Xem xét áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO, 
nếu một công ty xuất khẩu một sản phẩm ở mức giá thấp hơn giá thông thường 
được bán tại thị trường trong nước, thì sản phẩm đó được coi là “phá giá”. Hiệp 
định chống phá giá của WTO nêu rõ các nguyên tắc mà các chính phủ được phép 
hoặc không được phép khi xử lý hiện tượng phá giá — điều chỉnh các hành động 
chống bán phá giá. Trong năm 2008, có 208 vụ điều tra chống bán phá giá được 
tiến hành;
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 65 trang
65 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3040 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thâm hụt 
67
Báo cáo Hội đồng Phúc thẩm, Ấn Độ - Hạn chế Định lượng, đoạn 95
68
Đoạn 1. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ39
thương mại. Nhưng cũng có những trường hợp các nước đang phát triển không muốn sử 
dụng biện pháp này vì có thể làm phát sinh chi phí xã hội. Tỷ giá giảm xuống sẽ làm giá 
trong nước trở nên cao hơn, bao gồm cả giá của những mặt hàng thiết yếu và cũng có thể 
gây ra lạm phát. Một khó khăn nữa đó là việc điều chỉnh tỷ giá này cần có thời gian. Điều 
này đặt ra câu hỏi về vấn đề thanh khoản, có nghĩa là một nước có thâm hụt thương mại 
cần phải có đủ dự trữ để có thể tiếp tục nhập khẩu các mặt hàng thực sự cần thiết cho tới 
khi trạng thái cân bằng được thiết lập trở lại. Điểm này cũng cho thấy trong các vấn đề về 
BOP, lập luận lý thuyết trừu tượng trong một số trường hợp cụ thể khó có thể giúp đưa ra 
quyết định xác đáng được.
Điểm đáng lưu ý kể từ đầu thập kỷ 70 đó là số lượng các nước tham vấn theo điều khoản 
BOP của GATT/WTO liên tục giảm xuống. Trong thập kỷ 60, 10 nước đang phát triển đã 
vận dụng điều khoản BOP của GATT.
69
Trong thập kỷ 70 và 80, chỉ có 3-4 nước. Nhưng 
hầu hết các biện pháp hạn chế nhập khẩu áp dụng đều được duy trì trong thời gian dài. 
Ấn Độ duy trì hạn chế định lượng BOP trong 37 năm, Hy Lạp 32 năm, Bangladesh 31 
năm và Pakistan 41 năm. 
Trong 5 năm đầu sau khi WTO được thành lập, ngoài các thành viên đã vận dụng trước 
đó, hầu như tất cả các thành viên có nền kinh tế chuyển đổi (Bulgaria, Cộng hoà Séc, 
Hungary, Ba Lan, Rumania và Slovakia) đều áp dụng hạn chế định lượng trong một thời 
gian ngắn vì lý do BOP theo Điều XII GATT 1994. Ukraina, cũng có nền kinh tế chuyển 
đổi, đã thông báo áp dụng biện pháp hạn chế BOP vào đầu năm 2009 và thực hiện tham 
vấn trong Uỷ ban BOP. Thực tế nhiều nước chuyển đổi vận dụng các quy định về BOP là 
rất đáng chú ý đối với Việt Nam, điều này cho thấy các nền kinh tế chuyển đổi thường 
gặp phải các điều kiện kinh tế mang tính chất gánh nặng đối với BOP. Ngoài Ukraina, 
Ecuador cũng chịu ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh tế và cũng phải áp dụng biện 
pháp hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP. Cả Ukraina và Ecuador đều gặp phải đối xử lạnh 
lùng của Uỷ ban BOP và được yêu cầu xoá bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế trong vòng 
vài tháng. Các thành viên khác thực hiện tham vấn với Uỷ ban BOP đều từng bước không 
vận dụng quy định BOP của WTO nữa. Như vậy, từ năm 2001 đến 2008, không có cuộc 
tham vấn nào về BOP trong khung khổ WTO. Nước cuối cùng thôi không vận dụng là 
Bangladesh sau khi nước này xoá bỏ biện pháp hạn chế vào năm 2008.
Trong 14 năm thực tiễn hoạt động của WTO, có thể rút ra kết luận rằng trong khung khổ 
WTO, nước tham vấn thường ít được thông cảm hơn tại Uỷ ban BOP so với thời GATT. 
Các nước áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu được yêu cầu xoá bỏ hạn chế BOP trong 
thời gian ngắn và được khuyến nghị áp dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô để giải quyết 
khó khăn BOP của mình. Trong nhiều trường hợp, thành viên bảo lưu quyền của mình, 
điều này thể hiện một thông điệp rõ ràng tới thành viên tham vấn rằng trong trường hợp 
có sự không phù hợp quy định, thì cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ được vận dụng. Như 
thảo luận ở trên, tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ đã được quyết định trong khung khổ 
Hội đồng giải quyết tranh chấp và Hội đồng phúc thẩm. Xu hướng gần đây khuyến cáo 
các nước có ý định áp dụng biện pháp hạn chế thương mại trong WTO là họ sẽ nhận 
được rất ít sự cảm thông từ Uỷ ban BOP. 
II.3.2 Các đợt Tham vấn đầy đủ quan trọng nhất giữa Uỷ ban BOP của WTO với các 
nước đang phát triển đến năm 2000
Các nước đang phát triển
69
Gần đây AITIC chuẩn bị «Nghiên cứu cơ bản» rất hữu ích về vấn đề này. Nghiên cứu có tiêu đề “Các cuộc tham vấn 
BOP trong WTO: liệu có bắt đầu phổ biến trở lại?” tại trang web: www.aitic.org40
Ấn Độ
70
Như đã nêu ở phần trên, Ấn Độ tham vấn với Uỷ ban BOP của WTO vào năm 1995 và 
1997. Dự trữ ngoại hối tương đương 6.5 tháng nhập khẩu. IMF tuyên bố BOP của Ấn Độ 
bền vững và ổn định trong trung hạn. Nước này không phải đối mặt với nguy cơ về suy 
giảm nghiêm trọng dự trữ tiền tệ. Theo IMF, biện pháp hạn chế định lượng do Ấn Độ áp 
dụng là không cần thiết để tăng dự trữ lên một mức hợp lý.
Ấn Độ duy trì hạn chế định lượng đối với hơn 2700 dòng thuế, chủ yếu là nhóm hàng tiêu 
dùng và áp dụng thông qua hệ thống giám sát cấp phép nhập khẩu rất phức tạp. 
Trong quá trình tham vấn BOP, nhiều thành viên trong Uỷ ban đã nhận xét Ấn Độ có 
điều kiện kinh tế đối ngoại ổn định, vì vậy việc tiếp tục duy trì hạn chế nhập khẩu là 
không hợp lý khi căn cứ vào các quy định BOP của WTO. Ngoài ra, thành viên cũng nêu 
rõ Ấn Độ không đưa ra cơ sở hợp lý của việc sử dụng biện pháp hạn chế định lượng, như 
vậy là không phù hợp với quy định nêu trong Cách hiểu mà các thành viên đã cam kết ưu 
tiên sử dụng biện pháp theo giá. Đa số các nước đều yêu cầu Ấn Độ xoá bỏ ngay lập tức 
các biện pháp hạn chế nhập khẩu duy trì theo Điều XVIII:B GATT 1994.
Trong đợt tham vấn năm 1997, Ấn Độ đề xuất từng bước xoá bỏ hạn chế trong 9 năm, 
sau đó điều chỉnh xuống còn 7 năm, rồi 5 năm. Đề xuất này không được một số thành 
viên Uỷ ban chấp nhận, các thành viên này bảo lưu quyền của mình trong WTO. Hoa Kỳ 
vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp và thắng kiện. Ấn Độ phải xoá bỏ hạn chế nhập 
khẩu áp dụng vì lý do BOP vào năm 2000.
Sri Lanka 
Trong tài liệu cung cấp phục vụ tham vấn BOP với Sri Lanka trong năm 1995, IMF báo 
cáo rằng dự trữ chính thức của nước này tăng lên mức 5 tháng nhập khẩu. Thâm hụt cán 
cân tài khoản vãng lai tăng cao lên mức 7% GDP. Tình hình tài khoá tiếp tục đáng lo 
ngại. Thâm hụt ngân sách, một phần là do cuộc nội chiến tiếp tục căng thẳng, đã tăng lên 
tới mức 9,5% GDP.
Sri Lanka duy trì hạn chế nhập khẩu đối với 200 mặt hàng vì lý do an ninh quốc gia, sức 
khoẻ cộng đồng, đạo đức cộng đồng và môi trường. Một số hàng lương thực thực phẩm 
bị hạn chế định lượng nhập khẩu vì lý do BOP đã bị nhiều thành viên phê phán do không 
áp dụng hình thức biện pháp theo giá. 
