LỜI MỞ ĐẦU Kể từ sau đổi mới kinh tế đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến việc mở rộng mối quan hệ nhiều mặt với các quốc gia, các khu vực trên thế giới khi xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại. So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc phát triển nhanh hơn và trên nhiều lĩnh vực khác nhau do có được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ hai nước. Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức năm 1992 đến nay, trải qua hơn một thập kỷ phát triển, mối quan hệ kinh tế giữa hai nước đã có những bước phát triển đáng tự hào, Hàn Quốc hiện đang đứng thứ 5 trong tổng số trên 100 nước có quan hệ buôn bán với Việt Nam và là nước đầu tư lớn thứ nhất vào Việt Nam.Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại trong quan hệ kinh tế giữa hai nước hiện nay đó là sự mất cân đối quá lớn trong cán cân thương mại giữa hai nước, Việt Nam luôn bị nhập siêu và mức nhập siêu có xu hướng ngày càng tăng. Mặt khác, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khá lớn từ Hàn Quốc, mà lĩnh vực đầu tư chủ yếu là: nhà ở, xây dựng khu đô thị, khách sạn, chung cư. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất công nghệ cao còn chiếm tỷ tọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư, hơn nữa lượng vốn đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng và mối quan hệ giữa hai nước, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Xuất phát từ đòi hỏi trên, nhóm tác giả đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài “ Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp” với hi vọng góp một phần nhỏ bé vào việc thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày càng trở nên phát triển hơn, đặc biệt sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Mục tiêu của đề tài là: Đi sâu vào phân tích thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam- Hàn Quốc, những khó khăn còn tồn tại, triển vọng phát triển mối quan hệ từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng mối quan hệ kinh tế giữa hai nước lên một tầm cao mới. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu mối quan hệ kinh tế giữa hai nước, trên cơ sở của việc phân tích thực trạng mối quan hệ hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước. Trong đó chuyên đề chỉ tập trung vào các quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc và FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được kết cấu qua 3 phần chính:
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM- HÀN QUỐC
Chương II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM- HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY. Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – HÀN QUỐC
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Đức Bình và Ông Nguyễn Đăng Hùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Đây mới là bước đầu em làm quen với công tác nghiên cứu, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài. Em mong nhận được sự thông cảm của quý Thầy Cô và các bạn sinh viên.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU1
Danh mục các bảng. 5
Danh mục các biểu đồ. 6
CHƯƠNG I. 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ8
VIỆT NAM- HÀN QUỐC8
1.1 - Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất. 8
1.1.1. Hội nhập kinh tế - vấn đề mang tính khách quan của các nền kinh tế hiện nay8
1.1.2. Khái niệm9
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế. 10
1.2 Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế( đặc biệt là quan hệ thương mại và đầu tư)12
1.2.1 Quan hệ hợp tác về thương mại12
1.2.1.1 Khái niệm về thương mại quốc tế. 12
1.2.1.2 Đặc điểm của thương mại quốc tế. 12
1.2.1.3 Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế. 15
1.2.2 Quan hệ hợp tác về đầu tư( đặc biệt là FDI)16
1.2.2.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:16
1.2.2.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài18
1.2.3. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương: của các nước đang phát triển22
1.2.3.1. Tác động trực tiếp. 22
1.2.3.2. Tác động gián tiếp. 26
1.3 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc27
1.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc phát triển toàn diện27
1.3.2. Thúc đẩy cải cách hành chính. 28
1.3.3. Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế. 29
1.3.4. Thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. 30
1.3.5. Những tác động không thuận chiều. 31
Chương II. 33
THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI33
VIỆT NAM- HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY.33
2.1 Quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc. 34
2.1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu. 36
2.1.2 Về Xuất khẩu 38
2.1.3 Về nhập khẩu44
2.1.4 Đánh giá về quan hệ thương mại Việt Nam- Quốc. 47
2.1.4.1 Ưu điểm47
2.1.4.2 Nhược điểm51
2.2 Quan hệ hợp tác trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam53
2.2.1 Về quy mô và tốc độ tăng. 54
2.2.2 Về hình thức đầu tư58
2.2.3 Cơ cấu đầu tư theo ngành. 61
2.2.4 Phân bố đầu tư theo vùng. 63
2.2.5 Đánh giá quan hệ đầu tư( FDI) Hàn Quốc và Việt Nam65
2.2.5.1 Đạt được. 65
2.2.5.2 Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân. 67
Chương III. 73
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – HÀN QUỐC73
3.1) Triển vọng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam – Hàn Quốc.73
3.1.1) Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc. 73
3.1.2) Triển vọng FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam79
3.2) Các giải pháp chung nhằm tăng cường hợp tác kinh tế giữa Việt Nam- Hàn Quốc81
3.3 Một số giải pháp, chính sách cho sự phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc88
3.3.1) Nhóm các giải pháp và chính sách chung.88
3.3.1.1) Đối với chính phủ Việt Nam và các bộ ngành liên quan. 89
3.3.1.2) Đối với các doanh nghiệp Việt Nam.96
3.3.2) Nhóm các giải pháp chính sách trong một số lĩnh vực cụ thể. 98
3.3.2.1) Các giải pháp chính sách trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá. 99
3.4) Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam109
3.4.1)Về pháp luật chính sách:109
3.4.2) Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài110
3.4.3) Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư112
3.4.4) Giải pháp về thuế114
3.4.5) Hoàn thiện về môi trường đầu tư115
KẾT LUẬN119
Danh mục tài liệu tham khảo. 120
130 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2998 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến bộ đáng kể. Hệ thống luật pháp, gồm các luật và các văn bản dưới luật, đã được cải thiện đáng kể thông qua việc ban hành một số luật mới và sửa đổi các luật đang hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của WTO. Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản quan trọng như Pháp lệnh về tối huệ quốc và đối xử quốc gia, Pháp lệnh về tự vệ nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt Nam, tiếp tục sửa đổi Luật Thương mại, Luật Đất đai... Việt Nam đã thực hiện các cam kết về giảm thuế theo AFTA cho năm 2006 và đang chuẩn bị cho việc dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan trong thời gian tới. Chính phủ cũng đã thông qua nhiều chương trình hành động nhằm thực hiện các hiệp định trong phạm vi WTO. Bên cạnh những thành tích nêu trên, chúng ta cần phải giải quyết một số tồn tại trong quá trình cải cách để tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là vấn đề cải thiện môi trường pháp lý, cải cách hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ và ổn định trong cải cách hệ thống chính sách kinh tế.
