Phần I: Nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Từ giữa thế kỷ XX thế giới đã chứng kiến một cuộc cách mạng công nghệ thông tin diễn ra như vũ bão, làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức, quan điểm và hoạt động của hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Với những ứng dụng và tiện ích vượt trội, trong thời đại ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước là xu thế tất yếu, là đòi hỏi cấp bách của tất cả các quốc gia. Khoa học công nghệ thông tin được xác định là một khâu có yếu tố mang tính đột phá và là giải pháp để xử lý nhanh nhạy, thông suốt các công việc của bộ máy nhà nước. Đối với Việt Nam việc ứng dụng công nghệ thông tin còn là để hướng tới đảm bào hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước tập thể và công dân vì mục tiêu cải cách hoạt động của chính phủ và các cơ quan nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu lực hiệu quả chỉ đạo điều hành.

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3821 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phần I: Nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Từ giữa thế kỷ XX thế giới đã chứng kiến một cuộc cách mạng công nghệ thông tin diễn ra như vũ bão, làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức, quan điểm và hoạt động của hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Với những ứng dụng và tiện ích vượt trội, trong thời đại ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước là xu thế tất yếu, là đòi hỏi cấp bách của tất cả các quốc gia. Khoa học công nghệ thông tin được xác định là một khâu có yếu tố mang tính đột phá và là giải pháp để xử lý nhanh nhạy, thông suốt các công việc của bộ máy nhà nước. Đối với Việt Nam việc ứng dụng công nghệ thông tin còn là để hướng tới đảm bào hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước tập thể và công dân vì mục tiêu cải cách hoạt động của chính phủ và các cơ quan nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu lực hiệu quả chỉ đạo điều hành. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, công tác đăng ký quản lý cư trú trên phạm vi cả nước nhìn chung còn gặp một số khó khăn nhất định như thiếu các phương tiện, thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ chiến sỹ còn nhiều hạn chế về trình độ công nghệ thông tin, công tác bảo mật chưa thật sự đảm bảo, công tác chỉ đạo thực hiện vẫn còn những hạn chế nhất định. Đặc biệt chưa tạo ra được một hành lang pháp lý chặt chẽ về ứng dụng công nghệ thông tin để chỉ đạo quản lý thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ đăng ký quản lý cư trú chủ yếu là cấp Đội và cấp Phường nhưng đến nay chủ yếu đang dừng lại ở phương pháp quản lý thủ công đơn giản dựa trên hệ thống hồ sơ, sổ sách, giấy tờ lưu trữ cho nên mất rất nhiều thời gian, công sức, do đó nhiều yêu cầu nghiệp vụ chưa thể đáp ứng kịp thời, đầy đủ và chính xác. Trong thời gian qua, mặc dù việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú đã được Nhà nước, Bộ Công an quan tâm chỉ đạo đạt được những kết quả nhất định góp phần nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên do hoạt động quản lý cư trú là một lĩnh vực rộng và phức tạp và việc ứng dụng công nghệ thông tin mới bước đầu triển khai nên vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót, hạn chế, chất lượng hiệu quả ứng dụng chưa cao. Trên địa bàn quận Đống Đa hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú vẫn còn một số bất cập từ hệ thống cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, công tác bảo mật tới công tác chỉ đạo triển khai áp dụng đang phần nào làm hạn chế việc nâng cao hiệu quả quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Từ tình hình đó cho thấy một yêu cầu cấp bách mà Bộ Công an nói chung và Công an quận Đống Đa nói riêng là cần đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú để phục vụ đắc lực cho công tác quản lý xã hội của nhà nước cũng như nhiệm vụ quản lý cư trú. Từ những vấn đề đã phân tích trên bản thân em mạnh dạn đăng ký nghiên cứu đề tài khóa luận tốt nghiệp: “ Nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội theo chức năng của lực lượng cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội”. 2. Tình hình nghiên cứu. Do thấy được những hiệu quả to lớn mà việc ứng dụng CNTT mang lại cũng như tình hình mà các nước trên thế giới đã và đang ứng dụng, trong thời gian qua ở nước ta cũng đã có một số đề tài nghiên cứu về các nội dung liên quan tới công tác quản lý cư trú và ứng dụng CNTT vào quản lý cư trú như: - Đề tài “ Quản lý Nhà nước về hộ khẩu, nhân khẩu trong tình hình mới. Thực trạng và giải pháp” ( Đề tài cấp bộ- C13 tháng 7/ 1997). Đề tài này chỉ mang tính lý luận chung về công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu mà chưa đưa ra các giải pháp thực tế về ứng dụng CNTT trong quản lý cư trú. - Đề tài “Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới và cải tiến công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu.”( Đề tài cấp bộ) của Cục Cảnh sát QLHC về TTXH năm 2003. Đề tài này tập trung vào việc thiết lập một hệ thống phần mềm ứng dụng chuyên sâu về nghiệp vụ đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. - Đề tài “ Nghiên cứu ứng dụng tin học vào công tác quản lý hộ khẩu của Công an tỉnh Nghệ An”.