Uỷ ban BOP đi đến kết luận là “hầu hết các thành viên không nhận thấy nguy cơ suy 
giảm dự trữ quốc tế của Sri Lanka theo như quy định nêu tại đoạn 9 Điều XVIII, cũng 
như không có dấu hiệu tình hình cán cân thanh toán nghiêm trọng như nêu tại khoản 3 
trong Cách hiểu… Uỷ ban nhận định rằng, ngay cả khi có khó khăn về cán cân thanh 
toán, thì với tác động hạn chế của biện pháp cấp phép nhập khẩu đối với hàng nông 
nghiệp nói chung và với các cân thương mại tổng thể, biện pháp này khó có thể giải 
quyết được khó khăn. Trên cơ sở nhận định trên, và căn cứ trên các quy định của GATT 
1994, Uỷ ban khuyến nghị Sri Lanka không vận dụng quy định của Điều XVIII:B”.
71
70
Một số khía cạnh của các tham vấn BOP của Ấn Độ được mô tả chi tiết trong phần trước của báo cáo này.
71 WT/BOP/R/841
Trong năm 1998, Sri Lanka chấm dứt vận dụng Điều XVIII:B GATT 1994 và xoá bỏ 
toàn bộ các hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP.
72
Nigeria
Nigeria tham vấn BOP lần đầu với Uỷ ban BOP dưới thời GATT vào năm 1984, sau đó 
tiếp tục tham vấn trong khung khổ WTO vào 1996, 1997 và 1998. 
Theo IMF, tình hình kinh tế của Nigeria xấu đi đáng kể từ năm 1990. “Trong giai đoạn 
1990-1993, thặng dư cán cân thương mại đã giảm hơn 1 nửa và cán cân tài khoản vãng 
lai đã chuyển từ thặng dư gần 10% GDP sang thâm hụt 3%. Đồng thời, tổng dự trữ giảm 
xuống từ tương đương 5 tháng nhập khẩu xuống còn khoảng 1 tháng… Thâm hụt ngân 
sách của Chính phủ liên bang tăng lên 6 lần trong giai đoạn 1990-1993.” Nợ nước ngoài 
lên tới “31 tỷ đôla Mỹ, tương đương 91% GDP vào cuối năm 1994… tình hình kinh tế 
đối ngoại dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến bất thường và dự trữ chính thức sẽ ở mức khá thấp 
trong nhiều năm tiếp theo.” Mặc dù có tình hình kinh tế đối ngoại rất xấu như vậy nhưng 
IMF vẫn đề xuất “thực hiện dứt khoát các chính sách kinh tế vĩ mô mạnh, chứ không nên 
áp dụng hạn chế thương mại… để cải thiện tình hình một cách bền vững. Cán bộ Quỹ 
khuyến khích thống nhất tỷ giá, và thông qua lộ trình xoá bỏ hạn chế về tỷ giá.”
73
Thành viên Uỷ ban đặt câu hỏi về sự phù hợp của việc duy trì biện pháp cấm nhập khẩu 
để giải quyết khó khăn BOP. Biện pháp cấm nhập khẩu được áp dụng với ngô, lúa miến, 
kê, bột lúa mỳ, dầu thực vật, ba-rít và ben-tô-nít, thạch cao, các vật dụng gia đình bằng 
nhựa, lốp cũ, lốp đắp lại, sợi dệt may các loại và các sản phẩm dệt may, ôtô và xe máy có 
tuổi đời trên 8 năm, đồ gỗ và máy chơi trò chơi, là không phù hợp với quy định của 
WTO. Việc nhập khẩu bột lúa mỳ và thạch cao bị hạn chế theo Điều XIX của GATT, còn 
hạn chế đối với ôtô và máy chơi trò chơi là theo Điều XX. Hạn chế định lượng không 
được áp dụng để kiểm soát tổng mức nhập khẩu chung và Nigeria không chứng minh 
được lý do tại sao biện pháp theo giá không đủ để xoá bỏ bất chấp về BOP và không tạo 
ra tác động đối với thương mại. “Ngoài ra, phần lớn nhập khẩu của Nigeria bao gồm hoá 
chất, hàng chế tạo, máy móc và thiết bị vận tải trong khi đó biện pháp cấm nhập vì lý do 
cán cân thanh toán lại chỉ tập trung áp dụng với một số ít nhóm hàng thuộc các lĩnh vực 
được bảo hộ có lựa chọn… biện pháp cấm nhập đã vượt quá mức cần thiết để giải quyết 
bất cập về cán cân thanh toán”
74
.
Trong phiên tham vấn tiếp theo Uỷ ban đi đến kết luận là “biện pháp cấm nhập của 
Nigeria không còn phù hợp với Điều XVIII:B và Cách hiểu” và yêu cầu Nigeria thông 
báo các quyết định có liên quan cho Uỷ ban. Thành viên cũng bảo lưu quyền theo GATT 
1994.
75
Trong phiên tham vấn tiếp theo Nigeria được Uỷ ban yêu cầu đưa ra lộ trình xoá 
bỏ các biện pháp không phù hợp với WTO.
76
Trong đợt tham vấn nối tiếp, Nigeria đưa ra lộ trình 8 năm xoá bỏ các hạn chế và không 
được các thành viên chấp nhận. Phiên tháng 2 và tháng 7 năm 1997 cũng không thành 
công, vì vậy Chủ tịch Uỷ ban báo cáo các quan điểm khác nhau trong Uỷ ban lên Đại Hội 
đồng.
77
Trường hợp này không cần vận dụng điều khoản giải quyết tranh chấp trong 
72 WT/BOP/R/44
73 WT/BOP/R/13
74 WT/BOP/R/13
75 WT/BOP/R/18
76 WT/BOP/R/25
77 WT/BOP/R/35 và 4142
WTO, vì Nigeria đã thông báo với Uỷ ban là nước này xoá bỏ mọi hạn chế vào trước 
1/01/2000.
78
Tunisia
Trong đợt tham vấn với Tunisia vào 6/1996, IMF báo cáo rằng trong năm 1994 nước này 
xảy ra thâm hụt tài khoá chung ở mức 3% GDP, mức này tăng lên 4,2% trong năm tiếp 
theo. Thâm hụt ngân sách đã đạt đến mức 5,3% GDP. Trong năm 1994, thâm hụt cán cân 
vãng lai, không tính viện trợ, thu hẹp xuống còn 2,9% GDP, từ mức 7,7% trong năm 
1993. Theo ước tính, thâm hụt tài khoản vãng lai đã tăng lên mức 4,5% GDP trong 1995. 
Cán cân tổng thể BOP đạt thặng dư 2% GDP trong 1994 và giảm xuống còn 0,3% GDP 
năm 1995. Tổng dự trữ chính thức tính đến cuối năm 1995 giảm xuống mức tương đương 
2,6 tháng nhập khẩu và ước tính tương đương 2 tháng nhập khẩu vào thời điểm cuối 
tháng 4/1996. Báo cáo của IMF cũng phân tích tình hình cải cách kinh tế của Tunisia, và 
cuối cùng Quỹ khuyến khích chính quyền xoá bỏ ngay tất cả các biện pháp hạn chế 
thương mại vì lý do BOP.
Tại cuộc họp vào 6/1996, thành viên Uỷ ban ghi nhận tình hình BOP của nước này có 
khả năng biến động lớn, nhưng cũng nêu rõ rằng các biện pháp hạn chế định lượng với 
ôtô nhập khẩu không dựa vào giá và cũng không được áp dụng nhằm kiểm soát tổng mức 
nhập khẩu chung.
79
Trong phiên tiếp theo vào 6/1997, IMF báo cáo dự trữ của nước này đang có xu hướng 
tăng lên (3,2 tháng nhập khẩu) và thâm hụt tài khoản vãng lai đối ngoại đã thu hẹp xuống 
còn 3% GDP trong năm 1996, thể hiện sự cải thiện về cán cân thương mại cũng như dịch 
vụ. IMF tiếp tục khuyến nghị chính quyền xoá bỏ ngay hạn chế định lượng vì lý do BOP.
Uỷ ban hoan nghênh kế hoạch xoá bỏ biện pháp của Tunisia, bao gồm 4 giai đoạn tự do 
hoá, bắt đầu từ 1/7/1997 và kế thúc vào 31/12/2000. Trên cơ sở kế hoạch này, Uỷ ban đã 
khuyến nghị lên Đại Hội đồng như sau “…bằng việc tuân thủ kể hoạch đề ra, Tunisia 
được coi là tuân thủ với các nghĩa vụ của thành viên này trong GATT 1994.”
80
Tunisia 
xoá bỏ tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu còn lại trước 31/12/2000 đúng như kế 
hoạch đề ra.
