Lời mở đầu
Trong đời sống xã hội các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng, điều này cho thấy việc thoả mãn nhu cầu của cuộc sống phụ thuộc vào khả năng lao động của con người.
Tuy nhiên, trong cuộc đời mỗi con người không phải lúc nào cũng “xuôi chiều mát mái” không phải lúc nào mọi việc cũng như ý muốn của chủ quan của họ và trong tất cả mọi việc dù cố gắng hòan thiện để có được kết quả tối ưu nhất thì con người cũng không tránh khỏi những vấp váp, trở ngại. Lao động tạo ra thu nhập, lao động giúp con người có cơ sở để tồn tại, nhưng cũng chính trong quá trình đó có nhiều trường hợp xảy ra gây cho con người bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm đau, tai nạn, già yếu, thất nghiệp, nghèo đói, chết Những rủi ro này là khó có thể tránh khỏi và dự báo trước được. Mỗi khi như vậy, con người phải tìm mọi cách để khắc phục. Tập hợp các rủi ro, bất lợi của các cá nhân nêu trên chính là rủi ro có tính xã hội, thậm chí lại có tính toàn cầu đòi hỏi toàn nhân loại phải giải quyết. Để giải quyết tốt những vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản của mỗi nhà nước là phải xây dựng hệ thống chính sách xã hội mà an sinh xã hội là loại chính sách xã hội phổ biến.
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển hệ thống ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng và linh hoạt cho mọi thành viên trong cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là những “rủi ro xã hội”.
MỤC LỤC:
PHẦN I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI.
1. Khái niệm an sinh xã hội
2. Ý nghĩa an sinh xã hội.
3. Các nguyên tắc.
4. Đặc trưng.
5. Cấu trúc nội dung của hệ thống an sinh xã hội.
PHẦN II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN AN SINH XÃ HỘI.
1. Sự xuất hiện của an sinh xã hội
2. Sự hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Vỉệt Nam.
PHẦN III. THỰC TRẠNG CỦA AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1. Sự quản lý của nhà nước đối với an sinh xã hội.
2. Kết quả đạt được.
3. Hạn chế.
4. Hướng giải quyết.
PHẦN IV. KẾT LUẬN.
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8712 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam.
Thành viên nhóm:
PHẠM THỊ KHUYÊN
TRƯƠNG THỊ VÂN ANH
LÊ XUÂN TRƯỜNG
LỚP:KH10HCH1
Lời mở đầu
Trong đời sống xã hội các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng, điều này cho thấy việc thoả mãn nhu cầu của cuộc sống phụ thuộc vào khả năng lao động của con người.
Tuy nhiên, trong cuộc đời mỗi con người không phải lúc nào cũng “xuôi chiều mát mái” không phải lúc nào mọi việc cũng như ý muốn của chủ quan của họ và trong tất cả mọi việc dù cố gắng hòan thiện để có được kết quả tối ưu nhất thì con người cũng không tránh khỏi những vấp váp, trở ngại. Lao động tạo ra thu nhập, lao động giúp con người có cơ sở để tồn tại, nhưng cũng chính trong quá trình đó có nhiều trường hợp xảy ra gây cho con người bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm đau, tai nạn, già yếu, thất nghiệp, nghèo đói, chết… Những rủi ro này là khó có thể tránh khỏi và dự báo trước được. Mỗi khi như vậy, con người phải tìm mọi cách để khắc phục. Tập hợp các rủi ro, bất lợi của các cá nhân nêu trên chính là rủi ro có tính xã hội, thậm chí lại có tính toàn cầu đòi hỏi toàn nhân loại phải giải quyết. Để giải quyết tốt những vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản của mỗi nhà nước là phải xây dựng hệ thống chính sách xã hội mà an sinh xã hội là loại chính sách xã hội phổ biến.
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển hệ thống ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng và linh hoạt cho mọi thành viên trong cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là những “rủi ro xã hội”.
MỤC LỤC:
PHẦN I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI.
1. Khái niệm an sinh xã hội
2. Ý nghĩa an sinh xã hội.
3. Các nguyên tắc.
4. Đặc trưng.
5. Cấu trúc nội dung của hệ thống an sinh xã hội.
PHẦN II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN AN SINH XÃ HỘI.
1. Sự xuất hiện của an sinh xã hội
2. Sự hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Vỉệt Nam.
PHẦN III. THỰC TRẠNG CỦA AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1. Sự quản lý của nhà nước đối với an sinh xã hội.
2. Kết quả đạt được.
3. Hạn chế.
4. Hướng giải quyết.
PHẦN IV. KẾT LUẬN.
PHẦN I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI
1. Khái niệm an sinh xã hội.
An sinh xã hội là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social security (Tiếng Anh) hoặc từ sécurites sociale (Tiếng Pháp). Đây là thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này an sinh xã hội được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.
Thuật ngữ an sinh xã hội cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận: “an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đinh đông con.”
An sinh xã hội là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên có thể hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai, địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đa có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội. Có quan điểm cho rằng an sinh xã hội trước hết là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm giúp đỡ chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc bị giảm quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
An sinh xã hội còn thể hiện sự giúp đỡ, chăm sóc về văn hoá, y tế và trợ giúp cho các gia đinh góp phần ổn địnhvà thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói, khái niệm an sinh xã hội hiểu một cách chung nhất đó là sự bù đắp một phần thu nhập cho người lao động và gia đinh khi họ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất hoặc có những sự kiện pháp lý khác, cho người có công với cách mạng; cho những người già cô đơn không nơi nương tựa, cho trẻ em mồ côi, cho người tàn tật, cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, dịch bệnh và cho những người nghèo đói trong xã hội.
