Tình trạng yếu kém trong khả năng tài chính của các công ty Việt Nam, nhất
là các công ty nhà nước, khiến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Nhật Bản bị giảm
sút. Do vậy, Chính phủ cũng cần có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết
triệt để những khoản nợ mà các công ty Việt Nam đang mắc phải (chủ yếu là nợ khó đòi).
Cho phép các công ty mua lại dưới hình thức trả chậm.
47 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ thương mai giữa 2 nước Việt Nam và Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực thi các hợp đồng thơng mại. do đó, làm ảnh hởng trực tiếp đến kết quả của các
hoạt động kinh doanh giữa đôi bên. Hạn chế này, cũng cần phải khắc phục nhanh, và nó trực
tiếp liên quan đến việc đào tạo, giáo dục…. đòi hỏi, Chính phủ ta cần phải quan tâm nhiều
hơn na trong việc đổi mới lại, nâng cao công tác giáo dục, đào tạo và tuyển chọn những ngời
có năng lực, trình độ cũng nh kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh thơng mại.
Để có thể hiểu rõ hơn về sự tăng giảm thất thờng của việc xuất nhập khẩu hàng hoá
này, cũng nh thực trạng quan hệ buôn bán Việt – Nhật, chúng ta hãy đi xem xét hoạt động
xuất nhập khẩu giữa hai nớc trong thời gian qua.
2.2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản từ đầu những năm 1990 đến nay, đã
tăng nhanh và tơng đối ổn định. Thực tế cho thấy, thị trờng Nhật Bản là một thị trờng khó
tính. nhng bớc đầu đã có dấu hiệu cho thấy sự chấp nhận hàng hoá Việt Nam của thị trờng
này. Tuy số lợng giá trị tuyệt đối của (kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản) tăng lên liên tục
năm 1992: 870 triệu USD, năm 1997 là 2198 triệu USD tăng gấp 2,5 lần. Tuy nhiên, tỷ trọng
của xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất
thờng. Kim ngạch có xu hởng giảm mạnh nhất là sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực xảy ra. Từ chỗ chiếm 33.71 % năm 1992 đã tăng lên 35,81 % năm 1993, sau đó lại
xuống còn 23,93 % năm 1997, đến năm 2000, còn 17,7% năm 2001 tăng lên 23,25 %, nhng
năm 2002 và năm 2003 lại tiếp tục giảm xuống theo tỷ lệ tơng ứng là: 15,03 % và 13,97 %.
Bảng 7: Tỷ trọng xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam, 1992 – 2003
(Đơn vị: triệu USD)
Năm Kim ngạch xuất khẩu
Việt - Nhật
Tổng KNXK của Việt
Nam
Tỷ trọng
(%)
1992 870 2.581 33,71
1993 1.069 2.985 35,81
1994 1.350 4.054 33,30
1995 1.716 5.449 31,49
1996 2.020 7.256 27,84
1997 2.198 9.185 23,93
1998 1.792 9.356 19,16
1999 1.920 11.523 16,66
2000 2.532 14.308 17,70
2001 2.510 15.100 23,25
2002 2.440 16.700 15,03
2003* 1.370 9.800 13,97
(Nguồn số liệu thống kê của Bộ Thơng mại Việt Nam).
Ghi chú (*): Tính 6 tháng đầu năm
Hiện tợng này, đợc lý giải một phần bởi chất lợng hàng tiêu dùng xuất khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam cha đủ đảm bảo đúng tiêu chuẩn về chất lợng cũng nh mẫu mã. Các
doanh nghiệp Việt Nam, đôi khi còn thiếu trung thực trong kinh doanh. Ví dụ nh: đã ký hợp
đồng một số mặt hàng sang Nhật Bản rồi nhng lại đòi tăng giá mới chịu xuất hoặc tự ý huỷ
bỏ hợp đồng hoặc lại xuất sang các nớc khác để thu đợc nhiều lợi hơn. Có thể nói rằng,
không ít doanh nghiệp Việt Nam ta không biết giữ chữ tín trong kinh doanh, không biết giữ
bạn hàng. do vậy, số lợng hợp đồng xuất khẩu sang Nhật Bản cũng bị giảm sút đáng kể.
Phần nữa, do áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản từ đầu những năm
1990, việc mất giá của đồng tiền yen và các đồng tiền khác, đã khiến cho hàng hoá của Việt
Nam mất đi lợi thế cạnh tranh, mất đi một phần thị phần trên thị trờng Nhật Bản. Giá trị xuất
khẩu này, bị giảm sút đã làm thiệt hại đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu của nớc ta. Xét
về cơ cấu xuất khẩu, những sản phẩm chế tác bị ảnh hởng mạnh nhất trong đó có hàng dệt
may, tôm đông lạnh… mặt hàng dầu thô và các mặt hàng nguyên liệu khác hầu nh không bị
ảnh hởng lắm về số lợng nhng do giá giảm nên tổng giá trị cũng bị giảm. Thêm vào đó, sự
thay đổi chính sách thuế tiêu dùng, thuế xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản trong năm 1997,
đã tác động đến chi tiêu của ngời dân Nhật Bản làm giảm đi sức mua của ngời dân cũng nh,
làm hạn chế lợng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trờng Nhật Bản.