81
Pakistan
Pakistan là thành viên thường xuyên tham vấn trong Uỷ ban BOP, lần tham vấn đầu tiên 
là vào 1960. Tại phiên 4/1997 tại Uỷ ban BOP của WTO, đại diện IMF ghi nhận tình 
hình BOP khá nhạy cảm của nước này. Thâm hụt tài khoản vãng lai tại mức 6,8% GDP, 
phản ánh mức thâm hụt thương mại lớn. Mức dự trữ chính thức tại thời điểm cuối tháng 
3/1997 tương đương 3,6 tuần nhập khẩu. Thâm hụt ngân sách đứng ở mức 4,8% GDP.
Tại thời điểm tham vấn, Pakistan duy trì các biện pháp hạn chế nhập khẩu (QR) và thuế 
đặc biệt đối với 68 mặt hàng với lý do sức khoẻ, an toàn, đạo đức xã hội hoặc an ninh
82
.
Thành viên của Uỷ ban ghi nhận rằng Pakistan phải đối mặt với vấn đề nghiêm trọng về 
78 WT/BOP/R/47
79 WT/BOP/R/14
80 WT/BOP/R/31
81 WT/BOP/N/58
82
Diện mặt hàng gồm : thịt, stearin của cây cọ, lá thuốc lá, thuốc lá điều, hoá chất, giấy và sản phẩm giấy, một số máy 
móc, ổ bi, nồi hơi kim loại, sản phẩm điện, xe an ninh có vũ trang, thuyền và thiết bị y tế. 34 sản phẩm được phép nhập 
khẩu nếu thoả mãn các yêu cầu về an toàn và sức khoẻ43
BOP và nhất trí về cơ sở hợp lý để sử dụng các biện pháp phù hợp với Điều XVIII:B 
GATT 1994. Các thành viên yêu cầu Pakistan thông báo các mặt hàng thuộc đối tượng 
hạn chế theo Điều XVIII:B
83
.
Uỷ ban thực hiện tham vấn với Pakistan các lần tiếp theo vào 11/1997, 5/2000 và 
11/2000. Tình hình BOP của nước này vẫn có nguy cơ cao, dự trữ đầu năm 2000 chỉ ở 
mức tương đương hơn 1 tháng nhập khẩu. Tuy nhiên, Uỷ ban yêu cầu Pakistan đưa ra kế 
hoạch xoá bỏ biện pháp hạn chế BOP và thực thi kế hoạch này. Vào 12/2001 Pakistan 
thông báo rằng nước này sẽ xoá bỏ biện pháp hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP trước 
6/2002.
84
II.3.3 Tham vấn đầy đủ với các thành viên LDC
Trong WTO, chỉ có duy nhất 1 trường hợp tham vấn của nước thành viên là LDC, đó là 
Bangladesh, vốn được bắt đầu từ thời GATT trong những năm 70. Do Bangladesh là 
LDC nên đối xử với thành viên LDC sẽ ít có ý nghĩa đối với Việt Nam, vì vậy phần này 
sẽ không cần đi sâu vào chi tiết của vụ việc. Tuy nhiên, đáng chú ý là trong 2 lần tham 
vấn cuối cùng vào 2004 và 2007, Uỷ ban cũng gây sức ép với cả thành viên là LDC buộc 
nước này xây dựng kế hoạch xoá bỏ hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP và thực hiện đúng 
theo kế hoạch này.
85
Kết quả là, vào 4/2007, Bangladesh đã thông báo nước này sẽ xoá 
bỏ hạn chế nhập khẩu đối với muối và gà con trước 31/12/2008.
86
II.3.4 Tham vấn với các nền kinh tế chuyển đổi theo Điều XII GATT 1994 đến năm 2000
Trong đầu thập kỷ 90 và giai đoạn 1995-2000, tất cả các thành viên có nền kinh tế 
chuyển đổi đều áp dụng hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP do các thành viên này gặp phải 
bất cập nghiêm trọng về BOP. Các phiên tham vấn cho thấy nguyên nhân chính làm cán 
cân thanh toán xấu đi đều xuất phát từ các khó khăn hay diễn biến gắn kết chặt chẽ với 
quá trình chuyển đổi kinh tế tại các nước này. Các vấn đề này bao gồm: sụt giảm thương 
mại truyền thống do Hội đồng Tương trợ Kinh tế (CMEA) bị giải tán và và sự cần thiết 
phải định hướng lại quan hệ thương mại với các thị trường có đồng tiền chuyển đổi; sự 
sụt giảm mạnh của GDP; sự cần thiết phải điều chỉnh lại cơ cấu cơ bản của nền kinh tế và 
thương mại; thương mại gia tăng và thâm hụt cán cân vãng lai; dự trữ quốc tế sụt 
giảm;cán cân vãng lai thiếu khả năng chuyển đổi, thâm hụt ngân sách lớn; nợ nước ngoài 
tăng lên; tư nhân hoá; thành lập cơ chế thị trường; tự do hoá; nới lỏng quy định quản lý 
nhà nước; tái cơ cấu hệ thống bảo hiểm xã hội; lạm phát cao; bất ổn tỷ giá; nợ nước ngoài 
tăng lên..v.v…
Chính vì vậy, tất cả các nền kinh tế chuyển đổi là thành viên của GATT/WTO đều áp 
dụng hạn chế nhập khẩu theo Điều XII GATT trong giai đoạn này, và hình thức chủ yếu 
của biện pháp là phụ thu nhập khẩu nhằm ngăn chặn nguy cơ, hoặc chấm dứt tình trạng 
suy giảm dự trữ.
Uỷ ban BOP yêu cầu các nước tham vấn phải đảm bảo biện pháp áp dụng phù hợp với 
quy định của WTO và xoá bỏ ngay khi có thể. Trong tất cả các trường hợp này, IMF đều 
có chung quan điểm là biện pháp hạn chế nhập khẩu không phải là giải pháp phù hợp và 
nhấn mạnh tính bền vững của các chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn và cải các cơ cấu 
nhằm giải quyết vấn đề cơ cấu của BOP. Do các biện pháp hạn chế đều được xoá bỏ 
83 WT/BOP/R/27
84 WT/BOP/R/51, 56 và WT/BOP/N/59
85 WT/BOP/R/76 và 86
86 WT/BOP/N/64 và WT/BOP/R/8844
trong thời gian tương đối ngắn (1 đến 2 năm), nên không xảy ra trường hợp nào phải vận 
dụng thủ tục giải quyết tranh chấp.
Trường hợp của Việt Nam tương tự như các nền kinh tế chuyển đổi ở châu Âu, nhưng 
phức tạp hơn vì Việt Nam có mức độ phát triển thấp hơn so với các nước Trung và Đông 
Âu trong những năm 90. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường 
xã hội chủ nghĩa nên gặp phải nhiều rào cản như đã nêu ở trên, ngoài ra còn có những 
khó khăn liên quan đến trình độ của một nền kinh tế đang phát triển nữa. Vì các lý do 
này, điều quan trọng là phải nghiên cứu kinh nghiệm của các nền kinh tế châu Âu chuyển 
đổi trong WTO nói chung cũng như trong quan hệ với tham vấn BOP nói riêng vì nhiều 
khả năng là việc vận dụng quy định về BOP của một nền kinh tế đang phát triển và 
chuyển đổi có thể được đúc rút ra từ kinh nghiệm tham vấn với các nền kinh tế chuyển 
đổi Trung và Đông Âu.
Slovakia
Cộng hòa Slovakia tham vấn với Uỷ ban BOP của GATT và sau đó là WTO kể từ năm 
1994. Quá trình chuyển đổi kinh tế của Slovakia khá dài và nhiều chông gai, với nhiều 
giai đoạn thăng trầm, điều này giải thích cho việc nước này phải áp dụng hạn chế nhập 
khẩu vì lý do BOP cho tới tận năm 2001.
Trong năm 1994, tình hình kinh tế của đất nước khá nghiêm trọng do đất nước SécSlovakia bị tách thành 2 nước. GDP giảm xuống, cán cân vãng lai và thương mại thâm 
hụt ở mức lớn, dự trữ rất thấp (tương đương dưới 1 tháng nhập khẩu) là những đặc trưng 
cơ bản. Vào 3/1994 Slovakia áp dụng biện pháp phụ thu nhập khẩu tạm thời ở mức 10% 
đối với hàng tiêu dùng và thực phẩm, chiếm khoảng 13% tổng nhập khẩu. Tại Uỷ ban 
BOP, Slovakia bị lên án là đã không xoá bỏ phụ thu vào cuối năm 1994, như cơ quan có 
thẩm quyền của nước này đã hứa. Sau khi áp dụng phụ thu, tình hình kinh tế của đất nước 
được cải thiện đáng kể. IMF báo cáo GDP tăng 5%, dự trữ ngoại hối tăng gấp 4 lần, lạm 
phát giảm một nửa còn 12%, thâm hụt ngân sách giảm bớt 5% xuống còn 2,5% GDP. 
