Mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một nền tảng cho mối quan hệ ấy.
Trong nhiều năm qua hàng hóa của Việt Nam ngày càng xuất khẩu được nhiều
hơn sang Hoa Kỳ với quy mô và chủng loại ngày càng được mở rộng.
Các quy định trong Hiệp định thương mại giữa hai nước đã tạo những điều
kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên trong xu thế phát triển hàng
hóa Việt Nam gặp không ít khó khăn tại thị trường Hoa Kỳ. Chính vì vậy đề tài
này mong muốn đóng góp một phần quan trọng vào việc giúp các doanh nghiệp
Việt Nam có một cái nhìn tổng thể hơn về những tác động của Hiệp định thương
mại Việt – Mỹ, để từ đó có những biện pháp hữu hiệu hơn để giúp hàng hóa Việt
Nam có thể xâm nhập và trụ vững tại thị trường Hoa Kỳ.
33 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3462 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đến tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y tế.
Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan.
1.2.3. Quan hệ đầu tư
Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều
được nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty
Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam.
Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các
khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam
kết thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp
với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như
những quy định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước.
Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với
một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối
với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào loại khu
vực đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong khu vực sản
xuất), tuy nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những
khu vực ngoại lệ nhất định.
Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện
nay đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30%
vốn pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh
cho đối tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa
được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một
công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp
định có hiệu lực.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 9
Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số
thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các
vấn đề trong đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề
đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ
được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch.
1.2.4. Quyền Sở hữu trí tuệ
Quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập trong chương 2 của Hiệp định. Việt
Nam nhất trí tuân thủ hoàn toàn các quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại (TRIPs) trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao
gồm: Việc bảo hộ bản quyền và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPs được thực
thi trong 12 tháng; bảo hộ các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPs
được thực thi trong 18 tháng. Việt Nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ
mạnh mẽ hơn trong một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình
đã được mã hoá, bảo hộ bản quyền đối với các động vật và thực vật, bảo hộ
những dữ liệu kiểm tra bí mật được trình cho các Chính phủ. Đối với trường hợp
bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá, sẽ được thực hiện theo giai
đoạn là 30 tháng.
Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữa các quy định của
Hiệp định này và Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ về quyền tác
giả, ký tại Hà Nội ngày 27/6/1997 thì các quy định của Hiệp định này được ưu
tiên áp dụng trong phạm vi xung đột.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 10
CHƯƠNG 2
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐẾN TÌNH
HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ
2.1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG HOA KỲ
TRƯỚC KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐƯỢC KÝ KẾT
2.1.1. Giai đoạn từ tháng 5 – 1964 đến 1994
Chiến tranh Mỹ - Việt Nam chính thức kết thúc từ thời điểm 23 tháng 9
năm 1973 khi Mỹ làm lễ rút quân khỏi miền Nam nước ta, đánh dấu sự thất bại
của Mỹ trên đất nước Việt Nam nhỏ bé. Tuy nhiên câu nói của ông Kissinger
rằng: “Người Mỹ không giành chiến thắng trong chiến tranh thì sẽ giành chiến
thắng trong thời bình” hay nói cách khác hơn là họ sẽ giành chiến thắng trên
“chiến trường kinh tế” đã được minh chứng cụ thể khi Mỹ trong giai đoạn này
với nhiều thủ đoạn ra sức cấm vận nền kinh tế Việt Nam còn non trẻ. Thực chất
lệnh cấm vận đã được ban bố vào tháng 2 năm 1964 kể từ sau khi Mỹ đơn
phương dựng nên sự kiện Vịnh Bắc Bộ (1963). Tuy nhiên sự cấm vận càng được
siết chặc hơn khi Việt Nam là đồng minh thân cận của Liên Xô – một đối thủ lớn
của Mỹ trên lĩnh vực kinh tế lẫn quân sự và trong khoảng thời gian từ năm 1986
– 1989, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Hoa Kỳ gần như bằng
không.
Trong khoảng thời gian từ năm 1990 khi “trật tự hai cực I-an-ta” của thế
giới tan rã kèm theo đó là sự sụp đỗ của Liên bang Xô Viết thì đường lối đối
ngoại của Mỹ cũng như giao thương có nhiều thay đổi và thông thoáng hơn rất
nhiều khi Hoa Kỳ xem các nước Châu Á trong đó có Việt Nam là những đối tác
chiến lược trong hiện tại và tương lai. Chính vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hàng hóa Việt Nam có cơ hội xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Năm 1990 trị giá
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt khoảng 5.000USD, năm 1991
tăng lên 9.000USD, năm 1992 tăng lên 11.000USD và năm 1993 là 58.000USD.
Đây là những dấu hiệu lạc quan cho mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ, tạo những điều kiện mang tính chất “bản lề” cho việc hàng hóa Việt
Nam có mặt tại thị trường Hoa Kỳ và hơn hết là tạo mối quan hệ hòa hảo giữa
hai phái đoàn đàm phán Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 11
2.1.2. Giai đoạn 1994 – 2000
Gạt bỏ quá khứ, tiến đến hợp tác cùng nhau phát triển là mục tiêu mà
Tổng thống Mỹ Bill Clinton đề ra trong mối quan hệ ban giao giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ. Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Tổng thống Bill Clinton chính thức bãi bỏ
lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Đây có thể nói là một hành động mang tính chất
bản lề cho mối quan hệ giữa hai nước, mở ra một triển vọng mới cho sự phát
triển thương mại song phương và việc Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ
nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cuba) sang nhóm Y – nhóm ít hạn chế
về thương mại (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam, một số nước Đông
Âu và Liên Xô cũ) là một minh chứng cụ thể. Bộ vận tải và Thương mại Mỹ
cũng bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt
Nam được nhập cảnh từ Mỹ. Cũng trong năm này, Việt Nam xuất khẩu sang Hoa
Kỳ lượng hàng hoá trị giá 50,5 triệu USD (trong đó hàng nông nghiệp chiếm
38,3 triệu USD tức 76% giá trị xuất khẩu sang hoa kỳ) và hàng phi nông nghiệp
chiếm 12,15 triệu USD (24%).
50.5
200
306
372
519.5
601.9
827.4
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1994 1994 1994 1994 1994 1994 1994
Năm
K
N
X
K
(
tr
iệ
u
U
S
D
)
Kim ngạch xuất khẩu
HÌNH 1: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU (KNXK) HÀNG HÓA VIỆT NAM
SANG HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1994 – 2000
(Nguồn: Tồng Cục Hải quan Việt Nam)
Qua hình 1 ta nhận thấy KNXK hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ
không ngừng gia tăng theo thời gian với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt
66,23%/năm. Đây có thể nói là một dấu hiệu lạc quan cho mối quan hệ thương
mại giữa hai nước khi Hoa Kỳ đang chủ động tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
hàng hóa Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ. Đặc biệt năm 1995 KNXK tăng gấp 4 lần
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 12
so với năm 1994. Năm 1997, Đại sứ Mỹ và Đại sứ Việt Nam nhậm chức tại Thủ
Đô mỗi nước, đồng thời hai nước thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về
bản quyền để tạo điều kiện cho sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam.
