Lời nói đầu Trải qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Kinh tế phát triển nhanh và Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới. Có được những thành tựu đó là do: Ngay từ ngày đầu của công cuộc Đổi mới Đảng ta đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường tất yếu để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ Đổi mới. Mặt khác, để chủ trương đúng đắn đó đi vào thực tiễn phải kể đến vai trò trực tiếp của đầu tư phát triển.
Những tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam luôn được nhắc đến khi đánh giá các thành tựu của thời kỳ Đổi mới. Nhưng những đánh giá đó chủ yếu là định tính. Những đánh giá này có thể cung cấp cái nhìn tổng thể nhưng không đi sâu vào các căn cứ thực tế. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cần những đánh giá định lượng.
Bởi vậy, đề tài này ra đời với mục đích cao nhất là phân tích định lượng tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam.
ChươngI Những vấn đề lí luận chung A. Các khái niệm chung về cơ cấu và chuyển dịch cấu kinh tế
1 .Cơ cấu kinh tế:
1.1. Khái niệm và bản chất:
-Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc vào mục tiêu của nền kinh tế.
-Về mặt bản chất: CCKT là kết quả của phân công lao động xã hội
-Về mặt biểu hiện: CCKT có 2 đặc tính:
*Biểu hiện hình thức thông qua quan hệ tỉ lệ: tỉ trọng giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu ngành.
*Biểu hiện nội dung thông qua quan hệ giữa các thành phần: các thành phần tương tác với nhau như thế nào, quan hệ chặt hay lỏng.
1.2. Phân loại CCKT:
3 góc độ chủ yếu để phân tích CCKT
*Cơ cấu ngành kinh tế:
-Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về mặt số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau.
-Vai trò: Là bộ phận quan trọng nhất trong phân tích CCKT vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
-Dưới góc độ ngành, cơ cấu có thể xem xét dựa trên 3 hình thức:
·Cơ cấu theo nhóm ngành lớn: công nghiệp-xây dựng;nông nghiệp; dịch vụ
·Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên phương thức và công nghệ sản xuất: nhóm ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp
·Cơ cấu theo 2 nhóm ngành dựa trên tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành dịch vụ
*Cơ cấu lãnh thổ kinh tế
-Là kết quả của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ
-Góc độ xem xét
·CC lãnh thổ theo vùng kinh
·CC theo thành thị và nông thôn
·CC giữa lãnh thổ phát triển và lãnh thổ chậm phát triển
CC giữa lãnh thổ động lực và lãnh thổ còn lại
*Cơ cấu thành phần kinh tế:
-Là kết quả tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu kinh tế
-Góc độ xem xét:
·Theo 5 thành phần kinh tế:kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
·Theo 2 nhóm:kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước
2. Chuyển dịch CCKT
2.1. Khái niệm:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế do sự thay đổi các chính sách và các bién động về mặt xã hội gây nên, nó có thể được thực hiện một cách chủ động, có ý thức hoặc xảy ra trong điều kiện khách quan, có thể không theo hoặc ngược lại dự kiến ban đầu.
ðCCKT không thể tự thay đổi nếu không có sự tác động từ bên ngoài
ðNếu CCKT chuyển dịch đúng, hợp lí thì đó là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; ngược lại nó trở thành yếu tố kìm hãm. Vì vậy CDCCKT là một vấn đề mang tầm quốc gia, đòi hỏi một chương trình hành động thống nhất trên phạm vi cả nước
2.2. Các nguyên tắc CDCCKT
-CDCCKT phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tức là phải phù hợp với các quy luật khách quan chứ không phải những mệnh lệnh hành chính chủ quan, duy ý chí. Bởi vậy, CDCC phải đảm bảo hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài, hài hoà giữa hiệu quả cục bộ và hiệu quả toàn bộ cũng như phải đem lại hiệu quả cho mọi người, cho toàn xã hội.
-CDCCKT phải dựa trên một chương trình hành động thống nhất mang tính quốc gia. Đối với cơ cấu theo lãnh thổ, CCKT vừa phải phù hợp với lợi thế so sánh của vùng vừa phải hài hoà với tổng thể xã hội. Đối với cơ cấu ngành, phải xuất phát từ sự thay đổi các ngành chủ lực làm đầu tàu kéo nền kinh tế từ những thay đổi về lượng đến những chuyển dịch về chất. Cơ cấu theo thành phần tuy không đóng vai trò chủ đạo nhưng phải tạo ra môi trường kinh tế cởi mở, linh hoạt cho sự chuyển dịch.
-CDCCKT có thể diễn ra một cách tuần tự, cũng có thể diễn ra một cách nhảy vọt tuỳ theo điều kiện cụ thể.
2.3. Xu hướng CDCCKT
CDCCKT có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau và còn phù thuộc vào mục tiêu kinh tế xã hội của từng quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, để có một nền kinh tế hợp lí và đồng bộ thì CDCCKT tốt nhất nên đi theo một xu hướng chung. Đặc biệt, đối với CC ngành kinh tế: Tỉ trọng ngành phi nông nghiệp tăng lên, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Mục tiêu để đạt đến một nền kinh tế phát triển thì: tỉ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 85%tổng lao động xã hội. Khoa học công nghệ đóng góp khoảng 80% năng suất lao động xã hội. Ngành công nghiệp chế tác có công nghệ cao chiếm khoảng 30-40% giá trị ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm hơn 80% tổng GDP quốc gia. Nhóm ngành sản xuất vật chất tăng 1% thì nhóm ngành dịch vụ phải tăng 1,8-2% mới đủ chất bôi trơn cho nền kinh tế phát triển tốt. Trong điều kiện Việt Nam có thể tăng 1,3-2% là chấp nhận được.
B. Đầu tư - Tác nhân tất yếu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế không thể tự chuyển dịch nếu không có những tác động từ bên ngoài (chủ quan và khách quan). Muốn cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo những định hướng kinh tế xã hội không thể chỉ sử dụng những mệnh lệnh hành chính. Muốn đẩy mạnh một ngành hay phát triển một vùng, hay nói rộng hơn là thay đổi cơ cấu của cả nền kinh tế, trước hết phải có vốn, tức phải có đầu tư. Bởi vậy đầu tư là nhân tố hàng đầu, thiết yếu đối với sự chuyển dịch cơ cấu của mỗi nền kinh tế. Có thể chứng minh điều đó thông qua:
1. Những lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1. Mô hình của Rostow
Rostow đã chia quá trình phát triển của một quốc gia tư xã hội truyền thống đến xã hội phát triển cao thành 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều có một cơ cấu kinh tế đặc trưng gắn với một yêu cầu riêng về tỉ lệ đầu tư và cơ cấu đầu tư:
ØGiai đoạn 1: Xã hội truyền thống: Nền kinh tế bị thống trị bởi sản xuất nông nghiệp. Tích luỹ gần như bằng 0, không có đầu tư.
ØGiai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh: Sự ra đời của ngân hàng và các tổ chức huy động vốn thúc đẩy hoạt động đầu tư. Cơ cấu ngành kinh tế: Nông-công nghiệp
ØGiai đoạn 3: Cất cánh: Yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết; tỉ lệ tiết kiệm tăng lên ít nhất chiếm 10% trong thu nhập quốc dân thuần tuý. Ngoài nguồn vốn đầu tư trong nước còn vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này là: Công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp.
ØGiai đoạn 4: Trưởng thành: Cơ cấu kinh tế đặc trưng của giai đoạn này: Dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Tỷ lệ tiết kiệm chiếm hơn 20% thu nhập quốc dân thuần túy. Đầu tư chiếm tỷ lệ cao.
ØGiai đoạn 5:Tiêu dùng cao
ðCó thể thấy trong mỗi giai đoạn đầu tư luôn là yếu tố tiên quyết đối với sự hình thành 1 cơ cấu kinh tế mới,tiến bộ và hợp lý hơn.
