Phần I : Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Phần II : Thực trạng và các yếu tố tác động đến lạm phát ở Việt Nam
Phần III : Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ
Phần IV : Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà NHNN đã thực hiện
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4327 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong vài năm trở lại đây để kiềm chế lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chình và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những tồn tại, yếu kém nội tại của nền kinh tế, trong 2 năm qua nền kinh tế nước ta đã có những biến động về phương diện kinh tế vĩ mô. Do đó chỉ riêng từ quý 1/2008 đến quý 4/2008 đã có 2 lần thay đổi rất lớn về chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế.
Những lo ngại về nguy cơ lạm phát lại được nhiều người quan tâm trong thời gian gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng tăng 0.55%, cao hơn khá nhiều so với mức 0.15% của tháng trước. Tính ra 10 tháng đầu năm CPI tăng 5.07%, đây là mức không cao so với một số năm gần đây. Tuy nhiên, lạm phát đang có dấu hiệu quay trở lại.
Vừa qua Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực hiện những chính sách quyết liệt như: điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Các biện pháp này có mục đích ngăn chặn nguy cơ về lạm phát và bong bóng tài sản. Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và một số tổ chức cũng đưa ra cảnh báo lạm phát của Việt Nam có thể lên 2 con số trong năm 2010. Nhiều chuyên gia kinh tế trong nước cũng cảnh báo những bất ổn vĩ mô do lạm phát cao có thể xảy ra vào năm tới.
Như vậy, ngoài vấn đề tỷ giá thì lạm phát nổi lên như một vấn đề kinh tế vĩ mô được quan tâm.
Ngoài lời nói đầu và kết luận bài tiểu luận gồm 4 phần chính:
Phần I : Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Phần II : Thực trạng và các yếu tố tác động đến lạm phát ở Việt Nam
Phần III : Các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ
Phần IV : Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà NHNN đã thực hiện
PHÂN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
1.Khái niệm
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trung bình hay giảm sức mua của đồng tiền.
Trong phạm vi toàn cầu, khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ so với các loại tiền khác.
2.Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
Ta có bảng số liệu tỷ lệ lạm phát từ 2002 đến 2010 (Đơn vị %)
Chỉ tiêu Năm
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tỷ lệ tăng GDP
7.08
7.24
7.7
8.4
8.17
8.48
6.23
5.32
6.7
Tỷ lệ lạm phát
4.0
3.0
9.5
8.4
6.6
12.63
19.89
6.52
10.5
3. Nguyên nhân gây lạm phát
Lạm phát ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân như nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu lại mất cân đối cơ cấu, phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên ngoài như: Vốn đầu tư, nguyên nhiên vật liêu công nghiệp, các dây chuyền sản xuất tiên tiến...cụ thể chúng tôi đi phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát trong những năm gần đây.
* Lạm phát do chi phí đẩy
Do giá của các yếu tố đầu vào tăng cao đặc biệt là giá các yếu tố đầu vào cơ bản như vốn đầu tư, nguyên nhiên vật liệu, giá xăng dầu, lương thực thực phẩm thiết yếu...“4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007, giá xăng dầu thế giới đã tăng 51,24%, phôi thép tăng 43%, phân bón tăng 67%, giá ngô tăng 31%, đậu tương tăng 87%, lúa mì tăng 130%...), trong khi đó 70% nhập khẩu của Việt Nam là các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước; nhiều mặt hàng có tỷ trọng nhập khẩu cao như: xăng dầu (98%), phôi thép (65% - 70%), nguyên liệu sản xuất thuốc (60%)..., phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới”
* Lạm phát do cầu kéo
Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nhanh. Giá tăng ( theo quy luật cung - cầu).
+Thị trường đầu tư toàn XH năm 2007 là 493,6 nghìn tỉ chiếm 43% GDP với số vốn trực tiếp nước ngoài thực tế đạt 6,4 tỉ USD cao hơn 77% so với năm 2006.
+Chi tiêu ngân sách chính phủ ngày càng lớn. Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2007 là 399,4 nghìn tỉ đồng vựơt khoảng 11,7% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng bằng 4,95% GDP.
* Lạm phát do tiền tệ
Cung ứng lượng tiền quy ước vượt quá mức mà nền kinh tế đòi hỏi, chính sách tiền tệ được mở rộng trong thời gian dài.
Quản lý tiền mặt kém hiệu quả: - Tính tới cuối T6/2007 lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở VN đã tăng 21,1% so với đầu năm.
Cung tiền ở VN tăng mạnh năm 2007 như đã nói ở trên chủ yếu là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến từ đó buộc ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền vào lưu thông cùng với chính sách NEO tỉ giá đồng USD nên ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD năm 2006 lên 21,6 tỉ USD năm 2007.
* Một số nguyên nhân khác
Do sự tích tụ lạm phát từ những năm trước đó cộng với chính sách kinh tế vĩ mô của những năm trước chưa triệt để, lạm phát tích tụ và tăng cao vào những năm 2007 – 2008.