Giải pháp 2: Đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường
Cho đến nay, không chỉ riêng Việt Nam, mà hầu hết các nước trên thế giới đều chủ trương tiến hành đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường trong chính sách kinh tế đối ngoại của mình. Mục tiêu trước hết là để tránh phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường, bạn hàng lớn, đồng thời lại có cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu. Trong mối quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Hàn Quốc, giải pháp về đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nó sẽ giúp Việt Nam, nhất là các cơ sở có vốn FDI của Hàn Quốc, có được cơ hội mở rộng xuất khẩu sang các nước thứ ba, trong lúc xuất khẩu trở lại Hàn Quốc còn gặp nhiều trở ngại, và đặc biệt là không phải mục đích chính của các nhà đầu tư nước này. Hiện tại, các sản phẩm từ các cơ sở FDI Hàn Quốc thường được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ, EU. Thế nhưng, những hàng hoá này cũng có thể xuất khẩu sang các thị trường khác nữa. Việc chính phủ Việt Nam quan tâm đến mở rộng xuất khẩu sang các thị trường ở châu Phi chính là nhằm thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Châu Phi là nơi mà hàng hoá nước ta có thể cạnh tranh được, mặc dù điều kiện về cơ sở hạ tầng thương mại, cũng như hệ thống phân phối của Việt Nam và khả năng thanh toán của các bạn hàng ở đây đang là trở lực đối với việc mở rộng thương mại giữa hai bên.
Giải pháp 3: Tích cực chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh
Đây là giải pháp chung đòi hỏi phải được thực hiện khi Việt Nam tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế. Như đã phân tích ở chương 1, một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại song phương Việt Nam -Hàn Quốc hiện tại và tương lai là sự khác nhau về qui mô nền kinh tế, dẫn đến sự khác nhau trong lợi thế so sánh giữa hai nước . Việt Nam có ưu thế về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ, còn Hàn Quốc là vốn và công nghệ. Trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội đến năm 2010, Việt Nam chủ trương phát triển mạnh nông nghiệp, lâm nghiêp, thuỷ sản và công nghiệp nhẹ, tức các ngành dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động. Điều đó sẽ giúp Việt Nam có thêm được nguồn hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, nhất là khi chúng ta quan tâm đến việc tạo nên những sản phẩm nông sản nhiệt đới có chất lượng cao, đến việc tạo nên những sản phẩm đồ gỗ có tính riêng biệt và những sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm mà thị trường Hàn Quốc yêu cầu.
Giải pháp 4: Nâng cao hiệu quả của đàm phán song phương
Dựa trên hai cơ chế hợp tác chính là Uỷ ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật và các cuộc trao đổi chính sách thường niên cấp vụ, cục trưởng giữa bộ ngoại giao hai nước, cũng như thông qua các cuộc viếng thăm lẫn nhau giữa các quan chức cấp cao của hai chính phủ, phía Việt Nam có thể có nhiều cơ hội để tiến hành đàm phán với Hàn Quốc về việc mở cửa thị trường. Trong điều kiện Việt Nam hiện đang và sẽ tiếp tục có lợi thế trong xuất khẩu hàng nông, lâm và thuỷ sản, trong khi những lĩnh vực này được bảo hộ khá cao trên thị trường Hàn Quốc và xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này, làm thế nào, dựa trên cơ sở nào Việt Nam có thể đàm phán với Hàn Quốc, để họ mở cửa thị trường hơn nữa đối với Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản. Qua nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian qua, có thể đưa ra một số đề xuất sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam cần tạo thế chủ động trong đàm phán. Chúng ta biết rằng Chi Lê đã rất kiên quyết khi đưa ra các đòi hỏi của mình trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do với Hàn Quốc về việc tiếp cận thị trường nước này. Và họ đã thành công. Cơ sở của sự mặc cả đó được tạo nên bởi vai trò và vị trí của thị trường Chi Lê đối với các nhà sản xuất ô tô Hàn Quốc (25% thị phần). Còn đối với Việt Nam, tuy Hàn Quốc nhập khẩu hàng hoá từ nước ta không nhiều, song Việt Nam là một thị trường đầu tư quan trọng của họ. Trong điều kiện nhu cầu đầu tư ra ngoài nước của các nhà đầu tư Hàn Quốc ngày một gia tăng, thì đây sẽ là cơ sở để Việt Nam có thể mặc cả với Hàn Quốc về việc mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản.
Thứ hai, quan tâm hơn nữa đến việc tìm kiếm các giải pháp nhằm thuận lợi hoá thương mại. Trong điều kiện hiện nay, khi nhiều nước, trong đó có Hàn Quốc, rất ưa thích việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ thị trường trong nước, như áp dụng thuế chống phá giá, sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ và từ kinh nghiệm gia tăng xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của việc tìm kiếm các biện pháp nhằm thuận lợi hoá thương mại giữa hai nước. Việt Nam đã ký được thoả thuận về kiểm dịch hàng thuỷ sản với Hàn Quốc, theo đó nước này đã công nhận giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm do Cục quản lý chất lượng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam (NAFIQAVED) cấp. Chúng ta hiện có khoảng 10 phòng thí nghiệm các loại đã được các nước ASEAN công nhận đủ điều kiện cơ sở hạ tầng để đánh giá chất lượng sản phẩm. Vậy tại sao chúng ta không tìm kiếm thoả thuận về kiểm dịch như vậy với Hàn Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp Philippin đã có được thoả thuận như vậy và họ đã xuất khẩu được rất nhiều hoa quả nhiệt đới sang thị trường Hàn Quốc. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía Hàn Quốc trong quá trình sản xuất và chế biến hàng nông sản, để có thể có được các sản phẩm đáp ứng yêu cầu cụ thể của thị trường này. Hàn Quốc đã giúp Việt Nam trong việc đào tạo công nhân kỹ thuật để cung cấp cho các cơ sở có đầu tư Hàn Quốc tại nước ta. Trong khi Hàn Quốc đang khởi động quá trình cải tổ khu vực nông nghiệp, Việt Nam nên tranh thủ cơ hội này thu hút vốn của họ vào ngành nông nghiệp của nước ta.
Thứ ba, tăng cường hoạt động hợp tác giữa các cơ quan hai nước trong các lĩnh vực chuyên ngành. Trong vài năm gần đây, hoạt động hợp tác chuyên ngành giữa của hai nước Việt Nam và Hàn Quốc đã được tăng cường đáng kể, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, du lịch. Dựa trên những lợi thế của mình, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ thông tin Hàn Quốc đã đưa ra những đề xuất nhằm tăng cường hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này. Theo họ, cả hai nước đều không đủ mạnh để trở thành một thế lực vượt trội trên thế giới, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người thì có hạn, Hàn Quốc có thế mạnh về khoa học kỹ thuật nói chung và công nghệ thông tin nói riêng so với Việt Nam. Vì thế, hợp tác chuyên ngành trong lĩnh vực này sẽ làm cho cả hai nước đều có lợi.