53 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2737 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích định lượng tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ìn chung, nếu xét trên cả giai đoạn nghiên cứu, có thể thấy sau đổi mới cơ cấu đầu tư xét theo thành phần kinh tế của nước ta đã có những chuyển biến đúng hướng theo chủ trương của Đảng và nhà nước:khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, động viên mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế xã hội.Cụ thể, tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước giảm, đồng thời tỷ trọng của 2 khu vực còn lại tăng.Tuy nhiên, sự chuyển dịch diễn ra còn chậm, chưa tương xứng với tiềm lực và nhu cầu phát triển của đất nước.Có thể phân tích cụ thể điều đó thong qua việc nghiên cứu 2 chỉ tiêu là cơ cấu vốn đầu tư và tốc độ gia tăng vốn đầu tư đối với mỗi thành phần kinh tế qua từng giai đoạn phát triển của nước ta.
Bảng: Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế
Đơn vị:%
Năm
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng
vốn ngân sách nhà nước
Vốn vay
vốn của doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác
1995
42.03
18.74
8.37
14.92
27.61
30.37
1996
49.08
22.36
9.47
17.24
24.94
25.97
1997
49.43
21.75
11.72
15.96
22.61
27.96
1998
55.52
22.45
15.71
17.36
23.73
20.75
1999
58.67
24.21
18.83
15.63
24.05
17.28
2000
59.14
25.80
18.37
14.97
22.88
17.97
2001
59.81
26.74
16.85
16.22
22.59
17.60
2002
57.33
25.09
17.46
14.78
25.29
17.38
2003
52.90
23.82
16.30
12.78
31.09
16.01
2004
48.06
23.79
12.25
12.03
37.73
14.21
2005
47.11
25.63
10.48
11.00
38.00
14.89
2006
45.74
24.76
9.14
11.84
38.05
16.21
2007
39.89
20.36
7.86
11.67
35.33
24.78
(nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ)
Năm
Tốc độ phát triển của vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Tổng số
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
1995
11.9
11.8
5.0
19.0
1996
14.9
34.2
3.8
-1.7
1997
19.2
20.1
8.1
28.3
1998
2.6
15.3
7.8
-23.8
1999
9.8
16.0
11.2
-8.5
2000
15.3
16.2
9.7
19.9
2001
12.5
13.7
11.0
10.2
2002
14.3
12.0
20.2
14.9
2003
12.7
10.1
21.9
8.8
2004
13.5
10.1
25.0
7.7
2005
13.0
9.6
17.4
16.9
2006
13.7
9.9
16.0
22.0
2007
25.8
7.3
17.4
93.2
Giai đoạn 1995-2000: Tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước tăng nhanh (từ 42.03% năm 1995 lên 59.14% năm 2000.Trong đó, tỷ trọng vốn vay của khu vực này tăng rất nhanh, từ 8.37% (1995) lên 18.37% năm 2000, chiếm gần 1/5 tổng vốn đầu tư toàn xã hội và lớn hơn tỉ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó tỷ trọng của 2 khu vực còn lại giảm:khu vực ngoài nhà nước giảm 4.37%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh 12.4%. Nếu xét ở khía cạnh tốc độ tăng trưởng có thể giải thích rõ hơn điều này. Thứ nhất, về giá trị tuyệt đối, thành phần kinh tế nhà nước có xuất phát điểm lớn hơn hẳn 2 thành phần còn lại. Mặt khác, trong thời kì này lại có tốc độ phát triển nhanh và ổn định hơn. Hai yếu tố đó tác động thuận chiều khiến cho thời kì này đầu tư cho khu vực nhà nước chiếm ưu thế tuyệt đối. Tóm lại, trong giai đoạn 1995-2000, cơ cấu đầu tư đi ngược với xu hướng mà nền kinh tế mong muốn. Điều này một mặt là do tác động gián tiếp từ khủng hoảng tài chính châu Á (như đã nói ở trên) qua những biện pháp của chính phủ nhằm bảo vệ nền kinh tế. Nhưng mặt khác nó cũng bộc lộ những bất cập trong cơ chế thu hút đầu tư của nhà nước chưa thực sự hiệu quả, các chính sách chưa thực sự công bằng với tất cả các nhà đầu tư. Bởi vậy, năm 2000, Quốc hội đã ban hành Luật doanh nghiệp với tư tưởng chỉ đạo “Mọi công dân có năng lực pháp lý đều được kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm” thay cho tư tưởng “chỉ được kinh doanh những nghành nghề mà pháp luật cho phếp” trước đây .Điều này thực sự dã tạo ra những biến đổi cho cơ cấu đầu tư của nước ta giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn 2001-2005: Giai đoạn này cơ cấu đầu tư bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng của đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước bắt đầu giảm, từ 59.14% (1995) xuống 47.11% (2005). Tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước tăng 15.41% trong 5 năm. Tuy tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giảm nhưng mức độ giảm cũng thấp hơn hẳn thời kỳ trước (2.71% trong 5 năm). Nguyên nhân là do thời kỳ này tốc độ gia tăng vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước nhanh hơn hẳn so với khu vực nhà nước, từ năm 2003 tỷ lệ về tốc độ gia tăng giữa 2 khu vực đó là hơn 2 lần. Đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đã đảm bảo tốc độ gia tăng vốn dương qua tất cả các năm và tốc độ này đến năm 2005 đã cao hơn của khu vực nhà nước. Sở dĩ 2 khu vực này có được sự thay đổi khả quan đó là do: Thứ nhất, đây là giai đoạn kinh tế thế giới phát triển tương đối ổn định nên dòng vốn vào Việt Nam không ngừng gia tăng. Thứ 2 (nguyên nhân chủ yếu) là những thay đổi tích cực từ bản thân môi trường đầu tư trong nước. Đặc biệt trong năm 2005, Quốc hội sửa đổi và thông qua Luật Đầu tư (chung) và Luật Doanh nghiệp (thống nhất) tạo ra một khung pháp ly bình đẳng hơn cho các thành phần kinh tế. Theo đó hàng loạt văn bản pháp luật ra đời nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI của Việt Nam.
Giai đoạn 2006-2007: Chỉ trong 2 năm nền kinh tế đã có những chuyển biến lớn về tỉ trọng giữa các thành phần kinh tế. Với tốc độ gia tăng 22% (2006), 93% (2007) tỷ trọng của khu vực này đã tăng lên một cách nhanh chóng đạt 24.78% (2007). Khu vực tư nhân duy trì tốc độ tăng trưởng cao của giai đoạn trước 16% (2006), 17.4% (2007) trong khi ở khu vực kinh tế nhà nước tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức một con số. Do đó 2 thành phần còn lại đã nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với khu vực nhà nước về tỷ trọng vốn đầu tư. Năm 2007, tỷ trọng giữa 3 thành phần này tương đối cân bằng, đặc biệt giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực ngoài nhà nước (39.89% và 35.33%). Nguyên nhân chủ yếu của những biến đổi trên, với các thành phần trong nước, là do môi trường đầu tư trong nước tiếp tục được cải thiện theo hướng công bằng và minh bạch hơn cho các nhà đầu tư của mọi thành phần kinh tế. Mặt khác, sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đã tạo ra một kênh huy động vốn hữu hiệu cho đầu tư phát triển. Đối với nguồn vốn nước ngoài, sự gia tăng đột biến của vốn đầu tư nước ngoài vào năm 2007 được giải thích do sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (7-11-2006), mang lại những kì vọng cho các nhà đầu tư quốc tế về tương lai của nền kinh tế.
II.Đánh giá chung về những tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xem xét nhịp độ phát triển về cơ cấu vốn đầu tư của các thành phần kinh tế qua các thời kỳ, nếu chỉ nhìn những thay đổi bề mặt sẽ không thấy được mối quan hệ giữa đầu tư và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Bởi lẽ, dễ thấy có những thời kỳ với một thành phần kinh tế tuy tỷ trọng đầu tư tăng nhưng tỷ trọng trong GDP lại giảm và ngược lại. Muốn nhìn nhận đúng vấn đề này phải phân tích bản chất của việc đầu tư đối với từng thành phần kinh tế.