( Đề tài cấp tỉnh tháng 10/2010). Tập trung nghiên cứu về việc xây dựng cơ sở dữ liệu về dân số, đáp ứng công tác quản lý nhà nước và hoạch định các chính sách liên quan đến quản lý dân cư. Những công trình đó đã phần nào tiếp cận tình hình và nghiên cứu trên các phạm vi khác nhau, các quan điểm cũng không hoàn toàn giống nhau. Kết quả các công trình nghiên cứu trên đã có ý nghĩa nhất định đối với hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú của các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ này. Tuy nhiên do đây là một vấn đề mới, liên quan nhiều tới các nội dung về CNTT, cũng như tính đa dạng và phức tạp của lĩnh vực nghiên cứu do vậy trên địa bàn quận Đống Đa đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này, chính vì vậy trong tình hình hiện nay rất cần có những nghiên cứu chuyên sâu trên từng nội dung, khía cạnh cụ thể để các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý cư trú có thể ứng dụng vào thực tiễn công tác. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tập trung làm rõ thực trạng hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Đống Đa hiện nay. Qua đó rút ra những ưu điểm cũng như tồn tại hiện nay đồng thời đề xuất các giải pháp tiến hành cụ thể. Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chủ yếu sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về CNTT, các cơ sở căn cứ pháp lý, các nội dung ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý cư trú. - Đánh giá tình hình ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Đống Đa. - Chỉ ra được những thuận lợi, cũng như khó khăn, hạn chế của hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. - Đề xuất các phương án giải quyết và các chính sách cần thực hiện trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu là hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. Đó là việc xây dựng phần mềm, thu thập, lưu trữ, tra cứu tìm kiếm, khai thác thông tin, cập nhật thông tin, tổng kết đánh giá. - Ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú là một lĩnh vực rộng và còn mới, vì vậy phạm vi của đề tài là tập trung vào việc nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức xúc nhất cần thực hiện trước mắt của công tác ứng dụng CNTT vào quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa, tài liệu nghiên cứu từ năm 2006-2010. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của Bộ Công an về chỉ đạo công tác quản lý cư trú, các văn bản chỉ đạo hoạt động ứng dụng CNTT vào quản lý cư trú. - Tiến hành khảo sát thực tế về công tác ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú tại Đội Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội và Công an các phường, trạm thuộc Công an quận Đống Đa thông qua nghiên cứu báo cáo tổng kết công tác năm, tổng kết công tác quý, báo cáo chuyên đề và báo cáo tổng kết các đợt cao điểm. - Nghiên cứu các tài liệu tham khảo, kinh nghiệm của các đơn vị trong thực hiện thí điểm ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. - Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, nghiên cứu điển hình, so sánh. - Tiến hành trao đổi với các cán bộ hướng dẫn và giáo viên hướng dẫn về các vấn đề có liên quan. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Về mặt lý luận: đề tài góp phần bổ sung vào hệ thống các tri thức lý luận về hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. Giúp bản thân nắm vững kiến thức về các vấn đề liên quan phục vụ cho công tác sau này. Về mặt thực tiễn: từ việc đề tài đã đi sâu nghiên cứu thực trạng và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú do đó Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và Công an các phường, trạm thuộc Công an quận Đống Đa có thể tham khảo, triển khai vào thực tiễn nhất là việc thực hiện chương trình xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong thời gian tới sẽ được triển khai trên địa bàn quận. Bên cạnh đó các đơn vị khác cũng có thể nghiên cứu, kết hợp với các tài liệu khác để ứng dụng vào công tác chuyên môn. 7. Cấu trúc của đề tài. Đề tài có cấu trúc gồm 4 phần: - Phần mở đầu. - Chương I: Thực trạng hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. - Chương II: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú . - Kết luận đề tài. CHƯƠNG 1 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO CÔNG TÁC QUẢN LÝ CƯ TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THEO CHỨC NĂNG CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI 1. Khái quát về địa bàn quận Đống Đa. 1.1 Vị trí địa lý, dân cư. Quận Đống Đa là một trong những quận nội thành, nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Hà Nội với diện tích là 9.96 km2. Phía Bắc giáp với quận Ba Đình, phía Đông Bắc giáp với quận Hoàn Kiếm, phía Đông giáp quận Hai Bà Trương, phía Nam giáp quận Thanh Xuân, phía Tây giáp quận Cầu Giấy. Quận được tổ chức thành 20 phường và 01 trạm - Ga Hà Nội. Trên địa bàn có khoảng 400 doanh nghiệp nhà nước, gần 300 doanh ngiệp tư nhân, xấp xỉ 250 công ty cổ phần, gần 