết định công nhận thỏa thuận xử lý nợ - hoặc quyết định công nhận mọi phương án xử lý nợ khác, chẳng hạn như kế hoạch cho doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động theo quy định của pháp luật Pháp - là ví dụ điển hình của quyết định thông qua một giải pháp trong một thủ tục phá sản mà việc công nhận và cho thi hành thủ tục đó lại liên quan đến một quyết định khác với quyết định mở thủ tục phá sản. Ngược lại, theo quy định chung của pháp luật Pháp, các giải pháp liên quan đến việc thanh toán nợ do Tòa án Pháp thụ lý giải quyết phá sản quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến và được sự đồng ý thể hiện một cách rõ ràng hoặc qua sự im lặng của các chủ nợ43, hoặc do Tòa án áp đặt cho các chủ nợ không đồng ý, sẽ chỉ được công nhận ở nước ngoài theo các nguyên tắc tư pháp quốc tế của nước sở tại. Nhưng tòa án nước này có thể viện dẫn khái niệm trật tự công quốc tế để bác bỏ các biện pháp xóa nợ hoặc giãn nợ đã bị áp đặt một cách quá dễ dàng và trái với ý muốn của các chủ nợ. b. Nghị định số 1346/2000 mang lại những giải pháp cụ thể hơn, dựa trên một mô hình khác để phối hợp các thủ tục giải quyết phá sản, với căn cứ chính là khả năng tồn tại đồng thời và có tổ chức một thủ tục chính và các thủ tục phụ. Nhìn chung, mô hình này xuất phát từ quan điểm cho rằng không thể chấp nhận được việc một chủ nợ được nhận phần thanh toán lớn hơn tổng giá trị khoản nợ của họ - trong trường hợp có thể, do tổng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nằm phân tán ở nhiều nước – hoặc có tỷ suất lợi tức cao hơn so với tỷ suất lợi tức áp dụng đối với các chủ nợ khác có cùng điều kiện với mình, nhưng chỉ khai báo nợ trong một thủ tục duy nhất. Theo quy định tại Điều 20.2°, chủ nợ nào đã được chia lợi tức theo một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, nếu không bị ngăn cấm và cũng không được miễn nghĩa vụ khai báo nợ trong một thủ tục khác, thì sẽ chỉ được phân chia tiền bán tài sản thanh lý trong thủ tục thứ hai khi các chủ nợ có cùng thứ tự ưu tiên với họ cũng nhận được khoản lợi tức tương tự trong thủ tục thứ nhất. Tương tự như vậy, sau khi mở thủ tục chính để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán (quyết định mở thủ tục này được mặc nhiên công nhận trong mọi quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu), nếu một chủ nợ được thanh toán, đặc biệt là thông qua một biện pháp cưỡng chế thi hành tại một nước không phải nước nơi mở thủ tục chính – và không có thủ tục phụ nào được mở tại nước thứ hai này – thì theo quy định tại Điều 20.1° của Nghị định, chủ nợ đó sẽ phải hoàn trả cho đại diện chủ nợ phần thanh toán đã nhận từ việc đòi nợ với tư cách cá nhân, trừ các trường hợp ngoại lệ liên quan đến các vật quyền và điều khoản bảo lưu quyền sở hữu như đã xem xét ở trên. Nghị định cũng quy định rõ tại Điều 25.1° như sau: thỏa thuận xử lý nợ nếu được toà án có quyết định mở thủ tục chính công nhận thì sẽ đương nhiên được công nhận tại mọi quốc gia thành viên, nhưng để thi hành tại nước nào thì tòa án nước đó phải có quyết định trao hiệu lực thi hành cho thỏa thuận này. Cũng xuất phát từ việc có thể mở thủ tục phụ với hiệu lực hạn chế theo lãnh thổ, nên Nghị định đã phải xem xét đến hiệu lực của thỏa thuận xử lý nợ đạt được trong khuôn khổ thủ tục phụ, mặc dù thủ tục này chỉ thuần túy nhằm thanh lý tài sản như chúng ta đã thấy. Vấn đề này được quy định tại Điều 34. Theo Điều này, đại diện chủ nợ trong thủ tục chính luôn có căn cứ để đề xuất một phương án xử lý nợ hoặc phương án