- Trong ứng xử, họ cởi mở, chan hoà, dễ kết thân, dễ hoà vào với cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không đặt nặng vấn đề môm đăng hộ đối.
- Người Nam Bộ xưa là những người ít học, và cũng không coi việc học hành là con đường tiến thân, đổi đời như người nông dân miền Bắc. Bởi vậy họ không phải là những con người sống nội tâm, chuộng suy tư mà là những người ưa hành động. Vì thế ứng xử của họ thường bộc trực, thẳng thắn;ngôn từ ít chữ nghĩa, văn chương chào đón.
- Người Nam Bộ thích kết thân bạn bè để cùng nhau chè chén, ăn chơi xả láng, và cũng khá là ồn ào nhưng sẵn trong họ một cái gì đó mang nặng âm điệu sầu tư. Nên trong cuộc vui họ ham mê hát xướng, hát bội, hát cải lương, nhất là các âm điệu vọng cổ chứa chất sầu vọng. Đó là hai mặt trong tâm lý con người Nam Bộ.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 14842 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phong tục tập quán 3 miền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHỦ ĐỀ:
“PHONG TỤC TẬP QUÁN 3 MIỀN VIỆT NAM”
I,GIỚI THIỆU VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM:
-Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người Việt.
Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn hóa dân tộc/quốc gia.
Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm thứ ba, văn hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc.
-Đặc trưng:
+ Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh,người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có nhữnglễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ từ truyền thống đến hiện đại của văn hóa,nghệ thuật.
+Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây Bắc và Đông Bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước ở Bắc Trung Bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
+Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
-Tổ chức xã hội: Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa là Làng (thôn) và Nước (quốc gia). Tục ngữ Việt Nam có câu "Làng đi đôi với nước". Các đơn vị tổ chức trung gian là Huyện và Tỉnh.
-Văn hóa Việt Nam theo quan điểm dân tộc học:
+ Tín ngưỡng:
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng ngày họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. Người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hung dân tộc, các vị thần trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt,người Hoa thờ các vị thần Quan Công,Thần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome....
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một như một hình thức thông báo với tổ tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
+ Tôn giáo:
Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm:Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo Giáo(được gọi là "Tam giáo"). Có một số tôn giáo khác như Công giáo Rome,Cao Đài và Hòa Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác gồm Phật giáo Tiểu Thừa, Tin lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người không có tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến các địa điểm tôn giáo vài lần trong một năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc Thuộc , đời sống tinh thần nói chung của người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa.
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu Thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng bẳng sông Cửu Long.
Tín đồ đạo Cao Đài ở Tây Ninh:
Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo . Và đến lượt mình, các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng tạo, hay nói cách khác các tôn giáo mới du nhập đã được bản địa hoá để phù hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người dân địa phương
Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo, từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines.
Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ Đốc là Tin lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,...ước tính hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang,Tây Ninh vào thế kỷ 19
Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ởNam Trung Bộ và Tây nguyên.
+ Ngôn ngữ: Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ:
Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt, người Thổ
Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán Chay, Lào,...
Nhóm Dao-Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà Thẻn,...
Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ,...
Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,...
Nhóm Môn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, Xinh Mun,...
Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,...
Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,...
Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương ngữ Tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam
II,PHONG TỤC TẬP QUÁN BA MIỀN VIỆT NAM:
Địa điểm của 3 miền:
+ Miền Bắc: Tây Bắc Bộ,Đông Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng.
+ Miền Trung: Bắc Trung Bộ,Tây Nguyên, Nam Trung Bộ.
+Miền Nam:Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
1,Phong tục: "Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, 'Tục" là thói quen lâu đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội....Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc ta, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương trải qua hàng nghìn năm người Việt cùng một số dân tộc khác vẫn giữ được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu bắt nguồn từ truyện sự tích Trầu Cau để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng của người Việt, theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người Việt Nam.
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân tộc khác. Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol Chnam Thmay(khoảng tháng 4) của người Khmer,Kate (khoảng tháng 10) của người Chăm Bàlamôm,...TừTết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên Tiêu,Tết Đoan Ngọ ,Tết Trung Thu ,Tết Thanh Minh.