3.500 công ty trách nhiệm hữu hạn. Bên cạnh đó còn có 11 trường Đại học, cao đẳng với gần 1.5 vạn sinh viên tạm trú, trên địa bàn quận tập trung nhiều cơ sở kinh doanh các ngành nghề có điều kiện về ANTT như : Nhà hàng, khách sạn, hiệu cầm đồ, karaoke, massage… Đặc biệt trên địa bàn có nhiều di tích lịch sử như Văn Miếu Quốc Tử Giám, Đàn Xã Tắc, Gò Đống Đa… Nhưng cũng tồn tại nhiều tụ điểm khá phức tạp như Ngõ chợ Khâm Thiên, trạm Ga Hà Nội gây nhiều khó khăn cho cơ quan Công an địa bàn Phường trong việc quản lý nhất là các tội phạm về tệ nạn xã hội, những yếu tố này đã và đang gây khó khăn không nhỏ cho lực lượng Công an trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Quận Đống Đa với số dân khoảng 400.000 người, mật độ dân số là 35.341 người/1km2, là một trong những quận đông dân nhất thành phố Hà Nội, với trên 83.000 hộ, bên cạnh đó hàng năm còn có một lượng lớn người ngoại tỉnh tới lao động theo thời vụ, học sinh, sinh viên tạm trú và một bộ phận không nhỏ người nước ngoài tới làm ăn sinh sống trên địa bàn. 1.2 Tình hình an ninh trật tự và công tác quản lý cư trú. 1.2.1. Tình hình an ninh trật tự. 1.2.1.1. Tình hình an ninh chính trị. - Trong năm 2010 Công an quận đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an toàn việc tổ chức Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra tại Hà Nội. - Đáng lưu ý nhà thờ Thái Hà là nơi thường tổ chức các sự kiện tôn giáo lớn, tập trung đông giáo sỹ, giáo dân của dòng chúa cứu thế ở Hà Nội và nhiều địa phương khác đến. Đa số các tu sỹ tại nhà thờ Thái Hà đều theo đường lối cực đoan, lợi dụng giáo dân, liên kết với các đối tượng cơ hội chính trị vào các hoạt động chống lại chính quyền. Nhà thờ thường xuyên không chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và địa phương. Đối với đạo Phật không có vấn đề gì phức tạp, đáng lưu ý là có 01 trường hợp có 04 người nước ngoài theo lời mời của một phật tử người Việt đến giảng đạo Phật thuộc phái Mật Tông tại nhà hàng Ba mẫu ( phường Trung Phụng) có khoảng 100 người đến dự. Đạo Tin Lành trên địa bàn có khoảng 10 nhóm tin lành tư gia nhỏ theo nhiều hệ phái khác nhau như Giêhôva, Bắptip hoạt động rời rạc, chưa thực hiện việc khai báo về việc đăng ký hoạt tôn giáo với chính quyền, một số tổ chức Tin lành lớn thuộc các địa phương khác thường thuê địa điểm tại khách sạn Kim Liên, nhà hàng Hoàng Gia để tổ chức các ngày lễ tôn giáo như Noel, phục sinh, tổng kết... các hoạt động này chỉ mang tính thuần túy tôn giáo, chấp hành đúng các quy định của địa phương. - Hoạt động của các đối tượng cơ hội chính trị: Công an quận hiện đang quản lý 13 đối tượng quản lý nghiệp vụ, 21 đối tượng cơ hội chính trị. Nổi lên là các đối tượng Lê Thị Công Nhân và Phan Khải Thanh Thủy là các phần tử chủ chốt của bọn “ Việt Tân” điên cuồng liên kết, cổ vũ số tu sỹ cực đoan và giáo dân cuồng tín của nhà thờ Thái Hà, quan hệ với số đối tượng cơ hội chính trị hoạt động mạnh trên địa bàn trong việc chống đối chính quyền. Trong năm 2010 đã thu giữ 80 đầu tài liệu ngoài luồng tán phát trên địa bàn với nội dung chủ yếu là đề cập tới vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam, nói xấu chính quyền và lãnh đạo các cấp. - Hoạt động của người nước ngoài: Trong năm có 512 người nước ngoài, Việt Kiều lưu trú dài hạn tại 370 nhà cho người nước ngoài thuê. Hoạt động của người nước ngoài chủ yếu là viện trợ nhân đạo, từ thiện, thuê nhà để làm ăn kinh tế. 1.2.1.2. Tình hình TTATXH. - Hoạt động của tội phạm kinh tế: Tiềm ẩn nhiều vi phạm trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư bất động sản, thuế, lừa đảo... Hoạt động gian lận thương mại không ngừng giảm với phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, với nhiều hình thức mới. Tình hình mua bán, vận chuyển, tiêu thụ động vật hoang dã ngày càng phức tạp về quy mô, tính chất, phương thức thủ đoạn và sự đối phó quyết liệt của các đối tượng. Tình trạng buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có xu hướng gia tăng. Công tác đấu tranh chống tội phạm tham những còn rất hạn chế cả trong khâu phát hiện và xử lý. Trong năm qua Công an quận đã phát hiện thụ lý 85 vụ với 93 đối tượng. - Hoạt động của tội phạm ma túy tiếp tục được kiềm chế, không phát sinh tụ điểm và địa bàn phức tạp. Công an quận và Công an các phường, trạm đã có sự phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể trong công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy, đặc biệt là trong các đợt cao điểm đã có tác dụng làm giảm rõ rệt tình trạng phức tạp tại các địa bàn trọng điểm. Tội phạm ma túy lợi dụng các loại hình kinh doanh dịch vụ nhạy cảm có chiều hướng gia tăng. Trong năm đã bắt 406 vụ với 532 đối tượng, lập hồ sơ truy tố 361 vụ thu 203,734 gam hêrôin, 234,885 gam cần sa, 266,86 gam ma túy tổng hợp, bắt đi cai nghiện 255 đối tượng, bắt 41 đối tượng nghiện lang thang. - Phạm pháp hình sự giảm về số vụ, không xảy ra những vụ đặc biệt nghiêm trọng nhưng tính chất có chiều hướng phức tạp. Số vụ do mâu thuẫn, đòi nợ dẫn đến đánh nhau sử dụng hung khí, phương tiện nguy hiểm, tội phạm chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng, trong năm 2010 