Vì vậy xuất khẩu của Việt Nam trong năm này sang Mỹ đạt 372 triệu USD, trong
đó hàng nông nghiệp chiếm 46% (106,5 triệu USD) hàng phi nông nghiệp đạt
54% (126,203 triệu USD). Đây cũng chính là nguyên nhân duy trì và không
ngừng tăng trưởng trong KNXK của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trong cơ cấu các
loại hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì các mặt chủ lực như thủy sản, giày dép,
dệt may đóng góp một phần quan trọng trong tổng KNXK.
Hoa Kỳ là quốc gia có nhu cầu tiêu dùng thủy sản rất cao (lớn thứ hai thế
giới sau Nhật Bản) và nhu cầu này không ngừng gia tăng theo các năm. Năm
1992 Mỹ phải nhập đến 4,8 tỷ USD thủy sản, đến năm 1998 con số này đã tăng
lên 6,7 tỷ USD tức tăng 40% so với năm 1992 và đỉnh điểm là năm 1999 với 9,3
tỷ USD.
Tuy thủy sản là mặt hàng xuất khẩu muộn sang Hoa Kỳ nhưng kim ngạch
xuất khẩu không ngừng gia tăng. Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 10 trong 130
nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ và tới tháng 4 năm 2000 Việt Nam
đứng ở vị trí thứ 8. Kể từ năm 1994 Mỹ đã bắt đầu nhập khẩu thuỷ sản của Việt
Nam nhưng với một kim ngạch rất khiêm tốn chỉ đạt khoảng 6 triệu USD. Tuy
nhiên Việt Nam gặp được thuận lợi khi thủy sản là mặt hàng có tốc độ xuất khẩu
tăng nhanh nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vì
trong giai đoạn này Việt Nam chưa được hưởng chế độ MFN (Most Favoured
Nation – Thuế quan “tối huệ quốc”) của Hoa Kỳ, hơn nữa mức thuế suất MFN và
thuế suất phi MFN chênh lệch không cao.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 13
BẢNG 1: MỨC THUẾ NHẬP KHẨU CỦA MỸ ĐỐI VỚI HÀNG THỦY
SẢN NHẬP KHẨU
Đvt: %, cents/kg
Tên hàng
Thuế suất MFN
Thuế suất phi
MFN
Cá sống 0 0
Tôm các loại 0 0
Nghêu, sò 0 0
Cá tươi, ướp lạnh, ướp
đông
0 0 – 5.5 cents/kg
Cá sau khi cắt bỏ phi-lê,
ướp đông
0 2,2-4,4 cents/kg
Thịt cua 7,5 15
Ốc 5 20
Cá khô, ướp muối, xông
khói
4-7 25-30
(Nguồn : Bộ Thương mại)
Qua bảng 1 ta có thể thấy tuy mức thuế suất phi MFN trong giai đoạn này
của Hoa Kỳ được áp theo phương pháp tương đối và tuyệt đối nhưng mức thuế
ấy là không cao. Với thuận lợi đó mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu
sang Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Nếu năm 1995 đạt 16,8 triệu USD thì năm
1996 tăng lên 28,5 triệu USD, năm 1997 là 46,3 triệu USD và năm 1998 tăng lên
80,6 triệu USD. Như vậy trong giai đoạn từ năm 1995 đến 1998 tốc độ tăng
trưởng của hàng thủy sản đạt trung bình 51,55%/năm và theo tính toán của tổng
cục thống kế nước ta cho thấy trong giai đoạn 1995 – 1999 kim ngạch xuất khẩu
của thủy sản tăng 6,5 lần và năm 2000 thủy sản vị trí dẫn đầu trong danh mục
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ với kim ngạch 242,9 triệu USD
chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Sự gia tăng không ngừng trong KNXK
thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam vừa
trãi qua một cuộc “chỉnh đốn” và đổi mới mạnh mẽ sau khi nền kinh tế “quan
liêu bao cấp” tan rã là một thành tựu rất đáng khích lệ và có tác động tích cực
đến việc xuất khẩu các các mặt hàng thủy sản nói riêng và các mặt hàng thế
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 14
mạnh của Việt Nam nói chung cũng như các mặt hàng triển vọng khác.
Trong giai đoạn 1994 – 2000, Việt Nam là được biết đến là một quốc gia có
lợi thế so sánh (theo lý thuyết lợi thế so sánh giữa các quốc gia của David
Ricardo) là nguồn nhân công dồi dào và rẻ tiền hơn so với nhiều nước trên thế
giới. Chính vì vậy việc phát triển các ngành nghề dựa vào lợi thế ấy luôn được
chính phủ chú trọng và dệt may là một trong những ngành được chính phủ quan
tâm. Cũng như thủy sản hàng dệt may cũng được xuất khẩu sang thị trường Mỹ
từ năm 1994. Theo thời gian kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang thị trường Mỹ không ngừng gia tăng trong những năm từ năm 1994 đến
năm 2000.
0.11
1.78
3.59
5.32
7.1
11.3
16.8
2.45
15.09
20.01 20.6
21.34
25.2
29.9
56
16.87
23.6
25.92
28.44
36.5
46.7
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Năm
K
im
n
gạ
ch
x
uấ
t k
hẩ
u
(tr
iệ
u
U
S
D
)
Hàng dệt Hàng may Tổng cộng
HÌNH 2: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
SANG HOA KỲ TRONG GIAI ĐOẠN 1994 – 2000
(Nguồn: USITC trade Database)
Tuy nhiên có hai vấn đề mà chúng ta cần nhìn nhận đối với kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may trong giai đoạn 1994 – 2000 khi xem qua hình 2. Thứ nhất,
kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng, nhưng với một mức rất thấp. Tăng
cao nhất là năm 2000 nhưng cũng chỉ đạt 46,7 triệu USD còn chiếm tỷ trọng rất
thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, có sự chênh lệnh đáng kể trong cơ
cấu xuất khẩu giữa hàng dệt và hàng may. Một vấn đề khác cần được xem xét đó
là việc hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là còn quá thấp so với tiềm
năng của nước ta và nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm của Mỹ mà hình
2 là một minh chứng cụ thể. Điều đó cho thấy việc xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam sang Hoa Kỳ còn gặp nhiều khó khăn do dệt may Việt Nam là một mặt
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 15
hàng còn khá mới mẽ trong mắt người tiêu dùng Hoa Kỳ. Bên cạnh đó thực trạng
trên còn phản ánh năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém khi
hàng hóa chưa đạt chất lượng cao, thiếu sự đa dạng trong mẫu mã và chưa gầy
dựng được thương hiệu. Một vấn đề quan trọng hơn là chính phủ trong giai đoạn
này cũng chưa đưa ra được các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa dệt may
sang Hoa Kỳ, định hướng cho các doanh nghiệp chưa phát huy tác dụng khi các
doanh nghiệp dệt may còn khá mơ hồ về những gì mà người tiêu dùng Hoa Kỳ
đang cần hay nói một cách khác các doanh nghiệp dệt may chưa có sự am hiểu
một cách cần thiết về thị trường Hoa Kỳ.