Khu vực kinh tế nhà nước có những giai đoạn tỷ trọng đầu tư tăng trong khi tỷ trọng GDP lại giảm có thể giải thích do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Do lĩnh vực đầu tư: Khu vực nhà nước đầu tư vào rất nhiều những lĩnh vực không mang lại GDP một cách trực tiếp cho bản thân khu vực hoặc GDP không phản ánh hết các giá trị mà các công trình đó mang lại (bệnh viện, trường học…). Trong đó có nhiều công trình mang lại lợi ích và phát triển cho những thành phần khác. Ví dụ xây dựng các công trình giao thông, phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản tạo điều kiện ban đầu cho các nhà doanh nghiệp khi đầu tư vào mỗi vùng. Nhờ vậy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm hơn cho nền kinh tế với lượng vốn đầu tư ít hơn. Nhìn từ góc độ này có thể nói chính đầu tư của khu vực nhà nước đã mang lại hiệu quả gián tiếp cho chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo đúng hướng.
Thứ hai: Do những công trình xây dựng cơ bản của khu vực nhà nước chủ yếu là những công trình lớn, thời gian thi công kéo dài làm tăng độ trễ của kết quả đầu tư. Vì vậy kết quả đầu tư của thời kì trước đến thời kì sau mới được thể hiện. Bởi vậy tỷ trọng GDP trong một thời kì chưa phản ánh hết hiệu quả đầu tư của thời kì đó.
Thứ ba, phải nói đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vủa khu vực kinh tế nhà nước. Tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát vốn, sử dụng vốn đầu tư sai mục đích, đầu tư dàn trải, doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả… là những vấn đề người ta hay nói và nghĩ đến khi đánh giá khu vực này.
Ngoài ra, có thể thấy rằng xu hướng không đồng thuận giữa cơ cấu vốn đầu tư và tỷ trọng GDP của khu vực này diễn ra vào thời kỳ đầu của giai đoạn nghiên cứu (1995-2001). Đây là vẫn thời kỳ mà vai trò dẫn dắt đầu tư của khu vực nhà nước được đặt lên cao. Lúc này nhu cầu huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước rất lớn trong khi cơ sở hạ tầng cơ bản còn ở mức thấp. Để nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư khu vực nhà nước phải đảm trách chủ yếu phần đầu tư xây dựng cơ bản làm cho tỷ trọng đầu tư của khu vực này bị đẩy lên cao. Trong thời kỳ sau (sau năm 2001) khi các thành phần khác đã tham gia mạnh mẽ hơn vào nền kinh tế, cùng hỗ trợ khu vực nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng, tỷ trọng của đầu tư của khu vực này có xu hướng giảm và tương quan thuận chiều với tỷ trọng GDP.
Khu vực kinh tế ngoài nhà nước nếu nhìn chung cũng chứng kiến tình trạng tỷ trọng vốn đầu tư tăng trong khi tỷ lệ GDP lại giảm. Tuy nhiên, đối với khu vực này nguyên nhân nằm ở các thành phần kinh tế cấu thành nên khu vực này. Bởi vì, tỷ trọng GDP của khu vực giảm là do sự thu hẹp hoạt động của kinh tế cá thể và kinh tế và kinh tế tập thể. Điều đó cung do nhu cầu chung của sự phát triển và phù hợp với xu hướng chung tiến bộ. Hiện nay vốn đầu tư tăng lên chủ yếu là đầu tư vào khu vực tư nhân. Và quả thật tỷ trọng GDP của khu vực này luôn có xu hướng tăng trong suốt kì nghiên cứu.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn thể hiện tính ưu trội về khả năng sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Bởi vậy mặc dù có những thời kỳ tỷ trọng vốn đầu tư giảm nhưng tỷ trọng GDP vẫn luôn tăng lên một cách đều đặn.
Tóm lại, qua các phân tích ở trên có thể khẳng định vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Những tác động này nhìn chung không được thể hiện về mặt số lượng mà về mặt chất lượng của đầu tư. Ở đây, đầu tư được nghiên cứu là đầu tư hiệu quả và việc phân tích còn phụ thuộc vào sự khác nhau về nhiệm vụ, chức năng và lĩnh vực đầu tư của bản thân các thành phần kinh tế.
Chương 3
Giải pháp để nâng cao hiệu quả của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Từ thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và nhiều bất cập của Việt Nam hiện nay, xét thấy nền kinh tế đang đòi hỏi những bước đi mới, sáng tạo, nhằm tạo ra những bước đột phá để đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của quá trình hội nhập. Tìm giải pháp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước là vấn đề mà rất nhiều đề tài đã đưa ra. Bởi vậy trong phạm vi đề tài này chúng tôi sẽ chỉ đưa ra những giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhìn nhận theo giác độ của đầu tư. Nhìn chung, để chuyển dịch cơ cấu nhanh phải đầu tư hợp lý. Nhưng để đầu tư hợp lý trước hết phải xác định được sẽ đầu tư vào đâu. Đây lại là khâu yếu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Bởi vậy những giải pháp mà đề tài đưa ra sẽ tập trung giải quyết vấn đề này. Trong đó, có thể có những vấn đề không hoàn toàn mới nhưng để tạo nên một bức tranh tổng thể những nhiệm vụ cần làm chúng vẫn được đưa vào. Cụ thể với từng bộ phận của cơ cấu kinh tế như sau
A. Nâng cao hiệu quả đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1. Xác định cơ cấu ngành kinh tế dựa trên một hệ thống các nguyên tắc đa dạng trên phạm vi toàn quốc
1.1. Nguyên tắc 1: Xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hướng tới thị trường
Sản xuất hướng tới thị trường là yêu cầu sống còn và tất yếu của mọi nền sản xuất. Tuy vậy trong một giai đoạn ở nước ta yêu cầu đó đã bị bỏ qua. Thậm chí ngay trong điều kiện hiện nay vấn đề nghiên cứu thị trường cũng chỉ mới được chú trọng ở cấp vi mô, chủ yếu trong phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp. Điều đó dẫn đến sự thiếu tính đồng bộ của cả nền kinh tế. Bởi vậy trong giai đoạn tiếp theo, cần quán triệt nguyên tắc này đối với cả thị trường trong nước và quốc tế.
1.1.1. Đối với thị trường trong nước:
Trải qua 20 năm đổi mới đời sống của người dân đã và đang không ngừng được nâng cao. Vì vậy nhu cầu trong nước đã có những thay đổi đáng kể mà khi hoạch định chiến lược phải đặc biệt lưu tâm. Ngay nay cái mà người ta hướng tới không còn là “ăn no mặc ấm” nữa mà là “ăn ngon mặc đẹp”. Bởi vậy để đáp ứng nhu cầu của thị trường hướng đầu tư vào 2 vấn đề: Phát triển những mặt hàng, ngành hàng mới có chất lượng cao và Xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng sản xuất trong nước.
