- Phân tích về thực trạng hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở VN: hiện chúng ta được đánh giá là quốc gia có tiền năng và đa dạ về ngồn TNTN với khoảng 5000 điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản quý hiếm.
- hoạt động khai thác đã làm ôn nhiễm nguồn nước như thế nào
- Tác động đến quỹ đất sản xuất
- việc sử dụng công nghệ lạc hậu, cấp giấy phép ồ ạt làm chảy máu nguồn tài nguyên ra sao?
- Các chiến lược quy hoạch khoáng sản voi81 đhịn hướng xác định các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp về bảo vệ tải nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
=> phân tích dựa theo luật khoáng sản 2010. chỉ rõ các nguy cơ tiềm ẩn do những kẽ hở của luật gây ra.
27 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6295 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong vài thập niên gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường (ONMT), suy thoái môi trường, sự cố môi trường và những biến đổi bất lợi của thiên nhiên đang hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng tới chất lượng sống của con người ở khắp nơi trên thế giới. Việt Nam là quốc gia đang phát triển cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường, như: cạn kiệt tài nguyên, mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường sống…
Sự tồn tại, phát triển của con người luôn gắn bó với tự nhiên, với môi trường xung quanh. Nhưng trong quá trình khai thác, con người đã tác động làm biến đổi tự nhiên theo chiều hướng tiêu cực. Sự phát triển kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá đã làm cho các nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt, rừng bị tàn phá, không khí và nguồn nước bị ô nhiễm… Hiện tượng trái đất nóng lên, khí hậu có những diễn biến bất thường, thiên tai diễn ra với quy mô, mức độ tàn phá ngày một lớn và khó kiểm soát. Các cuộc khủng hoảng năng lượng trở nên nghiêm trọng, sức khoẻ của con người bị đe doạ bởi những căn bệnh hiểm nghèo…
Đối với Việt Nam, sự nghiệp đổi mới sau hơn 25 năm đã đạt được những thành tựu nhất định, đất nước vững bước trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đường lối đối ngoại mở rộng, hội nhập quốc tế cũng đã mở ra những cơ hội lớn để hợp tác đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển về mọi mặt. Song, sự phát triển của nền kinh tế lại không đi đôi với những tiến bộ trong BVMT, tài nguyên bị khai thác một cách lãng phí, ô nhiễm môi trường trầm trọng. “Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%. Nếu chúng ta tiếp tục tình trạng này, chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt tại thời điểm hiện nay và thế hệ mai sau. Chất lượng cuộc sống sẽ giảm và không bảo đảm thực hiện được ba mục tiêu phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và BVMT” Dẫn lời ông Nghiêm Vũ Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường Quốc hội.
.
Thực tế đã cho thấy, thiệt hại về môi trường là những thiệt hại có tính nghiêm trọng. Nó làm phát sinh những thiệt hại tiềm ẩn cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Đã đến lúc chúng ta phải xem xét và đánh giá lại một cách toàn diện để bảo đảm rằng phát triển phải đồng hành với bảo vệ, gìn giữ môi trường sống, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo đảm phát triển bền vững, công bằng và hài hòa các lợi ích.
Trong các hoạt động khai thác Tài nguyên Thiên nhiên (TNTN) thì hoạt động Khai thác khoáng sản làm mất đi vĩnh viễn nguồn tài nguyên không tái tạo. Làm suy thoái, cạn kiệt nhanh chóng các nguồn tài nguyên sinh học đi kèm: rừng, nguồn nước, đất đai và đa dạng sinh học… Sau khi khai thác, môi trường vùng mỏ hầu như không thể hoàn nguyên và phục hồi vì đòi hỏi công nghệ và đầu tư chi phí rất lớn. Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, của cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân trong việc BVMT, Luật BVMT năm 2005 đã khẳng định “BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân” Khoản 2, Điều 4, L. BVMT 2005
. Và pháp luật là một trong những công cụ hữu hiệu góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh và xử lý những hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường.