2. Ý nghĩa của an sinh xã hội.
An sinh xã hội là một biện pháp cuẩ chính sách xã hội và là một trong những chỉ báo quan trọng về định hướng XHCN ở nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống. An sinh xã hội vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có giá trị về mặt xã hội, đặc biệt nó thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc. An sinh xã hội có các ý nghĩa cụ thể sau:
An sinh xã hội lấy con người làm trung tâm, coi quyền con người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10.12.1948 đã khẳng định: “ tất cả mọi người, với tư cách là thành viên xã hội có quyền hưởng bảo đảm xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho sự tự do phát triển con người”
An sinh xã hội vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo ra cơ hội giúp họ hoà nhập vào cộng đồng.
An sinh xã hội góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu cơ bản của an sinh xã hội là tạo một môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho người lao động, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. An sinh xã hội phải thực sự là công cụ phát triển tiến bộ xã hội. Ngoài việc giảm bớt, hạn chế những khó khăn cho đối tượng nghèo đói, an sinh xã hội còn phải đa dạng hoá các hình thức hoạt động khác nhau đối với các đối tượng khác nhau để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
An sinh xã hội thể hiện truyền thống tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau của cộng đồng. Trên cơ sở sự liên kết, hợp tác của cộng đồng những rủi ro hoạn nạn được chia sẻ, đây là yếu tố phát huy sức mạnh của cộng đồng, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc ta.
An sinh xã hội góp phần phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có công với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa…..
3. Các nguyên tắc
3.1. Nhà nước quản lý hoạt động an sinh xã hội
- Nhà nước có trách nhiệm việc tổ chức các biện pháp bảo đảm xã hội đối với các đối tượng bị giảm hoặc mất thu nhập.
- Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động của an sinh xã hội
- Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của an sinh xã hội.
- Nhà nước tăng cương công tác thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về an sinh xã hội.
- Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động an sinh xã hội trong phạm vi cả nước.
3.2. Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập do bị mất việc làm, do gặp thiên tai, hoả hoạn hoặc các rủi ro khác.
3.3. Thực hiện an sinh xã hội trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ giúp của xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng.
3.4. An sinh xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện mục đích xã hội vì cộng đồng.
3.5. Mức an sinh xã hội nhằm trợ giúp bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho những người thụ hưởng.
3.6. Hoạt động an sinh xã hội được thực hiện trên cơ sở mức đóng góp của các bên, sự trợ giúp của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cũng như là sự bảo trợ của nhà nước.
4. Đặc trưng cơ bản của an sinh xã hội.
4.1. Đối tượng của an sinh xã hội bao gồm những nhóm đối tượng sau:
+ Người lao động và gia đinh họ.
+ Người có công với cách mạng, người đóng góp công sức cho tổ quốc.
+ Người già cô đơn, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật, người nghèo
khó, túng thiếu.
+ Người gặp thiên tai hoả hoạn, địch họa hoặc các rủi ro khác.
4.2. An sinh xã hội nhằm bù đắp một phần thu nhập cho cho những người bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động.
4.3. An sinh xã hội là sự trợ giúp vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Sự thụ hưởng của các bên được đảm bảo thực hiện trên cơ sở sự đóng góp nhưng cũng tính đến yếu tố cộng đồng, yếu tố nhân đạo.
4.4. Nguồn quỹ của an sinh xã hội rất đa dạng có thể do sự hỗ trợ từ ngân sách của nhà nước, của người lao động, người sử dụng lao động, có thể do sự hỗ trợ quyên góp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
4.5. Về bản chất, an sinh xã hội là sự san sẻ trách nhiệm của mọi người đối với những người gặp rủi ro, khó khăn hoặc những yếu tố khác mà bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
5. Cấu trúc nội dung của hệ thống an sinh xã hội.
5.1. Bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội vẫn luôn được coi là nòng cốt của hệ thống an sinh xã hội. Theo yêu cầu chung của các hình thức bảo hiểm, bên có nhu cầu bảo hiểm, người lao động phải tham gia đóng quỹ theo quy định. Nhà nước tham gia với tư cách là người tổ chức, quản lý, bảo trợ cho hình thức bảo hiểm này để đảm bảo tính xã hội và mục đích tương trợ cộng đồng cho tất cả các thành viên. Việc xác định các đối tượng đóng quỹ, quản lý đúng quỹ, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội phải thực hiện đúng mục đích, công bằng...nên phải đặt trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, được gọi là quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Như vậy, quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chỉ trả các chế độ bảo hiểm xã hội, được quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đinh họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Cứu trợ xã hội.
Trong cuộc sống, một số người không may gặp phải những rủi ro do thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác mà bản thân họ cũng như những người thân của họ không thể tự khắc phục được. Bên cạnh đó, còn có một số người bị thiệt thòi, yếu thế bởi nhiều lý do khác nhau như người gìa cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Những đối tượng này cần đến sự trợ giúp của nhà nước, của xã hội, của cộng đồng để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, có điều kiện để tồn tại và có cơ hội tái hòa nhập vào cộng đồng. Với tư cách là chủ thể quản lý và đại diện chính thức cho toàn xã hội, các nhà nước cũng đảm bảo và tổ chức cả cộng đồng thực hiện việc trợ giúp cho các gia đinh, cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn nói trên. Tuy là vấn đề trợ giúp nhưng nó cũng thuộc lĩnh vực phân phối trong xã hội, đặc biệt khi ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện nên cần có sự công bằng và hợp lý theo những nguyên tắc chung. Để đảm bảo yêu cầu đó, pháp luật cũng điều chỉnh vấn đề này ở mức độ phù hợp. Quan hệ cứu tế, trợ giúp của nhà nước, xã hội và cộng đồng đối với những đối tượng nói trên trong khuôn khổ những quy định của pháp luật được gọi là quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội.