Tình hình kinh tế tiếp tục diễn biến thuận lợi trong năm 1995, nhưng chính quyền 
Slovakia quyết định duy trì phụ thu vì họ cho rằng tình hình BOP vẫn nhạy cảm. Uỷ ban 
BOP đưa ra kết luận rằng rất tiếc vì Slovakia không thực hiện đúng theo dự kiến đã tuyên 
bố là sẽ xoá bỏ phụ thu vào cuối năm 1994 và nhấn mạnh rằng theo quy định có liên quan 
của GATT/WTO, biện pháp thương mại chỉ được sử dụng trong trường hợp có khó khăn 
nghiêm trọng về BOP. Uỷ ban yêu cầu Slovakia “xoá bỏ phụ thu nhập khẩu vào cuối năm 
1995, nếu có thể, nhưng trong mọi trường hợp phải xoá bỏ trước 30/6/1996”
87
.
Tuy nhiên, Slovakia không xoá bỏ phụ thu vào 30/6/1996, mà chỉ hạ mức phụ thu xuống 
còn 7,5%. Trong năm 1995, tình hình kinh tế vĩ mô được cải thiện; theo IMF, dự trữ 
chính thức tăng lên tương đương 4,4 tháng nhập khẩu. Nhân tố tiêu cực còn lại là thâm 
hụt cán cân vãng lai với mức 8% GDP phản ánh mức tăng trưởng nhập khẩu ở mức cao 
trong khi xuất khẩu không tăng. Tại phiên tham vấn BOP 6/1996, IMF thúc giục chính 
quyền Slovakia loại bỏ phụ thu và nhấn mạnh rằng “chính sách tài chính, chứ không phải 
là phụ thu nhập khẩu, mới là giải pháp phù hợp để đối phó với sự mất cân đối cán cân 
thành toán”
88
 Trong kết luận của mình “Uỷ ban ghi nhận… rằng mặc dù mức dự trữ đã .
được cải thiện, nhưng Slovakia vẫn không thực hiện cam kết đã đưa ra trong WTO. Uỷ 
ban nhắc lại một lần nữa rằng biện pháp cán cân thanh toán là biện pháp tạm thời và rằng 
biện pháp này không được dùng để phục vụ mục tiêu thu ngân sách hoặc bảo hộ. Uỷ ban 
87 WT/BOP/R/4
88 WT/BOP/R/15, Ý kiến của IMF45
thể hiện sự lo ngại về việc tiếp tục sử dụng phụ thu nhập khẩu. Ngoài ra, Uỷ ban nêu rõ 
quan điểm phản đối áp dụng phụ thu một cách có chọn lọc”
89
.
Trong năm 1996 và 1997 thâm hụt tài khoản vãng lai của Slovakia trở nên trầm trọng 
hơn, vượt mức 9% GDP và dự trữ ngoại hối chính thức giảm xuống mức tương đương 3 
tháng nhập khẩu. Vào 1/1997 Slovakia xoá bỏ phụ thu nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng 
nhưng vào 7/1997 lại áp dụng phụ thu mới “nhằm giải quyết khó khăn BOP và dự trữ 
ngoại hối thấp”
90
 Phụ thu 7% được áp dụng với tất cả các mặt hàng ngoại trừ với một số .
sản phẩm nông nghiệp, nguyên vật liệu thô (than nâu, năng lượng, quặng sắt, khí tự nhiên 
và một số nguyên liệu cho ngành dệt may). Trong cuộc họp tháng 10 và tháng 12 năm 
1997 của mình, Uỷ ban BOP chấp nhận kế hoạch mà chính quyền Slovakia đưa ra rằng sẽ 
xoá bỏ phụ thu vào 1/10/1998 và tuyên bố rằng “Cộng hòa Slovakia đã tuân thủ theo các 
nghĩa vụ của mình trong GATT 1994, nếu như thành viên này tuân thủ đúng theo lộ trình 
điều chỉnh”. IMF cho rằng không nên áp dụng phụ thu và nhấn mạnh “phụ thu không thể 
thay thế cho việc thắt chặt tài khoá phù hợp để giải quyết thâm hụt đối ngoại ở mức bền 
vững…”
91
.
Nhưng câu chuyện về tham vấn BOP của Slovakia chưa chấm dứt ở đây. Vào 1/10/1998, 
Slovakia đã xoá bỏ phụ thu đưa vào áp dụng từ 1997, nhưng từ 1/6/1999 thành viên này 
lại áp dụng phụ thu nhập khẩu mới ở mức 7% và áp dụng đối với 74% tổng nhập khẩu. 
Phụ thu này không áp dụng với nguyên vật liệu cơ bản, sản phẩm dược, công nghệ phục 
vụ đầu tư để không ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài. Phụ thu được áp dụng đối với mọi 
đối tác thương mại, bao gồm cả các thành viên của liên minh quan thuế và FTA. Lý do áp 
dụng phụ thu mới đó là vì thâm hụt cán cân vãng lai đã vượt mức 10% GDP, cán cân 
tổng thể thâm hụt ở mức 60% GDP và dự trữ ngoại hối chính thức giảm xuống mức 
tương đương 2,5 tháng nhập khẩu. Tại cuộc họp 9/1999 của Uỷ ban BOP “Thành viên 
cảm thấy kinh nghiệm của Slovakia thể hiện rõ rằng biện pháp tại biên giới không thể 
giải quyết được bất cập về cán cân thanh toán mà cần có một loạt các biện pháp kinh tế vĩ 
mô để khắc phục yếu điểm của nền kinh tế”. IMF giữ nguyên quan điểm như đã nêu từ 
lần trước và cho rằng không nên áp dụng phụ thu.
92
Lần tham vấn cuối cùng của Slovakia tại Uỷ ban BOP là vào 9/2000, tại đây đại diện cả 
nước này tuyên bố sẽ xoá bỏ phụ thu vào cuối năm 2000.
93
Hungary
Sau 4-5 năm kể từ khi chuyển đổi kinh tế, nền kinh tế Hungary rơi vào tình trạng khá 
nghiêm trọng. Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên gần 10% GDP trong năm 1993 và 
1994, chủ yếu là do thâm hụt thương mại rất lớn, lên tới mức 9% GDP. Thâm hụt ngân 
sách ở mức 6% GDP, trong khi dự trữ ngoại hối giảm xuống còn 5,7 tháng nhập khẩu. 
Đầu năm 1995, vấn đề trở nên xấu hơn nữa. Vào 3/1995, Chính phủ Hungary áp dụng các 
biện pháp kinh tế mạnh mẽ nhằm giải quyết bất cấp. Các biện pháp này bao gồm áp dụng 
phụ thu nhập khẩu ở mức 8% có hiệu lực kể từ 20/3. Thông báo của Hungary gửi WTO 
nêu rõ tình hình BOP xấu đi “tạo ra nguy cơ lớn về sụt giảm dự trữ ngoại hối”. Phụ thu
được áp dụng với nhập khẩu từ tất cả các nước và với hầu hết các mặt hàng khác nhau, 
89 WT/BOP/R/15
90 WT/BOP/N/46
91 WT/BOP/R/40
92 WT/BOP/48
93 WT/BOP/R/5246
chỉ có năng lượng cơ bản và máy móc phục vụ đầu tư được miễn trừ.
94
Ngoài ra, đồng 
tiền Hungary được phá giá 9% đi kèm với áp dụng chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh. 
Tại phiên tham vấn 6/1995, Uỷ ban BOP ghi nhận khó khăn BOP của Hungary và nêu rõ 
mong muốn “rằng vào lần tham vấn kế tiếp, sẽ tổ chức vào mùa hè 1996, Hungary sẽ có 
thể đánh giá hết được ảnh hưởng của phụ thu đối với cán cân thanh toán và làm rõ hơn ý 
định thay thế phụ thu bằng biện pháp cơ cấu sử dụng trong dài hạn. Uỷ ban yêu cầu 
Hungary trình bày lộ trình giảm và xoá bỏ phụ thu nhập khẩu tại phiên tham vấn kế 
tiếp.”
95
Tại phiên tham vấn tiếp theo vào 9/1996, đại diện IMF tuyên bố rằng “chương trình điều 
chỉnh thực hiện từ đầu 1995 đã có những kết quả quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô”. 
Dự trữ chính thức tăng lên mức 9,5 tháng nhập khẩu vào cuối 1995. Uỷ ban kết luận rằng 
không còn nguy cơ lớn làm sụt giảm dự trữ tiền tệ của Hungary nữa, theo Điều XII:2(a) 
GATT 1994…”
96
Vào 1/7/1997 Hungary xoá bỏ phụ thu.