43
50
60
0
10
20
30
40
50
60
70
1994 1995 1998-1999 Năm
K
im
n
gạ
ch
n
h
ập
k
h
ẩu
(
tỷ
U
S
D
)
Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD)
HÌNH 3: NHU CẦU NHẬP KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA HOA KỲ QUA
MỘT SỐ NĂM
(Nguồn: Bộ Thương Mại Hoa Kỳ)
Cũng như hàng dệt may, giầy dép cũng là một mặt hàng thế mạnh của Việt
Nam khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Khác so với các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa
Kỳ, giày dép có mặt tại Hoa Kỳ từ trước năm 1994 nhưng với một kim ngạch
xuất khẩu khá thấp chỉ đạt khoảng 0.069 triệu USD. KNXK của giầy dép trước
năm 1994 còn thấp là do mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
trong giai đoạn trước 1994 chưa được mở rộng và cải thiện. Tuy nhiên từ năm
1994 kim ngạch xuất khẩu của giày dép sang Hoa Kỳ liên tục tăng và từ năm
1996 giày dép vươn lên mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 5 trong các
mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu giày dép của
Hoa Kỳ đứng đầu về tỷ trọng trong tất cả các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Tuy nhiên đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của giày dép chỉ đứng thứ ba sau
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 16
thủy sản và cà phê với kim ngạch 124,5 triệu USD. Sự tụt giảm thứ hạng trong
KNXK giầy dép là do sự vươn lên mạnh mẽ của các mặt hàng xuất khẩu khác
như dệt may, thủy sản, cà phê, dầu thô. Đây là một tín hiệu đáng mừng khi Việt
Nam ngày càng có nhiều thêm các loại hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ đóng
góp một phần quan trọng vào sự đa dạng chủng loại, tạo ra sự cạnh tranh công
bằng, bình đẳng giữa các ngành hàng trong cuộc đua hoàn thiện về chất lượng,
chủng loại cũng như thương hiệu để xâm nhập và trụ vững tại thị trường Hoa Kỳ.
3.3 3.55
39.1
97.6
114.9
145.7
0
20
40
60
80
100
120
140
160
1994 1995 1996 1997 1998 1999
Năm
K
im
n
g
ạ
ch
x
u
ấ
t
k
h
ẩ
u
(
tỷ
U
S
D
)
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
HÌNH 4: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG
HOA KỲ TRONG GIAI ĐOẠN 1994 – 1999
(Nguồn: Bộ Thương Mại)
Dựa vào hình 4, ta thấy kim ngạch xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ không
ngừng gia tăng qua các năm. Đỉnh điểm là sự gia tăng mạnh mẽ vào năm 1996 và
năm 1997 với 101,4% và 149,4%. Hai con số ấn tượng này đánh dấu những
thành công bước đầu và mở ra những triển vọng mới trong tương lai cho giày dép
Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ. Nguyên nhân của sự gia tăng không ngừng này
là do từ thời điểm năm 1996 Việt Nam và Hoa Kỳ đã ngồi vào bàn đàm phán về
Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước. Và việc Hoa Kỳ tăng cường
nhập khẩu hàng hóa Việt Nam như một động thái tích cực cho cuộc đàm phán trở
nên thành công.
Trong giai đoạn 1994 – 2000, tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Hoa Kỳ có nhiều dấu hiệu khả quan mà cụ thể là các mặt hàng thế mạnh của
ta. Tuy nhiên các mặt hàng Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ còn chưa xứng đáng với
tiềm năng thương mại của cả hai nước. Mặt khác hàng hóa Việt Nam xuất sang
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 17
Hoa Kỳ trong thời gian này còn có trị giá xuất khẩu thấp do chất lượng hàng hóa
của ta còn thấp. Hơn nữa Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước chưa
được ký kết nên hàng hóa Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ còn gặp nhiều trở ngại và
không được hưởng những ưu đãi của Hoa Kỳ như Hoa Kỳ dành cho các nước
khác trong giai đoạn này.
2.2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG HOA
KỲ TỪ SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ ĐƯỢC KÝ
KẾT
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới cho
hàng hóa Việt Nam trên con đường đến với người tiêu dùng Hoa Kỳ. Hiệp định
mang tính chất song phương này có những tác động tích cực đến tình hình xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Vào thời điểm năm 2003, tức sau hai năm Hiệp định thương mại Việt Mỹ
được ký kết thì kim ngạch xuất khẩu (KNXK) hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ
tăng gấp 4 lần từ 1,05 tỷ USD vào thời điểm năm 2001 lên 4,55 tỷ USD vào năm
2003. Và kể từ đó cho đến nay Hoa Kỳ luôn là thị trường giành vị trí số một về
việc tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam. Đây có thể được xem là thành công lớn mà
hiệp định thương mại mang lại cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ.