Nâng cao chất lượng nền sản xuất: Cần khuyến khích phát triển những ngành có giá trị gia tăng cao. Trong bản thân mỗi ngành bên cạnh bộ phận sản xuất bình dân phục vụ đông đảo quần chúng cũng cần quan tâm đến bộ phận sản xuất những mặt hàng xa xỉ. Nhờ đó đáp ứng được nhu cầu của số người có thu nhập cao tuy chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng đang ngày một tăng về số lượng đông thời có nhu cầu tiêu dùng cao. Tất nhiên trong điều kiện hiện nay chúng ta không chủ trương phát triển một nền sản xuất phục vụ người giàu do yêu cầu của mục tiêu công bằng xã hội. Tuy nhiên phải nhìn rộng hơn để thấy những tác động tích cực của vấn đề này. Trước hết khi phát triển những ngành này có thể góp phần hạn chế tình trạng nhập siêu do một lượng tiền trong nước bị chuyển ra nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng hóa chất lượng cao. Thứ hai, đây là những ngành mang lại giá tri gia tăng cao, với một lượng tài nguyên vốn có có thể mang lại thu nhập cao hơn cho nền kinh tế. Thứ ba, mang lại việc làm với thu nhập cao hơn và cơ hội nâng cao tay nghề và tác phong làm việc cho người lao động. Thứ tư, cùng với sự nâng cao dần dần chất lượng của từng ngành chúng ta có thể từng bước tiến tới mục tiêu đưa nền sản xuất phát triển theo chiều sâu. Cụ thể hướng phát triển với từng nhóm ngành như sau: Đối với ngành nông nghiệp, phải đầu tư cho công nghệ sinh học, cho ra đời những giống mới có chất lượng tốt, sản lượng cao. Đối với ngành công nghiệp: đầu tư nhằm phát triển đa dạng hóa mặt hàng, tạo cơ hội lựa chọn đa dạng cho người tiêu dùng.Đặc biêt với các hàng hóa xa xỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cao phải nhanh chong tiếp cận và đáp ứng các chỉ tiêu quốc tế. Đối với nhóm ngành dịch vụ, cần đa dạng hóa cơ cấu của bản thân các ngành để phục vụ cho những đối tượng cụ thể. Các ngành Y tế,giáo dục bên cạnh những loại hình truyền thống (mà chủ yếu được cung cấp bởi khu vực công và đang bị quá tải) cần phát triển những loại hình mới phục vụ cho những nhu cầu mới nảy sinh trong nền kinh tế: khám chữa bệnh chất lượng cao; bác sĩ gia đình; học ngoại ngữ; bán du học; học theo các chương trình tiên tiến để lấy chứng chỉ quốc tế. Cần khuyến khích khu vực tư nhân tham gia lĩnh vực này. Đồng thời do đặc điểm riêng của 2 ngành này phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với chất lượng hoạt động của những tổ chức tham gia cung cấp. Yêu cầu phân hóa ngành theo đối tượng phục vụ cũng tương tự đối với các ngành dịch vụ khác như giao thông vận tải,du lịch,bưu chính viễn thông…Ngoài ra,với điều kiện của nền kinh tế hiện đại cần tích cực đầu tư vào những ngành ngân hàng,tài chính,kiểm toán,tư vấn pháp luật…Đây là những ngành không chỉ mang lại giá trị gia tăng cao mà còn là những yêu cầu tất yếu để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững. Bởi vậy trong thời gian tới phải tăng cường đầu tư vào những ngành này.
Xây dựng thương hiệu: Việc xây dựng thương hiệu phải chuyển đổi theo chiều sâu (tức là quan tâm đến chất lượng của thương hiệu). Để nâng cao giá trị của thương hiệu ngay trong quan niệm của doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau: Thứ nhất, xây dựng thương hiệu trên cả 2 mặt: bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thứ hai, đưa người tiêu dùng vào chuỗi phát triển thương hiệu chứ không chỉ là đối tượng phục vụ nằm cuối chuỗi đó. Thứ 3, các doanh nghiệp phải thực sự xây dựng một chiến lược chất lượng toàn diện. Doanh nghiệp phải nhìn nhận lại hệ thống ISO, không phải là những mục tiêu phải đạt đến, mà là một công cụ giúp họ trong quy trình sản xuất và quản lý chất lượng. Nhìn chung xây dựng thương hiệu là một quá trình lâu dài gắn liền với quá trình phát triển và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.2.Đối với thị trường quốc tế:
Chúng ta đang tham gia thị trường toàn cầu, ở đó năng lực các quốc gia đang được phân chia theo nhữn nguyên tắc mới. Không hiểu những nguyên tắc đó không thể biết được chính xác những ngành vào của Việt Nam có thể cạnh tranh và tồn tại, những ngành nào cần tập trung phát triển để phát huy lợi thế so sánh, từ đó xác định những ưu tiên cũng như sự đánh đổi cần thiết. Cách thức can thiệp của chính phủ đối với từng lĩnh vực cũng cần tư duy hiện đại và tầm nhìn toàn cầu tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy những nguồn lực cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh. Để xây dựng một nền sản xuất hướng tới xuất khẩu, yêu cầu trọng tâm trong thời gian tới là phải xây dựng được một chiến lược xuất khẩu mang tính đột phá, táo bạo. Trong phạm vi đề tài chưa thể chỉ ra được chiến lược ấy vì đây là một vấn đề lớn mang tầm quốc gia. Tuy nhiên trên con đường đi tìm chiến lược xuất khẩu cho Việt Nam cần chú ý các vấn đề sau:
Trong giai đoạn trước mắt, cần tập trung đầu tư cho công tác dự báo và nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp thời được những cơ hội lớn từ nhu cầu của thế giới. Vấn đề này vẫn là một khâu yếu của Việt Nam. Để nâng cao chất lượng của công tác dự báo cần:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo còn thiếu và yếu (cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tìm hiểu sâu hơn những lý thuyết khoa học của ngành và có tầm nhìn tổng quan đối với các sự kiện kinh tế);
Đầu tư cho nghiên cứu: Khuyến khích các viện nghiên cứu chuyên ngành tập trung nghiên cứu, xây dựng những mô hình kinh tế lượng phù hợp và có chất lượng cao
Nâng cao chất lượng của thống kê kinh tế nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đáng tin cậy cho các hoạt động nghiên cứu, dự báo.
Giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận được các thông tin về thị trường thế giới nhanh nhất. Hỗ trợ doanh nghiệp trong phân tích đánh giá thông tin nhằm cung cấp kịp thời nhu cầu của thị trường đồng thời hé mở hướng đi mới cho sản xuất.
Về lâu dài, cần phải xây dựng một chiến lược dài hạn cho xuất khẩu. Chiến lược này xoay quanh một nhiệm vụ trung tâm là phải xây dựng một thương hiệu Việt có chỗ đứng chắc chắn trên thị trường quốc tế. Khác với xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp đây là một nhiệm vụ lớn, bao quát trên một phạm vi lớn. Đối tượng thực hiện không gói trọn trong một cấp, một ngành mà là toàn bộ nền kinh tế phải có trách nhiệm thực hiện. Mặt khác phải khẳng định đây cũng là yêu cầu sống còn để tạo ra sức đề kháng cho nền kinh tế trong điều kiện cạnh tranh hội nhập. Theo các chuyên gia kinh tế thì xây dựng thương hiệu Việt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất là vấn đề định vị. Tức là phải phân tích, đánh giá vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm tìm ra những nét riêng của cho dân tộc. Đặc biệt phải tích cực khai thác các nét bản sắc văn hóa dân tộc để chuyển vào giá trị sản phẩm.
Thứ hai là phải định hướng. Định ra một lối đi riêng cho xuất khẩu để hướng cả nền sản xuất theo. Đây là một công việc lâu dài, khó khăn và tốn kém nhưng là công việc mang tính quyết định. Định hướng đúng mới đầu tư đúng. Đầu tư đúng mới cạnh tranh và phát triển được. Hiện nay đây là yêu cầu khó khăn nhất đang đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam.
Thứ ba, phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, truyền thông nhằm đưa hình ảnh Việt Nam trở nên quen thuộc với thế giới. Muốn vậy, một mặt phải đầu tư cho quảng cáo, marketing dưới nhiều hình thức. Mặt khác phải chăm chút tỉ mỉ cho từng sản phẩm xuất khẩu nhằm tạo niềm tin lâu dài và ấn tượng riêng biệt đối với người tiêu dùng quốc tế mỗi khi nghĩ đến sản phẩm Việt Nam.
Thứ tư cần xây dựng một cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ phát triển thương hiệu Việt Nam. Cơ quan này phải có sự liên hệ tổng quát với nhiều bộ ngành, đặc biệt là các bộ ngành có liên quan sâu đến thị trường quốc tế như du lịch, xuất khẩu.
Cuối cùng, phải xác định tiếp thị thương hiệu là trách nhiệm của mọi người dân mà đứng đầu là quan chứ chính phủ. Mỗi người phải tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu đất nước của mình. Các sự kiện quốc tế như các hội nghị, diễn đàn quốc tế, các cuộc thi hoa hậu…đều là dịp để chúng ta nhắc đến đất nước mình một cách tinh tế và khéo léo.