Cộng hoà Séc
Theo báo cáo của IMF, thâm hụt cán cân vãng lai đã tăng lên 5,5% GDP trong năm 1996, 
và tiếp tục tăng lên 10% GDP vào 3/1997, phản ánh tình trạng nhu cầu nhập khẩu tăng 
mạnh trong khi xuất khẩu không tăng. Dự trữ chính thức ở mức 3,5 tháng nhập khẩu vào 
cuối tháng 5 năm 1997. Vào 4/1997, để giải quyết tình trạng tài khoản kinh tế đối ngoại 
xấu đi liên tục, chính quyền Séc áp dụng cơ chế đặt cọc nhập khẩu, áp dụng với hàng tiêu 
dùng và thực phẩm (chiếm khoảng 30% tổng nhập khẩu) và yêu cầu đặt cọc 20% giá trị 
nhập khẩu vào tài khoản 6 tháng không được hưởng lãi. “Cơ chế này dự kiến sẽ giúp 
ngăn chặn nguy cơ lớn làm suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối”.
97
Uỷ ban đón nhận cơ chế đặt cọc nhập khẩu của Séc một cách tiêu cực. “Đa số thành viên 
của Uỷ ban lập luận rằng biện pháp này không phù hợp, đặc biệt là phạm vi áp dụng chỉ 
mang tính chọn lọc, được thiết kết không phù hợp để giải quyết mất cân đối về kinh tế vĩ 
mô. Thành viên thúc giục chính quyền Séc xoá bỏ biện pháp này…”
98
Do không bền 
vững, nên vào 21/8/1997, tức là chỉ 5 tháng sau khi áp dụng, cơ chế đặt cọc nhập khẩu đã 
bị bãi bỏ.
99
Bulgary
Do có sự mất cân đối trong quá trình chuyển đổi kinh tế, Bulgary đã áp dụng phụ thu 
nhập khẩu tạm thời ở mức 3% trước khi gia nhập WTO, ngay từ 8/1993 “để ngăn chặn 
nguy cơ lớn làm suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối. Phụ thu này được giảm xuống
và sau đó được xoá bỏ vào 1/1/1996. Sau khi gia nhập WTO, Bulgary áp dụng phụ thu 
nhập khẩu mới với mức 6% vào 4/6/1996 nhằm bảo vệ cán cân thanh toán của mình. Phụ 
thu được áp dụng chủ yếu với hàng tiêu dùng và hàng bán thành phẩm, chiếm khoảng 
50% tổng nhập khẩu. Phụ thu được giảm xuống 4% vào 7/1997, xuống 2% vào 7/1998 và 
xoá bỏ vào 1/1999.
94 WT/BOP/N/2
95 WT/BOP/R/3
96 WT/BOP/R/17
97 WT/BOP/N/19
98 WT/BOP/R/33
99 WT/BOP/R/3747
Bulgary áp dụng hạn chế nhập khẩu do gặp phải vấn đề BOP nghiêm trọng. Theo IMF, 
BOP có cán cân tổng thể thâm hụt lớn, chủ yếu là do tình trạng rút vốn và nghĩa vụ trả nợ 
nước ngoài lớn. Dự trữ chính thức giảm xuống dưới 1 tháng nhập khẩu năm 1996. 
Tại cuộc họp 7/1997, Uỷ ban BOP ghi nhận tình hình BOP đáng lưu ý của Bulgary và 
cho rằng việc vận dụng Điều XII GATT 1994 là có cơ sở. Uỷ ban hoan nghênh biện pháp 
phụ thu là minh bạch, không phân biệt đối xử, dựa theo giá và ít ngăn cản thương mại 
nhất. Uỷ ban quyết định khuyến nghị lên Đại Hội đồng rằng Bulgary tuân thủ theo các 
nghĩa vụ của mình trong WTO.
100
Trong lần tham vấn kế tiếp và lần cuối cùng, Uỷ ban BOP đánh giá cao việc Bulgary thực 
hiện đúng cam kết về cải cách và tự do hoá và hoan nghênh quyết định của Bulgary xoá 
bỏ biện pháp hạn chế nhập khẩu trước 18 tháng so với dự kiến. IMF báo cáo rằng dự trữ 
chính thức tăng trở lại mức tương đương 4,8 tháng nhập khẩu và tài khoản vãng lai đã đạt 
thặng dự lớn (4.3% GDP) vì nhập khẩu đã giảm xuống do chịu tác động khủng hoảng.
101
Rumany
Trong năm 1997-98, tình hình kinh tế Rumany xấu đi đáng kể. Theo số liệu của IMF, 
GDP thực đã giảm xuống khoảng 5,5% trong năm 1998, so với mức tăng 6,5% trong năm 
1997. Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên mức 7,5% GDP, phản ánh việc đồng leu tăng 
giá và cạnh tranh gia tăng từ các nhà xuất khẩu Đông Á. Tổng dự trữ ngoại hối giảm 
xuống còn 2,2 tháng nhập khẩu vào cuối 1998. Thâm hụt chung của chính phủ khoảng 
4% GDP năm 1998. Theo IMF, tình hình kinh tế của Rumany là hậu quả của phối hợp 
chính sách tài chính thiếu cân đối, và sự yếu kém mang tính cơ cấu trong khu vực doanh 
nghiệp và ngân hàng. Trên cơ sở đó, IMF khuyên không nên áp dụng phụ thu nhập 
khẩu
102
.
Vào 10/1998, Rumany áp dụng phụ thu nhập khẩu 6% “nhằm giải quyết khó khăn về cán 
cân thanh toán”. Phụ thu được áp dụng với nhập khẩu từ mọi nguồn và đối với tất cả các 
mặt hàng ngoại trừ năng lượng, dược phẩm và hàng hoá đầu tư, chiếm khoảng 60% tổng 
kim ngạch nhập khẩu.
103
Trong đợt tham vấn 2/1999, các thành viên tỏ ra thông cảm với khó khăn kinh tế cũng 
như mức độ nghiêm trọng của cán cân thanh toán của Rumany. Nhưng thành viên cũng 
yêu cầu làm rõ phạm vi áp dụng của phụ thu tại sao không mở rộng hơn. “Thành viên 
khuyến nghị Rumany thực hiện giải pháp bền vững để xử lý khó khăn cán cân thành toán 
thông qua cải cách căn bản về kinh tế vĩ mô, bao gồm thắt chặt chính sách tài khoá, áp 
dụng chính sách tỷ giá phù hợp và đẩy nhanh tái cơ cấu kinh tế. Uỷ ban nhận thấy 
Rumany thực hiện đúng theo nghĩa vụ tại Điều XII GATT 1994.”
104
Tình hình kinh tế của Rumany được cải thiện trong năm 1999. GDP tăng ước tính khoảng 
1-1,5% trong nửa đầu năm 2000, thâm hụt tài khoản vãng lai giảm xuống còn 1,2% GDP, 
tổng dự trữ ngoại hối tăng lên mức 2,7 tháng nhập khẩu, thâm hụt ngân sách vào khoảng 
3,5%. Tại cuộc họp 9/2000, Uỷ ban hoan nghênh việc nước này tuân theo đúng lộ trình 
xoá bỏ biện pháp và “đánh giá cao việc chấm dứt áp dụng phụ thu nhập khẩu vào cuối 
năm mặc dù có những vấn đề nhất định. Uỷ ban nhất trí rằng Rumany đã tuân thủ hoàn 
100 WT/BOPIR/34
101 WT/BOP/R/43
102 WT/BOP/R/45, Phụ lục 2, Ý kiến của đại diện IMF
103 WT/BOP/N/42
104 WTO/BOP/R/4548
toàn các nghĩa vụ nêu tại Điều XII GATT 1994”.
105
Rumany chấm dứt áp dụng phụ thu 
vào 1/1/2001.
106
Ba Lan
Ba Lan không tham vấn với Uỷ ban BOP vì vào 1/1/1996 nước này chấm dứt áp dụng 
phụ thu nhập khẩu 5% được áp dụng lần đầu vào 12/1992 dưới thời GATT 1947. Phụ thu 
được áp dụng “nhằm ngăn chặn nguy cơ lớn làm sụt giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối 
của Ba Lan” lúc đó tương đương 5 tháng nhập khẩu.
107
II.3.5 Các đợt tham vấn gần đây
Trong giai đoạn 2001-2008, không có cuộc tham vấn nào tại Uỷ ban BOP. Không nước 
nào vận dụng Điều XII hoặc XVIII:B. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế và tài chính đã 
buộc Ecuador và Ukraina phải vận dụng các điều khoản này trong thời gian gần đây. 
Phản hồi từ phía các thành viên có ảnh hưởng trong WTO khá nhanh và rõ ràng, sự 
nương nhẹ đối với biện pháp hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP đã bị thu hẹp lại. Cả 2 
nước này đều có nguy cơ bị vận dụng điều khoản về giải quyết tranh chấp, và được yêu 
cầu xoá bỏ hoặc thay đổi biện pháp hạn chế ngay lập tức.