863 982
1,700
2,635 3,006
3539
5,905
7,829
10,089
9,233
11,356
14,784
5,042
6,847
8,389
6,598
8,350
11,245
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
2005 2006 2007 2008 2009 2010 Năm
T
ri
ệu
U
S
D
Nhập khẩu Xuất khẩu Cán cân thương mại
HÌNH 5: THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI ĐOẠN
2005 – 2010
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan)
Dựa vào hình 5 ta thấy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
không ngừng phát triển theo thời gian với tốc độ tăng trưởng đạt trung bình đạt
20%/năm. Trong đó Việt Nam luôn xuất siêu so với Hoa Kỳ. Đặc biệt vào năm
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 18
2007 – tức sau 6 năm Hiệp định thương mại được ký kết, KNXK hàng hóa Việt
Nam tăng mạnh đạt tốc độ tăng trưởng 28,9%. Cũng trong năm 2007 Việt Nam
vượt qua nhiều đối thủ lớn như Phi-lip-pin, Tây Ban Nha, Cô-lôm-bi-a…để lọt
vào top 30 nhà xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ. Sự thành công đó có sự đóng góp
không nhỏ của các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, thủy sản…Trong hai
năm 2008 và 2009, nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào khủng hoảng nhưng KNXK của
Việt Nam vẫn ở mức cao mặc dù có sự suy giảm vào năm 2009 nhưng không
đáng kể. Điều đó chứng tỏ cuộc khủng hoảng kinh tế từ cuối năm 2007 đến 2008
ít ảnh hưởng đến các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể năm 2009 Hoa
Kỳ vượt qua Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam
chỉ sau Trung Quốc. Trong năm 2009 kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai
nước tăng 65 lần so với trước khi lệnh cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ với Việt Nam
được dỡ bỏ. Từ chỗ kim ngạch thương mại giữa Việt Nam - Hoa Kỳ chỉ dưới 1 tỷ
USD vào những năm 1995 – 2000, đến năm 2009 đạt tới 15,4 tỷ USD và kỷ lục
18 tỷ USD vào năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm
2010 đạt 14,24 tỷ USD, chiếm 19,72% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của
cả nước năm 2010, tăng 25,38% so với năm 2009 đóng góp quan trọng vào tổng
kim ngạch thương mại giữa hai nước. Điều đó cho thấy Hiệp định thương mại đã
và đang phát huy tác dụng một cách hiệu quả. Về phía các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình tại thị trường Mỹ về
mẫu mã, chất lượng cũng như thương hiệu. Đó là kết quả nỗ lực từ phía Nhà
nước và cả về phía các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy dưới sức ép của người
tiêu dùng Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nổ lực để ngày càng
hoàn thiện sản phẩm của mình khi có ngày càng nhiều các doanh nghiệp đạt được
các tiêu chuẩn chất lượng của Hoa Kỳ như tiêu chuẩn HCCAP, GLOBAL GAP,
ISO…
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi thì hàng hóa Việt Nam cũng gặp
không ít khó khăn. Từ năm 2006 một số cam kết của Việt Nam trong Hiệp định
thương mại ký kết với Hoa Kỳ có hiệu lực. Trong khi tiềm lực của một số doanh
nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh để có thể đưa hàng hóa cạnh tranh mạnh mẽ với
nhiều hàng hóa tại Mỹ đến từ nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh đó tính đến thời
điểm năm 2010 Việt Nam vẫn chưa được hưởng GSP của Hoa Kỳ và phải chịu
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 19
thuế chống bán phá giá ở một số mặt hàng chủ lực như tôm, cá tra…
Trong sự tăng trưởng mạnh mẽ của KNXK hàng hóa Việt Nam sang Hoa
Kỳ có thể nói sự đóng góp của các mặt hàng chủ lực như thủy sản, dệt may, giày
dép là không nhỏ. Kể từ khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
được ký kết thì nó có những tác động nhất định đến nhiều mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam từ số lượng, chất lượng, trị giá cho đến cơ cấu các mặt hàng.
Nhưng dệt may, giày dép và thủy sản vẫn là những mặt hàng chịu tác động sâu
rộng nhất.
2.2.1. Thủy Sản
Từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết tình hình xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt được nhiều thành công. Tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu của thủy sản sang Hoa Kỳ luôn đạt 20%. Nếu như năm
2001 KNXK thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 478,227 triệu USD thì
bước sang năm 2002 con số này đã là 616,029 triệu USD tức tăng 28,82%. Bước
sang năm 2003 KNXK thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng
mạnh mẽ với mức tăng 18,58 %, mức tăng thấp hơn năm 2002 nhưng vẫn đạt
kim ngạch khá cao 730,5 triệu USD. Sự tăng trưởng này đánh giá thành công
bước đầu và những năm gần đây thủy sản của Việt Nam luôn là lựa chọn số một
của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ trong số 17 đối tác có thủy sản xuất khẩu sang
nước này.
BẢNG 2: KHỐI LƯỢNG VÀ TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT
NAM SANG HOA KỲ TỪ NĂM 2004 – 2010
Năm
Sản lượng (1000
tấn)
Giá trị (triệu USD)
2004 85 600
2005 86,5 640
2006 100 670
2007 103 715
2008 110 750
2009 123 713
2010 186 900
(Nguồn:
Dựa bảng 2 ta thấy trong các năm từ 2004 – 2008 trị giá xuất khẩu của
thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ đều thấp hơn thời điểm năm 2003. Tuy nhiên
xét về lượng xuất các năm trên ta thấy trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 20
có sự cải thiện rõ rệt. Trong hai năm 2008 và 2009 cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đã ảnh hưởng đến sự chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ vào các loại
hàng hóa nói chung và thủy sản nói riêng. Tuy nhiên trị giá xuất khẩu cũng như
khối lượng thủy sản Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ đều cao hơn các năm trước đó.
Năm 2009, Việt Nam xuất gần 123.000 tấn thủy sản sang thị trường Mỹ, trị
giá trên 713 triệu USD, tăng 14.6% về khối lượng nhưng giảm 4,2% về giá
trị. Năm 2010, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt 168.000 tấn, trị
giá 900 triệu USD, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm 2009, nhất là tốc độ
tăng giá trị (37,4%) bằng gần gấp rưỡi so với khối lượng (23,7%). Như vậy
thủy sản xuất khẩu sang Mỹ đã có cải thiện đáng kể về giá và mức độ chế biến.
Từ đầu những năm 2000, Mỹ đã trở thành một trong ba thị trường tiêu thụ
nhiều nhất thủy sản của Việt Nam, mặc dù có hai vụ kiện “chống bán phá
giá” (CBPG) đối với tôm và philê cá tra đông lạnh. Những năm gần đây, giá
trị xuất khẩu sang Mỹ thường chiếm khoảng 16-22% tổng giá trị xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính của Việt
Nam gồm tôm, chiếm 26,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam; cá tra
(11% tổng xuất khẩu cá tra); cá ngừ (45,3%); nhuyễn thể (3,7%).
Hiện nay Việt Nam là nước cung cấp thủy sản lớn thứ 5 cho thị
trường Mỹ và chiếm một thị phần đáng kể trong kim ngạch nhập khẩu hàng
thủy sản hàng năm của Hoa Kỳ. Tuy nhiên nhu cầu tiêu dùng thủy sản của Hoa
Kỳ ngày càng gia tăng vì vậy kim ngạch nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam phải
được cải thiện. Từ năm 2000 đến 2007, nhập khẩu thủy sản của Mỹ liên tục
tăng, đạt tới giá trị kỷ lục vào năm 2007 với 13,696 tỷ USD. Tuy có sự giảm
sút từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, nhưng vẫn ở mức cao cụ thể năm
2009 Mỹ vẫn phải nhập 13,1 tỷ USD thủy sản để phục vụ nhu cầu người tiêu
dùng. Năm 2009 KNXK thủy sản Việt Nam chỉ chiếm 5% tức tương đương
0,655 tỷ USD trong tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ. Mức xuất
khẩu này là rất thấp so với tiềm năng của Việt Nam, và thấp hơn các nước trong
khu vực Đông Nam Á có thủy sản xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Cụ thể In-đô-nê-xi-a
chiếm 6% còn Thái lan đạt mức ấn tượng với 16%.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 21
HÌNH 6: CÁC NƯỚC CUNG CẤP THỦY SẢN CHÍNH CHO MỸ NĂM
2009
(Nguồn:
my-9-thang-2010.htm)
Có thể nói trong các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì
thủy sản gặp nhiều khó khăn nhất khi liên tục phải chịu rất nhiều những điều
kiện bất lợi từ thị trường thế giới và Hoa Kỳ. Từ vụ kiện bán phá giá cá tra, cá
basa của Hiệp Hội cá Nheo Mỹ cho đến vụ kiện bán phá giá tôm của Liên minh
Tôm miền Nam của Mỹ (SSA) đã gây ra những thiệt hại nhất định cho thủy sản
Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ từ nhiều năm qua. Thêm vào đó trong những
tháng cuối năm 2010 thủy sản Việt Nam lại phải đối phó với các đòn đánh từ
bên ngoài, chống bán phá giá từ Hoa Kỳ, WWF (World wilife fun) tại sáu nước
Châu Âu lại tung tin thiếu cơ sở khoa học và có tính vu khống nhằm bôi nhọa
hình ảnh con cá tra Việt Nam khi liệt cá tra của Việt Nam vào sách đỏ trong
cẩm nang hướng dẫn người tiêu dùng. Đây là những nguyên nhân khiến thủy
sản Việt Nam không đạt được một khối lượng cũng như trị giá xuất khẩu thủy
sản sang Hoa Kỳ và hiện tại chiếm một tỷ trọng khiêm tốn so với tiềm lực trong
kim ngạch nhập khẩu thủy sản hàng năm của Hoa Kỳ.