*Miền Bắc: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ / Cây nêu ngày Tết bánh chưng xanh”Trước Tết miền Bắc sẽ lành lạnh trong những hạt mưa xuân nhè nhẹ. Chợ Tết miền Bắc cũng sẽ có nhiều loại trái cây đủ để chuẩn bị cho mâm ngũ quả thật đẹp. Tuy thế mân ngũ quả miền Bắc không đọc lái như miền Nam để thành một câu trọn vẹn ý nghĩa nhưng trước hết là phải đẹp. Một nải chuối thật to để cầu cho việc con cháu đủ đầy, một trái bưởi cùng những chiếc lá xanh như trụ cột gia đình, rồi sẽ đan xen vào đó những trái quất vàng tươi, những trái táo đỏ rực.
Hai bên của tủ thờ sẽ để 2 cây mía cho ông bà ông vải chống gậy lên trời cầu bình an cho con cháu. Tủ thờ bao giờ cũng được bày biện đẹp mắt nhất, vì người khách khi bước vào nhà sẽ nhìn thấy nó đầu tiên. Ngoài mâm ngũ quả ra, trên đó còn được bày biện bát đũa, những gói bánh nhiều màu, những gói kẹo to thật là to. Khi khách tới chơi nhà sẽ đánh giá được tình hình kinh tế của gia đình trong năm trước như thế nào qua những đồ được bày biện.
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Về ẩm thực miền Bắc chắc hẳn ai cũng đã từng nghe câu: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ / Cây nêu ngày Tết bánh chưng xanh” và thấy ngay hương vị Tết Bắc thật đậm đà.
Người miền Bắc có khá nhiều tục kiêng trong ngày Tết như: Kiêng đổ rác, kiêng quét nhà, kiêng cho lửa, kiêng cho nước, tránh nói giông hay chọn người "xông nhà" phải hợp tuổi,...
*Miền Trung: Giao thoa giữa hai miền đất nước
Là miền đất giao thoa nên phong tục tập quán tại các tỉnh miền Trung có nhiều đặc điểm giống với miền Bắc và miền Nam. Mâm ngũ quả tại miền Trung có cách bài trí tương tự như miền Bắc với chuối xanh, bưởi vàng, quất và đặc biệt là trái ớt đỏ.
Nhưng loài hoa người miền Trung hay chơi ngày Tết lại giống miền Nam là hoa mai.
Trên mâm cỗ ngày Tết của người miền Trung, bên cạnh đĩa bánh tét, dưa món, nắm tré, bò ngâm màu trầm, thường có chén (bát nhỏ) tôm chua, xinh như một bông hoa, chói chang đỏ như vầng mặt trời mùa xuân ấm áp.
Dưa món Huế
Ngày Tết người dân miền Trung sẽ kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt trong ngày Tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ gặp xui xẻo. Một số vùng không ăn tôm vì sợ... đi giật lùi như tôm. Nếu ăn trong ngày Tết, công việc sang năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới. Kiêng mua quần áo màu trắng, vải trắng suốt tháng Giêng Âm lịch.
Miền Nam: "Cầu vừa đủ xài thơm"
Khác với mâm ngũ quả miền Bắc và miền Trung (quả gì cũng có thể bày lên) mâm ngũ quả miền Nam thì được bài trí với năm loại quả kết hợp thành một câu có ý nghĩa: Cầu, dừa (vừa), đủ, xoài (xài), thơm (danh), hoặc sung ( Cầu vừa đủ xài thơm hoặc Cầu vừa đủ xài sung).
Bên cạnh vẻ đẹp của hình khối và màu sắc, và bên cạnh ý nghĩa chung là cầu được quả tam đa, ngũ phúc, mỗi thứ trái cây đều có một ý nghĩa.
Tại miền Trung và miền Nam sẽ không có sắc đào đua thắm nhưng thay vào đó là sắc mai rực rỡ. Hoa mai không chỉ nở rộ vào mùa xuân nơi đất nắng nóng miền Nam, mà còn có thể đọc thành chữ “may” trong may mắn. Mai không chỉ đại diện cho mùa xuân trong tranh tứ quý (mai, lan, cúc, tùng) mà còn đại diện cho con người có tài đức và nhân cách cao thượng (mai, lan, cúc, trúc).
Thay vì người Bắc có món thịt đông cổ truyền thì người miền Nam bao giờ cũng có món thịt trứng kho tàu, những đòn bánh tét thật dài
Ở một số vùng quê Nam bộ có tục kiêng không để cối xay gạo trống vào những ngày đầu năm. Điều này tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm tới. Chính vì vậy, người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.
Ngày Tết có lệ ai đến nhà, bất kể giờ giấc nào, gia chủ cũng dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.