Như vậy, quan hệ hợp pháp về cứu trợ xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong việc người cứu trợ hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và nhu cầu thiết yếu để giải quyết khó khăn cho người cần cứu trợ, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Ưu đãi xã hội.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của nước ta, đất nước đa trải qua một thời gian dài có chiến tranh, một bộ phận dân cư, nhiều thế hệ đa có những đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Họ có thể đa hy sinh cả tính mạng, một phần thân thể và cả những người thân yêu của mình cho đất nước. Ngày nay, khi đất nước đa bình yên và phát triển, họ trở thành những người có công với nước, được Nhà nước và dân tộc ghi nhận. Những người có công hoặc người thân của họ xứng đang được hưởng những chế độ ưu tiên, ưu đãi đó không chỉ dựa vào lòng biết ơn của các thành viên trong xã hội mà phải được pháp luật ghi nhận, trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước và quyền của người có công. Việc thực hiện trách nhiệm đó đa hình thành nên quan hệ giữa Nhà nước, người ưu đai và những người có công được ưu đãi. Đó là một trong những quan hệ xã hội quan trọng được pháp luật điều chỉnh, trở thành quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội.
Như vậy, quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội là quan hệ xã hội hình thành trong việc Nhà nước ưu đai người có công và một số thành viên gia đinh họ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Dưới góc độ kinh tế, ưu đãi xã hội là sự đai ngộ về mặt vật chất cũng như tinh thần của nhà nước đối với người có công.
Dưới góc độ pháp luật, ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà nước về các hình thức, nội dung, biện pháp chăm sóc, đai ngộ và đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần của những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đinh liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng lao động.
Dịch vụ xã hội.
Là việc nhà nước cung cấp miễn phí một số dịch vụ công cộng nhằm bảo vệ, giúp đỡ tạo cơ hội cho con người phát triển khi gặp phải hòan cảnh, tình huống khó khăn, ngoài dự đoán….
Chủ yếu là các dịch vụ: kế hoạch hóa gia đình, dự phòng y tế, chương trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em,…..
Ngoài ra, an sinh xã hội còn tồn tại dưới một số hình thức khác như: Chăm sóc xã hội, Dịch vụ xã hội, Các đảm bảo khác cung cấp bởi người sử dụng lao động…..
PHẦN II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA AN SINH XÃ HỘI VIỆT NAM.
Sự xuất hiện của an sinh xã hội.
Lao động tạo ra con người và thông qua quá trình này con người tồn tại. Con người ngoài việc chịu sự tác động với nhau con người còn phải chịu sự tác động của tự nhiên nhưng không phải lúc nào con người cũng gặp những may mắn, thuận lợi, gặp những điều kiện sinh sống bình thường mà trong một số trường hợp con người đa phải đối mặt với những thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn, ốm đau hay các biến cố rủi ro khác nhau. Để tồn tại và đối mặt với những vấn đề đó con người đa liên kết hợp tác với nhau lựa chọn ra những phương thức phù hợp nhằm trợ giúp nhau trong cuộc sống. Hình thức “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” là hình thức sơ khai và giản đơn nhất được cộng đồng, gia đinh , các thành viên trong xã hội lựa chọn sử dụng. Bên cạnh đó, còn có một số các biện pháp trợ giúp khác nhau có tính chất tự nguyện của cộng đồng, tương thân tương ái đối với các đối tượng khác nhau trong xã hội.
Trong quá trình phát triển xã hội, nền công nghiệp và kinh tế thị trường phát triển đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội làm xuất hiện việc thuê mướn nhân công. Song song với sự tồn tại đó, cuộc sống của thành viên gia đinh những nhân công này phụ thuộc mật thiết vào mức thu nhập chính của họ. Nhưng bản thân họ lại phải chịu những rủi ro, bất trắc do đó để tạo cơ sở ổn định cuộc sống, những nhân công này đã thông qua một số các hoạt động của quỹ tương tế của các hội đoàn, hội bằng hữu do những người làm thuê liên kết lập ra. Bên cạnh đó, những nhân công này phải hợp tác với nhau để được làm việc trong những điều kiện lao động bảo đảm nhằm giảm thiểu các yếu tố rủi ro xảy ra. Đây là một trong những việc làm cần thiết buộc giới chủ phải quan tâm xem xét tạo điều kiện cho người lao động ổn định cuộc sống. Một trong các hình thức hạn chế những rủi ro do ốm đau, do tuổi già, do mất việc làm, do bị tai nạn phải kể đến việc thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau và hệ thống bảo hiểm xã hội tại Đức từ năm 1883 đến 1889 dưới thời thủ tướng Bismark.