Bước sang năm 2011, thủy sản Việt Nam vốn được dự báo sẽ gặp nhiều
khó khăn và thách thức lớn do tình hình thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình sản xuất và xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ. Tính đến
hết Quí I năm 2011 kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Hoa kỳ đạt 153,3 triệu
USD, tăng 5% so với quý I/2010. Tuy nhiên, cách doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản vẫn không thể đảm bảo mức lợi nhuận do gặp rất nhiều kho khăn do các
loại nguyên liệu đầu vào, chi phí vận chuyển, xăng dầu, lãi suất ngân hàng tăng
mạnh. Điển hình các tra nguyên liệu tăng lên đến 27.000đ – 28.000đ/kg trong
khi giá xuất khẩu cá tra phi lê vào thị trường Hoa Kỳ được VASEP điều chỉnh
chỉ tăng từ 3,8 USD/kg lên 4 USD/kg. Thêm vào đó lượng nguyên liệu đầu vào
thiếu hụt trầm trọng khiến các nhà máy, xí nghiệp chỉ hoạt động từ 40% - 50%
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 22
công suất. Như vậy để hoàn thành những mục tiêu xuất khẩu thủy sản sang thị
trường Hoa Kỳ trong năm 2011 thì các doanh nghiệp còn rất nhiều chuyện phải
làm.
2.2.2. Dệt may
Sau một năm Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết hàng dệt may
của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt một mức tăng trưởng cao kỷ lục
1954,3% với KNXK đạt 975,8 triệu USD so với 47,5 triệu USD vào năm 2001.
Từ đó cho đến nay hàng dệt may liên tục tăng trưởng qua các năm.
HÌNH 7: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG
HOA KỲ GIAI ĐOẠN 2001 - 2009
(Nguồn: Bộ Thương Mại)
Trong giai đoạn 2005 – 2009 tốc độ tăng trưởng trung bình xuất khẩu hàng
dệt may sang Hoa Kỳ là 19%/năm, chiếm 43% tổng KNXK hàng hóa sang Hoa
Kỳ. Dệt may của Việt Nam luôn nằm trong top 5 nước xuất khẩu hàng dệt may
lớn vào Mỹ với tỷ trọng 6% trong tổng KNNK dệt may của Mỹ. Từ năm 2007
KNXK hàng dệt may vào Hoa Kỳ tăng trưởng mạnh mẽ do hạn ngạch đã được
xóa bỏ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Tuy nhiên năm 2009 KNXK
dệt may vào Hoa Kỳ có sự sụt giảm 2,2%, và giảm 0,6% về trị giá so với năm
2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do cuối năm 2008 Hiệp hội dệt may
Hoa Kỳ dọa kiện bán phá giá hàng dệt may của Việt Nam gây tâm lý e dè hàng
dệt may Việt Nam của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ. Thêm vào đó cuộc khủng
hoảng kinh tế trong thời gian này cũng phần nào tác động đến nhu cầu chi tiêu
của người Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam.
Bước sang năm 2010 trên đà phục hồi của nền kinh tế thế giới hàng dệt
may của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đà tăng trưởng. KNXK
hàng dệt may của Việt Nam đạt một mốc ấn tượng. Khi chúng ta vươn lên thành
0.0482
0.9005
2.514 2.719 2.88
3.396
4.558
5.425 5.392
0
2
4
6
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 NămK
im
n
g
ạ
ch
x
u
ấ
t
k
h
ẩ
u
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 23
nhà cung cấp hàng dệt may lớn thư hai cho Hoa Kỳ (chỉ đứng sau Trung Quốc).
Nguyên nhân giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có được vị thế như năm
các năm gần đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do
những điều khoản trong Hiệp định thương mại giữa hai nước có những tác động
nhất định. Khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan của Hoa Kỳ ngày càng mở
rộng đối với hàng hóa của Việt Nam. Bên cạnh nguyên nhân chính trên còn phải
kể đến sự nỗ lực khẳng định vị thế về chất lượng cũng như thương hiệu của các
doanh nghiệp Việt Nam. Quan trọng hơn hết là năng lực các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam đã được nâng cao trong một sân chơi lớn tại Hoa Kỳ. Đó là một
quá trình nổ lực không ngừng của các doanh nghiệp trong nước và rất đáng khích
lệ vì trong bối cảnh nền kinh tế đang phục hồi một cách chậm chạp như Hoa Kỳ
mà các doanh nghiệp vẫn duy trì và không ngừng phát triển thị phần tại thị
trường khó tính như Hoa Kỳ. Thêm vào đó trong bối cảnh Việt Nam đang trong
lộ trình thực hiện các điều kiện với Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO) về việc
dỡ bỏ trợ cấp của nhà nước cho các doanh nghiệp, thì việc đạt được thành tựu
như hiện nay của các doanh nghiệp là rất quan trọng khi hàng dệt may Việt Nam
đang có một sự cạnh tranh mạnh mẽ với “đối thủ” Trung Quốc.
Tháng 3/2011, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ đạt 579,23 triệu
USD, tăng mạnh 111,98% so với tháng 2/2011 và đứng thứ hai trong tổng kim
ngạch các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 42,97%. Tuy nhiên ngành dệt
may Việt Nam trong quí I năm 2011 cũng gặp không ít khó khăn do tình hình tỷ
giá giữa VND và USD biến động thất thường. Giá bông nhập khẩu vào Việt Nam
đột ngột tăng giá lên đến 300% với mức 5,2USD/kg rồi lại giảm xuống
4,8USD/kg khiến doanh nghiệp đẩy mạnh mua vào ở mức giá cao bị lỗ nặng.
2.2.3. Giày dép
Sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, thuế nhập khẩu giày
dép của Việt Nam giảm từ 40% xuống còn 30%. Chính động thái này giúp cho
giày dép Việt Nam luôn có chỗ đứng tại thị trường Hoa Kỳ. Theo Cục Hải Quan
Mỹ năm 2002, Mỹ nhập khẩu giày dép của Việt Nam với trị giá 196,6 triệu USD,
đạt tốc độ tăng trưởng 72,2% có KNXK đứng thứ ba trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ.