Việc phát triển kinh tế - xã hội nhưng thiếu quan tâm đến BVMT, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong thời gian vừa qua đã gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh đối với toàn xã hội. Đặt ra những yêu cầu cấp thiết trong việc cải thiện tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở các sông suối, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đại hội XI của Đảng đã nhận định: “Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp” Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 93
. Vì vậy, BVMT (BVMT) ngày càng trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, việc phân tích thực trạng khai thác môi trường tự nhiên, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, nhằm đề xuất những giải pháp cải thiện, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đối với việc BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn Việt Nam hiện nay là việc làm mang tính cấp thiết.
Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” với tư cách là một Luận văn Thạc sỹ chuyên sâu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
(Viết phần này chưa được em ạ… Một là, số tài liệu em sưu tầm còn rất ít; Hai là, phải trình bày người ta đã viết được gì và thiếu gì; Ba là, phải khái quát được những hướng nghiên cứu chính. Ví dụ: Hướng thứ nhất, những công trình nghiên cứu khái quát về môi trường và bảo vệ môi trường; Hướng thứ hai, những công trình nghiên cứu về pháp luật bảo vệ môi trường; Hướng thứ ba, những công trình đi sâu về pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản… ) =>tài liệu thường đưa vào phần này ít thôi vì không muốn gây loãng nội dung . Mình chỉ nêu những tài liệu liên quan tới mình, còn sau này trong mục tài liệu tham khảo sẽ liệt kê những tài liệu mà mình thham khảo. Hơn nữa, việc họ viết đã được gì và thiêu gì sẽ là vốn để mình trình bày trong bài của mình chứ không nêu nhiều ở đây. Bên cạnh đó, khi liệt kê tài liệu mình đang liệt kê theo chuẩn của luận văn, nghĩa là sẽ theo vần ABC của tác giả.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các vấn đề về môi trường, ô nhiễm môi trường, các hoạt động khoáng sản và đề xuất những giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước và toàn xã hội để khắc phục tình trạng suy thoái mội trường đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Hiện nay, ngoài một số bài báo, Các công trình khoa học, công trình nghiên cứu đáng chú ý như:
PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, Luật và các tiêu chuẩn chất lượng môi trường, NXB Hà Nội, 2002;
Trần Hồng Hà, Xã hội học môi trường, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội (2008);
THs. Bùi Đức Hiển, Quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số 11/2011;
Hoàng Hưng và Nguyễn Thị Kim Loan, Con người và môi trường, Nxb.Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh (2005);
Hoàng Phúc, Trách nhiệm BVMT của tổ chức và công dân, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội (2008);
Mai Hữu Quyết, Pháp luật về đánh giá môi trường chiến lược ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sỹ Luật học năm 2010, Trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh.
Trần Thanh Thủy và Nguyễn Việt Dũng, Khai thác khoáng sản và giảm nghèo: Mối quan hệ trái chiều và một số vấn đề chính sách, Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Hà nội (2010);
Trần Thanh Thủy, Trịnh Lê Nguyên và Nguyễn Việt Dũng, Khoáng sản – Phát triển – Môi trường: đối chiếu giữa lý thuyết và thực tiễn, Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Hà nội (2012)...