xảy ra 537 vụ, giảm 12 vụ so với năm 2009 tương đương 2,2%; điều tra khám phá 427 vụ, khám phá 47 ổ nhóm bắt 127 đối tượng, thu hồi 10 ôtô, 165 xe máy, và nhiều tài sản khác. - Tình hình trật tự giao thông, trật tự đô thị: Việc triển khai thực hiện quy định của UBND thành phố hà Nội về cấm bán hàng rong trên một số tuyến phố được triển khai có hiệu quả, nhất là cấm để xe trên vỉa hè ở 10 tuyến đường, 3 khu vực cấm kinh doanh. Tình trạng ùn tắc giao thông kéo dài hạn chế đáng kể, tình trạng chợ cóc được giải quyết cơ bản. Việc triển khai thực hiện Nghị định số 34/2010/ NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đã bước đầu tác động đến ý thức chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông. Trong năm 2010 trên toàn quận xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, làm chết 12 người, bị thương 25 người và 75 vụ va chạm giao thông, làm bị thương 65 người. 1.2.2. Tình hình công tác quản lý cư trú. Trong năm qua Công an quận đã tiếp tục triển khai nghiêm túc Luật cư trú. Tiếp nhận và giải quyết 19.514 hộ với 43.743 nhân khẩu, 19.879 hồ sơ đăng ký thường trú, cấp Chứng minh nhân dân cho 7.900 người. Xác minh KT2, KT3, KT4 6.383 trường hợp. Tiếp nhận 5.487 hồ sơ đăng ký tạm trú với 14.438 nhân khẩu. Tiếp nhận 343.396 trường hợp thông báo lưu trú, 1.249 trường hợp khai báo tạm vắng. Công an quận cũng đã chỉ đạo Công an các phương tiến hành kiểm tra chéo trong toàn quận, thông qua đó đã góp phần đưa công tác quản lý khai báo tạm trú đi vào nề nếp. Thực hiện nghiêm các quy định của Bộ Công an về tiếp nhận, quản lý tù đặc xá về địa phương với 436 người. Qua công tác quản lý cư trú đã phát hiện và xử lý nhiều hành vi vi phạm, phát hiện các đối tượng truy nã, phạm pháp giao cho lực lượng Cảnh sát điều tra. Năm 2010 Công an quận Đống Đa tiếp tục chỉ đạo triển khai kế hoạch 37/ KH- CAQ ngày 01/10/2009 về nghiên cứu, triển khai thực hiện Quyết định số 1116/QĐ- BCA( CAHN) ngày 22/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an về đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, truyền dẫn Công an thành phố Hà Nội trên phạm vi quận Đống Đa. 2. Thuận lợi trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. 2.1. Trong thời gian qua hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú luôn được nhà nước, lãnh đạo Công an các cấp quan tâm chỉ đạo. Thấy được vai trò và tầm quan trọng của CNTT trong công tác quản lý cư trú thời gian qua Đảng, Nhà nước cũng như Bộ Công an đã ban hành nhiều văn bản khác nhau nhằm tăng cường hoạt động nghiên cứu, ứng dụng CNTT vào công cuộc phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước nói chung cũng như vào công tác quản lý cư trú nói riêng trong số đó có một số văn bản như: - Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Chỉ thị số 12/2001/CT- BCA về tăng cường ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công tác bảo đảm an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. - Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 724/QĐ-BCA ngày 01/10/2003 về “Chương trình phổ cập tin học cho cán bộ lãnh đạo trong toàn lực lượng” với mục đích: Nâng cao nhận thức về vai trò của CNTT trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho cán bộ lãnh đạo các cấp để quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ công tác đảm bảo ANTT trong tình hình mới; nâng cao hiệu quả quản lý khai thác, sử dụng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin. - Luật công nghệ thông tin số 67/2006/QH XI ngày 29/06/2006 của Quốc hội khóa XI. - Nghị định 90/2010/NĐ-CP ngày 18/8/2010 của Chính phủ quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. - Quyết định số 1116/QĐ-BCA( CAHN) ngày 22/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc phê duyệt dự án “ Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, truyền dẫn Công an thành phố Hà Nội”. - Kế hoạch số 18/ KH – CATP ( PV17) ngày 19/10/2008 của Công an thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện dự án xây dựng hệ CSDL quản lý dân cư giai đoạn 1 trên địa bàn thành phố. - Công an quận Đống Đa cũng đã ra kế hoạch 37/KH- CAQ ngày 01/10/2009 về nghiên cứu, triển khai thực hiện Quyết định số 1116/QĐ- BCA ( CAHN) ngày 22/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an về đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, truyền dẫn Công an thành phố Hà Nội trên phạm vi quận Đống Đa. - Kế hoạch số 24/ KH – CAQ ngày 06/01/2010 về nghiên cứu phối hợp triển khai Quyết định số 1948/ QĐ- BCA về xây lắp tuyến cáp quang truy nhập tại Công an quận Đống Đa. - Cùng nhiều văn bản pháp lý có liên quan khác. Các văn bản này chính là căn cứ pháp lý, định hướng cho Công an các cấp cũng như Công an quận Đống Đa triển khai thực hiện hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. 