2,Ẩm thực:
-Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam là sự trung dung trong cách pha trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị) để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả hoặc lá non; các gia vị lên men và các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển".
Âm dương phối triển
Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau, như món ăn dễ gây lạnh bụng (tính hàn) buộc phải có gia vị cay nóng (tính nhiệt) đi kèm và ngược lại. Các nguyên liệu tính nóng (ấm) phải được nấu cùng nguyên liệu tính lạnh (mát) để tạo sự cân bằng cho món ăn.
Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ví dụ:
Thịt vịt tính "lạnh", thích hợp ăn vào mùa hè với nước mắm gừng, tính "nóng". Mặt khác, thịt gà và thịt lợn tính "ấm" thích hợp ăn vào mùa đông (trước đây thường chỉ khi đến Tết mới làm thịt lợn, thịt gà).
Thủy sản các loại từ "mát" đến "lạnh" rất thích hợp để sử dụng với gừng,sả,tỏi ("ấm").
Thức ăn cay ("nóng") thường được cân bằng với vị chua, được coi là ("mát")
Trứng vịt lộn ("lạnh"), phải kết hợp với rau răm("nóng").
Bệnh nhân cúm và cảm lạnh phải uống nước gừng, xông bằng lá sả, lá bưởi ("nóng").
Ngũ hành tương sinh
Các nguyên liệu chuẩn bị để trộn nhân chả nem- món ăn kết hợp gần như hoàn hảo các yếu tố âm dương và ngũ hành
Yếu tố
Ngũ hành[3]
Mộc
Hỏa
Thổ
Kim
Thủy
Ngũ vị
Chua
Đắng
Ngọt
Cay
Mặn
Ngũ tạng
Mật
Lòng non
Dạ dày
Lòng già
Thận
Ngũ sắc
Xanh
Đỏ
Vàng
Trắng
Đen
Ngũ quan
Thị giác
Vị giác
Xúc giác
Khứu giác
Thính giác
Ngũ chất
Chất bột
Chất béo
Chất đạm
Muối khoáng
Nước
*Ẩm thực miền Bắc
Ẩm thực miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá, trai, hến v.v. và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao Ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, bún thang, bún chả, các món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị đặc sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng.
Ẩm thực miền Trung
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm. Các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tôm chua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương không có nhiều sản vật mà ẩm thực hoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món khác nhau.
Ẩm thực miền Nam
Ẩm thực miền Nam, là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của ẩm thực Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, có đặc điểm là thường gia thêm đường và hay sử dụng sữa dừa (nước cốt và nước dão của dừa). Nền ẩm thực này cũng sản sinh ra vô số loại mắm khô (như mắm cá sặc, mắm bò hóc, mắm ba khía v.v.). Ẩm thực miền Nam cũng dùng nhiều đồ hải sản nước mặn và nước lợ hơn miền Bắc (các loại cá, tôm, cua, ốc biển), và rất đặc biệt với những món ăn dân dã, đặc thù của một thời đi mở cõi, hiện nay nhiều khi đã trở thành đặc sản: chuột đồng khìa nước dừa, dơi quạ hấp chao, rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh, đuông dừa, đuông đất hoặc đuông chà là, vọp chong, cá lóc nướng trui v.v.
3.Trang phục:
Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng mặc yếm. Váy thì váy dài với dây thắt lưng. Các loại nón thông thường như thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì người phụ nữ thường mặc áo dài. Các thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ trang sức truyền thống như trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như tròn, trái tim, bà lai với các khăn trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử dụng rộng rãi nhất cho phụ nữ thời xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt.[18]
*Miền Bắc:
*Miền Trung:
Miền Nam:
4,Lễ hội:
-Lối sống 3 miền: mỗi nơi một nỗi niềm riêng
*Miền Bắc:
- Tính cách chung của người miền Bắc: tinh tế, thâm thúy, sâu sắc, mặt khác bảo thủ hoài cổ, lối nói vòng vo tam quốc.
- Nơi xuất phát các luồng di dân đi các nơi khác. Bởi thế mà người miền Bắc thì có “anh cả”, còn miền Nam thì anh cả được gọi là “ anh hai”.
- Có truyền thống ăn học, tầng lớp trí thức đông đảo, luôn đề cao hệ thống trường sở và chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài đã có cách đay gần ngàn năm.
- Người Bắc có tính khoe khoang (hay khoe giàu), rất trọng sĩ diện.
- Văn hoá “quà” trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống.