Các ý kiến trên là khá đầy đủ tuy nhiên mới đề cập đến một mặt của vấn đề. Đó là làm sao đưa được thương hiệu Việt đến với người nước ngoài. Vì vậy còn thiếu một mặt rất quan trọng: thương hiệu Việt trong lòng người Việt. Muốn tiếp thị thành công thì con người là yếu tố quan trọng nhất. Các ý kiến trên cũng đã đưa ra vấn đề mỗi công dân phải ý thức được rằng mình là một hình ảnh đại diện của đất nước khi giao lưu quốc tế. Bởi vậy, cần nâng cao sự hiểu biết của người dân, đặc biệt là giới trẻ về truyền thống, văn hóa,danh lam thắng cảnh… của đất nước và cách ứng xử văn minh trong mọi tình huống (đặc biệt là trong giao tiếp quốc tế). Đưa các nội dung đó vào trong chương trình học của học sinh từ bậc tiểu học.
1.2.Nguyên tắc 2: Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với khả năng của chính nền kinh tế
Nguyên tắc này tuân theo “lý thuyết về đường giới hạn khả năng sản xuất”. Theo đó đòi hỏi khi xây dựng các chỉ tiêu định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phải dựa trên những điều kiện hiện có hoặc những tiềm năng thực sự của nền kinh tế . Bởi lẽ, một cơ cấu kinh tế hiện đại nhưng lại đòi hỏi những nguồn lực vượt quá khả năng của nền kinh tế hay một cơ cấu trì trệ, lạc hậu đều có tác hại như nhau cản trở sự phát triển của nền kinh tế và làm giảm tác dụng của đầu tư. Vì vậy, mỗi khi đưa ra những chính sách nhằm xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước cho từng giai đoạn, trước hết chính phủ cần tiến hành nhưng điều tra đánh giá lại năng lực của nền kinh tế trong hiện tại và những tiềm năng có thể xuất hiện trong kì kế hoạch. Riêng trong điều kiện hiện nay công tác đánh giá của Việt Nam cần chú ý những điểm sau:
Thứ nhất,phải xem xét lại những yếu tố mà từ trước đến nay chúng ta vẫn coi là lợi thế của Việt Nam mà chúng ta vẫn dựa vào để xác định cơ cấu nền kinh tế. Đó là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên phong phú. Các nhân tố này hiện nay không còn mang tính quyết định khi ngày nay nó được lưu chuyển đễ dàng hơn trên thị trường quốc tế. Ngày nay người ta gọi đó là các lợi thế tĩnh. Những lợi thế này chỉ nên tận dụng ở giai đoạn đầu để tạo tiền đề vật chất cho nền kinh tế. Vậy điều gì tạo ra năng lực cạnh tranh và sự phát triển lâu dài cho nền kinh tế. Đó chính là những lợi thế động. Lợi thế động là những lợi thế có tiềm năng và xuất hiện khi có điều kiện.Cụ thể là sự thay đổi chính sách tạo môi trường kinh doanh, nỗ lực học hỏi của doanh nghiệp, sự lan tỏa kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ. Lợi thế động là lợi thế cấp cao, bao gồm vốn lớn, công nghệ hiện đại, lao động có chuyên môn. Hiện nay những tiền đề để tạo ra lợi thế động cho nền kinh tế đang bước đầu xuất hiện ở Việt Nam. Đó là việc Việt Nam gia nhập WTO, Hiệp định thương mại Việt-Mĩ và các quan hệ quốc tế khác đang ngày càng mở rộng. Chúng ta phải nắm bắt được những tiền đề này nhằm thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển công nghệ và nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Ngòai ra chúng ta còn phải tận dụng những lợi thế về vị trí địa lý và sự ổn định về chính trị làm yếu tố thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế.
Thứ hai,cơ sở hạ tầng của chúng ta rất thiếu thốn và kém phát triển.Bởi vậy chuyển dịch kinh tế phải tiến hành từng bước cho phù hợp với cơ sở hạ tầng trong từng giai đoạn. Cụ thể trong giai đoạn hiện nay, dù chú trọng công nghiệp hóa-hiện đại hóa, vẫn cần phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Vừa tận dụng các nguồn lao động ở mọi trình độ, vừa không tạo sức ép cho cơ sở vật chất.
II.Tập trung đầu tư vào các ngành mũi nhọn làm đầu tàu kéo cả nền kinh tế
Nội dung của phần này sẽ không nhằm vào việc tìm ra những ngành nào sẽ là trọng điểm mà sẽ tập trung vào nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các ngành kinh tế trọng điểm.
Thứ nhất, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm. Một mặt phải tăng cường hiệu quả của các chính sách ưu tiên cho các ngành trọng điểm như các chính sách thuế, hải quan…Mặt khác phải khuyến khích các ngành có liên quan tham gia hỗ trợ cho các ngành có trọng điểm. Đặc biệt là hệ thống tài chính. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách nhanh chóng, dễ dàng thông qua các kênh huy động vốn đa dạng.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng ,giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ hướng vào các ngành mũi nhọn. Đối với cơ sở hạ tầng: Tăng tỷ lệ đầu tư cơ sở hạ tầng của các ngành mũi nhọn trong tổng đầu tư phát triển của xã hội. Tuy nhiên tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phải giảm. Điều đó đồng nghĩa với việc khuyến khích cả tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này nhằm làm tăng nhanh tổng nguồn vốn. Kêu gọi đầu tư nước ngoài một cách có định hướng vào các ngành trọng điểm. Đặt các dự án đầu tư vào các ngành đó vào khu vực ưu tiên phê duyệt. Trong cơ cấu đầu tư cho cơ sở hạ tầng của những ngành trọng điểm, nhà nước cần tập trung phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc,đảm bảo cung cấp đủ điện, nước. .Còn doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài sẽ đầu tư máy móc, trang thiết bị. Như vậy vừa tránh chồng chéo vừa nâng cao hiệu quả do năng lực đầu tư được chuyên môn hóa. Đối với giáo dục đào tạo: Vì các ngành trọng điểm chỉ mang tính tương đối và sẽ biến đổi theo thời gian trong khi không thể liên tục thay đổi tính chất của hệ thống giáo dục đào tạo theo từng thời kì. Bởi vậy nên triển khai các lớp học ngắn hạn trong phạm vi cơ sở nhằm cập nhât kiến thức mới cho cán bộ, công nhân viên trong ngành. Ngoài ra phải cử cán bộ trong ngành đi tu nghiệp tại các nước phát triển nhất về ngành đó để nâng cao trình độ chuyên môn. Việc này phải được thực hiện ngay khi nhà nước có định hướng ngành trọng điểm nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển. Đối với khoa học công nghệ: Trước hết phải nâng cao tỉ lệ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai(R&D). Trong khi tỉ lệ này ở Hoa Kỳ, Nhật Bản là 3% GDP; Đức, Pháp là 2-3% GDP; Hàn Quốc 5%; Singapo 1,1%; Các nước trong khu vực Đông Nam Á là 2% thì ở Việt Nam nó chỉ chiếm 0,4%. Phần chi tiêu cho R&D của các doanh nghiệp còn thấp hơn. Với một nước có quy mô GDP nhỏ như Việt Nam thì lượng đầu tư như thế là cực thấp. Để phát triển nhanh trong tương lai chúng ta phải hạn chế tiêu dùng hiên tại. Muốn dần dần tự chủ về công nghệ phải tăng cường hoạt động nghiên cứu triển khai. Mặt khác, với địa vị là một nước đi sau, đang bị thế giới bỏ lại phía sau một quãng xa, chúng ta phải tích cực đón nhận chuyển giao công nghệ. Phải ưu tiên nhập khẩu những dây chuyền công nghệ tiên tiến nhất cho các ngành trọng điểm. Tuy nhiên khi nói đến chuyển giao công nghệ, một vấn đề luôn phải quan tâm là năng lực đánh giá và tiếp nhận công nghệ. Khi mua cần có năng lực định giá, lựa chọn dây chyền. Khi đưa vào sử dụng lại đòi hỏi năng lực vận hành sao cho dây chuyền có hiệu suất tối đa và thời gian khấu hao là ngắn nhất.