Các công trình trên làm rõ một số vấn đề về Môi trường và Hoạt động bảo vệ môi trường nói chung, đề cập tới một số khía cạnh nào đó trong hoạt động khai thác khoáng sản. Trước những yêu cầu của thực tế, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện, chuyên sâu, tiếp cận với góc độ khoa học pháp lý về vấn đề Pháp luật trong hoạt động khai thác khoáng sản. Chính vì vậy, đề tài “Pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựnng những quy định về pháp luật đầy đủ và phù hợp với thực trạng khai thác khoáng sản ỏ Việt Nam. Là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp nhằm BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản. Cùng với những kiến nghị của đề tài, hi vọng sẽ mang lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về Môi trường, BVMT, BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam; làm rõ những quy định của pháp luật về BVMT trong hoạt động Khai thác khoáng sản; nghiên cứu thực tiễn về thực trạng khai thác khoáng sản, từ đó rút ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khác khoáng sản ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với mục đích trên, Đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau :
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về Môi trường, Bảo vệ Môi trường, BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản;
Phân tích, làm rõ thực trạng của hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam theo các quy định của L. BVMT năm 2005;
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác khoáng sản, Bảo vệ tài nguyên môi trường. Hướng hoàn thiện dưới góc độ pháp lý trong lĩnh vực khai thác khoáng sản để phù hợp hơn với yêu cầu thực tế.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: (1) Môi trường, Bảo vệ Môi trường và pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản; (2) Thực trạng của hoạt động Khai thác khoáng sản ở Việt Nam (3) Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp lý cũng như các đề xuất hoàn thiện của Pháp luật về Bảo vệ môi trường trong Hoạt động Khai thác Khoáng sản.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn; nghiên cứu thực trạng về hoạt động khai thác khoáng sản ở một số địa phương: Các dự án khai thác khoáng sản trọng điểm: Mỏ vàng (Quảng Nam), Vàng sa khoáng trên khu vực Sông Đăc-rông, dự án Bô-xit (Tây Nguyên)... Số liệu chứng minh được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp luận của Đề tài
- Cơ sở lý luận của Đề tài: các luận điểm tiên tiến trong khoa học lý luận về môi trường, Bảo vệ môi trường, Khoáng sản và BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam; Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng tham khảo các luận điểm khác nhau trong các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước, cũng như các văn bản pháp luật trong Lĩnh vực BVMT và Hoạt động khoáng sản.
- Cơ sở phương pháp luận: Phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của bộ môn Luật môi trường, như: phân tích (các quy phạm của hoạt động khai thác khoáng sản), tổng hợp (các quan điểm khoa học của các luật gia trong từng vấn đề tương ứng được nghiên cứu), thống kê, so sánh, logic…
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Thứ nhất, lĩnh vực khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và thực tiễn thi hành.
Thứ hai: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, đề xuất những giải pháp cụ thể góp phần nhỏ trong việc đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định lên quan tới Hoạt động khai thác khoáng sản và Bảo vệ Môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
Thứ ba: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy và là tư liệu để các nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học. Đề tài là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, có thể giúp ích phần nào trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật. Là một tài liệu nghiên cứu có giá trị với các Nhà khoa học, nhà quản lý trong quát trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật; là tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở các trường đại học, các chuyên ngành về Luật Môi trường. Đồng thời cũng là nguồn tài liệu để cán bộ làm công tác môi trường tham khảo và vận dụng đúng đắn các quan điểm cũng như những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề BVMT, nhất là trong giai đoạn cả nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị cho sự nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về BVMT trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
6. Kết cấu của Đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Môi trường và BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật về BVTM trong Hoạt động khai thác khoáng sản.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện của Pháp luật về BVMT trong Hoạt động Khai thác Khoáng sản tại Việt Nam
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
L. BVMT: Luật BVMT
TNTN: Tài Nguyên thiên nhiên
NN&PL: Nhà nước và Pháp luật
CQNN: Cơ quan Nhà nước
BVMT: BVMT
ONMT: Ô nhiễm môi trường
STMT: Suy thoái môi trường…
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ BVMT TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
Khái niệm chung về môi trường và BVMT
1.1.1 Định nghĩa về môi trường
Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó.
Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Theo nghĩa rộng (Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học, 2002): “Môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”
=> Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ư muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xă hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xă, họ tộc, gia đ́nh, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xă hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Khái niệm về môi trường trong lĩnh vực pháp lý: Theo khoản 1 Điều 3 Luật BVMT 2005: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
=> So sánh hai khái niệm này:
* Giống nhau: nói đến môi trường là nói đến điều kiện tự nhiên: đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, hệ động vật…
* Khác nhau:
- Môi trường theo nghĩa rộng: là tất cả các nhân tố tự nhiên và xă hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xă hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp: không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xă hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người.
1.1.2 Định nghĩa về BVMT
- Theo quan điểm chung: BVMT là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
BVMT nhằm bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước.
- Theo quan điểm của Luật. BVMT: Hoạt động BVMT là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học - Khoản 3, điều 3 L.BVMT.
Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường, thống nhất quản lý BVMT trong cả nước, có chính sách đầu tư, BVMT, có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật về BVMT. BVMT là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm BVMT, thi hành pháp luật về BVMT, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về BVMT. Nghiêm cấm mọi hành vi làm suy thoái môi trường, gây ô nhiễm môi trường, gây sự cố môi trường. Vì vậy mọi hoạt động, nhất là đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ các qui định của luật BVMT.
- Các biện pháp BVMT
* Biện pháp tổ chức chính trị:
- Là việc BVMT thông qua hoạt động của các Đảng phái, các tổ chức chính trị. Các đảng phải, các tổ chức này đưa ra cương lĩnh chủ trương BVMT và lãnh đạo cộng đồng thực hiện qua đó vừa nhằm mục đích BVMT vừa nhằm mục đích củng cố uy tín địa vị chính trị của tổ chức.
- Vấn đề BVMT bằng biện pháp tổ chức chính trị ở Việt Nam:
+ Đảng cộng sản đưa ra chủ trương đường lối về BVMT và lãnh đạo nhà nước thực hiện.
+ Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường.
+ Tổ chức các sinh hoạt chuyên đề về môi trường
Cách thức thực hiện này khác với các nước khác là nhà nước không thành lập đảng phái về môi trường mà chủ trương đường lối của Đảng đưa ra được thể chế hóa về pháp luật
- Ý nghĩa của biện pháp này trong việc BVMT bao gồm:
+ Vấn đề về BVMT trở thành các nhiệm vụ chính trị mỗi khi các tổ chức chính trị, đảng phái đưa chúng vào cương lĩnh hoạt động của mình
+ Bằng vận động chính trị, vấn đề BVMT sẽ được thể chế hóa thành các chính sách pháp luật.
Tuy nhiên, biện pháp chính trị mang tính định hướng vĩ mô nên hiệu quả thực tiễn là không cao.
* Biện pháp kinh tế.
Là việc sử dụng nguồn lực kinh tế để BVMT với 2 hình thức cơ bản là sử dụng nguồn tài chính tập trung và sử dụng phương pháp kích thích lợi ích kinh tế.
Sử dụng nguồn tài chính tập trung là sử dụng ngân sách nhà nước, quỹ BVMT quốc gia…cho việc BVMT
Kích thích lợi ích kinh tế để BVMT gồm các biện pháp
+ Hộ trợ tài chính cho những dự án BVMT tích cực.
+ Ưu đãi về đất đai
+ Miễn phải giảm thuế đối với các dự án BVMT tích cực. Áp dụng thuế suất cao đối với các dự án gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
+ Áp dụng thuế môi trường đối với các sản phẩm ảnh hướng xấu lâu dài đến môi trường
+ Ưu đãi về thị trường tiêu thụ sản phẩm
+ Áp dụng biện pháp ký quỹ đặt cọc đối với một số hoạt động ảnh hưởng xấu đối với môi trường.
Ý nghĩa: Sử dụng biện pháp kinh tế tức là dùng những lợi ích vật chất để kích thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường cho cộng động. Biện pháp kinh tế rất phong phú và đa dạng và thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp từ đó góp phần khuyến khích và nâng cao ý thức của các doanh nghiệp trong việc BVMT.
Về cơ bản các biện pháp kinh tế thường mang lại hiệu quả cao hơn trong BVMT so với các biện pháp khác.
* Biện pháp khoa học công nghệ
Là việc sử dụng các giải pháp khoa học công nghệ và kỹ thuật trong việc BVMT.
Là biện pháp quan trọng không thế thiếu trong việc BVMT do môi trường được tạo bởi nhiều yếu tố phức tạp cùng với đó là trình độ khoa học kỹ thuật phát triển nên các vấn đề như xử lý rác thải, bảo vệ tầng Ozon cần sử dụng biện pháp khoa học công nghệ.
* Biện pháp giáo dục.
Là biện pháp tuyên truyền vận động người dân tham gia BVMT.
Các hình thức:
+ Đưa giáo dục ý thức BVMT vào chương trình học tập chính thức của các trường phổ thông, dạy nghề, cao đẳng và đại học.
+ Sử dụng rộng rãi các phương tiện giáo dục truyền thông để giáo dục cộng đồng.
+ Tổ chức các hoạt động cụ thể như: ngày môi trường thế giới, tuần lễ xanh, phong trào thành phố xanh, sạch, đẹp.