Từ năm 2002 đến nay KNXK giày dép của Việt Nam sang Hoa Kỳ liên tục
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 24
tăng trưởng mạnh mẽ. KNXK giày dép sang Hoa Kỳ tăng sáu lần từ 125 triệu
USD năm 2000 tăng lên 717 triệu USD vào năm 2005 và tăng ở mức cao trong
các năm tiếp theo. Năm 2007 giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
đứng thứ ba sau Trung Quốc và I-ta-li-a. So với thủy sản và hàng dệt may thì
giày dép gặp được thuận lợi khi không phải đối mặt với nguy cơ bị kiện bán phá
giá vì sản xuất giày dép nội địa của Mỹ chiếm chưa đầy 2% trong tổng giày dép
có mặt tại thị trường này. Tuy nhiên đây cũng là một hạn chế của giày dép Việt
Nam vì gặp được điều kiện thuận lợi nhưng giày dép Việt Nam chỉ chiếm một
phần khiêm tốn trong nhu cầu nhập khầu giày dép lên đến 17 tỷ USD – 18 tỷ
USD hàng năm của Hoa Kỳ.
0.717
0.804
0.9
1.164
1.3
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
Năm 2005 2006 2007 2008 Năm
K
im
n
g
ạ
ch
x
u
ấ
t
k
h
ẩ
u
(
tỷ
U
S
D
)
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
HÌNH 8: KNXK GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG HOA KỲ TRONG
GIAI ĐOẠN 2005 - 2008
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam
Tuy nhiên KNXK giày dép vào Hoa Kỳ không ngừng được cải thiện trong
hai tháng đầu năm 2011, KNXK của giày dép vào thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh
43% so với năm trước, đạt 230 triệu USD. Triển vọng xuất khẩu giày dép sang
Hoa Kỳ là rất tốt. Trong năm 2010, nhu cầu nhập khẩu giày dép của Hoa Kỳ là
20,335 tỷ USD, tăng 17,3% so với năm 2009 và đây là năm có tốc độ gia tăng
mạnh nhất mặt hàng giày dép. Việt Nam trở thành nhà cung cấp giày dép lớn thứ
2 vào Hoa Kỳ từ năm 2008, sau Trung Quốc và chiếm 7,9% thị phần tại thị
trường này. Tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép sang thị trường Mỹ trong quý
I/2011 nâng lên mức 379,5 triệu USD, tăng mạnh 44% so với quý I/2010, chiếm
28,9% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của cả nước trong quý I/2011. Nguyên
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 25
nhân của sự tăng trưởng trên là do nền kinh tế Hoa Kỳ đang dần phục hồi sau
cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, thu nhập của người tiêu dùng Hoa Kỳ đã được
cải thiện. Bên cạnh đó, giày dép Việt Nam vốn đã có mặt rất sớm tại thị trường
Mỹ và đã trở nên rất quen thuộc và là sự lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng
khi có ý muốn mua giày dép.
2.3. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT
NAM SANG HOA KỲ TỪ SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT –
MỸ ĐƯỢC KÝ KẾT.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một hiệp định mang tính chất song
phương mang lại lợi ích cho cả phía Việt Nam và Hoa Kỳ. Bằng chứng là quan
hệ thương mại giữa hai nước không ngừng phát triển theo hướng tích cực,
KNXK hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Tuy nhiên hàng hóa
Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn khi thâm nhập và tồn tại tại thị
trường Hoa Kỳ. Tuy Hiệp định thương mại Việt – Mỹ mở ra vô vàng cơ hội cho
hàng hóa Việt Nam xâm nhập vào Hoa Kỳ nhưng cũng mang lại cho ta những
khó khăn và thách thức nhất định trong việc thâm nhập và tồn tại tại thị trường
Hoa Kỳ.
Năng lực cung và tiếp thị xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn
yếu, ngoài những yếu kém chung và truyền thống như chủng loại hàng hoá nghèo
nàn, chất lượng và mẫu mã chưa phù hợp, giá cả không cạnh tranh, các doanh
nghiệp Việt Nam còn có những điểm yếu kém như quy mô doanh nghiệp nhỏ,
chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau nên không có khả năng đáp
ứng nhanh các đơn hàng lớn từ phía đối tác Hoa Kỳ. Hơn nữa hầu hết doanh
nghiệp giày dép hoạt động xuất khẩu theo phương thức gia công.
Tuy Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã phát huy hiệu quả song Việt Nam
vẫn phải chịu mức thuế cao hơn các nước khác do một số nguyên nhân sau.
Tuy theo các điều khoản về thuế quan và phi thuế quan trong Hiệp định
thương mại giữa hai nươc đã được thực hiện. Nhưng các biện pháp bảo hộ sản
xuất của Hoa Kỳ có chiều hướng ngày càng gia tăng, một số mặt hàng xuất khẩu
có tốc độ tăng trưởng cao của Việt Nam đang vấp phải những vấn đề này chẳng
hạn như hàng rào kỹ thuật và an toàn thực phẩm của Hoa Kỳ nhiều khi cao quá
mức cần thiết.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 26
Đội tàu cũng như các cảng biển của Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu
cầu của các chuyến hàng từ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Vì vậy cước phí và
thời gian vận tải hàng từ Việt Nam sang Hoa Kỳ thường cao hơn và lâu hơn từ
các nước khác vận chuyển đến Hoa Kỳ do phải quá cảng ở nhiều nước trong khu
vực và thế giới.
Các biện pháp chống khủng bố được ban hành sau vụ ngày 11/9 cũng tạo
thêm những rào cản mới đối với xuất khẩu hàng hoá của các nước vào thị trường
Hoa Kỳ trong đó có Việt Nam.
Hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ quá đa dạng và phức tạp, nhiều bộ luật
khác nhau của các bang dẫn đến hàng hoá nhập khẩu chịu điều chỉnh bởi nhiều
nguồn luật khác nhau.
Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là nước có nền kinh tế phi thị trường, do vậy
phải chịu nhiều bất lợi trong các cuộc tranh chấp thương mại tại thị trường Hoa
Kỳ mà điển hình là vụ cá basa và tôm của Việt Nam.
Khó khăn gặp phải trong thanh toán do hai bên chưa thực sự tạo được lòng
tin với nhau và một phần do thói quen sử dụng các phương thức thanh toán của
mỗi bên, một phần do năng lực các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 27
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM
SANG HOA KỲ
3.1. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng trong
quá trình tìm hiểu về thị trường Hoa Kỳ cũng như xuất khẩu hàng hóa
sang thị trường này.