B.Nâng cao hiệu quả của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ kinh tế
B.1.Đối với cơ cấu vùng kinh tế xã hội
I.Xác định cơ cấu kinh tế vùng hợp lý dựa trên dựa trên sự tương tác của chính phủ và địa phương,của vùng và cả nước
1. Phối hợp giữa chính phủ và địa phương trong công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế vùng
Nhà nước sẽ đưa ra các định hướng phát triển kinh tế xã hội tổng thể trên phạm vi toàn quốc. Trong đó chỉ ra các nhóm ngành sẽ được ưu tiên phát triển (các ngành trọng điểm-như đã đề cập ở phần trên). Các địa phương sẽ tiến hành tự nghiên cứu các tiềm năng, lợi thế của mình cũng như các địa phương quanh đó. Sau đó, đối chiếu với định hướng của chính phủ để đưa ra các ngành chủ lực trong thời gian tới của địa phương và trình chính phủ xem xét. Khi đã xem xét kiến nghị của tất cả các địa phương nhằm tránh sự chồng chéo (các địa phương đều tập trung quá nhiều vào ngành này, bỏ rơi ngành khác) chính phủ chuyển lại danh sách các ngành đã phê duyệt cho địa phương. Địa phương dựa vào đó tự xác định các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế của địa phương mình. Làm như vậy vừa rút ngắn được thời gian của công tác lập kế hoạch (do một phần công việc của chính phủ đã được chia sẻ với địa phương) vừa nâng cao hiệu quả(do địa phương được chủ động tìm ra thế mạnh của chính mình). Ngoài ra, chính phủ có thể cử các chuyên gia kinh tế từ các Bộ lập thành các nhóm tư vấn xuống thực tế giúp địa phương trong công tác lập kế hoạch.
2.Tăng cường mối liên kết giữa các vùng
Chủ trương phát triển kinh tế xã hội của chính phủ là tăng cường đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm để làm đầu tàu phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Trong giai đoạn tới để phát huy mạnh mẽ hơn vai trò động lực của các vùng này, cần tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa bản thân các tỉnh trong vùng cũng như của vùng với các vùng xung quanh.
Trước hết, xét từ góc độ nội bộ vùng, vùng kinh tế là một không gian kinh tế thống nhất. Mặc dù vùng kinh tế trọng điểm không phải một đơn vị hành chính nhưng tại đây nhiều vấn đề phải được giải quyết trên cơ sở thống nhất cả vùng như: lao động - việc làm, tài nguyên-môi trường, hạ tầng giao thông…Vì vậy cần một cơ chế quản lý chung cho các địa phương trong vùng. Giữa các tỉnh, thành phố phải có sự trao đổi nhằm giải quyết vấn đề này. Đặc biệt về vấn đề thu hút đầu tư và cơ cấu kinh tế, phải có một mối liên kết tạo ra những chính sách chung. Như thế mới có sự phối hợp nhịp nhàng và nhà đầu tư đầu tư mới nhìn thấy ở đó cơ hội đầu tư công khai, bình đẳng. Trong sự liên kết đó các địa phương vẫn hoàn toàn phát huy lợi thế riêng của mình mà không hạn chế sự phát triển của địa phương khác. Muốn vậy, cần quan niệm chính xác vấn đề cạnh tranh thu hút đầu tư. Cạnh tranh là nhằm tăng khả năng thu hút đầu tư của mỗi tỉnh nhưng cạnh tranh phải dựa trên định hướng phát triển của cả vùng. Bởi vậy, xây dựng chủ trương về thu hút đầu tư các tỉnh không nên chi dựa vào điều kiện của chính địa phương mình mà còn phải xét mối tương quan với các tỉnh khác. Về phía nhà nước, mỗi bộ nên cử một chuyên viên lập thành từng nhóm kết hợp với các địa phương với nhiệm vụ cụ thể nghiên cứu phát triển vùng. Từ đó, đưa ra những tư vấn cho việc quy hoạch phát triển cho từng tỉnh. Các tỉnh có thể dựa vào đó để xác định các ngành chính cũng như mũi nhọn thu hút đầu tư.
Mặt khác, đối với các vùng xung quanh vai trò dẫn dắt, hỗ trợ của vùng trọng điểm cần được được xác định cụ thể hơn. Trước mắt, với nguồn lực có hạn chính phủ vẫn tập trung đầu tư cho các vùng trọng điểm. Tuy nhiên, đi kèm với các dự án của chính phủ cần có cam kết từ những địa phương tiếp nhận đầu tư. Cam kết bao gồm: tỷ lệ GDP sẽ được giành để giúp đỡ các tỉnh khác, các chương trình, dự án hỗ trợ cụ thể. Nội dung hỗ trợ bao gồm: cơ sở hạ tầng, liên kết đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, y tế… Chính phủ sẽ giám sát việc thực hiện các cam kết đó. Về phía mình, các địa phương xung quanh sẽ đảm nhiệm vai trò phụ trợ cho vùng trọng điểm: thực hiện khâu gia công chế biến, phát triển các vùng nguyên liệu cho vùng trọng điểm, đáp ứng thêm nhu cầu về nhân công(nếu thiếu).
Ngoài ra, trên phạm vi cả nước cũng cần sự liên kết giữa các vùng trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam có điều kiện phát triển hơn cần giúp đỡ vùng trọng điểm miền Trung. Vùng trọng điểm miền Trung, do đặc điểm về vị trí địa lý, cần đảm nhiệm tốt vai trò đầu mối giao thương giữa hai vùng còn lại và dựa vào đó để phát triển.
II.Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư tại địa phương
Hiện nay, nhu cầu về đầu tư phát triển của các địa phương là rất lớn. Để nâng cao năng lực cạnh tranh mình phải các địa phương có một môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng, năng động. Môi trường đầu tư bao gồm rất nhiều yếu tố (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực,tài nguyên sẵn có của địa phương, cơ chế chính sách). Tuy nhiên phần này chỉ tập trung đưa ra các giải pháp liên quan đến các chính sách của địa phương.
1.Thiết lập hệ thống chính sách cởi mở
Để có một môi trường đầu tư thông thoáng các chính sách phải cởi mở. Trước hết, để thu hút các dự án các địa phương (trong phạm vi quyền hạn cho phép) có thể miễn giảm một số loại thuế cho doanh nghiệp như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất, thuế xuất nhập khẩu, thuế nguyên, nhiên vật liệu…Đặc biệt là các ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những ngành chủ lực của địa phương(danh mục loại A) để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Tuy nhiên, chỉ nên coi đây là giải pháp bước đầu. Không nên khuyến khích các địa phương vào cuộc chạy đua giảm thuế. Bởi vì thuế là nguồn thu chủ yếu của chính phủ cũng như chính quyền địa phương. Thuế đảm bảo cho người dân tiếp cận với các dịch vụ công cộng. Nếu cắt giảm thuế quá nhiều, lợi ích sẽ giành nhiều cho các nhà đầu tư, công bằng xã hội không đảm bảo.