Mô hình bảo hiểm xã hội của Đức đang phát triển và lan sang các nước khác như Mỹ, Canada, một số nước ở Châu Phi, Châu á và vùng vịnh Caribe. Ngoài ra một số quốc gia khác trên cơ sở hệ thống bảo hiểm xã hội này đa ban hành một số đạo luật riêng điều chỉnh về các lĩnh vực khác như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tự nguyện, bảo đảm xã hội…
Bên cạnh hình thức bảo hiểm xã hội, các hình thức tương tế, cứu tế xã hội, các hình thức cứu giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh, các dịch vụ công cộng như dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc người già, dịch vụ bảo vệ trẻ mồ côi, người tàn tật, người goá bụa… từng bước được phát triển và hoàn thiện. Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và được ghi nhận trong các đạo luật của các nước như Đạo luật an sinh xã hội của Mỹ năm 1935. Thuật ngữ an sinh xã hội được sử dụng trong Hiến chương Đại Tây Dương năm 1931 và được ghi nhận cụ thể trong Công ước số 102 Công ước các mức tối thiểu về an toàn xã hội ngày 27.4.1952 bao gồm các chế độ về chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ giúp thất nghiệp, trợ giúp tuổi già, trợ giúp
2. Sự hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
Hệ thống an sinh xã hội mà đặc biệt là cơ chế bảo hiểm y tế đã hình thành rất sớm ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này đã khẳng định tầm nhìn của những người lãnh đạo và chính sách xã hội của nhà nước ta – nhà nước của giai cấp công – nông, của những người lao động.
Tuy nhiên khi nói đến an sinh xã hội thì phải nói đến bảo hiểm xã hội đó là bộ phận cốt lõi của hệ thống an sinh xã hội và nó cũng được hình thành khá sớm ở Việt Nam. Để phân tích quá trình hình thành và phát triển của an sinh xã hội ở nước ta thì có thể nhìn nhận thông qua quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện bảo hiểm xã hội:
• Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu;
• Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức;
• Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức;
• Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 ấn định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân sản xuất.
Những văn bản trên cho thấy nhà nước ta đã sớm có nhận thức và sớm thực hiện bảo hiểm xã hội theo hình thức hiện đại so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, sớm chứng tỏ là một nhà nước tiên tiến của giai cấp công nhân và người lao động.
Tuy nhiên, phải đến năm 1961, chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thống nhất toàn quốc (riêng thời kỳ 61-75: toàn miền Bắc) sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại trợ cấp (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất). Qũy bảo hiểm xã hội, lúc này, là qũy độc lập thuộc ngân sách nhà nước nhưng nguồn thu chủ yếu từ sự tài trợ của ngân sách nhà nước, tiếp đến là sự đóng góp từ các cơ quan và xí nghiệp quốc doanh theo % trên tổng qũy lương (từ 1962 đến 1987: 4,7%, từ 1987 đến 1993: 15%) còn công nhân và viên chức không cần đóng phí bảo hiểm xã hội. Việc quản lý bảo hiểm xã hội được giao cho Bộ lao động, Thương binh và Xã hội và Tổng công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam) đảm trách. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với xã viên hợp tác xã các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng được ban hành (Quyết định 292/BCH-LĐ ngày 15/2/82 của LHX trung ương) nhưng chỉ được thực hiện trong thời gian ngắn ngủi, từ năm 1982 đến năm 1989.
Kể từ sau Đại hội VII của Đảng công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, trong đó việc đổi mới bảo hiểm xã hội để phù hợp với điều kiện kinh tế -xã hội mới là một yêu cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu bằng việc tách với một bộ phận cấu thành của bảo hiểm xã hội - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau cho người lao động thành một qũy độc lập: Bảo hiểm y tế (Nghị định 299/HĐBT) ngày 15-8-1992 ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế) với việc qui định không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng phải tham gia đóng phí. Tiếp theo đó, ngày 22 tháng 6 năm 1993, Chính phủ lại ban hành Nghị định 43/CP qui định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện bảo hiểm xã hội chằm vào mục đích xóa sự bao cấp của ngân sách nhà nước đối với bảo hiểm xã hội, mở rộng diện bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước như trước đây mà đối với tất cả người lao động hưởng lương, qui định lại nguồn thu chi, cơ cấu nguồn thu dùng cho mỗi loại chế độ…
Việc cải cách thực sự đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp qui được ban hành từ năm 1995:
• Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội;
• Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm xã hội Việt Nam;
• Quyết định số 606/ Ttg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của bảo hiểm xã hội Việt Nam;
• Nghị định số 93/1998/NĐ – CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội (ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ) Như đã nêu trên, việc áp dụng bảo hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cùng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ. Hiện nay nội dung thực hiện bảo hiểm xã hội ở Việt Nam theo qui định tại chương XII Bộ LUậT lao động (được Quốc hội thông qua ngày 23/06/1994) bao gồm 5 chế độ sau: Chế độ ốm đau; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ hưu trí; Chế độ tiền tử. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng chế độ chăm sóc y tế (khám và chữa bệnh) theo Điều lệ bảo hiểm y tế. Và đặc biệt là kể từ ngày 21/03/2001, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn được hưởng chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức (Quyết định số 37/2001/QĐ–TTg của Thủ tướng Chính phủ).
Việc thực hiện bảo hiểm xã hội được tiến hành theo 2 hình thức: bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện áp dụng cho 2 nhóm đối tượng khác nhau: người lao động làm công ăn lương và nhóm người lao động tự do (không có người sử dụng lao động ổn định). Như vậy, hiện nay căn cứ vào những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì bảo hiểm xã hội là một chế định pháp lý nhằm bảo vệ người lao động bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động, người sử dụng lao động, cộng với sự hỗ trợ của nhà nước, thực hiện việc trợ cấp vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người tham gia bảo hiểm xã hội và gia đình họ trong các trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo luật định hoặc chết làm họ hoặc gia đình mất hoặc giảm thu nhập bất ngờ.
Ở nước ta, mặc dù đến những năm gần đây, nội dung các chế độ và phương thức quản lí thực hiện mới được đổi mới theo xu thế hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường đang được xây dựng, nhưng nếu tính từ 1945 đến nay, chúng ta đã áp dụng hầu hết các chế độ trợ cấp đã nêu ở trên chứng tỏ nội dung cơ bản của bảo hiểm xâ hội đã được nhận thức và dược áp dụng ở Việt Nam.