Vòng xoáy lạm phát: Do sự tăng lên liên tục của tổng cung và tổng cầu trong dài hạn nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời kéo theo sự gia tăng không ngừng của mức giá. Nhưng tổng cung (năng lực sản xuất) tăng chậm hơn so với mức độ tăng của tổng cầu nên đã đẩy mức giá tăng cao hơn đáng kể.
Do VN gia nhập WTO, đang trong quá trình hội nhập sâu và rộng nên cũng chịu ảnh hưởng từ nhiều nền kinh tế khác.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam thời gian qua
Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã, với mức sụt giá của tiền đồng lên đỉnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số.
Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998.
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm.
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới.
Lạm phát và giá cả
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02/2010 được Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố tăng 1.96% so với tháng trước đó. Đây là mức tăng CPI cao nhất trong vòng 17 tháng qua. Số liệu thống kê này cùng với quyết định điều chỉnh tỷ giá hối đoái, giá xăng dầu, giá điện, nước, than… Tháng 9/2010 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng đến 1.31% và tháng 10 tăng 1.05% . Việc điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu hơn 111 mặt hàng từ ngày 23/10/2010, trong đó có nhiều mặt hàng là lương thực, thực phẩm tăng thêm 5-10%, sẽ ảnh hưởng đến giá thực phẩm trong thời gian tới. Ngoài ra,việc lũ lụt tại miền Trung liên tục xảy ra cũng phần nào tác động đến giá cả một số mặt hàng thực phẩm tăng cao trong những tháng cuối năm. Một nhóm hàng cũng thường có xu hướng sẽ tăng giá về cuối năm khi nhu cầu tăng cao là vật liệu xây dựng nhiều khả năng cũng sẽ là nhân tố tác động mạnh đến CPI tháng cuối năm. Tuy nhiên,việc nhóm hàng nguyên vật liệu xây dựng sẽ tăng ở mức nào còn tùy thuộc vào giá cả trên thế giới và việc biến động của tỷ giá. Tính đến tháng 10,CPI 10 tháng đã là 7,58% .
* Như vậy, lạm phát cả năm 2010 sẽ là 11,75%, ứng với CPI tháng 12/2010 so với tháng 12/2009, vượt qua mức chỉ tiêu kế hoạch về lạm phát đặt ra cho năm nay. Lạm phát bình quân năm là 9,19%.
Diễn biến CPI các tháng trong 2 năm 2009 – 2010
Có thể nói năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI bắt đầu xu hướng tăng cao, đến hết tháng 11 CPI tăng tới 9,58%
Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng... Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đoàn cùng với thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 sẽ tiếp tục gây sức ép làm tăng lạm phát không chỉ những tháng cuối năm mà có thể cả trong năm 2011.
2. Các yếu tố tác động đến lạm phát ở Việt Nam
* Xét về nguyên nhân chủ quan, lạm phát của ta đã được tích tụ nhiều năm ở 3 lĩnh vực chủ yếu:
Cơ cấu kinh tế đang bộc lộ những vấn đề không hợp lý với những biểu hiện cụ thể như đầu tư dàn trải, lượng tiền lớn tung ra lưu thông nhưng hàng hoá sản xuất ra không tương xứng, quan hệ cung cầu hàng-tiền bị phá vỡ. Nhập siêu liên tục tăng với số lớn làm cho cán cân thương mại, cán cân thanh toán ngày càng thâm hụt. Đây là nguyên nhân sốc gây ra lạm phát. Về chính sách tài khoá trong vòng 10 năm liên tục, chúng ta bội chi ngân sách so với GDP ở mức cao 5%, năm 2007 là 5,8% cộng với tình trạng thất thu ngân sách không được giải quyết triệt để và chi hành chính không được kiểm soát chặt chẽ, gây lãng phí, thất thoát. Đây cũng là một kênh gây áp lực lạm phát quan trọng.
Chinh sách tiền tệ mà biểu hiện cụ thể là chính sách tín dụng, quản lý ngoại hối và thực hiện các công cụ của nghiệp vụ thị trường mở điều hành không nhuần nhuyễn, còn những bất cập…Tất cả những hạn chế này không những làm cho nhiều giải pháp chống lạm phát đúng không được triển khai có kết quả mà còn gây ra tình trạng khắc phục lạm phát chậm, thậm chí có lĩnh vực còn làm cho lạm phát tăng lên.