Ecuador
Từ 8/2008, môi trường kinh tế của Ecuador xấu đi rõ rệt. Giá dầu giảm, xuất khẩu phi 
dầu và kiều hối do lao động gửi về nước bị ảnh hưởng tiêu cực. Chế độ tiền tệ đôla hoá
của Ecuador làm hạn chế tác dụng của chính sách tiền tệ nhằm đối phó với các cú sốc 
này. Dự trữ chính thức giảm xuống còn 2,2 tháng nhập khẩu vào 4/2009. GDP thực tế dự 
kiến sẽ giảm đi 2% trong 2009. IMF dự báo tài khoản đối ngoại sẽ dịch chuyển từ thặng 
dư 2,5% năm 2008 sang thâm hụt 3,5% GDP trong năm 2009. Tài sản nước ngoài thuần 
(NFA – thuật ngữ dùng cho dự trữ ngoại tệ được IMF sử dụng trong trường hợp một 
nước sử dụng đồng đôla Mỹ làm tiền tệ quốc gia) ước tính giảm xuống dưới 2 tháng nhập 
khẩu vào cuối năm 2009.
Vào 1/2009, Ecuador áp dụng các biện pháp thương mại vì lý do BOP có hiệu lực trong 
vòng 1 năm, bao gồm cả biện pháp theo giá (tăng thuế nhập khẩu) và hạn chế định lượng 
đối với nhập khẩu. Các biện pháp thương mại được Ecuador áp dụng với 630 dòng thuế 
HS 10 số, chiếm 8,7% tổng số dòng thuế; diện mặt hàng hầu hết bao gồm hàng tiêu dùng 
lâu bền và thiết bị vận tải, dệt may và quần áo và giày dép. Các biện pháp này áp dụng 
đối với nhập khẩu từ mọi xuất xứ.
Biện pháp theo giá bao gồm: (a) tăng thuế 30 hoặc 35% thuế tỷ lệ đối với 75 dòng thuế
(trên 1% tổng số dòng thuế); (b) tăng thuế bằng cách áp dụng thuế tuyệt đối cộng dồn 
trên thuế tỷ lệ đối với 284 dòng thuế, chiếm 3,9% tổng số dòng thuế. Thuế tuyệt đối là 
12 đôla Mỹ/kilo đối với hàng dệt may và quần áo, và 10 đôla Mỹ/đôi đối với giày dép. 
Tăng thuế được áp dụng thông qua các biện pháp gần đây được cộng dồn vào các biện 
pháp được mô tả trước đây, đã được áp dụng từ năm 2008, và tăng thuế áp dụng của các 
mặt hàng này lên bằng mức thuế cam kết trần trong WTO. Biện pháp hạn chế định lượng 
được áp dụng với 271 dòng thuế, chiếm 3,7% tổng số dòng thuế; trong số này có 248
dòng được áp dụng hạn ngạch nhập khẩu tương đương 70% giá trị nhập khẩu của năm 
105 WTO/BOP/R/53
106 WTO/BOP/N/56
107
BOP/R/228, WT/BOP/N/849
2008; 23 dòng khác được áp dụng hạn ngạch tương đương 65% giá trị nhập khẩu năm 
2008. Hạn ngạch không được phân phối theo nước mà theo nhà nhập khẩu; quota được 
dự kiến cấp cho từng nhà nhập khẩu căn cứ theo giá trị nhập khẩu thực tế của họ trong 
giai đoạn 2006-2008. Các nhà nhập khẩu mới được cấp 5% giá trị nhập khẩu cho mỗi 
dòng thuế. Hạn ngạch sẽ được theo dõi sử dụng hết theo từng quý; hạn ngạch không thể 
chuyển nhượng hoặc đàm phán lại. Hạn ngạch không được sử dụng trong 2 quý đầu năm 
sẽ bị huỷ bỏ.
Các biện pháp do Ecuador áp dụng ảnh hưởng tới tổng kim ngạch thương mại trị giá 4,3 
tỷ đôla Mỹ (2008), tương đương 23% tổng nhập khẩu năm 2008 theo giá CIF. Nhập khẩu 
các mặt hàng thuộc diện bị áp dụng các biện pháp trên tăng lên 25% trong giai đoạn 
2007-2008. Tổng hạn ngạch áp dụng với các sản phẩm này trong năm 2009 là 2,28 tỷ
đôla Mỹ, trong đó 702,97 triệu đôla Mỹ là giá trị các mặt hàng chịu hạn ngạch 65% giá 
trị nhập khẩu 2008, và 1,425.47 triệu đôla Mỹ là giá trị các mặt hàng chịu hạn ngạch 
bằng 70% mức nhập khẩu tương ứng trong năm 2008
108
.
Trong phiên tham vấn 4/2009, nhiều thành viên Uỷ ban bày tỏ lo ngại về lựa chọn kết 
hợp chính sách mà Ecuador đưa ra, đặc biệt là sự phụ thuộc quá mức vào hạn chế thương 
mại khi so sánh với mức độ của biện pháp điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô. Một số 
thành viên cho rằng hạn chế thương mại không phải là giải pháp tối ưu và lâu dài để phục 
hồi sự cân bằng của cán cân thanh toán. Đại diện IMF cũng phát biểu tại cuộc họp rằng 
hạn chế nhập khẩu không giúp giải quyết vấn đề tài khoá. Giảm chi tiêu cần được triển 
khai, đặc biệt là khi mức chi tiêu gần đây đã vượt mức bền vững do nguồn thu sụt giảm 
mạnh. Một vài thành viên cũng tuyên bố rằng việc áp dụng hạn chế định lượng là không 
nên và kém hữu hiệu so với biện pháp theo giá và việc sử dụng hạn chế định lượng cũng 
chưa đủ thuyết phục đồng thời kém minh bạch. Theo một số thành viên các biện pháp 
này không phù hợp với WTO. Điểm đáng lưu ý nữa là các biện pháp này ảnh hưởng tới 
chưa đến 9% tổng số dòng thuế và chỉ khoảng 23% tổng kim ngạch nhập khẩu. 
Dưới sức ép của Uỷ ban BOP, Ecuador đã đồng ý thay thế hầu hết các biện pháp hạn chế 
định lượng bằng các biện pháp theo giá trước ngày 1/9/2009. Uỷ ban hoan nghênh cam 
kết của Ecuador sẽ xoá bỏ toàn bộ biện pháp thương mại vì lý do BOP trước ngày 
22/1/2010. Kết luận của Uỷ ban kết thúc bằng một câu răn đe: “Khi biện pháp còn có 
hiệu lực, các thành viên vẫn bảo lưu quyền của mình theo GATT 1994”
109
.
Ukraina
Vào 4/3/2009, Ukraina thông báo với WTO rằng bắt đầu từ 7/3/2009 sẽ áp dụng phụ thu 
nhập khẩu 13% đối với một số mặt hàng vì lý do cán cân thanh toán trong giai đoạn 6 
tháng. Quy định ban đầu được áp dụng với tổng số là 24 chương theo HS
110
 Phụ thu áp .
dụng bổ sung vào giá trị hải quan của hàng hoá, trước khi tính các loại thuế nội địa (như 
thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt); như vậy, nếu thuế MFN là 10%, thì tổng số thuế phải 
nộp bao gồm cả phụ thu sẽ là 23%. 
108 WT/BOP/S/15/Rev1
109 WT/BOP/R/91
110
Nhóm HS 0202, 0203, 0206 - 0210, 0504 - 0506, 0509, 0511 (trừ dòng 0511 10 00 00), 0808, 1601 - 1605, 1701, 
1702 (trừ đường tinh chế ở dòng 1702 30 99 00), 2204 - 2208, 2701, 4203, 4303, 57, 60 - 65, 6806, 6901, 7201, 7301, 
7321, 8401, 8414, 8418, 8501, 8516, 8702, 8703, 8704. 50
Vào 14/5/2009, Ukraina thông báo với WTO rằng phụ thu 13% được xoá bỏ đối với toàn 
bộ nhập khẩu ngoại trừ tủ lạnh (HS 8418) và ôtô (HS 8703)
111
 Phụ thu đối với các mặt .
hàng này dự kiến được áp dụng trong 6 tháng, có nghĩa là cho đến 7/9/2009. 
IMF báo cáo rằng tình hình kinh tế Ukraina đã tăng trưởng nhanh kể từ năm 2000 với 
mức tăng trưởng bình quân trên 7%/năm. Tuy nhiên, vào đầu năm 2008, nền kinh tế trở
nên quá nóng. Tăng trưởng tín dụng vượt trên 70%, lạm phát qua chỉ số CPI tăng cao trên 
30%, thị trường tài sản bùng nổ đẩy giá lên cao. Nhập khẩu tăng mạnh với mức 50–60% 
và thâm hụt tài khoản vãng lai đạt 7% GDP vào 6/2008, dẫn tới đồng tiền được cố định tỷ
giá trở nên bị định giá cao hơn giá hợp lý ước khoảng 10–20%. 