PHẦN III THƯC TRẠNG CỦA AN SINH XÃ HỘI.
1. Kết quả đạt được.
- Quy mô dạy nghề tăng nhanh, cơ cấu trình độ chuyển mạnh sang dạy nghề dài hạn (trung cấp nghề, cao đẳng nghề). Theo thống kê, báo cáo của Tổng cục Dạy nghề, trong 9 năm (2001-2009), đã dạy nghề cho 11602,3 nghìn người, năm 2009 quy mô dạy nghề đạt 1707 nghìn người, gấp1,714 lần so với năm 2001, trong đó trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 287,6 nghìn người, chiếm 16,85%; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2009 lên 28 (dự kiến 2010 là 39%). Kết quả này tạo cơ hội thuận lợi cho người lao động tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm trên thị trường lao động.
- Nhờ tăng trưởng kinh tế những năm qua khá cao và ổn định, đồng thời thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, giảm nghèo... nên tình hình việc làm của người lao động đã có nhiều cải thiện. Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, tổng việc làm tăng từ 37,61 triệu năm 2000 lên 46,357 triệu năm 2009, tăng 8,747 triệu, tăng trưởng việc làm bình quân 2,58%/ năm; số việc làm mới được tạo ra các năm 2005 - 2009 bình quân khoảng 1,6 triệu. Trong đó, khoảng 75% là từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 25% từ các chương trình mục tiêu và xuất khẩu lao động. Thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm liên tục, năm 2000 là 6,42% đến năm 2009 giảm xuống khoảng 4,57%.
Hệ thống giao dịch thị trường lao động phát triển đa dạng, rộng khắp, hoạt động ngày càng sôi động, linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động trên thị trường lao động. Kết quả, hàng năm hơn nửa triệu người lao động được tư vấn; khoảng 250 ngàn người đăng ký tìm việc làm ở các trung tâm, trong đó khoảng 85% được trung tâm giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, khoảng 65% có việc làm ổn định.
- Quy mô đối tượng tham gia BHXH tăng nhanh. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2001, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chỉ có 4,8 triệu người, đến năm 2009 tăng lên trên 9,4 triệu người, chiếm 18% lực lượng lao động và có gần 50 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện. Năm 2001, có 11,3 triệu người tham gia BHYT, trong đó có 6,7 triệu người tham gia BHYT bắt buộc. Năm 2008, số đối tượng tham gia BHYT đã tăng lên khoảng 53,3 triệu người, chiếm trên 60% dân số cả nước, trong đó số đối tượng tham gia BHYT bắt buộc là 30 triệu người, khu vực nông thôn chiếm khoảng 20%. Có 13,2 triệu người nghèo tham gia BHYT, trong đó 93% thuộc khu vực nông thôn; gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên tham gia BHYT, trong đó, khu vực nông thôn chiếm 40%. Khoảng 11 triệu người tham gia BHYT tự nguyện, trong đó 66,6% là người dân ở nông thôn.
- Tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm. Theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới tính cho Việt Nam tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58,1% năm 1993, đến năm 2006 còn 16% (Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam -VHLSS(1), của Tổng cục Thống kê), trong 13 năm, đã giảm hơn 2/3 hộ nghèo; theo chuẩn nghèo thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (áp dụng từ năm 2006), đến năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 11,3% (Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội ); người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế và dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở...). Chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị thu hẹp dần, còn khoảng 2 lần; mức độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư chậm lại.
- Số lượng đối tượng được trợ giúp xã hội (TGXH) thường xuyên ngày càng mở rộng và tăng nhanh. Năm 2005 cả nước có khoảng 416 nghìn đối tượng, đến năm 2009 tăng lên trên 1,25 triệu. Trong đó, nhóm người từ 85 tuổi trở lên chiếm 43,1%, nhóm người khuyết tật chiếm 24,5%, người già cô đơn khoảng 9,6%, người tâm thần khoảng 8,6%, người đơn thân nuôi con nhỏ khoảng 7,6%, trẻ em mồ côi khoảng 5% (Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội). Trong lĩnh vực trợ giúp đột xuất, Theo báo cáo của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, từ năm 2000 đến 2008, thiệt hại về dân sinh do thiên tai là rất lớn. Số người bị chết năm thấp nhất là 232 người (năm 2004), năm cao nhất là 680 người (năm 2000). Nhà bị sập, đổ, trôi năm thấp nhất là 4200 nhà (năm 2004), năm cao nhất là 9730 nhà (năm 2002). Người thiếu lương thực năm thấp nhất là 923 ngàn người (năm 2002), năm cao nhất là 1,4 triệu người (năm 2004). Thiệt hại do thiên tai gây ra năm thấp nhất là 1752 tỷ đồng (năm 2002) năm cao nhất lờn tới 5607 tỷ đồng (năm 2005). Hầu hết người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai đều được hỗ trợ, khắc phục hậu quả , khôi phục sản xuất và ổn định đời sống.