phục hồi doanh nghiệp làm phương án giải quyết trong thủ tục phụ, nếu luật áp dụng đối với thủ tục phụ có quy định. Việc này cho phép đại diện chủ nợ trong thủ tục chính giữ được quyền kiểm soát nhất định đối với toàn bộ thủ tục giải quyết phá sản của một doanh nghiệp. Nhưng quyền kiểm soát này sẽ không tuyệt đối nếu phương án xử lý nợ không do đại diện chủ nợ trong thủ tục chính đề xuất. Bởi vì cũng theo quy định tại Điều 34, tuy một thỏa thuận xử lý nợ đạt được trong thủ tục phụ chỉ trở thành thỏa thuận xử lý nợ chính thức khi có sự đồng ý của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính, nhưng sự phản đối của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính không cản trở được việc thông qua thỏa thuận xử lý nợ đó, nếu thỏa thuận này “không ảnh hưởng đến các lợi ích tài chính của các chủ nợ trong thủ tục chính”. Đây là một tiêu chí quá mơ hồ. Về vấn đề này, ông Virgos và ông Schmidt, những người đã lập báo cáo về dự thảo Công ước Bruxelles về các thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán (dự thảo đã bị bác bỏ ngày 23/11/1995, nhưng các quy định của nó đã được sử dụng lại trong Nghị định số 1346/2000), giải thích rằng “lợi ích tài chính được xác định trên cơ sở đánh giá về tác động của phương án phục hồi doanh nghiệp hoặc thỏa thuận xử lý nợ đối với phần lợi tức đem phân chia cho các chủ nợ trong thủ tục chính. Sau khi phần tài sản còn dư trong thủ tục phụ được chuyển giao sang thủ tục chính do không có phương án phục hồi doanh nghiệp hoặc thỏa thuận xử lý nơ, nếu các chủ nợ trong thủ tục chính không thể có căn cứ để mong đợi được chia tài sản nhiều hơn, thì có nghĩa là biện pháp được đề xuất không làm ảnh hưởng đến lợi ích tài chính của họ”. Tuy nhiên, như François Mélin đã viết, “việc đánh giá này chắc chắn sẽ rất khó thực hiện”. Khoản §3 của Điều 34 khẳng định lại ưu thế của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính trong trường hợp tạm đình chỉ thực hiện các biện pháp thanh lý tài sản trong khuôn khổ thủ tục phụ theo quy định tại Điều 33 của Nghị định, bởi vì trong thời gian tạm đình chỉ này, đại diện chủ nợ trong thủ tục chính là người duy nhất có quyền đề xuất phương án xử lý nợ trong thủ tục phụ. Điều này dễ hiểu bởi lẽ việc tạm đình chỉ là vì lợi ích của các chủ nợ trong thủ tục chính. Từ một góc độ rộng hơn, Điều 31 của Nghị định yêu cầu các đại diện chủ nợ phải có nghĩa vụ hợp tác và trao đổi thông tin với nhau, nhằm phối hợp toàn bộ các thủ tục giải quyết phá sản đối với một doanh nghiệp. KẾT LUẬN Các quy định của tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất khó thực hiện. Đó là sự pha trộn tinh tế mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa trên phương diện pháp luật – ngày nay dựa trên ý chí của các quốc gia muốn nắm quyền kiểm soát trong việc cứu vãn các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Đồng thời, tư pháp quốc tế trong lĩnh vực phá sản cũng bắt đầu có xu hướng toàn cầu hơn, với điểm khởi đầu là Liên minh châu Âu. Nhưng điều cần lưu ý, như Jean-Luc Vallens đã viết, đó là Nghị định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu là thành quả của nửa thế kỷ nỗ lực và về cơ bản, mới chỉ đi đến thống nhất các quy phạm xung đột, xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử, chứ chưa xây dựng được một hệ thống quy phạm thực chất thống nhất về quan hệ phá sản để áp dụng chung trong mọi quốc gia thành viên, như trường hợp trong các Nhà nước liên bang.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.doc
Luận văn liên quan