+ Tổ chức các diễn đàn và các cuộc điều tra xã hội
* Biện pháp pháp lý.
Đó là việc, thể chế hóa vấn đề môi trường bằng pháp luật.
Bao gồm:
+ Quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi khai thác và sử dụng các yếu tố môi trường.
+ Quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính để buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường.
+ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức BVMT.
+ Ban hành các tieu chuẩn môi trường.
+ Giải quyết các tranh chấp liên quan đén việc BVMT
Khái niệm chung về Khoáng sản và hoạt động khoáng sản
Khái niệm chung về Khoáng sản
- Theo quan điểm chung: Khoáng sản là thành tạo khoáng vật của lớp vỏ Trái Đất, mà thành phần hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân
- Theo quan điểm pháp lý: Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ – Điều 2, Luật khoáng sản.
1.2.2 Khái niệm về Hoạt động khoáng sản
Theo điều 2, Luật Khoáng sản: Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt động thăm dò khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản.
Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.
Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.
Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung vào phân tích và làm rõ các nội dung trong phần Khai thác khoáng sản.
Phân tích các định nghĩa về:
Hoạt động xây dựng cơ bản mỏ
hoạt động khai đào
hoạt động phân loại
Hoạt động làm giàu
Các hoạt động có liên quan khác...
- phân tích về vai trò và ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế - xã hội:
-> Hoạt động khai thác từ khá lâu đời. Lúc đầu, hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới chỉ là khai thác đá, sắt, đồng... Nhưng phải đến thời Pháp thuộc, khai thác khoáng sản mới định hình như một nghề. Rất nhiều mỏ khoáng sản của Việt Nam đã được người Pháp phát hiện ra. Thực dân Pháp khai thác khoáng sản để làm nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu của chúng.
Khi đất nước thống nhất chúng ta lại quan tâm đến việc phát triển kinh tế. Chỉ đến gần đây, đất nước ta mới chú trọng đến hoạt động khai thác khoáng sản, mới nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động khai thác khoáng sản trong sự phát triển kinh tế, xã hội.
Về phương diện kinh tế: Khi nói đến vai trò của khoáng sản, ta không thể không kể đến tầm quan trọng của nó đối với các ngành công nghiệp. Khoáng sản là nguồn nguyên liệu chính cho nhiều ngành công nghiệp then chốt. Điển hình như: Đá vôi dùng cho sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng; Quặng sắt được dùng cho ngành luyện kim đen, luyện kim màu, cơ khí, công nghiệp phân bón, công nghiệp hóa chất...Tuy nhiên công nghiệp chế biến của Việt Nam còn chưa phát triển, các loại khoáng sản khai thác được vẫn chủ yếu dùng để xuất khẩu thô.
Tài nguyên khoáng sản đã có những đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế. Khi tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản, doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Trong đó đáng kể nhất là thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về phương diện chính trị: Tài nguyên khoáng sản giúp các quốc gia bình ổn, giữ gìn trật tự xã hội. Công nghiệp khai khoáng đã tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hơn nữa, khoáng sản còn tạo cho các quốc gia có một vị trí quan trọng trong giao lưu quốc tế. Tài nguyên khoáng sản góp phần không nhỏ vào việc làm tăng tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Thậm chí trong một số trường hợp, tài nguyên khoáng sản còn làm tăng các ảnh hưởng về mặt chính trị của quốc gia này đối với quốc gia khác. Các quốc gia không có tài nguyên khoáng sản thường phụ thuộc rất nhiều về kinh tế cũng như chính trị đối với các quốc gia có ưu thế trong vấn đề này.
1.3 Pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở một số nước trên thế giới
Nêu một số nước trên thế giới, nhưng ưu điểm trong pháp luật của các nước mà Việt nam có thể học tập.
Chương 2:
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
2.1 Nguyên tắc của pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản
2.1.1 Các nguyên tắc BVMT
Theo Luật BVMT 2005, nguyên tắc BVMT được thể hiện qua năm nguyên tắc sau Điều 4, L. BVMT 2005
:
a Nguyên tắc Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
- Phân tích để thấy được lý do vì sao cần phải bảo vệ môi trường đồng thời với việc đảm bảo tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế: Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có tác động gì tới đời sống và nền kinh tế?