Lâu nay, khi xác định yếu tố và giải pháp kiềm chế lạm phát, nhiều người vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tiền tệ - tín dụng. Điều đó không sai, nhưng tiền tệ - tín dụng thường là tác nhân và cũng là sự bộc lộ, là biểu hiện của lạm phát (sự mất giá của đồng tiền), còn nguyên nhân sâu xa chính là đầu tư không có hiệu quả, chi tiêu vượt số làm ra, bội chi ngân sách quá cao. Vì vậy, thu - chi ngân sách là một kênh quan trọng, cần được quan tâm nhiều hơn. Cùng với việc tăng thu, giảm bội chi, cần phải quan tâm tới tiết kiệm chi đầu tư công, chi tiêu công
* Ngoài ra sự gia tăng giá cả và chi phí của các nhân tố “đầu vào”
Từ đầu năm 2010, giá một số mặt hàng chủ chốt tăng giảm thất thường mà chủ yếu là tăng lên (như xăng đã tăng thêm từ 550 - 590đ/lít từ ngày 21/2/2010, điện tăng 6.8% từ 1/3/2010, kể cả giá than và cả giá tàu hỏa, tiền lương tăng từ 1/5/2001), có thể sẽ tác động mạnh tới CPI năm 2010 của Việt Nam (đến đầu tháng 6/2010, tuy giá xăng có giảm 500đ/lít, do giá dầu trên thị trường thế giới giảm, nhưng dường như các mặt hàng khác không giảm hoặc giảm không đáng kể). Mặt khác, do tác động của chính sách tài chính - tiền tệ, nên các NHTM vẫn tìm cách tăng lãi suất huy động và cho vay, kết hợp với Nhà nước có chủ trương bãi bỏ các khoản miễn giảm nghĩa vụ tài chính cho doanh nghiệp, tăng thu thuế (dự kiến thuế tài nguyên), những điều nàysẽ ít nhiều làm tăng chi phí sản xuất “đầu vào”, do đó tăng giá đầu ra các hàng hóa và dịch vụ cung ứng từ nguồn trong nước.
PHẦN III: CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn.
Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa
Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ sắp tới để đảm bảo an toàn lao động cho sản xuất và đời sống.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón,... Chủ động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất.
4. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
Bộ Công Thương chủ trì đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp nhập khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới để tăng xuất khẩu. Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đề xuất cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên thị trường nội địa, bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá phù hợp với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. Có cơ chế và chỉ đạo các ngân hàng thương mại mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xử lý kịp thời các ách tắc về tín dụng, đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý cho xuất khẩu.
Bộ Tài chính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công cụ thuế để tăng thuế xuất khẩu ở mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như: ô tô nguyên chiếc, linh kiện lắp ráp ô tô dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt hàng điện tử, điện lạnh, xe và linh kiện lắp ráp xe hai bánh gắn máy, rượu, bia để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với cam kết hội nhập, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết, phù hợp với các cam kết quốc tế để hạn chế các mặt hàng thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu.
5. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
7. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp. Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện, điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới hay thay máy tàu sang loại tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
8. Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền
Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để thực hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn, phát triển ổn định.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay gắt nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao và mục tiêu, các giải pháp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay trong tháng 4 năm 2008.
Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh những thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội
PHẦN IV: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT MÀ NHNN ĐÃ THỰC HIỆN
Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VNĐ và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008
Tóm lại Chính phủ đã có những quyết sách đúng hướng tập trung vào năm khu vực then chốt nhất, cấp bách nhất hiện nay đó là: áp dụng các biện pháp đồng bộ cả về cơ chế chính sách và tín dụng nhằm ổn định thị trường bất động sản vốn có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng; các biện pháp vực dậy thị trường chứng khoán, củng cố lòng tin của công chúng và các nhà đầu tư vào khả năng giải quyết các vấn đề tài chính của Chính phủ theo nguyên tắc thị trường; củng cố và tăng cường tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại; giảm bớt sức ép chi phí sản xuất vốn đang rất căng thẳng của các doanh nghiệp, bao gồm kiểm soát giá đầu vào, giá độc quyền, từng bước giảm lãi suất cho vay theo đà giảm lạm phát, đẩy mạnh mua ngoại tệ cho doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà đầu tư nước ngoài; có chính sách cụ thể kể cả chính sách tín dụng nhằm phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng cung về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu, tiến tới ổn định giá cả các mặt hàng này, coi đây là mục tiêu quan trọng nhất của tiến trình chống lạm phát
1. Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ chủ yếu
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chình và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những tồn tại, yếu kém nội tại của nền kinh tế, trong 2 năm qua nền kinh tế nước ta đã có những biến động về phương diện kinh tế vĩ mô.
Do đó chỉ riêng từ quý 1/2008 đến quý 4/2008 đã có 2 lần thay đổi rất lớn về chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế: Đứng trước áp lực lạm phát, mà dấu hiệu rõ nét từ Quý 4/2007, cùng với tác động tiêu cực,do gia tăng đột biến giá cả một số hàng hóa trên thị trường thế giới, tháng 3.2008 chính phủ đã chuyển mục tiêu và chính sách từ sự theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao sang chính sách ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với 8 nhóm giải pháp. Kết quả từ tháng 6.2008 chỉ số CPI của nền kinh tế đã có xu hướng giảm dần và kinh tế vĩ mô có dấu hiệu ổn định hơn. Nhưng sau 15.9.2008, thời điểm thực sự nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cùng với sự suy thoái khá sâu về kinh tế, đã tác động rất tiêu cực đến nhiều lãnh vực trong hoạt động kinh tế của nước ta và từ đầu quý 4/2008 nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát do sức cầu giảm.Một lần nữa mục tiêu và chính sách kinh tế phải thay đổi: chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng với 5 nhóm giải pháp đang thực hiện đến nay.