Ngoài ra, do đặc điểm và xu hớng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trờng xuất khẩu của
Việt Nam từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt, quan hệ buôn bán và phạm vi không gian
thị trờng xuất khẩu không ngừng đợc mở rộng; đồng thời Việt Nam không chỉ phát triển thị
trờng gần mà đã vơn nhanh đến các thị trờng xa nh (Tây Bắc, Bắc Mỹ, Châu Đại Dơng…).
Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trờng, từ việc chỉ xuất khẩu sang các nớc Châu á - Thái
Bình Dơng là chủ yếu, đến xuất khẩu sang cả các khu vực thị trờng khác phù hợp với chủ tr-
ơng đa phơng hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta. Nếu năm 1991, thị
trờng Châu á chiếm tới 80 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994, giảm
xuống còn 75,8% và năm 1997, chỉ còn chiếm 67,7 %. Riêng thị trờng Đông Bắc á năm
1995, chiếm tới 50 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhng đến năm 1997, chỉ còn
chiếm 44,0 %. Thị trờng xuất khẩu của Việt Nam, phát triển theo hớng mở rộng sang Châu
Âu, đặc biệt Tây Bắc Âu. Ngoài ra, các thị trờng Liên Bang Nga và thị trờng các nớc Châu
Âu có dấu hiệu phục hồi. Năm 1995, thị trờng các nớc G7 (7 nớc công nghiệp phát triển)
chiếm tỷ trọng 39,7 % kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm tỷ trọng
31,49 % các nớc còn lại chiếm 18,81 %. Năm 2003, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 13,97
% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Nh vậy tất cả những nhân trên đã khiến cho tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản giảm xuống.
ă Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Bảng 8 : Danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt sang Nhật giai đoạn (1995 –
2000)
(Đơn vị : triệu USD)
Tên hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Dầu thô 684,2 757,7 416,5 294,0 403 503,3
Thuỷ Hải sản 336,9 311,1 360,4 347,1 414 488
Hàng Dệt
may
210,5 309,5 325,0 320,9 532 691,5
Cà Phê 35,3 23,3 25,1 37,9 28,5 20,9
Cao Su 6,1 3,7 5,7 2,6 3,2 5,6
Gạo 0,1 0,2 1,1 3,6 3,2 2,5
(Nguồn Tổng cục Hải Quan)
Qua bảng trên, ta có thể thấy rằng trong các mặt hàng mà Việt Nam xuất sang Nhật
Bản chủ yếu là nguyên liệu, khoáng sản, hải sản; nguyên liêu thô hoặc mới qua sơ chế và
những mặt hàng có mức đội gia công chế biến thấp. Cụ thể:
* hàng dệt may đang xuất khẩu vào thị trờng Nhật Bản với kim ngạch trung bình hàng
năm là gần 400 triệu USD, có dấu hiệu gia tăng mạnh theo các năm. Chỉ tính riêng 6 tháng
đầu năm 2003 đạt 1.745 triệu đô tăng 66,6 % so với cùng kỳ năm 2002. Tuy nhiên, thị phần
của Việt Nam về mặt hàng này hiện còn rất nhỏ bé so với các nớc trong khu vực. Xu hớng
nhập khẩu mặt hàng này tại Nhật tăng nhanh trong khoảng những năm từ 1980 đến 1990. nh-
ng trong vài năm trở lại đây, kim ngạch xuất lại giảm sút do sức mua của thị trờng này giảm.
Trong tơng lai, khi nền kinh tế Nhất Bản phục hồi thì nhu cầu tiêu dùng trong nớc tăng lên;
triển vọng xuất khẩu của Việt Nam về mặt hàng này sẽ tăng lên.
* Hải sản của Việt nam đợc thị trờng Nhật Bản đánh giá khá cao. Tại Nhật, hơn 80 %
nhu cầu về Tôm phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Có thể nói đây là nớc có một nhu cầu tiêu
thụ rất lớn về Hải sản. Việt Nam hiện là một trong những nớc xuất khẩu Tôm hàng đầu vào
thị trờng Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật đạt mức 600 triệu USD/năm và
mục tiêu tăng trởng mặt hàng này năm nay dự kiến tăng 720 triệu USD, chiếm 28 % tổng
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nớc.
* Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào thị trờng Nhật
Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu của ngành giày da Việt Nam. Theo mạng
tin Liên Hợp Quốc ngày 15 tháng 5 cho biết, Việt Nam hiện đang đứng thứ 8 trong các nớc
sản xuất và đứng thứ t trong số 10 nớc xuất khẩu da, giày lớn nhất thế giới. Đây là một bớc
nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực này. Hiện Chính phủ ta ký hiệp định thơng mại với
Băng- la-đet, một nớc có mặt hàng da có chất lợng cao và rẻ, đây sẽ là cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép và sản phẩm từ da.
* Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nớc xuất khẩu hàng đầu mặt hàng này vào
Nhật Bản và luôn luôn chiếm hơn 40 % thị phần nhập khẩu của nhật.
* Hàng Cao Su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập đợc nhiều vào thị trờng Nhật
Bản, mặc dù mức thuế nhập khẩu của mặt hàng này là không đáng kể. Nguyên nhân là do
chủng loại Cao Su của Việt Nam cha thích hợp với thị trờng Nhật Bản, chất lợng không đáp
ứng đợc yêu cầu của họ.