Đây là việc làm vô cùng cần thiết. Vì thị trường Mỹ là một thị trường rộng
lớn với nhiều quy định khác nhau lại thay đổi một cách thường xuyên. Việc cập
nhật các thông tin về chính sách thuế, quy định hải quan, các hàng rào kỹ thuật –
phi thuế quan và các thủ tục nhập khẩu của Hoa Kỳ là các vấn đề cần được lưu
tâm. Nhà nước cần tổ chức các lớp bồi dưỡng, các cuộc hội thảo để nâng cao
hiểu biết về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó nhà
nước nên đẩy mạnh việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
về các vấn đề như luật pháp, tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa…
Tiếp tục rà soát lại hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động thương
mại loại bỏ những quy định đã lỗi thời không còn phù hợp với tình hình
kinh tế hiện nay như các quy định thủ tục hải quan.
Hoàn thiện quy chế quản lý xuất nhập khẩu cho rõ ràng phù hợp với
những định hướng xuất khẩu của nhà nước đồng thời phù hợp với hiệp định
thương mại Việt – Mỹ.
Soạn thảo và ban hành luật chống độc quyền và luật cạnh tranh một
cách rõ ràng nhằm tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp kể cả doanh
nghiệp nhà nước và tư nhân.
Soạn thảo, ban hành mới các luật xuất khẩu phù hợp với tiến trình
giảm thuế của hiệp định thương mại.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 28
3.1.2. Đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ quan phục vụ việc xuất khẩu hàng
hóa thực tiện và hiệu quả hơn.
Cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ việc xuất khẩu hàng hóa sang
Kỳ như cảng biển đáp ứng yêu cầu của các cảng quốc tế (container hóa),
nâng cáo nghiệp vụ và năng lực hoạt động của đội tàu trong nước nhằm
giảm thiểu chi phí cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa sang Hoa
Kỳ đóng góp vào ngân sách nhà nước. Một khi cơ sở hạ tầng phục vụ cho
việc xuất nhập khẩu tốt, thì sẽ tạo cho điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp áp dụng các điều khoản có lợi nhất cho mình trong Incoterm, tránh
tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam luôn “xuất FOB nhập CIF”. Để có
được nguồn tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu nhà nước
cần có chính sách thu hút đầu tư hiệu quả.
Cần xây dựng các cơ quan chuyên biệt nghiên cứu, dự báo hiệu quả
về nhu cầu thị trường Hoa Kỳ theo từng ngành hàng hay mặt hàng. Công
tác nghiên cứu dự báo một cách chính xác cao nhất đòi hỏi phải có được
nguồn nhân lực chuyên môn vì vậy nhà nước cần chú trọng đào tạo nâng
cao trình độ của nhân viên của cơ quan này.
3.1.3. Tích cực giám sát quá trình thực hiện các cam kết trong hiệp
định
Việc thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một
vấn đề khá khó khăn và phức tạp. Vì vậy để tích cực thực hiện các cam kết thì
cần phải có sự quan tâm giám sát, chỉ đạo thực hiện của nhà nước. Đây là một
việc làm vô cùng cần thiết vì các doanh nghiệp sẽ gặp các bất lợi rất lớn khi vi
phạm các cam kết trong Hiệp định. Ngoài ra khi xảy ra các vấn đề vi phạm của
doanh nghiệp sự can thiệp kịp thời của nhà nước sẽ giúp các doanh nghiệp giảm
được các thiệt hại.
Những cam kết trong hiệp định gây không ít khó khăn cho tình hình sản
xuất trong nước của các doanh nghiệp. Sự giám sát chỉ đạo thực hiện của nhà
nước sẽ giúp giảm bớt các khó khăn trong quá trình thực hiện.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 29
3.1.4. Tiếp tục có các chính sách hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và
xuất khẩu
Vấn đề trợ cấp hỗ trợ cho các doanh nghiệp không còn đơn giản như trước
đây do vướng phải những quy định của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và bảng
cam kết với WTO. Vì vậy việc trợ cấp và hỗ trợ các doanh nghiệp cần được thực
hiện một cách thận trọng. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi trong việc hỗ
trợ đầu tư đầu vào cho các doanh nghiệp như trang thiết bị phục vụ cho việc chế
biến sản phẩm xuất khẩu. Cần có sự hỗ trợ cho các nhà sản xuất về các vấn đề kỹ
thuật để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn của thị trường
Mỹ.
3.1.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu
quả hơn
Xoá bỏ dần tình trạng độc quyền xuất khẩu của một số doanh nghiệp
trước đây việc xuất khẩu hàng hoá do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện
tuy nhiên hiện nay đã có quy chế cho mọi doanh nghiệp có đăng ký kinh
doanh xuất nhập khẩu được xuất nhập khẩu trực tiếp xong một số doanh
nghiệp lớn có sức mạnh tài chính lại thường hay chèn ép các doanh nghiệp
nhỏ và chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu.
Điều chỉnh linh hoạt lãi suất và tỷ giá hối đoái nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá theo hướng vừa có lợi cho xuất khẩu vừa
có lợi cho nền kinh tế.
Cần có sự phân biệt giữa vai trò của nhà nước, chức năng của các cơ
quan quản lý với nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong công tác quản lý
xuất khẩu.
Thành lập quỹ đề phòng rủi ro trong mỗi ngành hàng hỗ trợ các
doanh nghiệp xuất khẩu về vốn sản xuất đặc biệt đối với các doanh nghiệp
mới đi vào hoạt động.
Nhà nước cần định hướng cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng hóa sang Hoa Kỳ tránh tình trạng cạnh tranh nội bộ không cần thiết (bài học
từ việc các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam cạnh tranh với nhau trên thị
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 30
trường bằng cách “đua nhau” giảm giá là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến bị kiện bán phá giá tại Mỹ)
3.2. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
3.2.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
Một vấn đề lớn đối với hàng hoá Việt Nam là năng lực cạnh tranh thấp vì
vậy cần phải giải quyết vấn đề như sau:
Ngoài nguồn vốn đầu trong nước cần có những chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài với nhiều hình thức khác nhau để tạo ra những sản phẩm tốt cho xuất
khẩu, hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là thực hiện
gia công xuất khẩu cho các doanh nghiệp nước ngoài, để xuất khẩu được hiệu
quả hơn cần phải đầu tư tự sản xuất để xuất khẩu từ đó sẽ tận dụng được nguồn
nguyên liệu trong nước. Cần có sự phối hợp của các ngành như giáo dục và công
nghiệp bằng cách mở những trường đào tạo nghề đáp ứng cho nhu cầu công nhân
kỹ thuật đang tăng cao của nền kinh tế nước ta.
Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm điều này sẽ tạo cho hàng hoá
tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp nên áp theo tiêu
chuẩn chất lượng của Mỹ cho các mặt hàng tham gia kinh doanh. Đây là vấn đề
rất khó khăn với phần lớn các doanh nghiệp nước ta hiện nay vì các máy móc của
nước ta lạc hậu so với thế giới. Nguồn vốn sẽ là vấn đề lớn đối với nước ta do
vậy cần thu hút đầu tư vốn và kỹ thuật từ nước ngoài để tận dụng kỹ thuật tiên
tiến.
