Phân tích các qui định của luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp danh

MỤC LỤC Trang A Lời mở đầu 1 B Nội dung 1-10 I. Khái niệm công ty hợp danh : . 1-3 II. Thành viên công ty hợp danh : 3-6 III. Vấn đề về vốn của công ty hợp danh : 6-7 VI. Tư cách pháp lý của công ty hợp danh : 7-8 V . Quản lí và điều hành công ty hợp danh : .8-10 C. Kết luận 11 Lời mở đầu : Việt Nam đang ngày càng phát triển kinh tế - xã hội và hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó đã có rất nhiều cơ sở kinh tế - doanh nghiệp ra đời với nhiều loại hình kinh doanh khác nhau. Để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bắt kịp với thế giới và tạo nên môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn thì Luật doanh nghiệp ( 2005 ) được quốc hội nước ta thông qua ngày 29/11/2005 thay thế cho luật doanh nghiệp 1999 trước đó còn sơ sài và mang tính chất chung chung. Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp xuất hiện sớm trên thế giới và ở Việt Nam thì năm 1999 chính thức được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh tại Luật doanh nghiệp năm 1999 và đến luật doanh nghiệp năm 2005 đã được qui định khá cụ thể và rõ ràng tạo điều kiện cho loại hình công ty này phát triển và các nhà kinh doanh lựa chọn hình thức công ty hợp danh vào hoạt động kinh doanh. Nội dung : I. Khái niệm công ty hợp danh : Đa số các nước trên thế giới, công ti hợp danh được pháp luật thừa nhận là một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Pháp luật nhiều nước phân tách thành hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt là công ty hợp danh tuyệt đối ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty ) và công ty hợp danh tương đối có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn ( chịu trách nhiệm hữu hạn) thì ở Việt Nam đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai loại hình công ty hợp danh và được gọp chung dưới một cái tên là “ công ty hợp danh “. Có thể thấy đây là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới nhưng khái niệm này của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Tại khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa về công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó : 1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Việc định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó và gộp chung hai loại hình công ty hợp danh như trên thế giới đã phân loại tuy là một sự cộng gộp khá gọn gàng nhưng khái niệm này cũng làm phát sinh nhiều vấn đề. Ở các nước trên thế giới thì sẽ có 2 quy chế điều chỉnh riêng biệt cho hai hình thức của công ty hợp danh nhưng ở Việt Nam thì điều chỉnh dưới một qui chế chung. Điều này sẽ làm phát sinh vấn đề về quy định số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện bắt buộc công ty giải thể. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì khi không đủ hai thành viên hợp danh trong 6 tháng thì công ty sẽ phải giải thể theo qui định của pháp luật. Công ty hợp danh hữu hạn thì việc xác định sẽ là phức tạp, bởi vì theo qui định của Luật doanh nghiệp thì ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn mà không qui định phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn. Theo qui định chung thì không còn đủ 2 thành viên hợp danh thì công ty giải thể áp dụng điều này thì công ty hợp danh hữu hạn mà không còn một thành viên góp vốn nào thì công ty cũng không phải

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3838 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các qui định của luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu : Việt Nam đang ngày càng phát triển kinh tế - xã hội và hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó đã có rất nhiều cơ sở kinh tế - doanh nghiệp ra đời với nhiều loại hình kinh doanh khác nhau. Để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bắt kịp với thế giới và tạo nên môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn thì Luật doanh nghiệp ( 2005 ) được quốc hội nước ta thông qua ngày 29/11/2005 thay thế cho luật doanh nghiệp 1999 trước đó còn sơ sài và mang tính chất chung chung. Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp xuất hiện sớm trên thế giới và ở Việt Nam thì năm 1999 chính thức được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh tại Luật doanh nghiệp năm 1999 và đến luật doanh nghiệp năm 2005 đã được qui định khá cụ thể và rõ ràng tạo điều kiện cho loại hình công ty này phát triển và các nhà kinh doanh lựa chọn hình thức công ty hợp danh vào hoạt động kinh doanh. Nội dung : I. Khái niệm công ty hợp danh : Đa số các nước trên thế giới, công ti hợp danh được pháp luật thừa nhận là một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Pháp luật nhiều nước phân tách thành hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt là công ty hợp danh tuyệt đối ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty ) và công ty hợp danh tương đối có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn ( chịu trách nhiệm hữu hạn) thì ở Việt Nam đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai loại hình công ty hợp danh và được gọp chung dưới một cái tên là “ công ty hợp danh “. Có thể thấy đây là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới nhưng khái niệm này của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Tại khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa về công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó : 1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Việc định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó và gộp chung hai loại hình công ty hợp danh như trên thế giới đã phân loại tuy là một sự cộng gộp khá gọn gàng nhưng khái niệm này cũng làm phát sinh nhiều vấn đề. Ở các nước trên thế giới thì sẽ có 2 quy chế điều chỉnh riêng biệt cho hai hình thức của công ty hợp danh nhưng ở Việt Nam thì điều chỉnh dưới một qui chế chung. Điều này sẽ làm phát sinh vấn đề về quy định số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện bắt buộc công ty giải thể. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì khi không đủ hai thành viên hợp danh trong 6 tháng thì công ty sẽ phải giải thể theo qui định của pháp luật. Công ty hợp danh hữu hạn thì việc xác định sẽ là phức tạp, bởi vì theo qui định của Luật doanh nghiệp thì ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn mà không qui định phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn. Theo qui định chung thì không còn đủ 2 thành viên hợp danh thì công ty giải thể áp dụng điều này thì công ty hợp danh hữu hạn mà không còn một thành viên góp vốn nào thì công ty cũng không phải giải thể, điều này là không hợp lý bởi vì thành viên góp vốn có ý nghĩa quan trọng đối với công ty hợp danh hữu hạn, khi không còn thành viên góp vốn thì bản chất công ty hợp danh hữu hạn cũng thay đổi. Vì vậy cũng còn nhiều vấn đề về khái niệm công ty hợp danh để áp dụng pháp luật điều chỉnh loại hình công ty hợp danh. II. Thành viên công ty hợp danh : Công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên đó là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn theo qui định của Luật doanh nghiệp năm 2005. Công ty hợp danh thì bắt buộc phải có thành viên hợp danh ( ít nhất 2 thành viên ) và có thể có thành viên góp vốn. A. Thành viên hợp danh : “ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty “ tại điểm b khoản 1 điều 130 Luật thương mại 2005 . Vì vậy thành viên hợp danh trong công ty hợp danh chỉ có thể là cá nhân mà không thể là tổ chức hoặc pháp nhân. Trách nhiệm tài sản của các thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ti là trách nhiệm vô hạn và liên đới. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kì thành viên hợp danh thanh toán các khoản nợ của công ty đối với chủ nợ. Mặt khác các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ tài sản của mình chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Quyền hạn và nghĩa vụ của thành viên hợp danh được qui định tại điều 134 Luật doanh nghiệp, do phải chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên hợp danh có những quyền hạn trong sự tồn tại và phát triển của công ty ở cả hai mặt pháp lý và thực tế. Thành viên hợp danh có quyền điều hành, quản lý, sử dụng tài sản của công ty…. vào việc kinh doanh và cũng phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ theo đúng của qui định pháp luật. Ngoài ra thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên công ty như qui định tại khoản 5 điều 138 Luật doanh nghiệp năm 2005. Tại khoản 2 điều 13 Luật doanh nghiệp thì qui định các cá nhân như cán bộ, công chức, sĩ quan, người chưa thành niên, ….. thì không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh được do vai trò quan trọng của thành viên hợp danh trong việc thành lập và quản lý công ty. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích công ty thì pháp luật quy định một số hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh như : Không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác ( trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại ), không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không đươc sự chấp nhận của các thành viên hợp danh còn lại ( nếu không hạn chế điều này thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty và môi trường kinh doanh), không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành nghề kinh doanh của công ty đó. Trong quá trình hoạt động thì công ty hợp danh có quyền tiếp nhận thêm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Việc tiếp nhận thêm thành viên phải được hội đồng thành viên chấp thuận. Thành viên hợp danh mới được tiếp nhận vào công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của nình đối với khoản nợ và nghĩa vụ của công ti. Tại điều 138 luật doanh nghiệp năm 2005 thì quy định các trường hợp mà chấm dứt tư cách thành viên của công ty hợp danh. Ví dụ như tự nguyện rút vốn khỏi công ty đã tạo sự linh hoạt cho thành viên có thể tạm ngừng kinh doanh hoặc chuyển sang hướng kinh doanh khác. Tuy nhiên thành viên hợp danh chỉ được rút vốn nếu được hội đồng thành viên chấp thuận và phải thông báo và thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất sáu tháng trước ngày rút vốn bởi vì rút vốn làm cơ cấu quản lý và hoạt động của công ty bị ảnh hưởng. B. Thành viên góp vốn : Thành viên góp vốn cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh doanh của công ty, tạo điều kiện cho công ty mở rộng quy mô và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. “ Ngoài thành viên hợp danh thì công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn “ điều này được qui định trong Luật doanh nghiệp năm 2005. Thành viên góp vốn có thể là các tổ chức hoặc cá nhân, khác so với thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, là thành viên của công ty đối nhân nhưng thành viên góp vốn hưởng chế đọ trách nhiệm tài sản như một thành viên của công ty đối vốn. Họ hưởng lợi nhuận dựa trên phần vốn góp và chịu rủi ro trong phần vốn góp đó và có các quyền cơ bản như được tham gia họp, biểu quyết tại hội đồng thành viên, cung cấp thông tin kinh doanh của công ty …tuy nhiên họ cũng bị hạn chế những quyền cơ bản của một thành viên công ty. Thành viên góp vốn không được tham gia quản lý công ty, không được hoạt động kinh doanh nhân danh công ty điều này xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình do đó việc tham gia của thành viên góp vốn vào công ty là an toàn và thoải mái hơn so với thành viên hợp danh, nên các quyền quản lý và kinh doanh công ty được giao cho thành viên hợp danh quyết định sẽ cẩn thận và tính toán kỹ lưỡng nhằm tránh rủi ro cho cả cá nhân họ và công ty. Tuy nhiên theo qui định của luật doanh nghiệp năm 2005 về nghĩa vụ của thành viên góp vốn thì có sự mâu thuẫn giữa hai điều luật đó là điểm a khoản 2 điều 140 : “Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp” và khoản 1 điều 130 “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.” Có sự mâu thuẫn vì vốn đã cam kết góp và vốn góp là hai khái niệm khác nhau, vốn cam kết góp bao gồm vốn đã góp và số vốn còn thiếu sẽ góp về sau, vốn góp là số vốn mà thành viên đã góp và chuyển quyền sở hữu cho công ty. Điều này làm cho việc áp dụng luật gặp khó khăn khi cùng một văn bản chuyên ngành lại có sự mâu thuẫn. Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Thái Trường Luật doanh nghiệp ( 2005 ) qui định thành viên góp vốn được tự do chuyển nhượng vốn góp của mình tại công ty cho người khác, được nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác tiến hành kinh doanh các ngành nghề đã đăng kí của công ty. So với thành viên hợp danh thì việc thay đổi của thành viên góp vốn là khá dễ dàng vì sự có mặt hay không của họ không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty hợp danh. III. Vấn đề về vốn của công ty hợp danh : a. Góp vốn vào công ty : Phần vốn góp của thành viên công ty hợp danh ( loại hình công ty đối nhân ) có những điểm khác biệt so với loại hình công ty đối vối. Nếu như các công ty đối vốn thì phần vốn góp của các thành viên luôn được thể hiện dưới dạng vật chất như : tiền, vàng, … thì công ty hợp danh phần vốn góp của thành viên dưới dạng vật chất và cả phi vật chất. Đối