Nh vậy, những số liệu và phân tích trên cho thấy cơ cấu hàng xuất của ta vẫn còn đơn
giản, diện hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá hạn hẹp, cha có thay đổi
nhiều so với những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù, nếu xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ
trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua công đoạn chế tạo, chế biến thì ta cũng có nhiều tiến bộ.
Cụ thể, nếu nh những năm đầu thập niên 1990, hàng xuất sang Nhật Bản của ta chủ yếu là
nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế chiếm 90 % tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó riêng
Dầu thô đã chiếm đến 60 %. thì hiện nay, đã giảm xuống nhiều nhng vẫn còn tới trên 50 % là
nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Tuy nhiên, các mặt hàng nêu trên đều có đối thủ cạnh
tranh nh: Trung Quốc; Hàn Quốc; Đài Loan; Thái Lan; Malaixia; Philippin; ấn Độ… Do
vậy, nếu ta không kịp thời cải tiến mẫu mã sản phẩm, giảm bớt chi phí thì sẽ khó có thể cạnh
tranh đợc với các nớc khác tại thị trờng nớc bạn cũng nh là ở ngày thị trờng trong nớc. Có thể
nói kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn khá khiêm tốn. Cho đến cuối năm
2003, tổng kim ngạch xuất là 2.909.151 nghìn USD. Hiện không tơng xứng với tiềm năng
tiêu thụ rất lớn thực có của nhu cầu ngời dân Nhật Bản.
2.2.2.2 Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
nếu nh, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam là khá cao (so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). thì hoạt
động nhập khẩu từ Nhật Bản lại diễn ra với nhịp độ khác. Kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ Nhật Bản còn khá nhỏ so với kim ngạch xuất khẩu sang thị trờng này, cho đến cuối
năm 2003. mới ở mức tơng đơng (kim ngạch xuất đạt 2.901.51 nghìn USD; kim ngạch nhập
khẩu là 2.993.959 nghìn USD – nguồn: tổng cục Hải Quan)
Bảng 9: Tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ (1992 – 2003).
(Đơn vị: triệu USD)
ăm
Kim ngạch Nhập
khẩu Việt – Nhật
Tổng Kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam
Tỷ
trọng (%)
992
451 2.541 17,75
993
639 3.924 16,28
994
644 5.826 11,05
995
921 8.155 11,29
996
1.140 11.144 10,23
997
1.283 11.592 11,07
998
1.470 11.390 12,91
999
1.680 11.636 14,44
000
1.121 15.200 13,96
001
2.218 16.000 13,86
002
2.510 19.700 12,74
003
1.470 12.200 12,05
(Nguồn Tổng cục Hải quan)
Trong số những thị trờng nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Nhật Bản đã và đang là
thị trờng tiêu thụ lớn nhất mà Việt Nam có đợc. (mời bạn hàng thơng mại lớn nhất của Việt
Nam trong năm 2003 vẫn là Nhật Bản; Trung Quốc; australia; Singapore; Hoa Kỳ; Đài Loan;
Đức; Anh; Pháp; Hàn Quốc.)
Mặc dù Nhật Bản luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong số những nớc nhập khẩu hàng Việt
Nam, nhng nhìn chung tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam lại
cũng tăng giảm thất thờng.
Thực tế cho thấy, chỉ có thời kỳ trớc năm 1989, Việt Nam mới nhập siêu từ Nhật Bản.
Cụ thể năm 1986 số lợng nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu là 109 triệu USD, còn các năm sau kể
từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đều suất siêu sang nhật và mức xuất siêu này ngày càng
tăng. Tuy bị ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật trong những năm 1997 – 2000 có sự giảm sút.
Bảng 10: Tình hình xuất siêu của Việt Nam sang Nhật giai đoạn (1992 - 2001)
(Đơn vị : Triệu USD)
ăm 992 993 994 995 996 997 998 999
2
000 001 002
K 70 069 350 716 020 198 792 920
2
532 510 440
K 51 39 44 21 140 283 470 680
2
121.3 215 510
S 19 30 06 95 80 15 22 40
4
10.7 295 -70)
(Nguồn Tổng cục hải quan)
Nhật Bản đứng đầu danh sách các nớc xuất siêu lớn nhất thế giới, thăng d thơng mại
của Nhật với Châu á lên tới 70.7 tỷ USD. Năm 1993, thặng d thơng mại của Nhật với Thái
Lan lên tới 7.66 tỷ USD, với Singapore 13.2 tỷ USD. Các nớc Châu á khác gồm Hàn Quốc;
Indonesia… đều nhập siêu từ Nhật Bản. Tuy nhiên năm 2002 lần đầu tiên cán cân thơng mại
bị thâm hụt kể từ nă 1999. Đối với nền kinh tế Việt Nam, cán cân thơng mại nghiêng về xuất
khẩu là hiện tợng lành mạnh, vì nó tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể có thể chuyển thành
vốn giúp cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo, nó là cơ sở cho sự thay đổi cơ
cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tơng lai.
* Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
Cũng theo cách xem xét nh đối với hàng xuất khẩu chủ yếu, cơ cấu hàng nhập khẩu
chủ yếu từ Nhật Bản sang nớc ta nh sau:
Bảng 11: Danh mục những mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ Nhật Bản.