- Phụ nữ miền Bắc nổi tiếng về sự đảm đang, thủy chung, có sự hiểu biết rộng nhưng vẫn còn đâu đó (dù là rất ít) những chị em bị ảnh hưởng bởi những phong tục tập quán xưa kia, vẫn khép kín trong lối tư duy xưa cũ.
*Miền Trung:
- Người miền Trung cần cù, chịu thương, chịu khó, hiếu học, tiết kiệm.
- Phụ nữ miền Trung cần cù chịu khó, có sức chịu đựng rất cao trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, thùy mị đoan trang nhưng sống khép kín.
- Do vùng đất khắc nghiệt, nên tính cách người miền trung thường hay nóng nảy (Nghèo khổ là nỗi buồn ám ảnh nhất, gay gắt nhất. Vì thế con người miền Trung luôn là những con người dễ cáu gắt, bực tức; Sống trong sự đe doạ thường trực, người miền Trung chịu ảnh hưởng bức bối thường xuyên. Nhu cầu đột phá và khả năng bị stress rất cao.), khá keo kiệt (Người miền Trung khó thay đổi nhanh nếp sống, cách sống nên họ thích “ăn chắc, mặc bền), phân chia thì rạch ròi.
- Chính yếu tố này đã tạo ra những dấu ấn đặc biệt. Hò Sông Mã, hát giặm, hát ví Nghệ Tĩnh, ca Huế, hò Huế, dân ca Nam Trung bộ và Nhã nhạc cung đình Huế - cả thảy có 7 loại hình, vượt trội so với 4 ở miền Bắc (có Hát rống quân; Hát xảm; Hát quan họ; Hát ghẹo Phú Thọ) và 1 ở miền Nam (Dân ca Nam bộ). Ca dao, dân ca miền Trung không lả lướt, uyển nhẹ như dân ca Bắc bộ, không có cái tôi cô đơn, khắc khoải và sâu thẳm như dân ca Nam Bộ nhưng thật da diết và nhiều lắm những trăn trở, những nỗi buồn.
Ca dao, dân ca miền Trung không có được nhịp điệu tươi vui như “Tình bằng có cái trống cơm” hay là điệu nhí nhảnh, rộn rã như “Ới con ngựa, ngựa ô”, mà man mác buồn, nỗi cám cảnh tụ lại thành những tiếng thở dài - đó là giai điệu chính của những câu hò, câu hát.
- Miền trung khắc nghiệt, cay đắng của cuộc sống đã tạo nên nhu cầu bứt phá, thay đổi cũng như làm nên khả năng chịu đựng đến mức phi thường. Rất nhiều người Thanh Nghệ đã đi theo Nguyễn Hoàng. Không ít người miền Trung đã thành đạt, có tiếng tăm từ cái nhu cầu bứt phá. Sự gan lỳ, ý nghĩ chấp nhận, liều mình đã làm cho miền Trung tự lâu đời là cái nôi thành công của Lê Lợi, nơi sinh ra của kiêu binh thời Trịnh Nguyễn, bãi chiến trường của nhiều cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà Bắc Trung bộ là nơi đến của vua Hàm Nghi. Càng không ngẫu nhiên miền Trung đã sinh ra những con người mà sự nghiệp của họ gắn liền với sự bất tử như Lê Lợi, Nguyễn Hoàng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp và Hồ Chí Minh...
- Đất miền Trung đã “phát minh” ra nhiều từ ngạo mạn. Huế có từ “chơ mấy” (Mua nhà hết vài trăm cây chớ mấy). Quảng Trị có từ “vẹ” (Tau vẹ mà mi không nghe). Nghệ Tĩnh có từ “phút mốt”(Chuyện nớ tau làm phút mốt. Một phút và một ... giây?). Đà Nẵng, Quảng Nam có từ “nghe chưa”( Em kể...nghe chưa; em nói...nghe chưa...)... Đó là kết quả của sự kết hợp giữa tài năng với sự khốn cùng.
* Miền Nam:
- Người Nam Bộ thì hướng ngoại, cởi mở, bộc trực, thẳng thắn, thích làm ăn lớn, thích phiêu lưu mạo hiểm, rất trọng nghĩa khinh tài.
- Là vùng đất mới, trên vai không trĩu nặng truyền thống hàng ngàn năm đã khiến con người Nam Bộ trở nên mạnh bạo, năng động, cởi mở…
- Phụ nữ miền Nam là mẫu người mạnh mẽ trong cuộc sống, phóng khoáng, rộng rãi, thích khám phá cái mới lạ nhưng lại khá thực dụng.