2. Những hạn chế.
2.1. Những hạn chế chung.
- Nhận thức về ASXH tuy có bước phát triển, song chưa thật thống nhất và đầy đủ. Trên thực tế nhiều vấn đề vẫn chỉ dừng lại ở tư tưởng chính sách, chưa được quán triệt một cách sâu sắc trong hoạch định chiến lược, cũng như từng chính sách ASXH cụ thể. Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều (hơn 50 loại chính sách), nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. Hệ thống cơ chế, chính sách và luật pháp
ASXH tuy được bổ sung, sửa đổi nhưng chưa theo kịp thực tế luôn biến đổi và còn thiếu cụ thể; nhiều quy định không sát với thực tế nên khó thực hiện, đồng thời nhiều quy định đến nay không còn phù hợp hoặc chưa mở rộng đến toàn thể dân cư, nhất là dân cư vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; chưa bổ sung kịp thời các chính sách mới để đảm bảo ổn định cuộc sống và an sinh cho người dân.
- Thể chế đảm bảo công bằng xã hội trong kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được hoàn thiện. Đặc biệt, chưa phân định rõ vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường trong phân bố các nguồn lực, nhất là phân bố chi cho chính sách ASXH. Trên thực tế, nhiều chính sách xã hội, bao gồm cả ASXH, chưa được đặt đúng và ngang tầm với chính sách kinh tế, còn đi sau chính sách kinh tế, chưa được đầu tư thoả đáng, mà còn phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước; chưa thực sự coi đầu tư cho chính sách xã hội, nhất là ASXH, là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển. Hơn nữa, nhiều vấn đề ASXH cần có sự đầu tư chủ yếu từ ngân sách nhà nước lại có xu hướng xoá bao cấp một cách tràn lan, thị trường hoá bằng bất cứ giá nào; Trong khi đó, một số chính sách lại có xu hướng bao cấp nặng theo kiểu ban phát, với cơ chế xin-cho dẫn đến tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, vào cấp trên và phát sinh tiêu cực.
- Hệ thống sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH không ngừng phát triển. Tuy nhiên, về nhận thức vẫn nghiêng về phát triển các tổ chức sự nghiệp công lập là chính. Sự tham gia của các đối tác xã hội vào hoạt động cung cấp dịch vụ ASXH chưa mạnh, đa dạng và chưa chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ công, chăm sóc đối tượng ASXH dựa vào cộng đồng là chủ yếu theo hướng xã hội hoá. Hơn nữa, cũng chưa có nhận thức thống nhất và đầy đủ về công tác xã hội như một nghề có tính chuyên nghiệp (ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số: 32/2010/QĐ-TTG Phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - “Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều, nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau.” Do đó, đến nay, cũng chưa phát triển và xây dựng được một đội ngũ cán sự xã hội theo hướng chuyên môn hoá (chuyên nghiệp).
- Xã hội càng phát triển, quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường càng mạnh và hội nhập càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thì rủi do xã hội càng nhiều. Do đó, nhu cầu đảm bảo ASXH càng đa dạng, phong phú và đối tượng ASXH tăng nhanh, đang mâu thuẫn với hệ thống ASXH hiện hành còn nhiều bất cập, khả năng mở rộng phạm vi bao phủ và mức trợ cấp còn thấp nên năng lực chống đỡ các rủi ro, biến cố của người dân chưa cao và hiệu quả.
- Việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách, luật pháp về ASXH chưa nghiêm; cải cảch hành chính về ASXH chưa đạt kết quả, còn nhiều rào cản, gây phiền hà, người dân khó tiếp cận; hiện tượng lãng phí, thất thoát, tiêu cực còn xẩy ra ở nhiều nơi. Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về ASXH và áp dụng công nghệ thông tin quản lý lĩnh vực ASXH còn yếu kém , nhất là chưa có mã số ASXH cá nhân.
2.2. Những hạn chế trong một số chính sách cụ thể
- Trong chính sách thị trường lao động và việc làm
Nhận thức về phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề chưa đúng, nên nhiều năm còn coi nhẹ và đào tạo, dạy nghề chưa gắn với sản xuất, với thị trường lao động. Đặc biệt, nhận thức của một bộ phận thanh niên và xã hội về dạy nghề còn thiên lệch, ít coi trọng học nghề để lập thân, lập nghiệp.
Các chính sách chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm; nhất là thiếu chính sách khuyến khích phát triển thị trường lao động như chính sách tiền lương, tiền công chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có chính sách thỏa đáng trọng dụng nhân tài; cũng như chính sách đầu tư mạnh phát triển hệ thống giao dịch của thị trường lao động để kết nối cung-cầu lao động.
Chưa gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển các ngành kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, phát triển doanh nghiệp với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, dạy nghề, sử dụng lao động; chưa có quy định pháp lý bảo hộ thu nhập và tài sản hợp pháp của người lao động, của công dân trong kinh tế thị trường.
Chưa có nhận thức rõ ràng về xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, chưa thiết lập được cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận thực chất giữa các bên về quan hệ lao động, giải quyết tranh chấp lao động và đình công đúng với nguyên tắc thị trường.
Hậu quả là chất lượng lao động quá thấp, thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao; chất lượng việc làm và năng suất lao động cũng rất thấp, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên rất cao; vấn đề việc làm và đời sống của lao động nông nghiệp vùng bị thu hồi đất rất bức xúc,
dòng di chuyển lao động nông thôn-thành thị có xu hướng ngày càng tăng.
- Trong chính sách BHXH
Chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ nguyên
tắc đóng-hưởng mà còn gắn chặt việc điều chỉnh lương hưu với tiền lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; nhận thức chưa đúng về sự
khác biệt giữa BHXH khu vực hành chính, sự nghiệp và khu vực thị trường (doanh nghiệp), nên chưa có sự tách biệt giữa 2 khu vực này.