- Làm rõ việc BVMT là trách nhiệm chung của toàn cộng đồng, của các nước và các quốc gia? Môi trường có tác động và ảnh hưởng chung tới mọi người, mọi cá nhân tồn tại trên trái đất. Vì vậy, một quốc gia làm suy thoái môi trường sẽ kéo theo môi trường của các nước xung quanh bị ảnh hưởng. Do đó, việc nâng cao ý thức BVMT của cá nhân, của tập thể, của môt quốc gia và của cả công đồng quốc tế là việc làm đã và đang tiến hành thường xuyên và liên tục.
b. Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích trách nhiệm BVMT của từng cá nhân, tổ chức về việc tác động đên môi trường và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong đời sống hàng ngày.
c. Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
- Việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường có vai trò quan trọng trong hoạt động bảo vệ môi trường. Và đây là hoạt động đầu tiên có vai trò quyết định trọng việc tác động tới môi trường.
- Khắc phục ô nhiễm, suy thoái góp phần hạn chế những ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh.
- Chất lượng môi trường tùy thuộc vào mức độ tác động nhiều hay ít của con người vì vậy, việc cải thiện chất lượng môi trường góp phần không nhỏ trong việc tái tạo môi trường, trả lại sự trong sạch cho môi trường
d. Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
- mỗi địa phương, mỗi quốc gia có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau nên mức độ khai thác và tác động đến môi trường cũng khác nhau. Do đó, việc BVMT phải đặt ra những chi tiêu, biện pháp dựa trên tình hình thực tế của từng địa phương, từng quốc gia trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
e. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
- Vấn đề bồi thường thiệt hại về môi trường được phát triển trên quan điểm ‘người gây thiệt hại phải bồi thường” và mức độ bồi thường phải tương xứng.
2.1.2 Quy định BVMT trong hoạt động khoáng sản
Theo Điều 30 Luật khoáng sản:
a. Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực hiện các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của pháp luật.
b. Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải thực hiện các giải pháp và chịu mọi chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường. Giải pháp, chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường phải được xác định trong dự án đầu tư, báo cáo đánh giá tác động môi trường, bản cam kết BVMT được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
c. Trước khi tiến hành khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Chính phủ.
=> Chỉ rõ những ưu điểm và tồn tại trong các quy định của luật.
2.2. Những chế định cơ bản của pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản – NHỮNG CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN THÌ PHẢI TIẾP CẬN THEO HƯỚNG NHỮNG CHẾ ĐỊNH NHẰM PHÒNG NGỪA, NHỮNG CHẾ ĐỊNH XỬ LÝ VI PHẠM, NHỮNG CHẾ ĐỊNH NHẰM KHẮC PHỤC THIỆT HẠI… RÀNG BUỘC TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ THỂ KHAI THÁC…. ĐƯƠNG NHIÊN CÓ THỂ VIẾT KHÁC, CỤ THỂ EM NGHIÊN CỨU ĐƯỢC GÌ…CHỨ 2 TIẾT Ở DƯỚI EM VIẾT LÀ CHƯA ĐI VÀO NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA ĐỀ TÀI ĐÂU = ĐÂY MỚI LÀ PHẦN CHÍNH NHẤT MÀ=> do đề tài mình chỉ làm gói gọn trong hoạt động khai thác khoáng sản nên mình chỉ viết những quy định của pháp luật liên quan tới khai thác khoáng sản và BVMT trong khai thác khoáng sản (Đã bổ sung một số ý theo đè nghị của bạn) – Nếu bạn có ý hay hơn thì liệt kê mục để mình sửa theo ý bạn nhé.
2.2.1. Những yêu cầu về BVMT trong hoạt động khoáng sản
Lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (theo khoản 4 Điều 14 Luật BVMT)
Quy hoạch sử dụng đất, bảo vệ và phát triển rừng; khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng.
Thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường;
Thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn thông thường; trường hợp chất thải có yếu tố nguy hại thì quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại;
Có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, khí thải độc hại ra môi trường xung quanh;
Phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản;
Những điều kiện đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản trong một số trường hợp cụ thể (theo khoản 2, 3, 4 Điều 44 Luật BVMT).
2.2.2 Pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản
- Phân tích theo Điều 44. Luật Bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản, chương 8, luật Khoáng sản:
+ Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
+ Khu vực khai thác khoáng sản
+ Nguyên tắc và điều kiện cấp Giấy phép khai thác khoáng sản
+ Giấy phép khai thác khoáng sản
+ Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
1. Tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phải có bi ện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ, phục hồi môi trường sau đây:
a) Thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường;
b) Thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn thông thường; trường hợp chất thải có yếu tố nguy hại thì quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại;
c) Có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, khí thải độc hại ra môi trường xung quanh;
d) Phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản.
2. Khoáng sản phải được lưu giữ, vận chuyển bằng các thiết bị chuyên dụng, được che chắn tránh phát tán ra môi trường.
3. Việc sử dụng máy móc, thiết bị, hoá chất độc hại trong thăm dò, khảo sát, khai thác, chế biến khoáng sản phải có chứng chỉ kỹ thuật và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
4. Việc khảo sát, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến dầu khí, khoáng sản khác có chứa nguyên tố phóng xạ, chất độc hại phải tuân thủ các quy định về an toàn hóa chất, an toàn hạt nhân, bức xạ và các quy định khác về bảo vệ môi trường.
5. Bộ Công nghiệp chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan chỉ đạo việc thống kê nguồn thải, đánh giá mức độ gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở khai thác, chế biến khoáng sản; tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở này.
- Pháp luật về xử phạt vi trong hoạt động khai thác khoáng sản: theo nghị định Số: 150/2004/NĐ-CP, Nguyên tắc và thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.
Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản là một năm, kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện, nếu quá thời hạn trên thì không xử phạt nhưng bị áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định này để khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra.
- Hoạt động khai thác khoáng sản phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch khoáng sản, gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Chỉ được tiến hành hoạt động thác khác khoáng sản khi được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản.
Chương 3:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BVMT TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động khai thác khoáng sản
3.1.1 Về chủ thể khai thác khoáng sản
- Phân tích theo quy định của điều 51. Luật khoáng sản: khoáng sản là tài sản của Quốc gia do vậy cần quy định rõ về chủ thể cũng như những chủ thể hạn chế khi tham gia khai thác khoáng sản.
- Quyền và nghĩa vụ của chủ thể khai thác khoáng sản – Quy định trong điều 55
3.1.2 Chiến lược quy hoạch khoáng sản
- Phân tích về thực trạng hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở VN: hiện chúng ta được đánh giá là quốc gia có tiền năng và đa dạ về ngồn TNTN với khoảng 5000 điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản quý hiếm.
- hoạt động khai thác đã làm ôn nhiễm nguồn nước như thế nào
- Tác động đến quỹ đất sản xuất
- việc sử dụng công nghệ lạc hậu, cấp giấy phép ồ ạt làm chảy máu nguồn tài nguyên ra sao?
- Các chiến lược quy hoạch khoáng sản voi81 đhịn hướng xác định các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp về bảo vệ tải nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
=> phân tích dựa theo luật khoáng sản 2010. chỉ rõ các nguy cơ tiềm ẩn do những kẽ hở của luật gây ra.
3.1.3 Đánh giá tác động môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
- Trình bày sơ qua những quy định còn tồn tại để đưa ra hướng khắc phục.
3.1.4 Về giấp phéptrong hoạt động khai thác khoáng sản
Trình bày những tồn tại trong các mục:
- về phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép
- về thủ tục cấp phép theo Luật khoáng sản.
3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện nay
3.2.1 Về chính sách chung
3.2.2 Về đội ngũ thực hiện
3.2.3 Về giải pháp cụ thể
- sửa đổi, bồ sung một số điều luật cho phù hợp với tình hình thực tế
- Hoàn thiện pháp luật và cải cách thủ tục hành chính
- công khai minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong hoạt động khai thác khoáng sản
- tăng cường sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bvmt_trong_ktks_doc_5005.doc