với thành viên góp vốn thì thể hiện tính đối vốn, vốn góp của họ thể hiện dưới dạng vật chất, thành viên hợp danh thể hiện tính đối nhân và yếu tố được quan tâm là nhân thân nên tài sản góp vốn của hị có thể là phi vật chất, gắn liền với nhân thân của họ như là uy tín, kinh nghiệm ,…Vì vậy cơ cấu vốn trong công ty hợp danh là đa dạng và là điểm đặc trưng so với loại hình doanh nghiệp khác. Tài sản của công ty hợp danh được luật doanh nghiệp ( 2005 ) qui định tại điều 132. Phần vốn góp của các thành viên là vốn điều lệ công ty hợp danh và các thành viên phải góp đúng và đủ số vốn đã cam kết. b. Chuyển nhượng vốn góp cho người khác : Công ty hợp danh là một loại hình của công ty đối nhân nên yếu tố nhân thân được quan tâm đến hàng đầu. Khi thành viên hợp danh chuyển nhượng vốn góp cho người khác thì công ty có một thành viên hợp danh mới, có thể là một người hoàn toàn không quen biết thì sẽ ảnh hưởng đến tính chất đối nhân của công ty. Vì vậy mà việc chuyển nhượng vốn góp của thành viên hợp danh khá phức tạp và bị hạn chế như qui định tại khoản 3 điều 133 Luật doanh nghiêp (2005). Thành viên góp vốn thì giúp công ty mở rộng kinh doanh, sản xuất và sự thay đổi thành viên góp vốn không làm ảnh hưởng đến tính đối nhân của công ty hợp danh cũng như nhân sự nên việc chuyển nhượng vốn góp của họ không bị hạn chế và khá dễ dàng. c. Huy động vốn của công ty hợp danh : Vốn là một trong những yếu tố quan trọng để công ty có thể mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc vượt qua giai doạn khó khăn. Nhưng theo qui định tại khoản 3 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì đã làm cho việ huy động vốn của công ty hợp danh bị hạn chế khá lớn : “ Công ty hợp danh không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào “. Đây cũng là một han chế của công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác về khả năng huy động vốn. Việc qui định công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán bởi vì khi cho phát hành chứng khoán và chào bán thì những người ngoài mua sẽ trở thành thành viên hợp danh của công ty mặc dù không có quan hệ nhân thân nào, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân của công ty hợp danh. Công ty hợp danh có thể tăng vốn bằng cách tăng vốn góp của các thành viên công ty hợp danh hoặc tiếp nhận thêm các thành viên góp vốn vào công ty. VI. Tư cách pháp lý của công ty hợp danh : Tư cách pháp lý của công ty hợp danh theo qui định của Luật doanh nghiệp năm 2005 có một sự khác biệt so với Luật doanh nghiệp năm 1999 đó là công nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. “ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy đăng ký chứng nhận kinh doanh “ – Khoản 2 điều 130 luật doanh nghiệp 2005. Việc công nhận công try hợp danh có tư cách pháp nhân nhằm tạo điều kiện bình đẳng cho công ty khi tham gia vào môi trường kinh doanh cạnh tranh vơi các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên theo qui định của bộ luật dân sự năm 2005 về pháp nhân thì công ty hợp danh mới đáp ứng được 3 điều kiện đó là : được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và nhân danh mình thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh một cách độc lập. Còn điều kiện về có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó thì công ty hợp danh chưa đáp ứng được. Việc chuyển tài sản góp vốn của thành viên thành tài sản của công ty nhằm khẳng định tính độc lập của về tài sản của công ty hợp danh với những thành viên lập ra nó ( Khoản 1 điều 132 ) tuy nhiên thành viên hợp danh thì phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, bao gồm tài sản chuyển vào quyền sở hữu của công ty và tài sản cá nhân không đưa vào công ty. Tức là khi công ty hợp danh không đủ tài sản để trả nợ thì các thành viên hợp danh của công ty phải dùng tài sản của mình để trả nợ cho công ty điều này mâu thuẫn với qui định tại khoản 3 điều 94 bộ luật dân sự : “ Thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập thực hiện “ Vì vậy việc qui định cho công ty hợp danh có tư cách pháp nhân mà thành viên hợp danh của công ty phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn đã mâu thuẫn với qui định của bộ luật dân sự. Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Thái Trường V . Quản lí và điều hành công ty hợp danh : Do tính an toàn pháp lí đối với công chúng cao, mặt khác các thành viên thường có quan hệ mật thiết về nhân thân nen việc quản lí công ty hợp danh chịu rất ít sự rằng buộc của pháp luật và mang nhiều nét khác biệt và đăch trưng so với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong công ty hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, theo qui định tại khoản 1 điều 135 Luật doanh nghiệp thì : “Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên “ tức là bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Qui định này đã mở rộng hơn cơ cấu của hội đồng thành viên so với các qui định trước đây như nghị định 03/2000/ NQ-CP chỉ qui định thành viên hợp danh mới tham gia vào hội đồng thành viên. Tuy nhiên ở Hội đồng thành viên công ty hợp danh có điểm khác so với công ty cổ phần đó là chỉ có các thành viên hợp danh mới có quyền quyết định các vấn đề lớn của công ty, thành viên góp vốn được tham gia vào hội đồng thành viên nhưng không có quyền quản lý, điều hành, quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Điều này chứng tỏ thành viên góp vốn có mặt trong cơ quan quản lí nhưng không có quyền quản lý. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh là chủ tịch đồng thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc ( nếu điều lệ công ty không có qui định khác). Chủ tịch hội đồng thành viên, tổng giám đốc hoặc giám đốc có quyền điều phối các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng không được tự quyết định mà phải sự trên cơ sở có sự đồng ý và thỏa thuận của các thành viên, điều này chứng tỏ người giữ chức vụ trong công ty hợp danh không có quyền cao hơn các thành viên hợp danh còn lại và họ cũng chỉ là một thành viên hợp danh với quyền và nghĩa vụ như các thành viên hợp danh khác. Đây là một điểm khác biệt của công ty hợp danh so với các loại hình công ty. Việc tiến hành họp hội đòng thành viên do chủ tịch hội đồng thành viên triệu tập hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Cuộc họp của hội đồng thành viên phải được ghi vao biên bản của công ty. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các hoạt động kinh doanh của công ty. Nếu điều lệ công ty không qui định thì khi quyết định những vấn đề quan trọng phải được ít nhất ¾ tổng số thành viên hợp danh chấp nhận, cong với những vấn đề khác thì chỉ cần ít nhất 2/3 tổng số thành viên hợp danh chấp thuận(1) Giáo trình luật thương mại tập 1 _ trang 170 . Việc chỉ qui định tỉ lệ biểu quyết tối thiểu của thành viên hợp danh và không nói đến tỉ lệ của thành viên góp vốn chứng tỏ vai trò quan trọng của thành viên hợp danh trong việc quản lý và điều hành công ty, thành viên góp vốn thì không có quyền quản lý và điều hành, họ có đồng ý hay không thì không có ảnh hưởng gì đến công ty. Quyền tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn bị hạn chế hơn, quyền và nghĩa vụ của họ được qui định tại điều 140 Luật doanh nghiệp năm 2005. Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ 3 khi khi người đó biết về hạn chế đó. Thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức danh quản lý và kiểm soát công ty, khi một số hoặc tất cả thành viên cùng thực hiên một số công việc kinh doanh thì việc quyết định thông qua theo đa số. Chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc có nhiệm vụ quản lý và điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty với ty cách là thành viên hợp danh, phân công phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh. Đại diện cho công ti trong quan hệ với cơ quan nhà nước, đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại. Giáo trình luật thương mại tập 1 Kết luận : Luật doanh nghiệp năm 2005 đã có những sửa đổi và qui định cụ thể hơn về công ty hợp danh. Điều này đã góp phần tạo điều kiện cho loại hình công ty này phát triển và đa dạng hơn hình thức kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế thì so với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần … thì công ty hợp danh còn chiếm tỉ lệ rất ít mặc dù nó có các nét đặc trưng và ưu điểm rất riêng biệt. Qui định của pháp luật còn bất cập và mâu thuẫn cũng là nguyên nhân khiến công ty hợp danh không phát huy được vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Do đó cần có các qui định rõ ràng và hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh để loại hình công ty này có thể phát triển trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích các qui định của luật doanh nghiệp ( 2005 ) về công ty hợp danh.doc
Luận văn liên quan