1996 1997 1998 1999
T
ên hàng
Số
lợng
T
rị giá
S
ố lợng rị giá
S
ố lợng
T
rị giá
S
ố l-
T
rị giá
triệu
USD
triệu
USD
triệu
USD
ợng triệu
USD
S
ắt thép
(tấn)
99.
503
4
3,3
1
09.33
7
0,4
3
58.20
7
1
02,4
- -
P
hân bón
18
7.991
3
9,3
1
57.00
2
5,8
2
42.89
6
2
2,6
- -
Ôt
ô (chiếc)
2.4
20
2
8,2
1
66 1,2
7
59
1
5,5
4
36
1
1,5
X
ăng Dầu
(tấn)
10
5.995
2
0,2
1
51.59
1
3,6
1
9.902
2
,67
1
1.658
1
6,1
Li
nh kiện
ô tô (bộ)
1.3
41
7
,95
4
.286 1,1
1
.881
1
6,2
2
.160
2
0,85
(Nguồn Tổng cục Hải quan)
Qua số liệu tổng hợp trên có thể thấy, các mặt hàng nhập từ Nhật là những hàng hoá sử
dụng ít nguyên liệu thô, song hàm lợng chất xám cao nh sản phẩm của các ngành công
nghiệp nặng. Trong tổng số hàng nhập từ Nhật Bản của Việt Nam, các mặt hàng công nghiệp
chế tạo chiếm trên 88 %, nguyên liệu khoáng sản gần 3 % và nguyên liệu thô là 1.5 %.
Tóm lại, trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản, sự hỗ trợ và
quan tâm tích cực của Chính phủ, các công ty thơng mại, các ngân hàng và qũy phát triển của
Nhật Bản đã đẩy hiệu quả buôn bán kinh doanh với Việt Nam, khiến mối quan hệ này mở ra
những triển vọng lớn trong tơng lai. Tuy nhiên, vẫn còn một số khúc mắc và hạn chế sau:
Trớc hết, về kim ngạch buôn bán giữa hai nớc mặc dù đã tăng lên một cách ổn
định và tích cực nhng quy mô buôn bán còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của hai nớc. Tỷ
trọng thơng mại Việt – Nhật trong tổng kim ngạch ngoại thơng của Nhật Bản là không đáng
kể, khoảng gần 1% và chiếm trung bình các năm khoảng sấp xỉ 15 % tổng kim ngạch ngoại
thơng của Việt Nam. Với tình hình này, nếu không có thiện chí hợp tác, tơng trợ lẫn nhau thì
bất cứ một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thơng của Nhật Bản cũng nh sự trừng phạt
buôn bán, sự tăng giảm giá của đồng Yen đều gây tác hại đối với nền kinh tế Việt Nam nhiều
hơn những gì Việt Nam có thể gây ra cho Nhật Bản.
Việt Nam thờng xuất sang thị trờng Nhật Bản những hàng hoá sử dụng nhiều
lao động và tài nguyên thiên nhiên nh Giầy dép; hàng may mặc; Dầu thô; Than đá; hàng thủ
công và các loại nông sản khác… hàng thủ công cũng là một thế mạnh độc quyền của ta mà
không phải lo sợ cạnh tranh trực tiếp. Hàng thủ công nhập khẩu vào Nhật đợc gia tăng. Năm
2003, tổng giá trị đợc xuất là 43.671.000 USD tăng 1,1 lần so với năm 2002 là 39.460.000
USD. Cơ cấu mặt hàng xuất còn tơng đối đơn giản, chủng loại ít, chủ yếu là mặt hàng thô,
cha qua chế biến. Trong khi đó, Việt Nam lại nhập khẩu vào chủ yếu là máy móc, thiết bị,
công nghệ kỹ thuật của ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo những mặt hàng sử
dụng ít nguyên liệu, chứa hàm lợng chất xám cao. Cơ cấu buôn bán giữa hai nớc cũng có sự
biến động nhng rất chậm chạp…
2.3 Đánh giá quan hệ thơng mại Việt Nam - Nhật Bản
Có thể nói, buôn bán song phơng giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển và
không ngừng tăng lên cả vể khối lợng và qui mô. Sự gia tăng này đã đáp ứng đợc về cơ bản
nhu cầu của cả hai phía. Tuy nhiên, trao đổi thơng mại giữa hai nớc vẫn còn một số hạn chế
sau đây:
Quy mô buôn bán còn quá nhỏ so với tiềm năng kinh tế của hai nớc; kim ngạch buôn
bán giữa Việt Nam và Nhật Bản trong tổng kim ngạch ngoại thơng của Nhật Bản là không
đáng kể, khoảng chừng 0,7 – 0,9 % và chiếm khoảng trung bình 15 % tổng kim ngạch ngoại
thơng của Việt Nam trong các năm nh đã nói ở trên. Điều này cho thấy, trong quan hệ thơng
mại song phơng Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Nhật Bản, còn Nhật Bản không phụ thuộc
nhiều vào Việt Nam. Mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào Nhật lớn hơn nhiều so với các nớc
đang phát triển khác ở Châu á nh Malaysia, Thái Lan, Inđônêxia… Vì vậy, nếu nh có bất kỳ
một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thơng của Nhật Bản hoặc thị trờng Nhật Bản thì
sẽ gây cho nền kinh tế của Việt Nam một cú xốc tơng ứng; ví dụ nh: sự trừng phạt buôn bán,
sự tăng giảm giá của đồng Yên hoặc sự thay đổi chính sách… đều gây tác hại đối với nền
kinh tế Việt Nam nhiều hơn những gì mà thị trờng Việt Nam có thể gây ra cho Nhật Bản.