Có thể nói trong vòng chưa đầy một năm nền kinh tế đã có 2 bước ngoặt về sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể, trong đó có thể nói vai trò quyết định là sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Điểm qua vai trò của chính sách tiền tệ đã thực thi trong 2 bước ngoặt trên để qua đó làm rõ vai trò của nó trong giai đoạn sau thời kỳ suy giảm.
1.1. Lý luận và thực tiễn sử dụng chính sách tiền tệ như một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô: Về lý thuyết, kinh tế vĩ mô thường tập trung vào 4 mục tiêu chính:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP hay GNP cùng với chỉ tiêu GDP/người vào những mốc thời gian nhất định. Đây là mục tiêu bao trùm nhất của kinh tế vĩ mô phản ảnh chung nhất về thành tựu phát triển của một nền kinh tế. Tuy chỉ báo này chưa phản ảnh đầy đủ chất lượng của một nền kinh tế, nhưng luôn luôn là chỉ báo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay thất bại của một nền kinh tế.
(2) Kiểm soát giá cả thông qua chỉ báo CPI hay thường nói là kiểm soát lạm phát là chỉ báo quan trọng nhất phản ảnh tính ổn định của kinh tế vĩ mô. Chỉ báo này còn được sử dụng như một công cụ giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với an sinh xã hội.
(3) Tạo việc làm mới cho xã hội, kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp là chỉ báo vừa phản ảnh tình trạng của nền kinh tế, vừa phản ảnh tính ổn định về mặt an sinh xã hội. Thông thường ở các nước đây là chỉ báo rất quan trọng không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị phản ánh năng lực quản lý điều hành của một chính phủ.
(4) Tăng xuất khẩu ròng (lấy kim ngạch xuất khẩu – kim ngạch nhập khẩu); nhất là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu.
Bốn mục tiêu nêu trên được sử dụng khá phổ biến ở các nước như là những mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô. Những mục tiêu này cũng chính là những sản phẩm đầu ra của quan hệ tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Vai trò của nhà nước thông qua các chính sách và giải pháp kinh tế để tác động đến tổng cung và tổng cầu nhằm tạo được “đầu ra” theo ý muốn, với nguyên tắc: nhà nước không tác động trực tiếp vào chủ thể tạo cung hay tạo cầu, mà tác động vào thị trường (sự vận động của tổng cung và tổng cầu được xem như “hộp đen”) và chính thị trường sẽ tác động đến các chủ thể của nền kinh tế (người sản xuất, người tiêu dùng). Để thực hiện 4 mục tiêu nêu trên, nhà nước thường sử dụng 4 nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
- Chính sách tài khóa bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ. Đây là những chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường. Chính sách tài khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ví dụ chính sách tăng thuế để hạn chế tiêu dùng.
- Nhóm các chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết thị trường tài chính, mà trọng tâm là thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định giá cả. Thông thường chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua các công cụ như: lãi suất, hối đoái,dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, các nghiệp vụ của thị trường mở…
- Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng và điều tiết khối cầu của nền kinh tế. Chính sách này được sử dụng thường xuyên trong trường hợp nền kinh tế ở trong tình trạng lạm phát hoặc giảm phát.
- Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, bảo đảm mục tiêu tăng xuất khẩu ròng; đồng thời cũng điều tiết tổng cung và tổng cầu nội địa của nền kinh tế.
Bốn nhóm công cụ chính sách nêu trên tùy theo tính chất của một nền kinh tế và trong mỗi giai đoạn nhất định được điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Mục tiêu và công cụ chính sách kinh tế vĩ mô được khái quát theo sơ đồ dưới đây
1.2. Thực tiễn sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở nước ta
Từ sự phân tích lý thuyết như trên đối chiếu với thực tiễn ở nước ta cho thấy, trong 2 năm qua Chính phủ đã sử dụng khá linh hoạt các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để điều chỉnh các mục tiêu kinh tế-xã hội, đặc biệt là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cụ thể như sau:
+ Trong năm 2008, để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện an sinh xã hội, trong 8 nhóm giải pháp thực hiện từ tháng 3 năm 2008, thì nổi bật và có tác dụng nhanh nhất là chính sách tiền tệ. Với tình hình lạm phát cao (trên 2%/tháng) Chính phủ thực hiện chính sách siết chặt tiền tệ, thông qua các công cụ của Ngân hàng TW như tăng lãi xuất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại, thực hiện tín phiếu bắt buộc đối với một số tổ chức tín dụng chủ yếu, hạn chế việc chiết khấu các loại giấy tờ có giá... nhằm kéo giảm tốc độ tăng dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại, giảm tổng cung tiền trong lưu thông... dẫn đến giảm tổng cầu của nền kinh tế, tạo sự thăng bằng mới trong quan hệ giữa Tổng cung - Tổng cầu. Khi một nền kinh tế lâm vào tình trạng lạm phát, thì có nhiều nguyên nhân, bao gồm trực tiếp và gián tiếp, nhưng luôn luôn được thể hiện qua tiền tệ, nên “toa thuốc tiền tệ” có tác dụng nhanh nhất.