Vì vậy, về lâu dài, các hình thức thu hút đầu tư cần được định hướng theo chiều sâu. Các biện pháp cụ thể bao gồm: Đẩy nhanh quá trình cải cách thủ tục hành chính và cơ chế một cửa nhằm giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đưa dự án vào thực hiện, tránh ứ đọng vốn. Thay đổi quan niệm về doanh nghiệp từ đối tượng quản lý sang đối tượng phục vụ. Doanh nghiệp là người mang lại sự phát triển. Mỗi quan chức địa phương đều phải ý thức được điều đó và coi doanh nghiệp là đối tác. Mỗi dự án đầu tư là một cam kết hợp tác giữa doanh nghiệp và chính quyền. Vì vậy không nên có quan niệm “xin-cho” mỗi khi cấp phép một dự án. Mặt khác, nếu muốn doanh nghiệp gắn bó lâu dài với địa phương cần củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Tức là phải bảo đảm sự ổn định của hệ thống chính sách và đấu tranh làm trong sạch đội ngũ cán bộ địa phương. Sự ổn định của chính sách ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các chính sách thay đổi quá thường xuyên doanh nghiệp sẽ không phản ứng kịp và phải gánh chịu những thiệt hại. Bởi vậy, trước khi đề ra một chính sách mới cần nghiên cứu kỹ lưỡng, dự báo các tác động của chính sách. Tốt nhất nên tham khảo ý kiến của người dân và doanh nghiệp về các thay đổi. Những chính sách đúng đắn sẽ khắc phục được tình trạng sai rồi sửa nhờ đó hạn chế những thay đổi đột ngột. Còn để làm trong sạch bộ máy chính quyền cần phải đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi hạch sách, nhũng nhiễu của các cán bộ nhà nước. Một mặt tăng cường kênh thông tin giữa chính quyền và doanh nghiệp. Tại đó chính quyền công khai với doanh nghiệp những quyền lợi, nghĩa vụ của họ và các bước thực hiện thủ tục hành chính cần thiết. Doanh nghiệp được khuyến khích tố cáo các hành vi sai phạm, hạch sách của cán bộ nhà nước hoặc kiến nghị các vấn đề bất cập của cơ chế chính sách với chính quyền. Đặc biệt cần huy động báo chí tham gia vào kênh này. Mặt khác, cần xử lý nghiêm và công khai các vụ vi phạm bị phát hiện. Việc đó không những tạo thêm niềm tin với các nhà đầu tư mà còn có tác dụng cảnh cáo, răn đe. Ngoài ra, mỗi địa phương nên khuyến khích những sáng kiến riêng để thu hút đầu tư.
2.Xây dựng cơ chế giám sát hoạt động triển khai các dự án đầu tư
Cơ chế giám sát cần đảm bảo vừa đủ chặt chẽ để hạn chế các sai phạm của doanh nghiệp vừa không quá cứng nhắc gây khó khăn cho doanh nghiệp:
Một mặt, tăng cường năng lực kiểm tra,giám sát của ban quản lý dự án.
Mặt khác, tạo điều kiện cho giám sát cộng đồng được thực hiện hiệu quả. Để người dân tích cực tham gia hoạt động giám sát, cần tích cực tuyên truyền để người dân hiểu việc đó là vì lợi ích của chính họ và của cộng đồng. Mặt khác, phải có biện pháp bảo vệ những công dân đã tố cáo những hành vi sai trái. Ngoài ra các quy hoạch của dự án (ngoài nhưng dự án bảo mật) đặc biệt là các dự án sử dụng ngân sách nhà nước phải được công khai trước cộng đồng. Ban giám sát đầu tư cộng đồng có thể yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cung cấp thông tin về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành... Trong trường hợp dự án có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, an ninh, văn hoá - xã hội, vệ sinh môi trường sinh sống của cộng đồng hoặc chủ đầu tư không thực hiện công khai hoá về đầu tư theo quy định của pháp luật, ban giám sát có thể kiến nghị các cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư, vận hành dự án.
Trên cơ sở quy định của nhà nước các địa phương có thể đưa thêm một số điều kiện do những yêu cầu của riêng địa phương. Tuy nhiên cần hạn chế tối đa vấn đề này.
B.2.Đối với cơ cấu thành thị-nông thôn
Sau đây là những giải pháp nhằm đẩy mạnh đô thị hóa theo chiều sâu: thay vì tập trung quá nhiều vốn đầu tư vào các đô thị nên đầu tư vào khu vực nông thôn. Đô thị hóa sẽ diễn ra theo lộ trình sau: Công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp,nông thôn
Lao động dư thừa=>đưa vào đào tạo
Xây dựng khu công nghiệp hoặc khu chế biến các sản phẩm của địa phương
Cơ cấu kinh tế của địa phương thay đổi.Bản chất của nền sản xuất thay đổi
Đô thị hình thành
1.Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động
Về phía nhà nước, cần đẩy nhanh quá trình thực hiện các dự án đã đề ra nhằm cải thiện điều kiện hạ tầng nông thôn. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn.. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Phát triển giao thông, điện, nước sạch, giáo dục qua mô hình điện-đường-trường-trạm. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư... nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản…Tóm lại, đầu tư từ ngân sách nhà nước phải tạo ra một môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đối với các đơn vị trực tiếp sản xuất,cần đưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…Cơ khí hóa hoạt động sản xuất để nâng cao sản lượng.
Sau khi hoàn thành các công việc trên, năng suất lao động sẽ được nâng cao một cách đáng kể. Khi đó sẽ xuất hiện tình trạng dư thừa lao động cũng như các tiền đề cơ bản cho đô thị hóa. Khi đó chúng ta sẽ bước hai:
2.Đưa lao động dư thừa vào đào tạo.
Khi năng suất lao động nâng cao đồng nghĩa thu nhập của địa phương đó sẽ nâng cao. Cần dành một phần từ ngân sách địa phương cho mục tiêu dài hạn là giáo dục đào tạo. Dựa vào các kết quả của phổ cập giáo dục ở bước trên, chúng ta sẽ tiếp tục đào tạo theo chiều sâu, đào tạo theo 2 mức: Đào tạo phổ thông: Các địa phương nên chủ động trong khâu này, tự đào tạo cho lực lượng lao động chứ không nên thụ động chờ doanh nghiệp vào rồi để họ tự đào tạo. Nội dung đào tạo sẽ bao gồm giao dục các kĩ năng chung, tác phong công nghiệp, các kiến thức khoa học chung cần có ở một người công nhân hiện đại .Đào tạo nâng cao: cần cử những công nhân có khả năng đi nâng cao tay nghề để tạo ra các điển hình lao động giỏi có khả năng giúp người khác cùng phát triển.
Thực ra bước này nên được thực hiện liên tục, là sự gắn kết bước trước đó với bước kế tiếp.
3.Xây dựng các khu công nghiệp,khu chế xuất sản phẩm địa phương.
Khi sản phẩm nông nghiệp đã dồi dào và người lao động đã có một trình độ nhất định mới nên nghĩ đến việc xây dựng các khu công nghiệp hoặc khu chế biến các sản phẩm của địa phương. Lúc này đối với với những người nông dân có đất bị thu hồi nên được giải quyết công ăn việc làm theo các hướng sau: Đối với lực lượng lao động trẻ, đã được đào tạo (tại bước 2) có thể làm việc tại khu công nghiệp. Nếu khu công nghiệp không sử dụng hết có thể xuất khẩu lao động. Đối với những lao động trung niên cần khuyến khích họ sử dụng tiền đền bù vào đầu tư vào các ngành nghề mới làm thay đổi các ngành nghề của gia đình. Ví dụ có thể đầu tư cho chăn nuôi theo quy mô lớn, kiểu nông trại. Hoặc có thể phát triển các ngành nghề phục vụ cho chính khu công nghiêp như ăn uống, giải trí… Cũng nên khuyến khích họ góp vốn tạo nên các xưởng sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ để xuất khẩu. Để làm được những việc nay cần có sự chung tay góp sức, giúp đỡ người dân của chính quyền và các doanh nghiệp trên địa bàn. Chính quyền địa phương có vai trò tìm hiểu thị trường và định hướng sản xuất cho người dân. Các doanh nghiệp đóng trên địa bàn có trách nhiệm giúp người dân tháo gỡ những khó khăn về công nghệ và vốn (đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn) khi họ triển khai những dự án của riêng mình.
Nếu các khâu trên được hoàn thành nhanh và được thực hiện sáng tạo phù hợp với tình hình riêng của mỗi địa phương thì kết quả đạt được sẽ là:bản chất của nền sản xuất thay đổi, cơ cấu kinh tế theo ngành của vùng nông thôn đó thay đổi. Người dân không còn sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp nữa. Khi đó đô thị sẽ được hình thành một cách tự nhiên.
Ưu điểm của việc hình thành đô thị theo hướng này là các đô thị được hình thành ngay tại địa phương, dựa trên sự phát triển theo chiều sâu của chính địa phương. Vì vậy đô thị sẽ tồn tại một cách chắc chắn, vượt qua được các vấn đề mà những đô thị hiện nay mắc phải (hạ tầng, giao thông, dân số, ô nhiễm môi trường) đồng thời cũng làm giảm sức ép cho các đô thị cũ, các thành phố lớn.