2.2. Hệ thống cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ yêu cầu ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú đang ngày càng được đầu tư hoàn thiện. Đến cuối năm 2010 việc lắp đặt tuyến cáp quang truy nhập trên địa bàn quận Đống Đa cơ bản đã hoàn thành với 17/ 21 đơn vị phường, trạm, với việc lắp đặt đó hiện nay hầu hết tại các đơn vị từ Đội tới Công an các phường, trạm đã có mạng Internet để sử dụng phục vụ nhu cầu thu thập thông tin, nắm bắt tình hình ANTT, và tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống quản lý cư trú qua mạng Internet và hệ thống “cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia” trong thời gian tới. Tới giữa năm 2011 theo kế hoạch Công an quận sẽ cấp thêm cho Đội Cảnh sát QLHC về TTXH thêm 02 máy vi tính; các phường, trạm mỗi đơn vị được cấp thêm 01 máy vi tính mới, những máy tính bị hư hỏng sẽ được sửa chữa kịp thời, các thiết bị phụ trợ khác cũng sẽ được trang bị thêm đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu triển quản lý cư trú. Hiện nay trên địa bàn quận có 09/21 Công an phường, trạm đã trang bị được 02 máy tính. Các phần mềm Word, Excel 2003 dần được thay thế bằng Word, Excel 2007, đã có 07/ 21 phường trạm sử dụng Word, Excel 2007. Tất cả các đơn vị đã tự trang bị được máy in laser khổ giấy A4, đã có 06/21 phường, trạm đã trang bị được máy phôtô. Đội Cảnh sát QLHC về TTXH về TTXH có 05 máy tính, 01 máy in laser khổ nhỏ, 01 máy in phun khổ lớn. Để triển khai kế hoạch 18/ KH –CATP( PV17) ngày 19/10/2009 về triển khai thực hiện dự án xây dựng CSDL quản lý dân cư giai đoạn 1 trên địa bàn thành phố Hà Nội sắp tới Đội cảnh sát QLHC về TTXH sẽ được lắp đặt 01 máy chủ File Server, 06 máy trạm, 01 máy quét, 02 máy in laser. Các đơn vị Công an phường, trạm mỗi đơn vị sẽ được lắp đặt 01 máy trạm và 01 máy in laser. Lắp đặt phần mềm hệ thống và ứng dụng, phần mềm quản trị hệ thống và an ninh dữ liệu. Đồng thời các đơn vị cũng sẽ cải tạo phòng máy, hệ thống cấp điện; lắp đặt điều hòa không khí, thông gió, chống ẩm; lắp đặt thiết bị mạng, mạng vi tính, cài đặt cấu hình, thiết bị mạng, đo kiểm tra và hiệu chỉnh hệ thống. 2.3. Đội ngũ cán bộ chiến sỹ có trình độ về CNTT ngày càng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. - Cùng với việc triển khai việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú thì số lượng cán bộ chiến sỹ có trình độ về CNTT ngày càng được bổ sung. Nếu như năm 2006 ở Đội Cảnh sát QLHC về TTXH số lượng cán bộ chiến sỹ có trình độ Đại học chuyên ngành CNTT chiếm 3,2%, năm 2008 là 6,4% thì đến cuối năm 2010 con số này đã tăng lên đến 11,3%. Tỉ lệ cán bộ chiến sỹ có chứng chỉ tin học văn phòng từ chỗ 82,2% thì đến nay đã chiếm 100%, ở cấp phường lực lượng CSKV tỉ lệ cán bộ chiến sỹ có chứng chỉ tin học là 94,7% và tỉ lệ này ngày càng được tăng lên hàng năm. Trình độ ngoại ngữ cũng đang ngày càng tăng lên, về trình độ tiếng Anh năm 2006 tỉ lệ cán bộ có bằng tiếng Anh mới chỉ chiếm 4.8% thì tới năm 2010 đã tăng thêm 9,7% đạt 14,5%. - Bên cạnh đó trong thời gian gần đây lãnh đạo các đơn vị luôn quan tâm, động viên cán bộ chiến sỹ tăng cường học thêm tin học, đề xuất lãnh đạo Công an quận tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp chuyên về CNTT từ các trường ngoài vào công tác trong lĩnh vực đòi hòi nhiều tri thức công nghệ này vào công tác trong ngành Công an. Đội Cảnh sát QLHC về TTXH cũng phối hợp với CATP tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ tin học và ứng dụng tin học vào quản lý cư trú. 2.4. Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý cư trú đã và đang được quần chúng nhân dân ủng hộ, hưởng ứng. So với các nước tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, khối EU thì việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú của chúng ta hiện nay còn chậm do đó đã gây hạn chế không nhỏ cho người dân trong việc thực hiện hoạt động cư trú của mình, đồng thời do hiệu quả thực tế mà hoạt động này mang lại như tạo điều kiện trong việc cắt giảm các thủ tục hành chính, giảm thời gian, chi phí đi lại cho người dân vừa tạo thuận lợi cho nhà nước trong quản lý xã hội, hạn chế tối đa các tiêu cực nảy sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục đăng ký, quản lý cư trú, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy trong bước đầu thực hiện việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú đã và đang nhận được sự đón nhận tích cực, sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía người dân, nhất là những hộ kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, cho thuê trọ, những người thuộc diện KT3, KT4. 3. Khó khăn, tồn tại hiện nay trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. 3.1. Hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều hạn chế. Hiện nay hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật bị về máy vi tính, thiết bị truyền dẫn mạng của Công an quận Đống Đa còn lạc hậu, phần lớn các thiết bị cũ kĩ được cấp phát từ nhiều năm trước, chậm được đổi mới, bổ sung, hiện đại hóa; các phần mềm ứng dụng chỉ chủ yếu được sử dụng ở Đội Cảnh sát QLHC về TTXH còn tại CA các phường chưa được triệt để khai thác, chưa phát huy được hiệu quả tối đa. Sở dĩ có tình trạng trên là do giá cả nhiều thiết bị nhập từ nước ngoài đắt trong khi trong nước chưa tự sản xuất được, cộng với nguồn tài chính đầu tư cho công tác này còn có phần hạn hẹp. Điều đó dẫn tới chất lượng của việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú trong bước đầu triển khai còn chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu lưu trữ, truyền dẫn và khai thác thông tin dữ liệu. Hiện nay số lượng máy vi tính, máy in, máy phôtô ở Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và ở các phường, trạm vẫn còn chưa nhiều, chưa đáp ứng đủ nhu cầu công tác. Ở các CAP, trạm mỗi đơn vị đã được trang bị 01 máy vi tính nhưng các máy tính này được cấp từ năm 2006 và trích từ kinh phí của UBND quận, đến nay vẫn chưa được bổ sung thay thế máy mới, phần mềm Word, Excel sử dụng phổ biến là Word, Excel hệ 2007 vẫn chưa được ứng dụng trên tất cả các đơn vị. Bên cạnh đó là tình trạng hư hỏng, lỗi Win… vẫn thường xuyên mắc phải. 3.2. Công tác cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Hiện nay Công an quận vẫn còn thiếu các chuyên gia về CNTT để có thể tự lập trình, vận hành các phần mềm CNTT trong quản lý cư trú, khắc phục các sự cố xảy ra trong quá trình sử dụng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ để chủ động tiếp cận công nghệ mới phục vụ công tác quản lý cư trú. Một số cán bộ, chiến sỹ có phẩm chất chính trị chưa thực sự đúng đắn còn có tư duy, thói quen làm việc cũ, có thái độ bảo thủ chậm đổi mới, khả năng ứng dụng CNTT còn yếu, chưa tạo được phong cách làm việc trên máy tính, chưa vận dụng tốt kết quả khai thác được từ các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về quản lý cư trú đã được đưa và máy tính vào trong quá trình giải quyết công việc. Công tác bố trí cán bộ có trình độ chuyên môn về CNTT còn chưa hợp lý. Nhiều cán bộ, chiến sỹ mặc dù được đào tạo chuyên về CNTT nhưng lại được phân công làm nhiệm vụ khác, trong khi một số cán bộ chiến sỹ không được đào tạo về CNTT lại được bố trí làm nhiệm vụ này, tình trạng bố trí cán bộ không đúng vị trí và năng lực sở trường như vậy dẫn tới lãng phí nguồn chất xám, mất thời gian, kinh phí đào tạo lại, đào tạo bổ sung, vừa không phát huy được hiệu quả tác dụng trong việc ứng dụng khoa học CNTT vào quản lý cư trú. Một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp các chuyên ngành về tin học, CNTT nhưng trình độ không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, kém linh hoạt trong quá trình khai thác sử dụng các phần mềm ứng dụng. Hiện nay để sử dụng tốt máy tính đòi hỏi chúng ta phải có hiểu biết về ngoại ngữ nhất là tiếng Anh, tuy nhiên số lượng cán bộ chiến sỹ có chứng chỉ ngoại ngữ còn rất ít, chủ yếu là các đồng chí trẻ mới tốt nghiệp ra trường. Tính tới cuối năm 2010 Đội Cảnh sát QLHC về TTXH mới chỉ có 14,5% cán bộ chiến sỹ có trình độ Đại học về Tiếng Anh. Trình độ Đại học chuyên về CNTT hiện nay mới chỉ chiếm 11,3%. Tại Công an các phường, trạm vẫn còn nhiều cán bộ, chiến sỹ chưa có chứng chỉ tin học, bộ phận này tập trung chủ yếu vào các đồng chí gần về hưu, chưa có đồng chí nào có trình độ Đại học chuyên về CNTT. 3.3. Yếu tố bí mật, an toàn của việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú còn những bất cập. Các phần mềm ứng dụng trong quá trình vận hành hệ thống hàng rào bảo vệ, mã hóa chương trình còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn tới sự xâm nhập của virút làm hư hỏng, mất tài liệu, gây khó khăn cho quá trình quản lý; Thêm vào đó là sự xuất hiện của các “ lỗ hổng” vẫn chưa được khắc phục kịp thời. Chậm đưa vào các hệ ứng dụng quản trị cơ sở dữ liệu hiện đại, hệ điều hành mới để đảm bảo bí mật, an toàn cho thông tin và khắc phục các sự cố trong quá trình khai thác nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Đến nay hầu hết các đơn vị đều đang sử dụng phần mềm diệt virut cũ như Anti Virut, Bách khoa virut.., đến nay đã cũ nhưng vẫn chưa được cập nhật phần mềm mới. Ví dụ đơn giản là sự xâm nhập của những virút mới xuất hiện nhưng do các đơn vị cập nhật phần mềm diệt virút mới chậm nên dẫn tới việc virút làm mất, làm hư hỏng tài liệu, làm máy tính ngừng hoạt động vẫn xảy ra trong quá trình vận hành. 3.4. Công tác chỉ đạo ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú chưa thực sự ráo riết, chặt chẽ và thống nhất. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện ứng dụng khoa học CNTT vẫn chưa được tiến hành một cách đồng bộ và thường xuyên mà thường tập trung vào từng đợt cao điểm, còn có sự sao nhãng, thiếu sự chỉ đạo một cách thường xuyên, liên tục. Ở Đội Cảnh sát QLHC về TXH và Công an một số phường do một bộ phận cán bộ lãnh đạo chưa thấy được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động ứng dụng khoa học CNTT vào quản lý cư trú nên chưa thực sự quyết liệt, chưa quan tâm đúng mức cho đầu tư cơ sở vật chất, cũng như trong việc bố trí cán bộ, chính sách bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ có trình độ hiểu biết cao hơn trong lĩnh vực CNTT phục vụ công tác quản lý cư trú. Trước đây khi chưa có Quyết định số 1116/QĐ- BCA (CAHN) ngày 22/9/2007 của Bộ trưởng Bộ công an về việc phê duyệt dự án “ Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, truyền dẫn Công an thành phố Hà Nội” và Nghị định 90 /2010/NĐ- CP quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư ngày 18/10/2010 của Chính phủ công tác này gần như chưa được quan tâm, từ khi các văn bản này được ban hành thì công tác ứng dụng CNTT vào quản lý cư trú dần được quan tâm nhiều hơn nhưng vẫn chưa thực sự quyết liệt, thường xuyên và triệt để. 4. Những kết quả đã đạt được trong việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. 