Vấn đề xây dựng và phát triển quỹ BHXH chưa được vững chắc, có nguy cơ mất cân đối thu-chi trong dài hạn do mô hình BHXH hiện nay chưa hoàn chỉnh và phù hợp. Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH chưa đảm bảo công khai, minh bạch; chưa có đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Cơ quan BHXH hoạt động còn mang tính hành chính, bao cấp, chưa chuyển mạnh sang đơn vị cung cấp dịch vụ công.
- Trong chính sách TGXH
Chưa có nhận thức thật đầy đủ về XĐGN bền vững nên chưa gắn thật chặt giữa tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo; XĐGN chưa gắn chặt với phát triển cộng đồng và phát triển nông thôn.
Một số cơ chế, chính sách hiện hành không còn phù hợp và có nhiều rào cản trong tổ chức thực hiện, dân khó tiếp cận.
Vấn đề nâng cao năng lực thị trường cho người nghèo, biến họ thành chủ thể, chủ động và tích cực trongphát triển kinh tế chưa được quan tâm đúng mực; chưa có hệ thống chính sách khuyến khích hộ nghèo thoát nghèo, vươn lên no ấm; chính sách hiện hành có xu hướng trở lại bao cấp, cơ chế xin-cho, làm cho tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào cấp trên, vào cộng đồng và bệnh thành tích còn nặng.
Nhận thức của các cấp về TGXH trong kinh tế thị trường chưa đầy đủ và toàn diện. Khung pháp lý cho công tác TGXH còn nhiều bất cập
và thể chế hóa ở mức thấp (pháp lệnh); chưa có chính sách khuyến khích chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng; chưa có cơ chế thống nhất quản lý quỹ huy động trong dân cho TGXH, cơ chế tài chính chưa rõ ràng; mức trợ cấp xã hội của Nhà nước còn thấp, mới đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của đối tượng.
Chưa phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ TGXH phù hợp với cơ chế thị trường (cung cấp dịch vụ công). Kết quả XĐGN chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70-80%), tỷ lệ tái nghèo cao(7% -10%); phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng. Tỷ lệ tham gia BHXH trên tổng số lực lượng lao động còn thấp(18%); hơn 20% lao động trong diện BHXH bắt buộc nhưng chưa tham gia; tỷ lệ trốn, nợ đọng BHXH còn lớn (10%). Tỷ lệ đối tượng cần TGXH chưa được hưởng trợ cấp xã hội rất lớn (gần 30%). Mức độ xã hội hóa chưa cao, Theo kết quả điều tra, khảo sát mẫu của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, tỷ lệ chăm sóc đối tượng tại cộng đồng chưa nhiều (khoảng 25% - 30%).
3. Định hướng phát triển.
3.1. Quan điểm định hướng chung phát triển hệ thống an sinh xã hội.
- Phát triển hệ thống ASXH phải đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với khả năng của nền kinh tế Việt Namthời kỳ 2011-2020, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững, thực hiện công bằng xã hội và vì con người.
- Xây dựng và thực hiện hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn nhau, bao gồm thị trường lao động chủ động, BHXH, BHYT và trợ giúp xã hội; đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân; hướng tới bao phủ toàn dân và đảm bảo mức sống tối thiểu cho mọi người, không một ai bị gạt ra bên lề xã hội.
- Phát triển hệ thống ASXH có trọng tâm, trọng điểm, trong đó đặc biệt chú ý đến trẻ em nghèo, người nghèo, người dân tộc thiểu số, nhóm xã hội yếu thế, lao động di cư, bộ phận dân cư bị mất sinh kế do phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất, người bị tác động bởi các chính sách cải cách thể chế và bởi khủng hoảng, suy giảm kinh tế…; tăng cường hiệu quả của các hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực tự an sinh cho mọi người.
- Phát triển hệ thống ASXH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mọi người dân. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện ASXH, đồng thời mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội thông qua các cơ chế khuyến khích, thu hút sự tham gia của các đối tượng vào cung cấp dịch vụ ASXH. Phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc thực hiện các mục tiêu ASXH theo tinh thần xã hội hóa...
- Phát triển hệ thống ASXH với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực mang tính hội nhập quốc tế; tăng cường sự liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế thực hiện chính sách ASXH đối với người lao động trong bối cảnh liên kết kinh tế và di chuyển lao động trên phạm vi quốc tế ngày càng mạnh. “Phát triển hệ thống ASXH là trách nhiệm của cả hệ thống chínhtrị và của mọi người dân.”
3.2. Những định hướng cụ thể
a. Phát triển thị trường lao động gắn kết cung - cầu lao động, nhiều người có việc làm với thu nhập đảm bảo cuộc sống và giảm thất nghiệp.
- Tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng và trình độ cao. Tạo bước đột phá về dạy nghề gắn với nhu cầu của nền kinh tế, của xã hội, nhu cầu việc làm của người lao động và nâng cao chất lượng dạy nghề nhằm tạo cơ hội cho mọi người tự tạo việc làm và tìm việc làm trên thị trường lao động. Đặc biệt, mở rộng quy mô dạy nghề cho người lao động ở nông thôn, phục vụ có hiệu quả cho chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, tạo nhiều việc làm có thu nhập cao, cải thiện đời sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện chính sách xã hội trong dạy nghề, nhất là cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, con em gia đình chính sách xã hội, gia đình nghèo, thanh niên dân tộc thiểu số, người tàn tật còn khả năng lao động...