Gần như đồng thời với quá trình khủng hoảng ngày càng sâu sắc của tài chính toàn cầu 
diễn ra vào mùa hè năm 2008, Ukraina lại phải hứng chịu cú sốc về giá cánh kéo giữa 
nhập khẩu và xuất khẩu. Đặc biệt, khi giá hàng hoá thế giới giảm xuống, giá thép giảm 
khoảng 80% so với mức đỉnh đạt được trong năm trước. Đồng thời, từ góc độ nhập khẩu, 
Nga xoá bỏ những chương trình trợ cấp còn lại đối với khí đốt nhập khẩu. Trong bối cảnh 
khủng hoảng tài chính, Ukraina cũng gặp phải tình trạng vốn nước ngoài bị rút ra và thị
trường vốn quốc tế không vận hành, dù rằng tín dụng trực tiếp vẫn tiếp tục được ra hạn. 
Trong năm 2008, thâm hụt tài khoản vãng lai lên tới 7,2% GDP, nhưng đối với 2009, với 
điều kiện có dấu hiệu ổn định kinh tế, IMF dự báo mức thâm hụt này còn 2%. Theo IMF, 
dự trữ quốc tế vẫn ở mức đảm bảo
112
.
“Uỷ ban lưu ý về việc các biện pháp thương mại của Ukraina chỉ áp dụng với 0,6% số 
dòng thuế, ảnh hưởng tới khoảng 7,3% tổng kim ngạch nhập khẩu theo giá CIF. Vì vậy, 
theo quan điểm của Uỷ ban, biện pháp của không kiểm soát tổng lượng nhập khẩu và các 
biện pháp này dự kiến không hỗ trợ xử lý vấn đề cán cân thanh toán. Ngoài ra, Uỷ ban 
lưu ý về việc các đối tác ưu đãi của Ukraina được đối xử ngoại lệ không hải áp dụng các 
biện pháp thương mại, trong khi quy định tại XII, Cách hiểu, hoặc Điều XXIV không cho 
phép các ngoại lệ này.”
“Uỷ ban kết luận rằng Ukraina chưa đưa ra được cơ sở hợp lý rằng các biện pháp này là 
cần thiết trong tình hình BOP hiện nay, khi so sánh với các yêu cầu nêu tại Điều XII 
GATT 1994 và các biện pháp này không được áp dụng theo cách phù hợp với quy định 
nêu tại Điều XII GATT 1994 và Cách hiều. Trên cơ sở đó, Uỷ ban ghi nhận cam kết của 
Ukraina sẽ xoá bỏ các biện pháp này trước 7/9/2009 như được nêu trong văn bản ban 
hành, và cố gắng xoá bỏ biện pháp vào giữa tháng 7, đồng thời thông báo ngay cho Uỷ 
ban về hành động của mình. Uỷ ban sẽ triệu tập họp để xem xét hành đồng này.
Trên cơ sở yêu cầu này, và căn cứ trên cam kết mà Ukraina đưa ra, Uỷ ban nhất trí chấm 
dứt đợt tham vấn.
Khi các biện pháp trên còn hiệu lực, thành viên bảo lưu quyền của mình theo GATT 
1994.”
113
111
Tài liệu của WTO WT/BOP/N/68, 18/5/2009.
112 WT/BOP/S/16
113 WT/BOP/R/9351
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách kinh tế từ giữa thập kỷ 90, Việt Nam đã thực hiện 
cải cách thị trường vốn và thương mại theo từng bước. Việc này tạo ra nhiều khó khăn 
hơn cho các nhà xây dựng chính sách khi phải đối phó với các cú sốc về kinh tế vĩ mô mà 
một nền kinh tế mở phải đối mặt. Đặc biệt, Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá ngoại hối thả 
nổi có quản lý bằng cách gắn chặt tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đôla Mỹ, trong khi đó 
Việt Nam đã tự do hoá đáng kể dòng luân chuyển thương mại và vốn. Do tỷ giá không 
thể điều chỉnh để giảm thiểu tác động từ biến động bất thường trên thị trường vốn quốc 
tế, nên Việt Nam phải đối mặt với thách thức lớn trong điều chỉnh luồng vốn và thương 
mại. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến:
· Tăng trưởng kinh tế cao do đầu tư, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu ở mức 
cao;
· Phụ thuộc đáng kể vào nhập khẩu máy móc và đầu vào trong ngành sản xuất chế 
tạo và xây dựng;
· Thương mại liên tục biến động mạnh và thâm hụt cán cân vãng lai;
· Mức dự trữ ngoại hối thấp;
· Tại nhiều thời điểm, tỷ giá thực được định giá cao hơn mức phù hợp;
· Dòng vốn vào liên tục tăng, mặc dù còn biến động khá lớn;
· Nền kinh tế ngầm khá lớn và đầu tư nằm ngoài hệ thống ngân hàng cao.
Trọng tâm của báo cáo này là nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại lớn và các quy 
định và thực tiễn của WTO về cán cân thanh toán với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam xây dựng 
chiến lược vượt qua khó khăn về cán cân thanh toán của mình.
Các kết luận chính của báo cáo nghiên cứu này như sau:
Kết luận về Chính sách Kinh tế
· Nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam là thâm hụt tài 
khoản dịch vụ và hàng hoá, và thâm hụt tài khoản thu nhập tuy nhỏ nhưng liên 
tục. Chuyển khoản dưới hình thức kiều hối và đầu tư không chính thức từ Việt 
Kiều làm giảm bớt mức độ thâm hụt khá cao của tài khoản vãng lai, mặc dù kiều 
hối có giảm xuống trong năm 2008 do chịu áp lực của khủng hoảng tài chính quốc 
tế và sự suy giảm niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam;
· Thâm hụt tài khoản vãng lai hiện đang được bù đắp bằng nguồn vốn vay nợ dài 
hạn, dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo truyền thống thường được 
đưa vào ngành xuất khẩu và sản xuất chế biến. Từ năm 2008, một tỷ lệ lớn FDI đã 
đầu tư vào đầu cơ bất động sản và dịch vụ, chứ không phải là sản xuất chế biến 
nữa, với hệ quả là không đóng góp vào nâng cao năng lực thương mại trong tương 
lai của Việt Nam. Như vậy, chất lượng FDI đang có dấu hiệu ít đem lại lợi ích 
hơn cho Việt Nam so với trước đây. Ngoài ra, đầu tư gián tiếp tăng mạnh cũng 
giúp bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai trong những năm gần đây. Vốn nợ ngắn 
hạn này có khả năng biến động cao hơn cũng làm gia tăng lo ngại về tác động khi 
tâm lý của nhà đầu tư thay đổi hoặc có khó khăn về cán cân thanh toán;
· Mặc dù có xu hướng ngày càng mất cân đối về thương mại và luồng vốn vào ít 
đóng góp vào năng lực sản xuất hơn, nhưng tình hình cán cân thanh toán không 
có dấu hiệu báo động vì mức dự trữ, mặc dù thấp, vẫn đủ để thực hiện các nghĩa 
vụ trả nợ ngắn hạn và thanh toán nhu cầu nhập khẩu. Trong dài hạn, cần phải thực 52
hiện điều chỉnh kinh tế vĩ mô nhằm giảm mức nợ và chuyển trọng tâm sang tiêu 
dùng trong nước và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Tuy nhiên trong hiện tại tình 
hình cán cân thanh toán là bền vững;
· Nguyên nhân chính dẫn đến mất cân đối trong giao dịch quốc tế của Việt Nam 
chính là sự mất cân đối về kinh tế vĩ mô, gây ra bởi các nhân tố ngoại sinh như 
sự sụt giảm nhu cầu nhập khẩu của thế giới, khủng hoảng tài chính quốc tế và môi 
trường đầu tư theo xu hướng giá giảm, lãi suất thấp tại tất cả các nước phát triển, 
và các nhân tố nội sinh như việc nới lỏng chính sách tài khoá cho các dự án cơ sở 
hạ tầng lớn và chính sách tiền tệ mở rộng dưới hình thức hỗ trợ lãi suất. Chính 
sách tài khoá và tiền tệ mở rộng đã làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu và làm tăng cả 
nhu cầu vay nợ nước ngoài do mức tiết kiệm trong nước không đủ để thực hiện 
đầu tư trong nước;
· Nghiên cứu này xem xét các yếu kém thương mại trong điều kiện thương mại 
chung của Việt Nam và gợi ý các kênh giải quyết những yếu kém này nhằm khắc 
phục sự mất cân đối về thương mại. Cụ thể giải pháp bao gồm tăng giá trị gia tăng 
của sản xuất trong nước để cải thiện tỷ lệ giá cánh kéo thương mại, nâng cao 
nguồn vốn con người, nâng cao việc sử dụng các Hiệp định thương mại song 
phương theo hướng có lợi cho Việt Nam và sử dụng các biện pháp tự vệ hoặc các 
công cụ bảo vệ thương mại được phép khác nếu cần thiết; 
· Tuy nhiên, nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng nguyên nhân chính của việc suy 
giảm dự trữ không liên quan đến thương mại (mặc dù thương mại là một nhân tố) 
mà đây thường là hệ quả của chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam, của 
chính sách tài khoá nới lỏng, của việc sụt giảm đầu tư nước ngoài và kiều hối.