C. Nâng cao hiệu quả của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Nguyên nhân chính khiến cho các thành phần kinh tế hiện nay chưa phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có là chính sách đối với các thành phần kinh tế. Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nhưng cũng cần khẳng định kinh tế tư nhân là chủ lực. Có chủ đạo phải có chủ lực. Bởi vậy cần tạo điều kiện cho cả 2 khu vực phát triển một cách hài hòa thông qua 2 nhiệm vụ chủ yếu sau:
I. Phân định rõ lĩnh vực đầu tư của khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước
1. Kinh tế nhà nước đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ công:
Kinh tế nhà nước cần phải thu hẹp phạm vi đầu tư so với hiện nay. Nhà nước nên rút vốn tư những lĩnh vực đầu tư không cần thiết. Thay vì đầu tư theo bề rộng, dàn trải nên tập trung vào hiệu quả thực chất.
Đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, chỉ nên tập trung vào các lĩnh vực then chốt nhất mà không thành phần kinh tế, khu vực đầu tư nào có quyền làm (do yêu cầu đảm bảo an ninh-chủ quyền đất nước) và muốn làm (do không đem lại lợi nhuận). Ví dụ như: quốc phòng, an sinh xã hội, các dịch vụ công…Rút vốn đầu tư khỏi các lĩnh vực không cần thiết sẽ giúp chính phủ có điều kiện tập trung hoạch định những vấn đề kinh tế vĩ mô, giúp hình thành cơ cấu đầu tư có lợi cho tăng trưởng, tăng năng lực thích nghi với kinh tế quốc tế. Nhà nước sẽ tập trung vào nhiệm vụ quy hoạch còn đầu tư là quyền của các chủ thể kinh tế.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước cần tập trung vào các việc chính. Hiện nay, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều vươn ra kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Đặc biệt các tập đoàn này đang tham gia một cách mạnh mẽ vào các lĩnh vực: tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản. Đây đều là các lĩnh vực đầu tư có khả năng sinh lợi rất cao nhưng cũng hàm chứa rủi ro lớn. Bởi vậy nó yêu cầu rất nhiều sự tập trung và nguồn lực của các đối tượng tham gia. Nếu các tập đoàn kinh tế nhà nước tham gia quá sâu vào lĩnh vực này không tránh khỏi sẽ xao nhãng các lĩnh vực chính. Đặc biệt là đầu tư cho công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong khi đó các tập đoàn này đang nắm giữ các lĩnh vực huyết mạch của quốc gia, việc phát triển không theo hướng chính sẽ làm ảnh hưởng đến hướng phát triển chung của đất nước. Mặt khác sự bành trướng của các tập đoàn kinh tế nhà nước làm hạn chế việc giải phóng các nguồn lực do năng lực đầu tư kém hiệu quả. Không những thế, các tập đoàn lại chiếm thêm thị phần, các nguồn lực vật chất và cơ hội kinh doanh vốn đã khiêm tốn cho khu vực tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam khiến khu vực này càng khó có điều kiện phát triển.
2.Kinh tế ngoài nhà nước được đầu tư vào tất cả các lĩnh vực nhà nước không cấm
Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước được khuyến khích tham gia ngày một đa dạng vào các hoạt động kinh tế.
Để chủ trương này phát huy hiệu quả tích cực hơn trong thực tiễn, trong thời gian tới nên xem xét mở rộng các lĩnh vực hoạt động của khu vực ngoài nhà nước. Cụ thể nên tư nhân hóa một số lĩnh vực mà đến nay nhà nước vẫn nắm giữ như điện, đường sắt…
II. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho tất cả cac doanh nghiệp (cả nhà nước và tư nhân)
Việc tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển cần phải có những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài chứ không phải là những giải pháp mang tính chất tình thế. Chính vì thế, vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng trong việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển các thành phần kinh tế. Quán triệt quan điểm này việc quản lý nhà nước đối với đầu tư phát triển các thành phần kinh tế cần chú ý các vấn đề sau:
Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả là những tiêu chí hàng đầu để xác lập quy mô, hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh cũng như phạm vi hoạt động của mọi thành phần kinh tế.
Nhà nước tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, bao gồm: Sự ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng; Ổn định về kinh tế vĩ mô; Một hệ thống thi trường đồng bộ, hoàn thiện; Môi trường pháp lý thông thoáng và minh bạch; Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, trong sạch; Một môi trường khuyến khích và tôn vinh các hoạt động sản xuất kinh doanh, làm giàu chân chính; Môi trường thông tin đa dạng, đầy đủ, chính xác và kịp thời, đặc biệt là các thông tin chính sách và thị trường; Cải cách các thủ tục hành chính về cấp đất xây dựng, về vay vốn để mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế, nhất là loại doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu đầu tư vào sản xuất kinh doanh thuộc các lĩnh vực nhà nước không cấm được nhanh chóng, thuận lợi.
Môi trường kinh doanh thuận lợi này sẽ tác động tới các chủ thể kinh tế, thúc đẩy, khuyến khích, hướng dẫn các chủ thể phát huy tối đa sự năng động sáng tạo, khai thác các tiềm năng, phát triển sản xuất kinh doanh.
Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, đảm bảo cơ hội và lựa chọn bình đẳng của các thành phần kinh tế.
Phát triển các mối quan hệ liên kết giữa kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác thông qua hoạt động hợp tác, liên doanh giữa các doanh nghiệp: tiếp tục triển khai và hoàn thành việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ không cổ phần hóa được; sát nhập, giải thể hoặc phá sản các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Cương quyết cổ phần hóa toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vưc mà khu vực tư nhân có thể sản xuất một cách tối ưu. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Nhà nước thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, củng cố kinh tế tập thể theo hướng phát triển các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Hoàn thành quá trình chuyển đổi các hợp tác xã, khuyến khích hình thức liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.
Riêng đối với khu vực kinh tế tư nhân:Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ về vốn, mặt bằng kinh doanh, công nghệ.Phát triển mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân.Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân.Tạo môi trường kinh doanh thận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Rà soát lại các doanh nghiệp hoạt động công ích đảm bảo các doanh nghiệp này cùng thực hiện hạch toán. Nhà nước có chính sách ưu đã đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế.
Ngoài ra, nhà nước có thể sử dụng phương thức tác động gián tiếp thông qua việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, giáo dục y tế.
Chính sách thuế phải phù hợp với các nguyên lý kinh tế, vừa đảm bảo thu ngân sách vừa khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất tối đa. Việt Nam nên cùng với các tổ chức quốc tế, dựa trên kinh nghiệm của các nước để xây dựng một chính sách thuế: mở rộng phạm vi thu thuế xong áp dụng mức thế thấp để khuyến khích sản xuất.
Lời kết
Thưa thầy, trên đây là tất cả những vấn đề mà nhóm 6 muốn trình bày với đề tài “Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế”
Nhìn chung việc thực hiện đề tài đã hoàn thành một cách cơ bản mục tiêu ban đầu đặt ra. Đó là phân tích định lượng vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, nội dung đề tài còn nhiều thiếu sót. Một mặt là do những hiểu biết còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm xử lý số liệu nên việc tính toán và đánh giá số liệu còn chưa đầy đủ. Mặt khác, do khó khăn trong việc sưu tầm dãy số liệu nên trong nhiều trường hợp phải đánh giá các vấn đề trong khoảng thời gian ngắn.
Bởi vậy, chúng em mong thầy hiểu và thông cảm cho chúng em. Chúng em mong nhận được những góp ý của thầy để đề tài hoàn thiện hơn.
Cuối cùng chúng em xin cảm ơn thầy đã định hướng và giúp đỡ chúng em thực hiện đề tài. Nhờ đó chúng em có cơ hội tiếp cận nhiều vấn đề rất mới mẻ trong quá trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2008.
Nhóm 6
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế đầu tư
Những vấn đề cơ bản về kinh tế phát triển
Số liệu: Tổng cục thống kê
Báo cáo phát triển kinh tế xã hội 5 năm (các giai đoạn)
Wikipedia
Giáo trình Lịch sử học thuyết kinh tế
Trang web Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NHOM 6 chuyen dich co cau.doc
- slide.in.ppt