3.3.1.2) Đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, cần mở rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu. Việc mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc trong thời gian tới cần được dựa trên khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và đặc điểm của thị trường người tiêu dùng Hàn Quốc. Theo các nhà nghiên cứu, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất và chế biến nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, hàng may mặc, dâu tằm tơ, sản xuất sợi, sản xuất giày thể thao, giày vải và giày nữ, nguyên liệu, linh kiện điện tử và công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trên thị trường Hàn Quốc, một số hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam như may mặc, đồ chơi, khó có thể trụ được, bởi sự cạnh tranh của hàng hoá từ Trung Quốc.. Vì thế, để mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vào những hàng hoá mà thị trường Hàn Quốc đã chấp nhận và có khả năng sẽ chấp nhận. Đối với những hàng hoá đã được thị trường Hàn Quốc chấp nhận như thực phẩm chế biến từ thuỷ sản, thuỷ sản đông lạnh, đồ gỗ, đồ nội thất, đèn điện tử, thiết bị viễn thông, một số nguyên liệu như cao su, khoáng sản, chúng ta sẽ phải cố gắng đảm bảo chất lượng, cũng như những yêu cầu ngày càng chặt chẽ hơn của thị trường về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn khác, để nắm bắt được các cơ hội mở rộng xuất khẩu. Đối với những sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu cao của Việt Nam như hàng thủ công mỹ nghệ (cạnh tranh được do giá cả thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc từ 8-10%), đồ gỗ nội thất, cần phải có chiến lược xây dựng thương hiệu, quảng bá và giới thiệu sản phẩm thích hợp đến người tiêu dùng. Riêng đối với các sản phẩm nông sản nhiệt đới, để có thể xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc, vấn đề cơ bản là phải đạt được các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu phải có được giấy chứng nhận tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và phải có giá cả cạnh tranh so với hàng Thái Lan và Philippin trên thị trường này và với điều kiện thị trường Hàn Quốc phải mở cửa thị trường hơn nữa đối với mặt hàng này.
Thứ hai, cần có chiến lược xây dựng thương hiệu cho hàng hoá Việt Nam. Vấn đề này đang đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng từ phía các doanh nghiệp, bên cạnh việc chính phủ tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động này. Các doanh nghiệp cần nhận thức tính cần thiết và sống còn trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu cho các sản phẩm của mình trên thị trường. Đây là một giải pháp cần thiết, không chỉ riêng đối với hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, mà với tất cả các hàng hoá cũng như dịch vụ được lưu thông trên thị trường. Bởi trong điều kiện cuộc cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế ngày càng gay gắt, sự khác biệt của sản phẩm là một trong những yếu tố tạo nên và duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm và nó sẽ được bảo về hữu hiệu nếu hàng hoá có thương hiệu và được đăng ký hợp pháp.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả đối với công tác xúc tiến xuất khẩu và quảng bá sản phẩm. Hiện nay, tham gia vào mạng lưới các tổ chức xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam bao gồm Bộ Thương mại và các đơn vị trực thuộc, các cơ quan xúc tiến xuất khẩu của các bộ ngành liên quan, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu phi chính phủ, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, trong đó Cục Xúc tiến Thương mại (được thành lập vào năm 2000) của Bộ Thương mại thực hiện chức năng qủan lý nhà nước trong lĩnh vực này và tiến hành các hoạt động hướng dẫn và hỗ trợ xuất khẩu ở qui mô quốc gia. Như vậy, về cơ bản, mạng lưới tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam đã được hình thành và phát huy tác dụng, đã có những tác động tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu hàng hóa, từng doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược của riêng mình để quảng bá và giới thiệu sản phẩm của mình tới các đối tác từ phía Hàn Quốc cũng như người tiêu dùng Hàn Quốc.
3.3.2) Nhóm các giải pháp chính sách trong một số lĩnh vực cụ thể
Trong chương 2, chúng ta đã dề cập đến hai lĩnh vực cơ bản trong quan hệ song phương Việt Nam - Hàn Quốc là trao đổi hàng hoá, quan hệ đầu tư. Trong giai đoạn 1992-2006, mỗi lĩnh vực hoạt động đều đã đạt được những thành tựu nhất định, song vẫn còn một số tồn tại cần phải được khắc phục, để mối quan hệ song này tiếp tục được phát triển và khai thác hết tiềm năng sẵn có. Cũng trong chương 2, khi giải thích về nguyên nhân tạo nên hiện tượng nhập siêu trong cán cân thương mại của Việt Nam với Hàn Quốc, chúng ta đã cho rằng nó chủ yếu được tạo nên bởi dòng đầu tư trực tiếp từ Hàn Quốc vào Việt Nam. Các giải pháp nhằm định hướng hoạt động nhập khẩu từ Hàn Quốc vào Việt Nam cũng chính là các giải pháp liên quan đến việc thu hút FDI từ nước này. Sau đây là một số giải pháp chính sách chính trong từng lĩnh vực nói trên.
3.3.2.1) Các giải pháp chính sách trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá
Trong trao đổi hàng hoá song phương, Việt Nam luôn rơi vào tình trạng bị nhập siêu trong cán cân thương mại với Hàn Quốc và mức nhập siêu luôn gia tăng theo thời gian. Tuy vậy, trong mối quan hệ này, Việt Nam đã đạt được tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm khá cao và nó chỉ kém tốc độ gia tăng kim ngạch nhập khẩu hàng năm chút ít trong giai đoạn 1992-2006. Thực tế đó cộng với những tiềm năng còn chưa khai thác hết trong quan hệ song phương chứng tỏ Việt Nam có thể tiếp tục gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc trong thời gian tới. Điều đó đòi hỏi phải có các giải pháp chính sách hữu hiệu. Bên cạnh đó, sự gia tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc chủ yếu do dòng FDI từ nước này chảy vào, mà dòng FDI đó lại có vai trò khá quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở nước ta, nên không thể áp dụng các biện pháp giảm nhập khẩu từ Hàn Quốc để cân bằng cán cân thương mại được. Trong điều kiện đó, Việt Nam chỉ có thể đưa ra những giải pháp nhằm định hướng dòng hàng hoá nhập khẩu từ Hàn Quốc thông qua định hướng đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp nhẹ chẳng hạn, qua đó hạn chế nhập khẩu nguyên liệu từ thị trường này.
Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã quan tâm nhiều đến hoạt động xúc tiến thương mại, song vẫn còn nhiều bất cập cần phải giải quyết. Trước hết, do chưa đặt Hàn Quốc là một thị trường trọng điểm, nên hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường này chưa được quan tâm đặc biệt. Trong số 2182 đề án trong Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2003, chỉ có 21 dự án do Cục Xúc tiến Thương mại thực hiện là giành riêng cho việc nghiên cứu thị trường Hàn Quốc. Thứ hai, nhận thức về hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn chưa đầy đủ. Thông thường, xúc tiến xuất khẩu được hiểu là các hoạt động được thiết kế để làm tăng xuất khẩu của cả đất nước hay của các doanh nghiệp. Chính vì thế, nên trong thời gian qua, Việt Nam mới tập trung vào các hoạt động thông tin thương mại, quảng cáo, khuyến mại, tổ chức các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm với những người tiêu dùng trong và ngoài nước. Trong các hoạt động này, chúng ta mới tập trung vào việc xúc tiến bán các sản phẩm hiện có. Các hội chợ, triển lãm được tổ chức chủ yếu ở Việt Nam, nên tác động quảng bá sản phẩm Việt Nam đến người tiêu dùng nước ngoài thấp. Thứ ba, môi trường pháp lý cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn chưa hoàn thiện, chưa đạt được sự đồng bộ giữa các luật kinh tế và luật doanh nghiệp. Thứ tư, công tác điều phối hoạt động xúc tiến xuất khẩu của của chính phủ còn nhiều bất cập. Và thứ năm, nguồn lực cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu rất hạn chế (bằng 0,25% tổng giá trị xuất khẩu phi dầu thô của cả nước của năm trước), chưa được huy động và khai thác một cách hiệu quả. Vấn đề là Việt Nam nên tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo hướng nào để có thể làm tăng xuất khẩu nói chung và sang thị trường Hàn Quốc nói riêng. Điều quan trọng nhất là cần nhận thức đầy đủ hơn về xúc tiến xuất khẩu, phải coi đó là chiến lược phát triển kinh tế nhấn mạnh đến việc mở rộng xuất khẩu thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ cao nhất cho hoạt động xuất khẩu. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi hoạt động xuất khẩu được coi là trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế, và xuất khẩu sang Hàn Quốc được coi là một trong những giải pháp để giảm mức nhập siêu, thì chiến lược phát triển xuất khẩu quốc gia cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và đòi hỏi sự tham gia của mọi đối tác liên quan - nhà nước, các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu và các doanh nghiệp, phải tập trung nguồn lực vào một số ngành, hàng xuất khẩu có lựa chọn, tức những ngành, những sản phẩm có khả năng cạnh tranh và chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vừa qua, chúng ta đã thông qua Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia năm 2004 với hàng trăm dự án trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, bao gồm tư vấn xuất khẩu, đào tạo, khảo sát thị trường nước ngoài, quảng bá thương hiệu... Nhà nước hỗ trợ khoảng 150 tỷ đồng cho chương trình này. Nếu thực hiện có hiệu quả, thì đây là một giải pháp tốt để thúc đẩy xuất khẩu. Tham gia vào công tác xúc tiến thương mại không chỉ có Cục XTTM của Bộ Thương mại, mà còn các tham tán, thương vụ ở nước ngoài, các hiệp hội ngành nghề và các cơ quan XTTM của các bộ, tổng công ty ngành nghề. Vì thế, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này để đảm bảo hiệu quả của công tác XTTM. Riêng đối với thị trường Hàn Quốc, hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong thời gian tới cần tập trung vào việc nghiên cứu thị trường, mở rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu, xây dựng thương hiệu và hoàn thiện mạng lưới xúc tiến xuất khẩu.
Thứ hai, tăng cường công tác nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trường Hàn Quốc. Thực tế cho thấy công tác nghiên cứu thị trường của nước ta còn rất kém hiệu quả. Vì thế, để mở rộng xuất khẩu, không chỉ riêng thị trường Hàn Quốc, mà tất cả các thị trường khác đều cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống. Cho đến nay, nhìn chung các bộ chuyên ngành, đặc biệt những bộ có sản phẩm tham gia xuất khẩu, đều thực hiện nghiên cứu các thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của ngành mình. Để tránh chồng chéo, hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu trong phạm vi Bộ Thương mại có thể được tiến hành thông qua một số vụ trong cơ quan Bộ như Vụ châu á - Thái Bình Dương, Vụ Xuất nhập khẩu, Viện Nghiên cứu Thương mại, Trung tâm Thông tin thương mại và các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan này tập trung nghiên cứu tổng quan về thị trường Hàn Quốc. Cụ thể là chỉ ra những xu hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế, giới thiệu các tập quán kinh doanh của Hàn Quốc cũng như các vùng khác nhau của nước này, giới thiệu cho doanh nghiệp về hệ thống phân phối của Hàn Quốc, thói quen tiêu dùng của người Hàn Quốc...
Trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá được tăng cờng như hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để giành thị phần là rất quyết liệt. Hơn nữa, sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi phần nào các yếu tố tác động lên khả năng cạnh tranh của các quốc gia, các ngành và các doanh nghiệp. Ngày nay, các yếu tố như tri thức và liên quan với nó là chất lượng nguồn nhân lực, vốn, sự khác biệt của sản phẩm và sự tham gia có lực chọn của chính phủ vào một số hoạt động kinh tế giữ vai trò quan trọng hơn so với một số yếu tố khác như đất đai, điều kiện tự nhiên, lao động rẻ. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thị trường Hàn Quốc nói riêng và nghiên cứu các thị trường nước ngoài nói chung cần phải được tập trung nhiều hơn vào việc tìm hiểu thói quen, sở thích, điều kiện kinh tế của người tiêu dùng, nhằm tạo nên những sản phẩm không những chỉ phù hợp với nhu cầu của họ, mà còn làm thỏa mãn chúng đến mức tối đa. Tuy người dân Hàn Quốc theo nhiều dòng đạo khác nhau, song trong một vài lĩnh vực như giáo dục, hành chính quốc gia, phong tục tập quán, các mối quan hệ xã hội lại chịu ảnh hưởng rất mạnh của đạo Khổng. Họ là những người có ý thức dân tộc rất mạnh, giữ tôn ti trật tự và lễ giáo rất kỷ cương. Việc quan tâm đến những giá trị đạo đức truyền thống này trong quá trình nghiên cứu thị trường Hàn Quốc sẽ giúp chúng ta có thể nhìn nhận thói quen tiêu dùng của người dân nước này một cấch toàn diện hơn.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, hãy làm cho các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rằng trong giai đoạn hiện tại, muốn chiếm lĩnh thị trường, họ không thể bán ra các sản phẩm họ có, mà phải tạo nên các sản phẩm mà người tiêu dùng cần để bán cho họ với mức giá cạnh tranh so với các đối thủ. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc đạt được tính khác biệt trong các sản phẩm xuất khẩu của mình. Chính đặc trưng này sẽ tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm đối với người tiêu dùng và khuyến khích họ mua hàng.
Các kết quả từ hoạt động nghiên cứu thị trường phải được phổ biến một cách hiệu quả và nhanh nhất đến các đói tượng quan tâm. Chúng có thể được cập nhật trên trang Web của Bộ, hoặc được cung cấp dưới dạng các ấn phẩm. Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất khẩu Chính phủ cũng cần có chính sách và những chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu :
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả đối với công tác xúc tiến xuất khẩu ở tầm quốc gia. Về cơ bản, mạng lưới tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam đã được hình thành và phát huy tác dụng, đã có những tác động tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do mới hình thành và phát triển, nên hệ thống xúc tiến thương mại của nước ta còn nhiều bất cập, như thiếu sự liên kết giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống, năng lực thực hiện xúc tiến xuất khẩu còn yếu, các luồng thông tin thương mại chưa được lưu thông thông suốt trong toàn bộ hệ thống, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin cho các đối tác trong hệ thống, cơ sở hạ tầng cho xúc tiến xuất khẩu còn chưa hoàn thiện và thiếu nguồn kinh phí cần thiết. Như đã phân tích ở trên, mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc đã được phát triển rất mạnh và rất thành công. Vì thế, trong việc hoàn thiện tổ chức đối với mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta có thể học tập nhiều từ Hàn Quốc. Có hai tổ chức giữ vai trò khá quan trọng trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc là Tổ chức Xúc tiến Thương mại Hàn Quốc (KOTRA) và Công ty Thương mại Quốc tế Hàn Quốc (KOTI). KOTRA cung cấp các dịch vụ cho các nhà kinh doanh và đầu tư trên khắp thế giới thông qua hệ thống thông tin thương mại được lưu giữ tại trụ sở chính ở Seoul, 10 chi nhánh ở trong nước và 82 trung tâm thương mại ở nước ngoài. Bên cạnh việc cung cấp thông tin, KOTRA còn thực hiện các dự án nghiên cứu, nhằm hỗ trợ các nhà xuất khẩu Hàn Quốc xác định các cơ hội kinh doanh mới ở nước ngoài, sắp xết các cuộc gặp gỡ vì mục đích kinh doanh giữa các nhà sản xuất Hàn Quốc với các người mua hàng nước ngoài, đưa ra các đề xuất cho các hoạt động thương mại đối lưu và giúp đỡ một cách hiệu quả cho các nhà nhập khẩu Hàn Quốc. Với tư cách là một tổng công ty thương mại, KOTI có nhiệm vụ thực hiện hoạt động xuất khẩu các hàng hoá do 3000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc sản xuất ra và nhập khẩu các hàng hoá cần thiết từ nước ngoài cho thị trường trong nước. Với 7 chi nhánh được thành lập trên cả nước, KOTI đã và đang tập trung vào việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thành viên thông qua việc tham gia vào các hội chợ, triển lãm quốc tế và trong nước.
Qua so sánh, có thể thấy rằng Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ Thương mại Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ tương đương như của KOTRA. Trong điều kiện Cục chưa thành lập được nhiều trung tâm thương mại ở nước ngoài, hoạt động xúc tiến xuất khẩu và nghiên cứu thị trường thường do các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đảm nhận. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự kết hợp rất chặt chẽ giữa hai tổ chức này. Rất may mắn là Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc là một trong số 42 thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Thương mại, hoạt động của các thương vụ đạt kết quả khá tốt trong lĩnh vực cung cấp thông tin về sự phát triển kinh tế - xã hội của nước sở tại, về hệ thống chính sách, trong đó đặc biệt là chính sách thương mại và đầu tư của họ, về các cơ hội xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường tương ứng, tham gia chuẩn bị nội dung và phục vụ các đoàn công tác của chính phủ và giới kinh doanh đi công tác và khảo sát thị trường nước ngoài, cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu của họ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham dự hội chợ ở nước ngoài... Bên cạnh đó, hoạt động của các thương vụ vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục, như chưa cung cấp thường xuyên thông tin về cơ quan bộ, chưa có trang Web riêng, nội dung của việc nghiên cứu thị trường nước sở tại còn nghèo nàn, chưa đáp ứng yêu cầu trong nước. Đặc biệt, thương vụ ở Hàn Quốc một thị trường mà Việt Nam bị nhập siêu lớn chưa đề xuất được các giải pháp hữu hiệu để giảm nhập siêu. Trong điều kiện đó, trước mắt, để nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu quốc gia, cần xác định rõ nhiệm vụ của họ, tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ để họ có thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường theo đúng như yêu cầu mà công tác xúc tiến xuất khẩu đòi hỏi và cung cấp thông tin cần thiết về trong nước một cách liên tục và kịp thời thông qua mạng thông tin nội bộ.
Trong dài hạn, hoạt động xúc tiến xuất khẩu (được hiểu theo nghĩa rộng) của các thương vụ cần phải đặt dưới sự quản lý của Cục Xúc tiến Thương mại và nếu cần, chúng có thể bộ phận (chi nhánh) của Cục này.
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các hiệp hội ngành hàng, qua đó, có thể hỗ trợ hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ các thành viên của các hiệp hội này phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, cần mở rộng khả năng tiếp cận nguốn vốn cần thiết cho hoạt động xuất khẩu. Theo ý kiến của các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hàn Quốc nhìn chung rất khó tiếp cận với nguồn tài chính từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển nói riêng và từ nguồn tín dụng cho xuất khẩu nói chung. Thực tế này gây khó khăn cho những doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá nông sản, như cà phê, chè..., vì họ luôn cần lượng vốn lớn khi đến vụ thu hoạch. Vì thế, nên có những ngoại lệ đối với các trường hợp này. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường có qui mô vừa và nhỏ, với nguồn tài chính hạn hẹp, nên chính phủ cần đưa ra các chính sách thích hợp nhằm mở rộng khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng của chính phủ, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của các hiệp định trong phạm vi WTO, như bảo lãnh vay tín dụng, áp dụng các qui chế tiếp cận vốn riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Trong tương lai, khi quá trình hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng được tăng cường, cuộc cạnh tranh giành thị trường, giành nguồn cung cấp đầu vào sẽ rất gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn sẽ là những sản phẩm làm thoả mãn sở thích, mong muốn của người tiêu dùng lớn hơn. Chính vì thế, để có được những mặt hàng thoả mãn ở mức độ ngày càng cao sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu thị trường người tiêu dùng, thiết kế sản phẩm và tạo ra những sản phẩm có thương hiệu riêng với những đặc trưng riêng của mỗi doanh nghiệp. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc cung cấp các thông tin về các thị trường xuất khẩu, cụ thể là Hàn Quốc, và người tiêu dùng ở đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đảm bảo các qui định về tiêu chuẩn khi tham gia xuất khẩu. Đây hiện đang là một rào cản phi thuế quan được sử dụng khá phổ biến tthế giới. Vừa qua, Việt Nam có thể gia tăng mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Hàn Quốc, một phần bởi số doanh nghiệp Việt Nam được Trung tâm kiểm tra chất lượng vệ sinh thuỷ sản Hàn Quốc công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường này tăng lên. Để làm được việc này, chính phủ cần trang bị kiến thức cho các doanh nghiệp về vấn đề tiêu chuẩn nói chung, giới thiệu về tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu cụ thể...