+ Từ đầu năm 2009, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng suy giảm khá mạnh (GDP quý 1/2008 tăng 7,4% nhưng quý 1/2009 chỉ còn 3,1%), mục tiêu kinh tế vĩ mô là ngăn chặn suy giảm, nên phải áp dụng các giải pháp để tăng tổng cầu của nền kinh tế. Một lần nữa chính sách tiền tệ được sử dụng như công cụ chủ yếu để phục vụ mục tiêu kinh tế. Trong 5 nhóm giải pháp chính phủ thực thi từ tháng 12/2008 đến nay, thì nổi bật vẫn là việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ như: nới lỏng chính sách tín dụng, hạ lãi xuất cơ bản, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại, trả nợ tín phiếu bắt buộc, tái chiết khấu và tái cấp vốn qua nghiệp vụ thị trường mở, mở rộng biên độ tỷ giá VND... để kích thích sự gia tăng tổng cầu của nền kinh tế, qua đó làm tăng cả tổng cung. Để thực hiện gói kích thích kinh tế với quy mô 8 tỷ USD, mà chính phủ công bố, thì cho đến nay việc thực hiện bù lãi xuất 4% cho các doanh nghiệp thuộc đối tượng vay vốn lưu động vẫn là chính sách có nhiều tác dụng nhất.
+ Năm 2010: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2010 đã tăng 1,05%. So với tháng 12/2009, CPI tháng 10 tăng 7,58%, chỉ để lại khoảng hẹp 0,42% cho hai tháng cuối năm phấn đấu chốt vào mức tăng 8% cả năm như Chính phủ đã dự kiến. So với cùng kỳ năm ngoái, CPI tháng này tăng 9,66%. Còn bình quân 10 tháng năm 2010, CPI đã tăng 8,75%. Để kiềm chế vững chắc các động thái lạm phát theo mục tiêu đề ra trong những tháng cuối năm và thời gian tới, Chính phủ hiện đã có chỉ đạo thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm giải pháp lớn để khôi phục phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa nguy cơ tái lạm phát cao. Để hỗ trợ tăng trưởng, Chính phủ sử dụng tất cả các công cụ tác động vào các thành tố: chi tiêu công (G), tiêu dùng (C), đầu tư (I) và xuất khẩu nhằm cải thiện nhập siêu, hướng tới xuất khẩu ròng (NX) thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; một công cụ nữa cũng được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đó là thông tin - truyền thông.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND tăng thêm 603 đồng kể từ ngày 11/2/2010, tăng thêm 3,3% so với tỉ giá ngày trước đó. Tăng tỉ giá ngoại tệ, trước hết đối với USD, như một động thái cần thiết, khó tránh khỏi trong điều chỉnh chính sách tiền tệ năm 2010 nhằm làm giảm áp lực tiêu cực của chênh lệch tỷ giá giữa đồng VND với đồng USD và các đồng ngoại tệ khác trên thị trường chính thức và thị trường tự do, cũng như để phù hợp cơ chế quản lý tỷ giá chung trên thế giới và xu hướng giảm giá các đồng tiền này trong thời gian qua. Về tổng quát và lâu dài, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác động tốt nhằm hạn chế, giải toả tình trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường cung - cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Đối với chính sách tài khoá: Trong kế hoạch phát triển KT-XH năm 2010, tổng vốn đầu tư xã hội được xác định lên tới 41% GDP, một tỷ lệ kỷ lục trong nhiều năm qua; trong đó chi đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) chiếm khoảng 17%, bằng khoảng 22% tổng dự toán chi NSNN năm 2010. Chính việc tăng đầu tư này sẽ dẫn đến tăng nhập khẩu
2. Chính sách tiền tệ trong giai đoạn “hậu khủng hoảng”
2.1. Kinh tế toàn cầu bước vào thời kỳ “hậu khủng hoảng”
Theo dõi diễn biến tình hình kinh tế thế giới từ đầu năm đến nay cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chắc chắn không dẫn đến một cuộc đại khủng hoảng kinh tế như thời kỳ 1929-1933, mà đã có nhiều người lo lắng.Tác động của khủng hoảng tài chính đã dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng đến nay có thể tin rằng, sự suy giảm đã chạm đáy.