Cơ cấu hàng hoá trao đổi còn nhiều bất cập: Việt Nam xuất sang Nhật Bản nguyên liệu
khoáng sản, thủy hải sản chủ yếu dới dạng thô hoặc mới qua sơ chế và một số mặt hàng công
nghiệp nhẹ, hàng gia công, nhng lại nhập từ Nhật những hàng công nghiệp nặng. Nh vậy,
Việt Nam đã xuất sang thị trờng này những hàng hoá sử dụng nhiều lao động, tài nguyên
thiên nhiên, đồng thời nhập từ đó những loại hàng hoá sử dụng ít nguyên liệu nhng chứa
đựng một hàm lợng chất xám cao.
Cơ cấu buôn bán giữa hai nớc phản ánh giai đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế
Việt Nam với những lợi thế tơng đối về tài nguyên và lao động. Về mặt thực tiễn, cán cân th-
ơng mại nghiêng về xuất khẩu là một hiện tợng lành mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam vì
doanh thu ngoại tệ. khả dĩ có thể chuyển thành hàng hoá giúp cho sự phát triển các ngành
công nghiệp chế tạo – cơ sở cho sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam trong tơng lai.
Tuy nhiên, cơ cấu này chỉ có u điểm trong thời gian ngắn từ 3 – 5 năm hoặc tối đa là 7 năm,
nếu kéo dài sẽ hoàn toàn bất lợi đối với Việt Nam trong trao đổi mậu dịch. Thặng d thơng
mại của Việt Nam với Nhật Bản trong thời gian qua chủ yếu là do dầu thô mang lại. Mức
thặng d của Việt Nam trong buôn bán vớ Nhật Bản là khá lớn nhng những thiệt hại khác thì
cha ai tính đợc.
Rất có thể, trong thời gian tới Việt Nam sẽ phải đơng đầu với sự thâm hụt trở lại trong
cán cân thơng mại với Nhật Bản vì với yêu cầu của công nghiệp hoá, đòi hỏi Việt Nam phải
nhập khẩu một khối lợng lớn máy móc; thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại… Ngời ta dự
báo rằng, với tiến trình Công nghiệp hoá đang diễn ra ở Việt Nam thì trong thời gian một vài
năm tới (từ năm 2006 – 2010) Việt Nam sẽ nhập siêu từ Nhật. Mức nhập siêu sẽ không phải
là nhỏ nếu; Việt Nam không nhanh chóng thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của mình sang thị
trờng này.
Quan hệ buôn bán giản đơn cha gắn liền với hình thức hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt
là với hình thức đầu t (liên doanh, liên kết) và tài trợ phát triển chính thức (ODA). Chính vì
vậy, mà các doanh nghiệp Việt Nam cha có chỗ đứng trên thị trờng Nhật Bản. Trong khi đó,
quan hệ buôn bán của phía Nhật Bản đã bớc đầu đợc đặt trong mối quan hệ với ODA và hình
thức đầu t trực tiếp FDI cũng nh phân bố mạng lới sản xuất trong khu vực, do đó các doanh
nghiệp Nhật Bản tạo đợc chỗ đứng vững chắc trên thị trờng Việt Nam.
Với thực trạng quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản nh hiện nay, vấn đề đặt ra là
Việt Nam phải giải quyết những tồn tại, và khắc phục các mặt hạn chế để thúc đẩy quan hệ
thơng mại song phơng phát triển tơng xứng vơí tiềm năng của hai nớc. Nói cách khác, Việt
nam cần phải mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động thơng mại song phơng với Nhật Bản.
Chơng 3:
Những định hớng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thơng mại giữa Việt
Nam - Nhật Bản
Có thể nói, quan hệ kinh tế giữa hai nớc Việt Nam - Nhật Bản nói chung và quan hệ
thơng mại của hai nớc nói riêng. ta thấy chúng có nhiều thuận lợi, nhng bên cạnh đó cũng
còn tồn tại không ít những mặt khó khăn đã làm tác động không nhỏ tời quan hệ của hai nớc,
kìm hãm sự phát triển của quan hệ thơng mại của hai nớc trong tơng lai.
3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa hai nớc Việt Nam – Nhật
Bản.
3.1.1 Những thuận lợi.
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển tốt đẹp nh hiện nay, đó là nhờ sự cố gắng nỗ
lực của cả hai nớc. xu thế hoà nhập, hợp tác của khu vực, thế giới là điều kiện hết sức quan
trọng để khởi động, thúc đẩy quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa hai nớc; mang lại những lợi ích
cho cả hai bên, thể hiện ở:
Thứ nhất, Những thuận lợi bắt nguồn từ bối cảnh khu vực và quốc tế đợc bắt đầu từ
những năm 1990, sẽ tiếp tục tác động tích cực đến quan hệ kinh tế hai nớc Việt Nam – Nhật
Bản trong những năm tới.