Các giải pháp định hướng nhập khẩu bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường thu hút đầu tư của Hàn Quốc vào các ngành công nghiệp phụ trợ và một số ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh, như sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may, phát triển công nghệ thông tin chẳng hạn. Tại kỳ họp Uỷ ban liên chính phủ Việt Nam - Hàn Quốc năm 2003, hai bên đã nhất trí rằng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Hàn Quốc tăng cường đầu tư vào Việt Nam, nhất là trong một số ngành công nghiệp dết, may, da giày, công nghệ thông tin, thông tin liên lạc, khai khoáng, năng lượng và vào một số lĩnh vực có thể xuất khẩu quay trở lại Hàn Quốc được như nuôi, trồng và chế biến thuỷ sản, nông sản. Vào đầu năm 2004, một dự án của Hàn Quốc về việc đầu tư xây dựng 4 xí nghiệp liên kết nhau để sản xuất phụ liệu cho ngành dệt, may đã được phê duyệt. Dự kiến trong năm 2007, dự án này sẽ hoàn tất và đi vào hoạt động và có thể tuyển dụng tới 215.000 lao động. Đây là hướng đi thích hợp để giảm bớt nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong chương trình này, Hàn Quốc đã chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam cho ngành công nghiệp quan trọng này không chỉ để giúp Việt Nam nâng cao trình độ nguồn nhân lực, mà còn cung cấp lao động có đủ trình độ và kỹ năng cho các cơ sở có vốn đầu tư của Hàn Quốc ở nước ta, và có thể còn xuất khẩu lao động có kỹ năng sang Hàn Quốc.
Thứ hai, cần tăng cường và khuyến khích tìm nguồn nguyên liệu thay thế trong nước. Trước thực tế rằng hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam phần lớn đều là những hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, do phải nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào. Đặc điểm này được thể hiện rất rõ nét trong trao đổi hàng hoá Việt Nam - Hàn Quốc. Các chuyên gia kinh tế đã cho rằng trong ngành may mặc chẳng hạn, nếu Việt Nam sản xuất được, hoặc chỉ cần chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào, cụ thể là vải các loại, thì giá trị xuất khẩu có thể tăng gấp 4-5 lần. Chúng ta đã xác định rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất sợi, đặc biệt là sợi tơ chải kỹ. Trong điều kiện đó, nếu có được công nghệ thích hợp, Việt Nam có thể sản xuất được nhiều loại vải cho ngành may mặc.
3.4) Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam
Thời gian qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng biểu dương trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài song bên cạnh đó vẫn còn không ít mặt khó khăn và hạn chế mà chúng tôi đã trình bày trong những nội dung trước.Vì vậy trong thời gian tới để tăng cường lượng vốn FDI từ Hàn Quốc hơn nữa nên tiến hành các nhóm biện pháp lớn sau đây:
3.4.1)Về pháp luật chính sách:
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật ,nhất là luật đầu tư để có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
Cần triển khai thực hiện tốt Luật doanh nghiệp và luật đầu tư chung, ban hành các Nghị định và thông tư hướng dẫn hai luật nói trên, tuyên truyền, phổ biến nội dung của các luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính ,củng cố,hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của luật mới.Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các luật mới .
Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế,nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
Bổ sung cơ chế,chính sách xử lý các vấn đề pháp lý có liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,nhất là mở cửa trong lĩnh vực dịch vụ như:bưu chính viễn thông ,vận chuyển hàng hoá, y tế giáo dục đào tạo v.v…
Đẩy mạnh việc đa dạng hoá hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập….Sớm ban hành quy chế công ty quản lý vốn để điều hành chung các dự án.Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để nhân rộng.
Đặc biệt quan trọng ở Việt Nam là giải quyết các vấn đề liên quan đến giải phóng mặt bằng và đền bù. Xây dựng các cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ và hiện đại,xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
3.4.2) Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Đối với các nhà đầu tư những ưu đãi về thuế,tiền thuê đất,về thời hạn thuê đất ,về thời hạn của dự án,về giá nhân công rẻ…vẫn rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước,từ Trung ương đến địa phương .Quản lý nhà nước còn bao gồm cả việc xử lý vi phạm pháp luật,nhưng cần tách bạch giữa vi phạm của cá nhân thực hiện dự án với ,hoặc liên quan đến dự án với chính lợi ích khi được triển khai của dự án sẽ mang lại .Cần coi việc xử lý vi phạm là bắt buộc chứ không phải là để đối phó với các nhà đầu tư,cản trở các hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp.Cân nhận thức rõ,bản chất của vốn FDI là của tư nhân ,do đó họ có quyền trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư.Chỉ cầc phải chờ đợi hoặc gặp trở ngại mà không rõ khi nào xử lý xong họ sẽ chuyển đầu tư của mình sang địa điểm khác .
Cần có những biện pháp cải cách hành chính hợp lý và đơn giản hoá,gọn nhẹ hoá bộ máy quản lý nhà nước.Thống nhất và tiêu chuẩn hoá việc xây dựng thẩm định và xét duyệt các dự án đầu tư .
Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chú trọng vào công tác, hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các đia phương tránh tình trạng ban hành chính sach ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chỉ thị 13 củ thủ tướng chính phủ,trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban vùng,duy trì,nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư,kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi;khuyến khích họ đầu tư có chiều sâu,mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất để chứng minh có sức thuyết phục về môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư tiềm năng .
Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập quỹ,vay vốn đầu tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.Tiếp tục mở rộng việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động đầu tư nước ngoài ở cả trung ương lẫn địa phương .
3.4.3) Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư
Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược,cũng như tăng cường quảng bá hình ảnh của đất nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu,qua các kinh nghiệm đầu tư, cần tăng cườn vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể .Có thể nói hướng thu hút đầu tư có hiệu quả nhất của Việt Nam là tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa,các ngành có sử dụng nhiều nhân công,các ngành chế biến và lắp ráp. Đặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư của các ngành sử dụng nhiều nhân công vì giá nhân công thấp là điểm hấp dẫn nhất của Việt Nam (giá nhân công ở Trung Quốc cũng có xu hướng nâng lên và hiện đã cao hơn ở Việt Nam).Một số ngành có thể lưu ý là :dệt may, lắp ráp điện tử máy móc.Một khi thu hút được các nhà máy lắp ráp sẽ gián tiếp thu hút các nhà sản xuất và cung cấp.