- Tính cách Nam Bộ là một khía cạnh văn hoá ứng xử và để lại dấu ấn rõ rệt trong mọi mặt đời sống văn hoá. Người Nam Bộ được Trịnh Hoài Đức cho là những người “trọng nghĩa khinh tài”, Lê Quý Đôn thì coi người Nam Bộ là “dân dám làm ăn lớn”, người nước ngoài thì khái quát “hiếu khách hơn bất kỳ nơi nào ở Châu Á”.
- Một phần người dân Nam Bộ từ gốc gác dân tội đồ, lưu tán đã tôi luyện ở họ tính mạo hiểm, thích nay đây mai đó nhưng vẫn hướng về cội nguồn. Ở nơi đâu họ đặt chân tới thì sẽ mọc lên các miếu thờ vọng về cố hương.
- Những người khai phá vùng đất mới này là những người coi nghĩa khí làm đầu, họ cư xử hào hiệp, coi khinh tiền tài, có thể vì nghĩa khí mà xả thân không nuối tiếc. Họ còn là những người mến khách, thông cảm, quý trọng nhau có thể nhường cơm xẻ áo.
- Trong ứng xử, họ cởi mở, chan hoà, dễ kết thân, dễ hoà vào với cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không đặt nặng vấn đề môm đăng hộ đối.
- Người Nam Bộ xưa là những người ít học, và cũng không coi việc học hành là con đường tiến thân, đổi đời như người nông dân miền Bắc. Bởi vậy họ không phải là những con người sống nội tâm, chuộng suy tư mà là những người ưa hành động. Vì thế ứng xử của họ thường bộc trực, thẳng thắn;ngôn từ ít chữ nghĩa, văn chương chào đón.
- Người Nam Bộ thích kết thân bạn bè để cùng nhau chè chén, ăn chơi xả láng, và cũng khá là ồn ào nhưng sẵn trong họ một cái gì đó mang nặng âm điệu sầu tư. Nên trong cuộc vui họ ham mê hát xướng, hát bội, hát cải lương, nhất là các âm điệu vọng cổ chứa chất sầu vọng. Đó là hai mặt trong tâm lý con người Nam Bộ.
- Họ còn là những người sẵn sàng tiếp nhận và hướng về cái mới rất nhanh, nhạy cảm với cái mới trong cả việc làm ăn, lẫn vui chơi giải trí.
- Nam Bộ có những nét riêng so với các vùng đất có bề dày lịch sử như Bắc Bộ, Trung Bộ đó là vùng đất giàu sức trẻ. Vị thế địa chính trị, địa văn hoá của Nam Bộ, khiến nó trở thành trung tâm mà quá trình tiếp biến văn hoá diễn ra nhanh chóng cả bề mặt lẫn bề sâu, cả về lượng và chất tạo cho Nam Bộ có những đặc thù riêng.
5,Võ thuật:
Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ thuật Việt Nam có nội hàm khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu) vốn thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ 20 trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả những môn phái mới sinh thành trong thời điểm hiện tại, và bao quát cả những võ phái đã phát triển trong suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam.
Các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ Thuật Cổ Truyền" vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:
Sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú;
Bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn), khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay;
Bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản);
Kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa hình, nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người;
Tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực" - dựa vào sức lực đối phương để triệt hạ đối phương.
*Miền Bắc:
Sơn Đông Không Động
Hoàng quyền
Nhất Nam (võ Hét)
Võ Vật Liễu Đôi
Thăng Long Võ Đạo
Nam Hồng Sơn
Thanh Phong Võ Đạo
Bắc Việt Võ
Uy Long Môn
*Miền Trung:
Tây Sơn Võ Đạo
Bình Thái Đạo
Áo VảiVõ Kinh Vạn An
Phước Sơn Võ Đạo
Bạch Hổ lâm
*Miền Nam:
Bạch Hổ võ phái
Tân Khánh Bà Trà
Kim Kê
Thanh Long Võ Đạo
Bình Định Sa Long Cương
Trúc Lâm Thái Hư
Việt Đạo Quán
Tây Sơn Bình Định
Hóa Quyền Đạo [1]
Hắc Long
Nội Gia Võ Đạo Việt Nam [2]
Việt Nam Quyền Đạo [3]
Môn Phái Hồng Mi Đạo Nhơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chu_de_869.docx