Xu hớng hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế đợc gia tăng từ đầu những năm 1990, đến
nay, vẫn tiếp tục phát triển sâu rộng trên tất cả các khu vực trên thế giới. Nếu từ đầu những
năm 1990, khi mà đón nhận xu hớng này, có không ít các quốc gia do dự, trong đó có Việt
Nam, bởi họ sợ những tác động tiêu cực nhiều hơn, sợ bị lệ thuộc nhiều hơn vào các nớc lớn
và sợ bị các nớc lớn chi phối khi mà họ tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập và liên kết
kinh tế kinh tế toàn cầu. Trải qua hơn một thập niên liên kết và hội nhập, ngời ta mới hiểu ra
rằng, lợi ích do quá trình này mang lại thực sự to lớn. khác với trớc đây, sự chủ động hội
nhập trở thành một trong những yếu tố chiến lợc của sự mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều này, cũng đợc thể hiện ở chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI
mà Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đa ra. Đó là: “gắn chặt việc
xây dựng nên kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Độc lập, tự chủ
về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có
hiệu quả sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Chính điều này sẽ tạo
ra nhiều cơ hội hơn để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thơng mại Việt Nam - Nhật Bản.
Thứ hai, là những kinh nghiệm của nhiều thập niên xây dựng và phát triển quan hệ
kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Đây đợc coi là một thuận lợi lớn cho quan hệ kinh tế Việt Nam
- Nhật Bản. Bởi vì những kinh nghiệm “hay” sẽ đợc đợc nhân lên và những kinh nghiệm
“dở” sẽ đợc cả hai phía khắc phục, từ đó tạo cơ hội cho quan hệ của hai nớc ngày càng phát
triển.
Những kinh nghiệm hợp tác song phơng giữa hai nớc trong thập niên qua cho đến nay,
cha có một công trình nghiên cứu nào tổng kết lại. song ngời ta hiểu rằng, nhờ đó Việt Nam
và Nhật Bản hiểu biết nhau hơn cả trên tất cả cấp độ chính phủ, nhà doanh nghiệp và nhân
dân; hai phía đều hiểu rõ nhu cầu của hai quốc gia và đặc biệt nhu cầu của ngời tiêu dùng.
Hiểu rõ hơn, đặc điểm của từng thị trờng. Trên cơ sở của sự hiểu biết đó, cả phía Việt Nam
và Nhật Bản có thể trao đổi, thơng lợng và chia sẻ lợi ích trong quá trình hợp tác (hợp tác hai
bên cùng có lợi).
3.1.2 Những khó khăn.
Bên cạnh những mặt thuận lợi trên, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng đang
vấp phải những mặt khó khăn đó là:
* Khó khăn do những biến động từ môi trờng quốc tế.
Nh đã nói ở trên, xu hớng hội nhập, liên kết khu vực và quốc tế gia tăng đã và đang
đem lại nhiều lợi thế cho các quốc gia tham gia vào quá trình này, trong đó có cả Việt Nam
và Nhật Bản. song cũng chính sự tiến triển của quá trình này, trong bối cảnh các nền kinh tế
không có cùng trình độ phát triển, rất có thể chúng sẽ gây tác động ngợc, và sẽ ảnh hởng tới
quan hệ kinh tế – thơng mại Việt Nam – Nhật Bản. Có thể kể một số tiêu cực do quá trình
này gây ra: Trớc hết, để tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nớc ta phải giảm dần thuế
quan và tiến tới rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, điều này sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nớc
ngoài ồ ạt đổ vào thị trờng nội địa, cạnh tranh “bóp chết” các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nớc. Thứ hai, do hội nhập kinh tế quốc tế mà mọi chấn động tiêu cực trong hệ thống
kinh tế toàn cầu (tiền tệ, tài chính, giá cả nguyên nhiên liệu…) cũng có thể ảnh hởng đến nớc
ta. Ngoài ra, phải kể đến khá nhiều tác động tiêu cực khác, song những tác động tiêu cực này
có thể lớn hay nhỏ, điều đó còn tuỳ thuộc vào các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của
chúng ta. Nếu chúng ta có các chính sách hội nhập đúng đắn và thích hợp thì ảnh hởng của
những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế. Điều này, đòi hỏi ta phải nghiên cứu một cách toàn diện,
triệt để những cơ hội và thách thức mà vấn đề toàn cầu hoá đặt ra để định ra đờng lối đúng
đắn và hoạch định chiến lợc phát triển của đất nớc trong thời gian tới. Các chính sách này sẽ
tác động tới quan hệ tới quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản nói riêng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
* Khó khăn từ phía Nhật Bản.