Bên cạnh việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trên các mặt chính sách và pháp luật,hạ tầng cơ sở, đào tạo nhân lực thì một yếu tố quyết định thành công là việc giải quyết kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư.Vì sự hài long và thành công của các nhà đầu tư là một minh chứng sinh động nhất để tiếp tục thuyết phục và thu hút các nhà đầu tư khác vào Việt Nam
Ngoài việc có những ưu đãi đầu tư thuận lợi, Việt Nam cần có những chương trình xúc tiến phù hợp kể cả việc các nhà lãnh đạo cao cấp tiếp cận và gặp gỡ để bàn bạc trực tiếp,có thể kết hợp với những chuyến đi thăm,làm việc nước ngoài của những nhà lãnh đạo Đảng , chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư,mời các nhà lãnh đạo Đảng ,Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của chính phủ đối với đầu tư nước ngoài.Các cơ quan nhà nước phải coi xúc tiến đầu tư là chức năng đầu tiên của mình ,thành lập quỹ xúc tiến đầu tư chung trên phạm vi toàn quốc,với việc xúc tiến đầu tư theo từng thời kỳ,có từng địa chỉ cụ thể ,tập trung vào vận dụng các đối tác đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra ,nhất là các đối tác có công nghệ cao ,công nghệ nguồn:
Đối với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản,EU…cần có các dự án lớn định hướng vào các tập đoàn xuyên quốc gia hang đầu của từng nước để trao đổi trực tiếp nhằm trong một thời gian ngắn các nhà đầu tư có thể đi đến quyết định đầu tư
Phối hợp triển khai đề án kết nối kinh tế Việt Nam-Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Nâng cao trang thông tin website về đầu tư nước ngoài .Biên soạn lại các tài liệu về đầu tư nước ngoài như:guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài …
Nghiên cứu các địa bàn tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả .
3.4.4) Giải pháp về thuế
Chính sách và luật thuế phải đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế, tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng,bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,giữa người trong nước và người nước ngoài, thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và đặc biệt là WTO.
Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý,khuyến khích đầu tư,xuất khẩu, đổi mới công nghệ , đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế ,hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên FDI phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế.
Tóm lại quyết tâm xây dựng để tạo nên sự bền vững của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới còn rất nhiều việc phải làm. Dòng vốn đó nếu được đón nhận bằng môi trưòng thuận lợi về pháp lý và về quản lý nhà nứoc sẽ đảm bảo sự tăng trưởng với tốc độ cao và sự bền vững.
3.4.5) Hoàn thiện về môi trường đầu tư
Từ năm 2004 dòng chảy FDI toàn cầu đã có dấu hiệu hồi phục sau 3 năm giảm liên tục ( 2001 đến 2003).Với xu thế toàn cầu hóa nhanh chóng sự cạnh tranh về thu hút FDI trên thế giới và trong từng khu vực ngày càng diễn ra gay gắt. Nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển đều tham gia vào cuộc chạy đua này. Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức đối với Việt Nam. Thách thức ở đây chính là Việt Nam phải làm sao đẩy nhanh được quá trình cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường tính cạnh tranh so với các đối thủ khác đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan. Sự thay đổi môi trường đầu tư không chỉ theo hướng là ngày càng hoàn thiện hơn so với các thời kì trước mà còn phải theo hướng hấp dẫn và hoàn thiện hơn so với các nước khác, có nghĩa là Việt Nam không chỉ cần chạy nhanh mà còn phải chạy nhanh hơn các đối thủ của mình.Theo đó chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản sau nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư của Việt Nam.
Xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp FDI
Muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), công nghiệp hỗ trợ phải đi trước một bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành công nghiệp lắp ráp. Để làm được điều này trước tiên Chính phủ Việt Nam phải có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ. Từ đó đưa ra các chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm ưu đãi về thuế, các biện pháp hỗ trợ kinh doanh, cần xây dựng trên cơ sở không phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.
Ở Việt Nam, sự nở rộ và phát triển của doanh nghiệp tư nhân cần phải được sự ủng hộ và hỗ trợ của chính phủ. Bởi theo kinh nghiệm của các nước cho thấy doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ.
Một điều hết sức hiển nhiên là nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ. Do đó chúng ta phải có một chiến lược dài hạn trong việc phát triển nguồn nhân lực. Và trọng trách đó được đặt lên vai của ngành giáo dục. Chừng nào các trường đại học, cao đẳng, các trường trung cấp chưa đổi mới việc giảng dạy còn quá chú trọng tính lý thuyết hiện nay chừng đó Việt Nam chưa thể có một đội ngũ lao động đặc biệt là các kỹ sư có năng lực về lý thuyết cũng như thực tiễn. Thực trạng đó chỉ ra rằng, cần phải cải cách triệt để đào tạo đại học theo hai hướng, đó là phần cứng ( bằng trang thiết bị) và phần mềm ( chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy) nhằm tạo ra những kỹ sư có trình độ làm việc trong ngành công nghiệp phụ trợ.
Lấy một ví dụ điển hình cho sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đó là Thái Lan, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trong thu hút FDI. Họ đã có một ngành công nghiệp phụ trợ khá phát triển do nước này đã thành lập ủy ban hỗ trợ về vấn đề này và cùng với các tổ chức chuyên lo phát triển, xây dựng, hình thành những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Tiến sĩ Techakanont, Đại học Thammasat, Thái Lan, cho biết: “Hiện chúng tôi có đến 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở ba cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị – phụ tùng – linh kiện và dịch vụ”. Việt Nam muốn cạnh tranh thu hút FDI với Thái Lan trước tiên hãy xây dựng cho mình một ngành công nghiệp phụ trợ phát triển không kém Thái Lan hiện nay, trước mắt là để nội địa hóa sau đó là xuất khẩu.
Cải thiện nâng cấp cơ sở hạ tầng
Theo bà Tucker, Tổng giám đốc công ty Nike Inc, nếu như cơ sở hạ tầng của Việt Nam không được nhanh chóng nâng cấp hoàn thiện, thì sẽ rất khó có thể đủ khả năng để đón đầu luồng vốn đầu tư được dự báo là sẽ tăng mạnh vào Việt Nam ngay khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Do đó đẩy mạnh xây dựng cải thiện cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh thu hút FDI vào Việt Nam.
Chính phủ cần tiếp tục kêu gọi các khoản viện trợ, sự hỗ trợ về vốn và công nghệ của nước ngoài đặc biệt là Nhật, EU, Mỹ nhằm đẩy nhanh hơn nữa việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ( Gần đây, ngày 10/11/2005, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản cho biết Nhật Bản sẽ tiếp tục giúp Việt Nam nâng cấp cơ sở hạ tầng thông qua chương trình Viện trợ Phát triển Chính thức (ODA) để thu hút thêm đầu tư nước ngoài). Ngoài ra Chính phủ cần ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giảm chi phí kinh doanh đến mức thấp nhất có thể
Chi phí kinh doanh cần được giảm càng nhiểu càng tốt. Việc này bao hàm tất cả mọi khía cạnh của chi phí sản xuất: phụ tùng và vật liệu, lao động, đất đai, giao thông, điện, điện thoại, internet, nước, nhà xưởng và cuối cùng và cũng không kém phần quan trọng là chi phí thời gian và tài chính để giải quyết những thủ tục rườm rà. Chi phí kinh doanh của Việt Nam không phải là cao nhất trong khu vực Đông Á nhưng vẫn cao hơn các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút FDI.