Thật vậy, đối với thị trường tài chính,thì đáy của khủng hoảng đã không lập lại sau ngày 10/3/2009, ngày có các chỉ số của các thị trường chứng khoán Mỹ đạt mức thấp nhất. Đối với suy giảm kinh tế thì hầu hết các nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn nhất đều tin rằng đã đến đáy: Ba nền kinh tế lớn Mỹ, EU và Nhật bản đã có dấu hiệu tăng trưởng dương; tỷ lệ thất nghiệp giảm; các nền kinh tế khác như Hàn quốc, Singapore... đang có sự phục hồi ngoạn mục. Trung quốc, ấn độ, Indonesia đang tập trung tăng tốc trở lại với đầy tham vọng của thời kỳ hậu khủng hoảng.
Có thể nói: Thế giới đang thực sự bước vào thời kỳ hậu khủng hoảng. Các quốc gia đang nỗ lực thực hiện các chiến lược riêng của mình; một cuộc chạy đua mới đang diễn ra, mặc dù tốc độ phục hồi chung của nền kinh tế toàn cầu rất chậm và phần nào đó trì trệ cho đến giữa năm tới, khi niềm tin của nhà đầu tư và tính ổn định của nền tài chính được củng cố.
2.2. Kinh tế Việt Nam đang phục hồi
Với đặc điểm của một nền kinh tế có độ mở cao, cùng với đặc điểm của một nền kinh tế mang nặng tính chất gia công, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm, nên chịu tác động rất lớn của thị trường thế giới. Tuy nền kinh tế nước ta không chịu tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính toàn cầu; hệ thống tài chính-tín dụng giữ được ổn định, nhưng sự tăng trưởng kinh tế trong nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phục hồi của thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu xét về hệ thống tài chính-tín dụng, thì thời điểm khó khăn nhất đã rơi vào quý 2/2008, còn tăng trưởng kinh tế khó khăn nhất cũng đã rơi vào quý 1/2009. Phần thời gian còn lại của năm nay và năm 2010 có thể xem là thời kỳ phục hồi, nên các chính sách kinh tế thực hiện vào thời kỳ này có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ cho giai đoạn này, mà tạo tiền đề phát triển cho giai đoạn “tăng tốc” tiếp theo.
2.3. Vai trò của chính sách tiền tệ thời kỳ sau suy giảm
Như đã nói ở trên, nền kinh tế toàn cầu đang bước vào giai đoạn hậu suy giảm và mỗi quốc gia đều đang nỗ lực trong một cuộc chạy đua mới trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Đối với nền kinh tế nước ta, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bài học được rút ra quan trọng là: Sự bất cập của Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào sự tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia công hàng xuất khẩu..., thể hiện qua các chỉ báo như: hệ số ICOR, VA/GO, cơ cấu hàng xuất khẩu, năng suất lao động, tổng yếu tố của tăng trưởng. Do đó, vấn đề trọng tâm của giai đoạn “sau suy giảm” là: Tổ chức lại nền kinh tế nhằm chuyển nền kinh tế từ tính chất gia công sang sản xuất; tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; chuyển nền kinh tế từ lệ thuộc sang tương thuộc trong quá trình hội nhập nhằm xác lập vị thế của nền kinh tế Viêt nam trong thời kỳ “hậu khủng hoảng” với sự dự báo sẽ diễn ra cuộc chạy đua nhằm thay đổi trật tự kinh tế quốc tế trong quan hệ toàn cầu và khu vực.
Dĩ nhiên, để thực hiện mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh nêu trên, nhà nước cần sử dụng cả hệ thống công cụ quản lý nhà nước về kinh tế như: hệ thống pháp luật điều chỉnh mọi hoạt động của đời sống kinh tế; công cụ quy hoạch và kế hoạch; 4 công cụ điều tiết vĩ mô; lực lượng kinh tế nhà nước, những công cụ chính sách tiền tệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với đặc điểm của nền kinh tế nước ta, được nhìn ở các giác độ tác động đến mục tiêu tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy, hiện nay và có lẽ trong nhiều năm tới, nguồn vốn cho nền kinh tế chủ yếu vẫn được huy động và phân bố qua hệ thống ngân hàng và các định chế tín dụng trung gian phi ngân hàng, mà các định chế này đều vận hành theo sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Do đó, chính sách tiền tệ có ý nghĩa quyết định đối với sự vận động của dòng vốn đầu tư và ngay cả chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, chính sách tiền tệ đóng vai trò chủ yếu, không chỉ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp về nguồn vốn lưu động, mà đang tạo điều kiện cho doanh nghiệp nào có chiến lược kinh doanh tốt có thể tận dụng để thực hiện chiến lược phát triển dài hạn, thông qua đầu tư phát triển sản phẩm mới. Chính sách tiền tệ vẫn là công cụ chủ yếu để ổn định giá cả, thực thiện chính sách ngoại thương thông qua sự điều hành chính sách tỷ giá và bảo đảm tính thanh khoản trong thanh toán quốc tế.