Tuy là một nớc giầu có, nhng với sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng đầu thập niên
1990, nớc Nhật lâm vào cuộc suy thoái gần nh liên tục và trong đó cũng là quốc gia gián tiếp
bị cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ Châu á trong hai năm 1997 và 1998. Ngoài ra,
trong bối cảnh tình hình chính trị quốc tế diễn biến hết sức phức tạp về thơng mại song ph-
ơng và sản phẩm công nghệ cao, sức ép của Mỹ trong quan hệ với Nhật Bản ngày càng gia
tăng. Nhật Bản đang đứng trớc thách thức của một loạt nhân tố kìm hãm rất gay gắt đợc tích
tụ sau hàng chục năm qua. Chẳng hạn, hàng loạt các tổ chức tín dụng không thanh toán đợc
các khoản nợ đã vay ngân hàng, không có tiền cho các khoản vay mới dẫn đến nguy cơ đổ
vỡ, các doanh nghiệp bị phá sản làm cho hàng loạt ngời lao động bị mất việc; tỷ lệ thất
nghiệp của đất nớc vốn đã nhiều năm nổi tiếng là thất nghiệp thấp nhất (dới 1%) trong số hệ
thống các nớc t bản, nay đã tăng vọt đến mức 5,2 % vào quý 1 năm 2002; còn năm 1999 chỉ
số tăng trởng kinh tế là âm (2,2%); không những thế thị trờng tài chính tiền tệ thờng xuyên
biến động, lên xuống thất thờng, đồng yen trở nên yếu kém… Tình trạng trên, đã biến cho
giới đầu t trong và ngoài nớc không có lòng tin đối với thị trờng tài chính Nhật Bản. Do vậy
ngay từ đầu những năm 1990, Nhật Bản đã tiến hành cải cách kinh tế nhằm hình thành một
cơ cấu kinh tế mới theo kịp tiến bộ khoa học - kỹ thuật, biến đổi và duy trì sức mạnh chính trị
của Nhật Bản. Với việc kết thúc thời kỳ suy thoái đuổi kịp Châu Âu và Mỹ. Do tác động của
quá trình toàn cầu hoá, Nhật Bản phải điều chỉnh lại toàn bộ cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý
nhằm đáp ứng với yêu cầu công nghệ cao, tăng năng xuất lao động, hội nhập nền kinh tế
Nhật Bản vào thế giới.
Bên cạnh đó, chính những sự tác động tích cực của sự phát triển kinh tế nhiều năm tr-
ớc đây đã dấn đến xu hớng dân số bị già hoá ở Nhật Bản tăng nhanh. Có nghĩa là, hoạt động
kinh doanh bị thu hẹp lại, do thiếu sức lao động, nhất là lực lợng lao động trẻ đợc đào tạo có
kỹ thuật bị giảm sút mạnh. Điều này gây nên giá cả lao động tăng cao làm ảnh hởng đến đầu
t phát triển sản xuất. Tiền tiết kiệm và tiền đầu t vào phát triển kinh tế nh vậy cũng co lại nh-
ờng cho phúc lợi xã hội, hu trí và chăm sóc ngời già, làm tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà
nớc. Chính sự già hoá dân số tăng nhanh ở Nhật Bản đã là một trong những nguyên nhân xã
hội “góp phần” làm cho nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 1990 bị lâm vào tình trạng
suy thoái kéo dài.
Ngoài những khó khăn bên trong nền kinh tế Nhật, thì những yếu tố khách quan bên
ngoài cũng gián tiếp tác động làm cho nền kinh tế Nhật Bản càng lún sâu hơn trong tình
trạng suy thoái, trì trệ trong các năm 1997 – 1998, đó là ảnh hởng tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ của khu vực Châu á. Sở dĩ nh vậy là do, Nhật Bản có mối quan hệ
hợp tác kinh tế thơng mại lâu dài và đầu t từ lâu với các nớc trong khu vực Châu á. Kết quả
là, cuộc khủng hoảng này đã làm thiệt hại lớn đến cán cân xuất nhập khẩu và đầu t của Nhật
Bản tại thị trờng này.
Có thể nói, những khó khăn mà đất nớc Nhật Bản đang phải đối phó không những ảnh
hởng tới khả năng kinh tế của nớc này mà còn ảnh hởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế,
trong đó có quan hệ với Việt Nam.
* Khó khăn từ phía Việt Nam.
Mặc dù, con đờng phát triển phía trớc còn nhiều cơ hội đang rộng mở, nhng nớc ta vẫn
còn phải đối mặt với nhiều thách thức vá khó khăn chồng chất.
- Một là, trớc hết, về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nớc nông nghiệp, cơ sở vật chất
và trình độ công nghệ còn thấp xa với các nớc trong khu vực, lại phải chịu hậu quả năng nề
của những thập kỷ bị chiến tranh tàn phá. Do vậy, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp,
cơ cầu kinh tế chuyển biến chậm, hớng đầu t cha cao, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cha đáp
ứng đợc yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
- Hai là, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn cha ổn định vững chắc; tỷ lệ tiết kiệm,
đầu t còn thấp do thu nhập bình quân của ngời dân cha cao. Đến năm 2003, tiết kiệm nội địa
mới đạt khoảng 23 % GDP và GDP trên đầu ngời mới đạt đợc xấp xỉ 400 USD. Lĩnh vực tài
chính ngân hàng còn nhiều bất cập, chất lợng tín dụng cha cao, kinh nghiệm huy động vốn
cho vay còn nhiều hạn chế, cha đủ làm động lực để thúc đẩy, thu hút đầu t.
- Ba là, hệ thống luật pháp về kinh tế còn đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu
tính đồng bộ, một số văn bản ban hành chậm và thiếu nhất quán đã gây cản trở quá trình thực
hiện, cha tạo ra động lực mới để vợt qua khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cải cách hành
chính tiến hành chậm và thiếu kiên quyết nên bộ máy hành chính hoạt động cha hiệu quả,
hiệu lực thấp. một bộ phận công chức còn yếu về năng lực, phẩm chất…(nên hoạt động theo
kiểu làm công ăn lơng).