- Bảo đảm tạo đủ việc làm, việc làm bền vững, có chất lượng và thu nhập cao cho người lao động (cả trong nước và xuất khẩu lao động); đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển thị trường lao động đồng đều giữa các vùng kết nối cung - cầu lao động; tăng lao động làm công ăn lương. Phát triển hệ thống thông tin, phân tích và dự báo thị trường lao động áp dụng công nghệ thông tin hiện đại và nối mạng quốc gia; thiết lập hệ thống kết nối giữa hướng nghiệp-dạy nghề-thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm-doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
b. Phát triển mạnh và đa dạng hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT toàn dân
- Xây dựng một hệ thống BHXH hoàn chỉnh, đa dạng, theo nguyên tắc đóng hưởng, bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nghiên cứu chuyển mô hình bảo hiển hưu trí hiện nay (tọa thu, tọa chi) sang mô hình tài khoản cá nhân danh nghĩa.
- Nghiên cứu tách BHXH đối với khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực doanh nghiệp. BHXH khu vực hành chính, sự nghiệp gắn liền với chính sách cán bộ và nền hành chính quốc gia, gắn với cung cấp dịch vụ công và về cơ bản có nguồn đóng góp từ ngân sách nhà nước. Bảo hiểm xã hội khu vực doanh nghiệp gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Bổ sung, sửa đổi các chế độ BHXH còn bất hợp lý; điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
- Khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm tự nguyện khác, nhất là doanh nghiệp thực hiện bảo hiểm hưu trí theo cơ chế thỏa thuận, từng bước cho phép khu vực tư nhân tham gia thực hiện bảo hiểm hưu trí.
c. Tiếp tục thực hiện chủ trương khuyến khích làm giàu, đồng thời tích cực giảm nghèo vững chắc, vươn lên no ấm (khá giả); ổn định và từng bước cải thiện đời sống đối tượng trợ giúp xã hội, tạo điều kiện và cơ hội cho đối tượng hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng
- Thực hiện chính sách tăng trưởng gắn với giảm nghèo bền vững; đưa mục tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng vùng và địa phương; vào chiến lước phát triển nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và thực hiện chương trình phát triển cộng đồng và phát triển nông thôn gắn với giảm nghèo. Tạo điều kiện cho người nghèo nâng cao năng lực thị trường và đa dạng hóa sinh kế thông qua các chương trình dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn, tiếp cận các nguồn lực kinh tế và các thị trường cơ bản (đất đai, vốn, thị trường lao động, khoa học-kỹ thuật và công nghệ, thị trường hàng hóa đầu vào, đầu ra…) để tạo việc làm, đa dạng hóa và tăng thu nhập. Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận thuận lợi và với chi phí thấp các dịch vụ xã hội cơ bản, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; hỗ trợ người nghèo từng bước tiếp cận dịch vụ xã hội chất lượng cao (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, văn hoá...). Giảm nguy cơ rủi ro cho người nghèo, nhất là rủi ro do thiên tai, do cơ chế thị trường, sự tác động của các cú sốc từ bên ngoài (khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới, lạm phát...), cũng như những bất trắc trong cuộc sống (ốm đau, bệnh tật, tai nạn...). Tập trung nguồn lực cho các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số...thông qua chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững ở các vùng này.
- Sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội dựa trên cơ sở mứcsống tối thiểu của toàn xã hội và đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích sự nỗ lực vươn lên của bản thân đối tượng nhằm bảo đảm mức sống của đối tượng bằng mức trung bình trở lên của xã hội. Chủ động phòng tránh thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu đến lao động, việc làm và thu nhập của người dân, nhất là ở nông thôn, các vùng thường xuyên bị thiên tai... Đa dạng hóa các loại hình trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng. Tạo cơ hội và ưu tiên cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận nguồn lực kinh tế (trước hết là người còn khả năng lao động), dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thông tin... thông qua thực hiện các chương trình mục tiêu.
- Bảo đảm quyền cơ bản cho trẻ em trong phát triển (thể chất và tinh thần), tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tập trung nguồn lực bảo vệ và chăm sức trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật, trẻ em lang thang kiếm sống...); nhất là phòng ngừa và giải quyết trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Ưu tiên hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em vùng nông thôn nghèo và khó khăn, vùng dân tộc, miền núi. Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ bảo vệ và chăm sóc trẻ em nhằm bảo đảm cho mọi trẻ em, đặc biệt là trẻ em có nguy cơ cao bị hạn chế phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tiếp cận các dịch vụ nàythuận lợi và hiệu quả.
PHẦN IV. KẾT LUẬN.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, an sinh xã hội ngày càng có vai trò quan trọng trong môi trường nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. An sinh xã hội sẽ góp phần ổn định đời sống của người lao động. Trong trường hợp người lao động bị đau ốm, mất khả năng lao động, mất việc làm…..hệ thống an sinh xã hội sẽ có vai trò thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động. Nhờ có sự hỗ trợ kịp thời đó mà có thể nhanh chóng khắc phục được những tổn thất về vật chất, nhanh chóng phục hồi về sức khỏe, thể lực, ổn định cuộc sống thường nhật. Bên cạnh đó, an sinh xã hội còn góp phần đảm bảo an tòan, ổn định nền kinh tế - xã hội….Điểm lại một số vai trò của an sinh xã hội đối với xã hội, có thể khẳng định rẳng đây là hệ thống chính sách từ trước đến nay đã được quan tâm mở rộng và phát triển từ đó có được sự chủ động, mau chóng cân bằng cuộc sống của con người trong trường hợp cần thiết…
Chính vì lẽ đó mà trên cơ sở các nhận định của các nhà hoạch định chính sách, những người “lái thuyền” cần phải nắm bắt kịp thời xu thế để bắt kịp với các nước trên thế giới, vì một mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”…. Phát triển hệ thống an sinh xã hội là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bên vững.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam.doc