Tóm lại, với vai trò là công cụ chủ yếu tác động đến sự vận động của tổng cung và tồng cầu của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ của nước ta trong thời gian gần đây đã được chính phủ sử dụng một cách linh hoạt trong việc kiềm chế lạm phát và đang góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn suy giảm kinh tế hiện nay.Trong thời kỳ sau suy giảm, chính sách tiền tệ chính là công cụ để hỗ trợ các doanh nghiệp tái cấu trúc nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thông qua việc sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ tiền tệ của NHNN.
3. Các giải pháp trong thời gian tới:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ: xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc; tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc đã công bố; kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lý, trong đó mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%; kiểm soát cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.
Thứ hai: Thực hiện hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để đảm bảo khả năng thanh toán.
Thứ ba: Tiếp tục mua ngoại tệ của các nhà đầu tư trên cơ sở nguồn cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt một mặt để bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thứ tư: Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đồng Đô la Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng cân đối các mục tiêu xuất nhập khẩu, sản xuất trong nước và nhập siêu; mở rộng biên độ giao động của tỷ giá lên ±2%.
Thứ năm: Nghiên cứu trình Chính phủ về cơ chế kiểm soát luồng vốn gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ; Tiếp tục triển khai Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Để án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; Dự báo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong và ngoài nước và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các rủi ro trong trường hợp luồng vốn đảo chiều.
4.Việt Nam hồi phục cho chu kỳ mới
Đánh giá về tình hình kinh tế vĩ mô sau khi kết thúc quý I/2010, phần lớn các chuyên gia kinh tế tại Hội thảo mới đây do báo Đầu tư tổ chức, đều cho rằng: Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của chu kỳ hồi phục kinh tế. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế của doanh nghiệp trong nước đã khác: Các chính sách kích thích kinh tế đã chấm dứt; giá nguyên vật liệu trên thế giới đã xác lập mặt bằng cao; lãi suất cho vay duy trì ở mức cao từ quý IV/2009... Như vậy, nhiều doanh nghiệp đã mất đi lợi thế để có thể tạo ra lợi nhuận đột biến trong năm 2010.
Các chuyên gia cũng thống nhất rằng: Tăng trưởng là yếu tố tiên quyết để cải thiện mức sống và điều kiện của một quốc gia còn nghèo như Việt Nam. Tuy nhiên, nếu duy trì tăng trưởng dựa trên tích tụ những bất ổn vĩ mô thì sự tăng trưởng đó cũng chỉ mang tính ngắn hạn mà thôi.
Trong ngắn hạn, những bất ổn vĩ mô vẫn là một cản trở lớn cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Trong trung và dài hạn, những vấn đề cơ bản như cấu trúc nền kinh tế, sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân, khả năng kết hợp và điều hành chính sách, sẽ là những trở ngại làm chậm quá trình tăng trưởng của Việt Nam.
Có những ý kiến cho rằng tăng trưởng chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, là giai đoạn không tránh khỏi đối với những nước mới nhập vào quỹ đạo phát triển hiện đại. Song thực tiễn không hoàn toàn như vậy: Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đưa ra những kinh nghiệm hoàn toàn ngược lại. Những quốc gia đi sau, nếu biết học hỏi và rút kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển, càng không nhất định phải như vậy.
Cho đến tận bây giờ, ngay cả khi những hậu qủa của cách tăng trưởng "nóng" thời gian qua đã bộc lộ rõ ràng thì, như một vị giáo sư kinh tế nước ngoài: "thật đáng buồn là vẫn chưa thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Việt Nam thực sự muốn leo lên những nấc thang cao hơn trên chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu và khu vực".
Trong khi đó, về phía chủ quan, mặc dù Chính phủ đã có chương trình hành động với những mục tiêu rõ ràng: ưu tiên ổn định vĩ mô và tập trung tái cấu trúc thì những tín hiệu chính sách theo nghĩa các giải pháp cụ thể để tạo lập và củng cố sự ổn định vĩ mô dường như chưa đủ mạnh. Đây chính là yếu tố cốt tử để giải quyết vấn đề tăng trưởng trong ngắn hạn.
Nhưng để có sự tăng trưởng bền vững thì nền kinh tế cần nhiều hơn thế. Sự đổi mới từ nhận thức và hành động liên quan đến mô hình tăng trưởng, đến nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, đến những chiến lược dài hơi căn bản như chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Lực cản: lạm phát và cơ cấu kinh tế
Bước sang quý II/2010, áp lực lạm phát sẽ trở nên rất lớn khi nền kinh tế phải chịu tác động tiêu cực của hàng loạt vấn đề đã diễn ra trước đó. Trong đó lạm phát cao, nếu quay trở lại, có thể làm "triệt tiêu" hiệu quả và phúc lợi xã hội của tăng trưởng.