4.1. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú đã góp phần quan trọng vào công tác quản lý xã hội của Nhà nước. Quản lý cư trú là một nội dung hết sức quan trọng trong công tác quản lý xã hội của Nhà nước nói chung và của lực lượng Công an nói riêng. Quản lý cư trú là một bộ phận của quản lý xã hội, do đó quản lý tốt vấn đề cư trú chính là góp phần quan trọng vào công tác quản lý xã hội của nhà nước. Bằng việc sử dụng các phương tiện thông tin như mạng Internet, triển khai các trang Web cho phép người dân có thể truy cập qua đó phổ biến các quy định của pháp luật, giải thích luật cho quần chúng nhân dân, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Hoạt động ứng dụng CNTT đã giúp cho việc lưu trữ, cập nhật và khai thác hệ thống CSDL về cư trú, nắm bắt và đánh giá tình hình cư trú của dân cư trên địa bàn quận, kịp thời tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền quận và các phường xây dựng các đường lối, chính sách quản lý phù hợp với những thay đổi của xã hội, con người. Bên cạnh đó, cũng thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu về cư trú do lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH cung cấp mà các ngành khác như Lao động, thương binh và xã hội; Giáo dục; Văn hóa, thể thao và du lịch… kết hợp với các thông tin tài liệu khác để xây dựng các chương trình, định hướng phát triển thích hợp. Ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú góp phần đẩy mạnh hoạt động cải cách các thủ tục hành chính trong công tác quản lý cư trú, cắt giảm tối đa các thủ tục rườm rà, phức tạp; mở rộng việc thực hiện cơ chế “một cửa” trong giải quyết các yêu cầu của cá nhân, tổ chức, rút ngắn thời gian giải quyết các công việc, giảm số lượng cán bộ trong các khâu không cần thiết khi ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý cư trú. Trong năm 2010 Đội Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Đống Đa tiếp tục thực hiện kế hoạch số 59/KH- CAĐĐ về thực hiện cải cách hành chính, triển khai thực hiện giai đoạn 2 đề án 30/CP với mục tiêu ban đầu là giảm 30% thủ tục hành chính trong năm 2010, Công an quận đã thường xuyên rà soát các văn bản thủ tục hành chính đang thực hiện và loại bỏ các thủ tục không phù hợp, gây phiền hà cho nhân dân. Kết quả trong năm qua Đội Cảnh sát QLHC về TTXH đã đề xuất BCH Công an quận kiến nghị cắt giảm nhiều thủ tục không cần thiết trong cấp phát Chứng minh nhân dân, hộ khẩu, tạm trú... giảm 19,2% các thủ tục hành chính, đạt gần 60% so với chỉ tiêu đề ra. 4.2. Kết quả trong công tác lưu trữ hồ sơ. Trong năm toàn quận đã tiếp nhận 19,514 hồ sơ, tài liệu đăng ký quản lý hộ khẩu; trong đó lập mới 19,514 hồ sơ, điều chỉnh 1,326 hồ sơ. Xác minh theo yêu cầu nghiệp vụ 638 trường hợp, xác minh khác 1,328 trường hợp, đóng dấu 1,328 hồ sơ đối tượng, rút 532 hồ sơ phục vụ công tác kiểm tra theo chuyên đề đăng ký hộ khẩu của Công an thành phố. Đặc biệt Công an quận đã chỉ đạo Đội Cảnh sát QLHC về TTXH tiến hành việc cập nhật, lưu hồ sơ vào vi tính chuẩn bị cho việc triển khai chương trình xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia. Tính tới tháng 12 năm 2010 Công an quận đã cập nhật được 2,467 hồ sơ đối tượng chiếm khoảng 93% số đối tượng phạm pháp như các phần tử cơ hội chính trị, đối tượng tù tha, đối tượng nghiện ma túy, 14,000 hồ sơ nhân khẩu. Ở Công an các phường, trạm cũng được chỉ đạo tăng cường việc cập nhật, lưu hồ sơ cư trú, hồ sơ đối tượng vào máy vi tính theo số liệu mà các đơn vị trực tiếp quản lý. 4.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú đã góp phần tạo điều kiện ngày càng thuận lợi cho người dân trong thực hiện quyền tự do cư trú của mình. Hiện nay nhiều nước trên thế giới nhất là các nước phương Tây do đã ứng dụng các thành tựu của khoa học CNTT nên đã tạo ra sự thông thoáng, thuận lợi hơn rất nhiều cho người dân trong thực hiện quyền cư trú của mình. Ở nước ta vấn đề này hiện đang được Nhà nước và chính quyền các cấp hết sức quan tâm đầu tư khai thác trong thời gian tới. Ở các nước trong khối EU chỉ với một tấm thẻ công dân, người dân có thể đi khắp đất nước mình, đi ra các nước trong khối mà không cần bất kỳ giấy tờ gì khác, không phải xin các giấy tờ thủ tục phức tạp, rõ ràng là rất thuận lợi cho người dân trong hoạt động cư trú, đi lại. Mặt khác các cơ quan chức năng cũng rất thuận tiện trong công tác quản lý cư trú của công dân thông qua một hệ thống thông tin về công dân đã được nối mạng nội bộ, và sử dụng máy quét thẻ công dân lực lượng Cảnh sát sẽ có đầy đủ thông tin cần thiết về người đó. Nếu chúng ta khai thác tốt tiềm năng của lĩnh vực CNTT vào công tác quản lý cư trú thì việc người dân phải tới cơ quan Công an để làm các thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú, thông báo lưu trú có thể loại bỏ hoặc cắt giảm, khi đó người dân chỉ cần gửi thông tin của mình tới trang Web hoặc thông báo qua điện thoại của cơ quan Công an là có thể thực hiện các thủ tục cần thiết cắt bỏ được các khâu trung gian không còn cần thiết, hạn chế thời gian đi lại cho người dân. Trong năm 2010, qua hoạt động ứng dụng CNTT Công an quận đã góp phần vào việc thực hiện mục tiêu 3 giảm trong công tác đăng ký hộ khẩu của Đội Cảnh sát QLHC về TTXH: giảm thủ tục hồ sơ, giảm thời gian đi lại, giảm thời gian trả kết quả cho nhân dân. Đồng thời kết hợp củng cố, duy trì hệ thống các trạm khai báo tạm trú tại các cụm dân cư để người dân có thể tới khai báo nhanh chóng mà không phải tới trụ sở Công an phường như trước đây, Công an các phường, trạm có thể trực tiếp gọi điện thoại để báo cáo tình hình lưu trú mà không cần trực tiếp tới trụ sở Công an quận. 4.4. Kết quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật và hỗ trợ thực hiện các biện pháp nghiệp vụ khác của ngành Công an. - Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật: thông qua hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý cư trú lực lượng Công an tiến hành lưu trữ vào hệ thống máy tính các thông tin về đối tượng như: các đối tượng đã có tiền án, tiền sự; đối tượng sưu tra, trong đó có bao nhiêu người vi phạm pháp luật bị xử lý hình sự, hành chính; đối tượng nghiện ma túy; Tổng số có bao nhiêu người đã, đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa đi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Các tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra trên địa bàn dẫn tới vi phạm pháp luật; các đối tượng mới “nổi lên” cần tập trung rà soát, theo dõi... Qua hoạt động kiểm tra, rà soát, lọc thông tin trên máy tính lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH tiến hành cập nhật các thông tin mới về đối tượng; điều chỉnh, bổ sung, cập nhật các thông tin mới, thanh loại các thông tin không còn cần thiết trong kho dữ liệu. Cũng qua công tác lưu trữ thông tin đối tượng trong bộ nhớ máy tính lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH tiến hành cung cấp một cách nhanh chóng các thông tin về đối tượng cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm, lực lượng An ninh điều tra, các đơn vị chức năng khi đựợc yêu cầu. Trong năm 2010 thông qua công tác rà soát thông tin đối tượng trong hệ thống CSDL, phối hợp với các Đội nghiệp vụ, phường trọng điểm Đội Cảnh sát QLHC về TTXH đã bắt giữ 06 đối tượng nghiện lang thang, bắt 19 vụ phạm pháp hình sự chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra để xử lý, tạm giữ 2.135 người nghi vấn để xác minh làm rõ, tổ chức xét nghiệm cho 178 đối tượng nghi nghiện ma túy, lập hồ sơ đưa 268 đối tượng vào diện sưu tra, bắt 55 đối tượng truy nã. - Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú hỗ trợ tích cực trong thực hiện các biện pháp nghiệp vụ khác của ngành Công an. Cố Bộ trưởng Bộ nội vụ Trần Quốc Hoàn ( nay là Bộ Công an) từng nói : “ Làm Công an mà không làm tốt quản lý hộ khẩu thì không phải làm Công an”. Trong toàn bộ các hoạt động của lực lượng Công an thì vấn đề quản lý cư trú của công dân là vấn đề cốt lõi nhất. Việc quản lý, nắm chắc hoạt động cư trú của công dân là cơ sở để Công an cấp trên hoạch định, xây dựng, triển khai các chủ trương, chính sách tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia vào nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự của Tổ quốc, triển khai các văn bản pháp luật vào đời sống xã hội, phục vụ việc thực hiện công tác nghiệp vụ cơ bản như: điều tra cơ bản, sưu tra, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án; hỗ trợ hoạt động trinh sát, bắt giữ, khám xét nơi ở của đối tượng. Cung cấp 2.854 lượt thông tin về cá nhân, hộ gia đình cho các lực lượng chuyên môn phục vụ công tác xác minh lý lịch lập hồ sơ khám tuyển vào ngành Công an, khám tuyển nghĩa vụ quân sự, làm chứng minh nhân dân; cung cấp thông tin phục vụ công tác điều tra dân số và giải quyết công việc liên quan khác. Từ những kết quả mà Công an quận Đống Đa đã đạt được trong hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú có thể thấy những kết quả trên đã và đang làm tiền đề cơ sở cho đơn vị trong việc thực hiện việc ứng dụng ngày càng sâu rộng và có hiệu quả cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên những kết quả trên vẫn còn rất hạn chế so với tiềm năng to lớn mà CNTT có thể mang lại cũng như khả năng ứng dụng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH vào trong công tác chuyên môn. Do vậy trong thời gian tới lãnh đạo Công an quận và các đơn vị cần tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu và ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú. Việc nghiên cứu thực trạng hoạt động ứng dụng CNTT vào công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Đống Đa theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH giúp chúng ta thấy được khái quát tình hình địa bàn, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình ứng dụng, và phân tích rõ những kết quả mà các đơn vị đã thực hiện được. Đó chính là cơ sở để đưa ra các dự báo và giải pháp thực hiện trong thời gian tiếp theo đảm bảo bám sát thực tế, tích cực và có ý nghĩa thực tiễn nhiều hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhần I- Nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú.doc