Để giảm chi phí kinh doanh thì từng bộ phận chi phí cần được xem xét kỹ lưỡng để giảm thiểu tới mức có thể. Nỗ lực giảm chi phí cần phải được thực hiện theo tầm nhìn quốc tế và có các chiến lược dài hạn. Mục đích cuối cùng là để xác lập vị trí và quảng bá Việt Nam như một trong những nơi có chi phí thấp nhất ở Đông Á.
Ngoài một số các nội dung cơ bản trên, Việt Nam còn cần phải thực hiện tốt quá trình cải cách hệ thống hành chính theo hướng ngày càng gọn nhẹ, minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Minh bạch hóa thông tin kinh tế đặc biệt là ở cấp vi mô, doanh nghiệp giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận được các nguồn thông tin đáng tin cậy và hữu ích. Hình thành thị trường lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp FDI đặc biệt là các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xây dựng các trường dạy nghề và phải đào tạo tốt cho công nhân học các kỹ thuật cơ bản trước khi vào DN có vốn đầu tư nước ngoài làm việc. Tăng cường đào tạo lao động trình độ cao, nhất là đào tạo về ngoại ngữ, nghiệp vụ thương mại...
Việt Nam có tận dụng được cơ hội vàng đang đến để thu hút một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế hay không? Nó phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Các doanh nghiệp FDI đánh giá cao những nỗ lực này của Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề Việt Nam đang gặp phải không chỉ là cải thiện môi trường đầu tư mà còn là làm sao đem hình ảnh một Việt Nam đang đổi mới, luôn có những nố lực lớn để cải thiện môi trường đầu tư, mong muốn được tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến…đến với các nhà đầu tư tiềm năng. Có rất nhiều nhà đầu tư muốn đến đầu tư và làm ăn ở Việt Nam tuy nhiên họ lại rất thiếu những thông tin về thị trường có hơn 80 triệu dân này. Những thông tin mà họ có được rất sơ sài hoặc là không phản ánh đúng về môi trường đầu tư hiện tại của Việt Nam nó có thể là những con số của những năm trước đây. Như vậy Việt Nam cần phải có một chiến lược tiếp thị hình ảnh, thương hiệu quốc gia nhằm đem đến cho các nhà đầu tư nước ngoài những thông tin chính xác và hữu ích nhất về môi trường đầu tư ở Việt Nam, những cơ hội làm ăn sinh lời ở đây.
KẾT LUẬN
Có thể nói, quan hệ kinh tế song phương Việt Nam – Hàn Quốc đã được mở rộng nhanh chóng trong suốt thập kỷ qua. Kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đã có những bước phát triển vượt bậc, Việt Nam có lợi thế xuất khẩu chủ yếu ở các nguồn tài nguyên, hải sản, nông sản và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ, trong khi Hàn Quốc lại có thế mạnh ở các sản phẩm công nghiệp nặng và hoá chất. Một lượng lớn vốn FDI của Hàn Quốc đã chảy vào Việt Nam đặc biệt trong năm 2006 vừa qua. Nhưng bên cạnh đó thâm hụt thương mại của Việt Nam vẫn còn lớn so với kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước. Và Việt Nam cũng đang phải cạnh tranh rất gay gắt với các nước trong khu vực trong việc thu hút dòng vốn FDI từ Hàn Quốc.
Tuy nhiên, tiềm năng hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc là rất lớn và trên nhiều lĩnh vực. Điều này là hoàn toàn có cơ sở bởi vì :
Thứ nhất, mỗi bên đều có nhiều lợi thế và có thể hỗ trợ lẫn nhau. Hàn Quốc có thế mạnh về vốn, kỹ thuật, kỹ năng quản lý; Việt Nam có nguồn lao động rẻ, sẵn nguyên vật liệu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Những lợi thế này chính là cơ sở đảm bảo cho quan hệ giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa.
Thứ hai, việc triển khai chiến lược toàn cầu hoá và cải cách cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc diễn ra đồng thời với các cố gắng đẩy mạnh cải cách về mọi mặt và tăng cường hoà nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam sẽ giúp cả hai nước Việt Nam và Hàn Quốc phát triển nhanh hơn, đồng thời nâng cao vài trò của mỗi bên trong khu vực và trên thế giới.
Với những gì mà quan hệ hai nước đã đạt được trong thời gian vừa qua và trước đòi hỏi mới của tình hình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, chúng ta tin tưởng rằng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ ngày càng phát triển hơn nữa góp phần tích cực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam và chính sách toàn cầu hoá của Hàn Quốc.
Danh mục tài liệu tham khảo
Gi¸o tr×nh “Quan hÖ kinh tÕ quèc tÕ - LÝ thuyÕt vµ thùc tiÔn”; GS - PTS T« Xu©n D©n, PTS Vò ChÝ Léc; Nhµ xuÊt b¶n Hµ néi 1997.
S¸ch tham kh¶o “Hµn Quèc – c©u chuyÖn kinh tÕ vÒ mét con rång” – Hoa H÷u L©n – Nhµ xuÊt b¶n Hµ néi 2002.
Chủ biên GS.TS Nguyễn Văn Thường (2005) tăng trưởng kinh tế Việt Nam: những rào cản cần phải vượt qua, NXB Lý luận chính trị.
Bµi “Nh×n l¹i quan hÖ 10 n¨m ViÖt Nam – Hµn Quèc” – NguyÔn
C¶nh HuÖ, NguyÔn Trinh NghiÖu – T¹p chÝ nghiªn cøu §«ng Nam
Á th¸ng 2/ 2003.
Bµi “Nhµ ®Çu t Hµn Quèc quan t©m tíi ViÖt Nam” – Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam – Sè 160 – 6/10/2003.
Chỉ đạo biên soạn Thứ trưởng bộ thương mại – Lương Văn Tự (2006) tìm hiểu Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Chủ biên GS.TS Đỗ Đức Bình – PGS.TS Nguyễn Thường Lạng giáo trình kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội.
Chủ biên GS.PTS Tô Xuân Dân (1998) chính sách kinh tế đối ngoại – lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, NXB Thống kê.
Chủ biên PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2002) giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, NXB Thống kê.
Tạp chí kinh tế thế giới, số tháng 1-2007.
Tạp chí đầu tư và phát triển Việt Nam, số tháng 9- 2006
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh- Viện kinh tế và Chính trị thế giới, quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc: Thực trạng và Triển vọng, Thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 9- 2003
Trang web của tổ chức ngoại thương Hàn Quốc www.kita.net
Trang web của bộ Thương mại www.mot.gov.vn
Trang web của bộ Kế hoạch và Đầu tư www.mpi.gov.vn
Trang web của đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam www.hanquocngaynay.com
Trang web của Tổng cục Thống kê Việt Nam www.gso.gov.vn
Trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp.DOC