Hệ lụy do chính sách nới lỏng tài chính và "tác động kép" của các gói kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng đã được triển khai trong năm 2009 đến nay mới tác động mạnh vào việc biến động giá cả. Mặt khác, giá cả trong giai đoạn này sẽ chịu tác động dây chuyền của việc tăng giá điện, than, xăng dầu, sắt thép, cước vận chuyển... tới các ngành không trực tiếp sử dụng các sản phẩm hàng hoá đã tăng giá. Thêm vào đó, trong lúc sản xuất nội địa phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, giá nhập khẩu đang tăng mạnh do kinh tế thế giới đang phục hồi.
Từ 1.5.2010, cán bộ công chức được nâng lương tối thiểu từ sẽ có thể là lý do để thị trường tăng giá hàng hoá. Đây cũng là áp lực lớn đối với việc kiềm chế lạm phát cao có nguy cơ quay trở lại.
Trong bối cảnh nền kinh tế đã hội nhập sâu, chúng ta đang thiếu hàng rào kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế để có khả năng ngăn chặn hàng hoá dư thừa, hàng tồn kho, hàng chất lượng thấp, hàng giả đang tràn vào thị trường nội địa. Cần có ngay giải pháp để "tiếp sức" cho yêu cầu chống lạm phát, nhập siêu mà Chính phủ đang tập trung chỉ đạo trong năm nay.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, nguồn đóng góp quan trọng bậc nhất vào tăng trưởng: dầu thô, than đá, quặng sắt, cát, cà phê, gạo, cao su, thủy sản hầu như chưa có thêm bao nhiêu giá trị gia tăng. Nếu kể rộng ra hơn, dệt may, giày dép xuất khẩu cũng thuộc loại sản phẩm, tuy được gọi là chế biến nhưng vẫn "thô là chính".
Những năm gần đây, cùng với sự bùng phát về số lượng khu công nghiệp, được coi là điểm tựa cho tăng trưởng, rất nhiều vấn đề xã hội nảy sinh: nông dân mất đất, ô nhiễm môi trường, tình trạng đình công, thiếu nhà ở.. Các sản phẩm của doanh nghiệp trong Khu công nghiệp là những sản phẩm mà công đoạn Việt Nam đảm nhiệm đứng ở nấc thang thấp nhất trong chuỗi giá trị gia tăng: công đoạn gia công bằng lao động kỹ năng thấp, nên năng lực cạnh tranh kém...
* Ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm
Đơn cử như vấn đề giá cả tăng cao, cần xem xét, nhận định kỹ và sát thực tế hơn đối với giá thực phẩm và giá xăng dầu nhiên liệu là 2 vấn đề mà các Chính phủ các nước thường khó kiểm soát và loại trừ 2 nhóm hàng này ra khỏi rổ hàng thiết yếu tính toán CPI. Hoặc vấn đề phải xem xét kỹ lập luận cho rằng, gói kích thích kinh tế đã làm cho cung tiền quá lớn khi thực tế là chỉ khoảng 1/3 trong số 2 tỷ USD đã thông qua được giải ngân – như kết quả Kiểm toán Nhà nước đã công bố.
Bước sang năm 2011 – năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2011-2020, Thủ tướng Chính phủ quán triệt tinh thần chỉ đạo sát sao, thực hiện quyết liệt và đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp.
Cụ thể, với yêu cầu giảm dần đầu tư từ ngân sách nhà nước, các nguồn vốn từ ngân sách, các bộ, ngành, địa phương rà soát, khuyến khích đầu tư, sản xuất từ nguồn vốn xã hội.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, hết sức chú ý các vấn đề phúc lợi xã hội, phải rà soát để đưa ra danh mục, giải pháp cụ thể để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.
Phải tập trung nâng cao năng lực dự báo tình hình, từ đó xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm trong từng lĩnh vực, thời điểm của Chính phủ nói chung và từng ngành, địa phương nói riêng. Phải phát hiện nhanh nhạy các vấn đề mới phát sinh để chủ động xử lý, hạn chế tối đa những trường hợp biến động như giá vàng, đô la thời gian qua. Chủ động thông tin, tuyên truyền, tạo kênh thông tin thường xuyên để các Bộ trưởng đối thoại với người dân và doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là vấn đề nan giải mà các nền kinh tế đang cố gắng kiềm chế, nhưng việc xòa bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại. Do đó,tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội và phát triển bền vững. Phát huy kết quả đạt được trong những năm qua, trong thời gian tới cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: Nghiên cứu và đề xuất thực hiện các chính sách bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình sản xuất và chi phí sản xuất, cũng như quan hệ cung - cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới.
Chính vì thế đảng và nhà nước phải luôn thận trọng với các chính sách kiềm chế lạm phát như “chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ thắt chặt ” để nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong vài năm trở lại đây để kiềm chế lạm phát.doc