Các kết luận về Chính sách Thương mại
· Hiện tại Việt Nam chưa găp phải “khó khăn về cán cân thanh toán” hay “tình 
trạng nghiêm trọng về cán cân thanh toán” theo nghĩa của Điều XVIII: B GATT 
1994 và “Cách hiểu về Quy định BOP của GATT 1994”. Vì vậy, trong điều kiện 
BOP hiện này, chưa cần thiết phải áp dụng hạn chế nhập khẩu nhằm đảm bảo 
điều kiện kinh tế đối ngoại của đất nước và đảm bảo mức dữ trữ đủ để thực hiện 
chương trình phát triển kinh tế;
· Nếu trong tương lai gần Việt Nam vận dụng quy định về BOP của WTO và áp 
dụng hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP, thì việc tiếp nhận các biện pháp này nhiều 
khả năng sẽ tiêu cực. Việt Nam sẽ được các thành viên có ảnh hưởng của Uỷ ban 
BOP và IMF lưu ý rằng giải pháp phù hợp nhất để xử lý vấn đề kinh tế nằm ở các 
biện pháp chính sách kinh tế vĩ mô và biện pháp hạn chế thương mại có thể bị coi 
là trái với quy định WTO và sẽ được yêu cầu xoá bỏ biện pháp này ngay lập tức, 
kèm theo sự đe doạ sẽ vận dụng quy định về giải quyết tranh chấp của WTO;
· Việc áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu vì lý do BOP sẽ ảnh hưởng xấu tới uy 
tín của Việt Nam là một nước có môi trường kinh tế dễ đoán định, sẽ làm hạn chế 
quan hệ trong các FTA với các đối tác thương mại chính khác bao gồm cả các 
nhà đầu tư nước ngoài và có thể tạo ra hậu quả nghiêm trọng khác về kinh tế.
Khuyến nghị Chính sách Thương mại
Mở cửa nền kinh tế Việt Nam với thế giới bên ngoài, đặc biệt là việc gia nhập WTO và 
tham gia vào các thoả thuận thương mại tự do đã đem lại sự gia tăng nhập khẩu. Nếu 
nhập khẩu gia tăng làm phát sinh các bất cập đối với nền kinh tế trong nước, nhiều khả 53
năng Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu theo quy định trong nước và 
phù hợp với cam kết quốc tế (WTO, FTA và các hiệp định song phương). Nội dung gợi ý 
về chính sách thương mại bao gồm như sau:
· Phân tích sự khác nhau giữa thuế áp dụng hiện hành với cam kết thuế trần 
trong WTO và tăng mức thuế suất lên bằng với cam kết thuế trần;
· Cân nhắc việc áp dụng biện pháp tự vệ trong WTO và điều khoản tự vệ 
trong các FTA. Trong WTO, một thành viên có thể thực hiện biện pháp “tự vệ” 
(bao gồm hạn chế nhập khẩu tạm thời với một mặt hàng nhằm bảo vệ ngành sản 
xuất trong nước cụ thể khỏi tình trạng gia tăng nhập khẩu một sản phẩm bất kỳ 
dẫn tới hoặc có nguy cơ dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất 
trong nước. Cho tới cuối năm 2008, có tổng số 168 trường hợp vận dụng quy định 
tự vệ được báo cáo lên Ban Thư ký WTO;
· Xem xét áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO, 
nếu một công ty xuất khẩu một sản phẩm ở mức giá thấp hơn giá thông thường 
được bán tại thị trường trong nước, thì sản phẩm đó được coi là “phá giá”. Hiệp 
định chống phá giá của WTO nêu rõ các nguyên tắc mà các chính phủ được phép 
hoặc không được phép khi xử lý hiện tượng phá giá — điều chỉnh các hành động 
chống bán phá giá. Trong năm 2008, có 208 vụ điều tra chống bán phá giá được 
tiến hành; 
· Cân nhắc áp dụng thuế đối kháng theo Hiệp định về Trơ cấp và Thuế đối 
kháng của WTO. Theo Hiệp định này, một nước có thể sử dụng thủ tục giải 
quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu thu hồi biện pháp trợ cấp hoặc xoá bỏ tác 
động tiêu cực của biện pháp trợ cấp. Hoặc một nước có thể tự tiến hành điều tra 
và cuối cùng áp dụng thuế bổ sung (“thuế đối kháng”) đối với hàng nhập khẩu 
được trợ cấp làm thiệt hại tới các nhà sản xuất trong nước. Trong năm 2008, có 14 
trường hợp thực hiện thủ tục áp dụng thuế đối kháng được báo cáo lên WTO;
· Cân nhắc sử dụng Điều XXVIII GATT 1994 (Thay đổi Biểu cam kết) để đàm 
phán lại cam kết thuế khi gia nhập. Đàm phán lại thường sẽ giải quyết vấn đề 
bồi thường lại cho các yêu cầu giảm thuế;
· Theo dõi sát diễn biến về BOP. Nếu tình hình BOP của Việt Nam trở nên 
nghiêm trọng, cần có giải pháp nhanh, thì có thể cân nhắc việc áp dụng hạn 
chế nhập khẩu vì lý do BOP, nhưng đây là giải pháp cuối cùng, vì có nhiều tác 
động tiêu cực gắn với việc áp dụng các biện pháp hạn chế này;
· Để bảo đảm kết luận phản ánh đủ các nội dung đã trình bày và giúp chính phủ có 
cái nhìn tổng thể phần kết luận nên hình thành theo các nội dung:
1. Chính sách cơ cấu: Cần khẩn trương xây dựng đề án tái cấu trúc nền kinh 
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để tăng hàm lượng nội và giá trị gia 
tăng của hàng hóa và bắt đầu thực hiện một bước trong năm 2010 và thực 
hiện mạnh trong thời kỳ 2011- 2015 và cho đến năm 2020. Điều cần thiết 
là định hướng lại thu hút đầu tư nước ngoài, ưu tiên thu hút các dự án đầu 
tư tạo ra năng lực xuất khẩu mới;54
2. Chính sách tài chính tiền tệ (các công cụ vĩ mô; tỷ giá, chính sách tài 
khóa) cần phân tích giới hạn của việc sử dụng chính sách này do tác động 
phụ của chúng;
3. Cải cách thể chế và thủ tục hành chính để thu hút FDI và giảm chi phí giao
dịch cho doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
4. Chính sách thương mại :
- Phân tích kỹ lưỡng trước khi tham gia vào các FTA, hiệp định thương 
mại khu vực (RTA), đồng thời nâng cao khả năng tận dụng các hiệp định 
RTA, FTA đặc biệt từ năm 2019. Vào thời điểm này thuế nhập khẩu ở 
khoảng 90% số dòng thuế của các nước ASEAN 6, Trung Quốc được cắt 
giảm xuống 0%;
- Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt ở các thị trường mà ở đó kim 
ngạch xuất khẩu của một mặt hàng nào đó tuy còn nhỏ nhưng tốc độ tăng 
trưởng cao;
- Chi tiết hóa hơn nữa biểu thống kê xuất khẩu. Vì hiện nay nhóm hàng
được thống kê hải quan ghi vào danh mục mặt hàng khác có kim ngạch 
xuất khẩu lớn (xấp xỉ 9 tỷ đôla Mỹ) và tốc độ tăng trưởng rất cao 
(khoảng 35%/ năm) nhưng không rõ là mặt hàng gì để có chính sách 
khuyến khích sản xuất và hộ trợ xúc tiến thương mại;
- Nghiên cứu đưa thuế một số mặt hàng không phải là nguyên liệu cho 
sản xuất hàng xuất khẩu hoặc hàng hóa thay thế nhập khẩu (trong điều 
kiện lạm phát thấp) lên mức trần cam kết;
- Áp dụng các biện pháp điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và các 
biện pháp tự vệ theo quy định của WTO hoặc theo các FTA.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 BÁO CÁO PHÂN TÍCH THÂM HỤT THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN CỦA WTO.doc BÁO CÁO PHÂN TÍCH THÂM HỤT THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN CỦA WTO.doc