Cần quan tâm đến nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế
chi phi sản xuất, bên cạnh đó cần phải đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để trực tiếp
xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Phần lớn hàng hoá nước ta xuất khẩu qua nước
trung gian vì chúng ta chưa đăng ký được nhãn hiệu hàng hoá. Do đó các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần tiến hành đăng ký nhãn hiệu cho hàng hoá
của mình để xuất khẩu trực tiếp vào thị trường Mỹ tạo ra mức giá cạnh tranh vì
đã giảm được chi phí trung gian.
Các doanh nghiệp cần phải chú trọng vào nguồn nguyên liệu đầu vào.
Thực chất đây không phải là vấn đề mới mẽ cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên khi
vào quá trình sản xuất thì việc thiếu hụt nguồn nguyên liệu vẫn là một vấn đề gây
cản trở quá trình sản xuất đáp ứng xuất khẩu, mất đi nhiều cơ hội kiếm lời lớn. Vì
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 31
vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc kiểm soát nguồn nguyên liệu
đầu vào bằng cách “hội nhập dọc về phía sau” để kiểm soát nguồn nguyên liệu
đầu vào một cách hiệu quả hơn như thành lập bao tiêu sản phẩm, hay thực hiện
các chu trình sản xuất khép kín để kiểm soát nguồn nguyên liệu đầu vào hiệu quả
hơn.
Cần có những điều chỉnh trong cơ cấu hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ
theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu. Muốn thế
phải xây dựng thêm nhiều cơ sở chế biến hàng xuất khẩu, tổ chức tốt công tác
công nghệ sau thu hoạch để sản phẩm xuất khẩu đạt tiêu chuẩn chất lượng cao.
Nâng cao trình độ quản lý và hiểu biết các nghiệp vụ chuyên môn cũng
như trình độ ngoại ngữ của các nhân viên đặc biệt là các nhân viên thực hiện việc
đàm phán hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
Nhận thức và tìm hiểu một cách đúng đắng về các điều khoản trong việc
mua bán quốc tế - Incoterm 2010 để áp dụng vào việc chọn điều kiện thuận lợi và
có lợi nhất cho mình.
3.2.2. Cần đặc biệt quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại
Mỹ cho hàng hóa
Thị trường Mỹ là thị trường đã đạt tiêu chuẩn quốc tế về mọi vấn đề, trong
đó có vấn đề về sở hữu công nghiệp, về đăng ký bản quyền cũng như các vấn đề
bảo vệ thương hiệu, các quy định về vấn đề này cũng rất phức tạp, hơn nữa ở bất
kỳ thị trường nào cũng có những vấn đề gian lận thương mại. Nếu hàng hoá
không đăng ký quyền sở hữu trí tuệ lúc xảy ra tranh chấp sẽ gây thiệt hại cho
thương hiệu của doanh nghiệp, thiệt hại chi phí khiếu kiện vì vậy cần phải đăng
ký bản quyền công nghiệp cho sản phẩm của doanh nghiệp.
3.2.3. Ứng dụng thương mại điện tử vào việc kinh doanh
Thương mại điện tử tuy là lĩnh vực mới mẻ nhưng đang phát triển rất
nhanh và tiềm năng cũng rất lớn, sử dụng công cụ này sẽ tiết kiệm được chi phí
cho doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường và tiết kiệm chi phí quảng cáo
và những lợi ích khác. Tuy nhiên khi áp dụng thương mại điện tử trong kinh
doanh các doanh nghiệp cần chú trọng đến vấn đề an ninh mạng, tránh tình trạng
bị đánh cấp thông tin, hay bị “hacker” tấn công gây tổn hại đến hoạt động kinh
doanh.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 32
PHẦN KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là một nền tảng cho mối quan hệ ấy.
Trong nhiều năm qua hàng hóa của Việt Nam ngày càng xuất khẩu được nhiều
hơn sang Hoa Kỳ với quy mô và chủng loại ngày càng được mở rộng.
Các quy định trong Hiệp định thương mại giữa hai nước đã tạo những điều
kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên trong xu thế phát triển hàng
hóa Việt Nam gặp không ít khó khăn tại thị trường Hoa Kỳ. Chính vì vậy đề tài
này mong muốn đóng góp một phần quan trọng vào việc giúp các doanh nghiệp
Việt Nam có một cái nhìn tổng thể hơn về những tác động của Hiệp định thương
mại Việt – Mỹ, để từ đó có những biện pháp hữu hiệu hơn để giúp hàng hóa Việt
Nam có thể xâm nhập và trụ vững tại thị trường Hoa Kỳ.
2. KIẾN NGHỊ
Về phía nhà nước nên tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ có được những hiểu biết cần thiết về thị trường Mỹ
cũng như những quy định trong hiệp định. Bên cạnh đó nhà nước cần tiếp thu
lắng nghe ý kiến của các doanh nghiệp để đưa ra các chính sách phù hợp với việc
xuất khẩu hàng hóa của các như chính sách về tỷ giá, chính sách thuế, biện pháp
phí thuế quan… tạo điều kiện thuận lợi, công bằng giữa các doanh nghiệp. Ngoài
ra nhà nước cần quản lý chặt chẽ những nội dung trong hiệp định, kiểm soát quá
trình thực thị của các doanh nghiệp. Kịp thời phát hiện những bất cặp khi các quy
định đưa vào áp dụng trong thực tế để có hướng giải quyết kịp thời.
Về phía các hiệp hội như dệt may, thủy sản, giầy dép… cần nâng cao năng
lực quản lý, đồng bộ trong bộ máy hoạt động. Tăng cường khả năng dự báo về
lượng cũng như giá các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Về phía các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, bao bì đặc
biệt là thương hiệu để đáp ứng những yêu cầu ngày càng khắc khe của thị trường
Hoa Kỳ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường
Mỹ. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần linh hoạt trong việc xây dựng kế hoạch
ản xuất, tránh tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu trầm trọng như hiện nay.
Chuyên đề ngoại thương GVHD: Trần Thị Bạch Yến
SVTH: LÂM PHƯỚC THUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách tham khảo
Phan Thị Ngọc Khuyên, (2010), Giáo trình Kinh tế đối ngoại, Trường đại học
Cần Thơ.
Bùi Xuân Lưu, (2002), Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo
dục.
Hà Thị Ngọc Oanh, (2006), Kinh tế đối ngoại – những nguyên lý và vận dụng
tại Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê.
Võ Thanh Thu, (1996), Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập
khẩu, Nhà xuất bản Thống kê.
Trương Khánh Vĩnh Xuyên, (2010), Bài giảng Kinh tế đối ngoại, Trường đại
học Cần Thơ.
Websites tham khảo
http:// www.vietnamtextile.org.vn
http:// www.lefaso.org.vn
http:// www.nciec.gov.vn/downloads/BTA.pdf
http:// www.google.com
http:// www.chinhphu.vn
http:// www.google.com
khoi-cua-cuoc-chien
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_tac_dong_cua_hiep_dinh_thuong_mai_viet_my_5139.pdf