- Bốn là, nền kinh tế nớc ta có thể nói là kinh tế thị trờng nhng cha phát triển; hệ thống
thị trờng cha hoàn thiện; chẳng hạn nh thị trờng bất động sản, thị trờng lao động, thị trờng
chứng khoán, bảo hiểm… do đó, không thu hút đợc các nhà đầu t cũng nh làm méo mó sự
phân bổ các nguồn lực. Ngoài ra, hệ thống tín dụng ngân hàng ở nớc ta còn nhiều yếu kém,
cha đợc hiện đại hoá cao, gây mất thời gian, tăng chi phí và giảm sự năng động của các
doanh nghiệp. Ví dụ nh là việc đặt máy rút tiền tự động cũng chỉ đặt trong những ngân hàng
lớn, ở những thành phố lớn và xa nơi công cộng làm cho việc rút tiền chậm chạp….
- Thứ năm, đó là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nớc còn thấp, đặc biệt là
các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nớc. Mặc dù các doanh nghiệp này đợc hởng sự
đầu t, u đãi của nhà nớc và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhng nhiều doanh
nghiệp nhà nớc đều nằm sâu trong tình trạng làm ăn thua lỗ, không hiệu quả. Hiện nay, Nhà
nớc đã thực hiện quá trình sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhng
tiến trình cải cách còn chậm, mới chỉ cổ phần hoá đợc một số các doanh nghiệp nhà nớc, dù
quá trình cổ phần hoá diễn ra đã khá lâu. Đây là một cách thức lớn đối với nớc ta trong quá
trình hội nhập thế giới và phát triển quan hệ kinh tế với các nớc, trong đó có Nhật Bản.
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, những khó khăn của nền kinh tế hiện đại
cùng với sự gia tăng mạnh mẽ cạnh tranh quốc tế càng làm bộc lộ rõ những yếu kém của và
làm chậm lại nhịp phát triển tăng trởng kinh tế của Việt Nam. Hơn lúc nào hết, thách thức
lớn nhất đối với Việt Nam là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nớc phát triển nếu
không duy trì đợc mức tăng trởng trên 9 %. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần xác định rõ lộ trình
các bớc đi, đặt ra từng kế hoạch 5 năm có sự cam kết của các tổ chức, doanh nghiệp; cụ thể
hoá kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là phơng hớng, biện pháp nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. bố trí đào tạo cán bộ có đủ năng lực kiến thức, tinh
thần làm việc theo kiểu công nghiệp để thực hiện thành công quá trình hội nhập. những cam
kết Nhà nớc ta phải thực hiện đối với từng tổ chức tạo điều kiện làm việc, kinh doanh u đãi,
thời gian thực hiện để từ đó mỗi doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức sản xuất, kinh
doanh sao cho có hiệu quả.
3.2 Triển vọng mối quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản.
Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giaovới Việt Nam từ tháng 9/1973, nhng quan hệ
Việt - Nhật thực sự phát triển vững chắc kể từ sau năm 1991, bắt đầu bằng việc nối lại viện
trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Kết quả sau nhiều vòng đàm phán là vào
tháng 11/1992, hai bên đã ký kết hiệp định về việc Nhật Bản viện trợ có hạn định cho Việt
Nam 45 tỷ 500 triệu Yên – mở ra một trang sử mới trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
tháng 3/1993. Tháng 11/1993, tại hội nghị các nớc viện trợ cho Việt Nam, Nhật Bản đã quyết
định viện trợ 60 tỷ Yên (khoảng 560 triệu USD) và trở thành nớc viện trợ trực tiếp cao nhất
cho Việt Nam. Tháng 8/1994, thủ tớng Murayama là vị thủ tớng đầu tiên của Nhật Bản sang
thăm Việt Nam, trong cuộc hộ đàm với thủ tớng Võ Văn Kiệt, hai bên đã nhất trí thắt chặt
quan hệ hợp tác giữa hai nớc, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giao lu con ngời,
hớng tới thời kỷ mới trong quan hệ Việt – Nhật. Tháng 4/1995, nhận lời mời của thủ tớng
Murayama, Tổng bí th Đỗ Mời đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Đây là chuyến thăm đầu
tiên của Tổng bí th Đảng Cộng sản Việt Nam đến Nhật Bản, đánh dấu một bớc phát triển
quan trọng trong việc tăng cờng quan hệ hữu nghị giữa hai nớc.
Năm 1999 là năm kỷ niệm lần thứ 26 quan hệ ngoại giao Việt – Nhật, để khẳng định
sự gắn bó đoàn kết giữa hai nớc, các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nớc đã liên tục có những
chuyến viếng thăm và làm việc với nhau. Tiếp theo là chuyến viếng thăm của thủ tớng Nhật
Bản Keizo Obuchi nhân dịp dự hội nghị thợng đỉnh ASEAN vào tháng 12/1998 tại Việt
Nam. Chuyến thăm của thủ tớng Phan Văn Khải vào tháng 3/1999, chuyến thăm của phó thủ
tớng Nguyễn Tấn Dũng sang Nhật Bản vào tháng 6/1999, chuyến thăm của Bộ trởng tài
chính Miyazawa vào tháng 5/1999; chuyến thăm của Hoàng tử và Công chúa Nhật Bản
Akishino tới Việt Nam vào tháng 6/1999. Từ ngày mùng 4 đến mùng 6/6/2001 Thủ tớng
PhanVăn Khải đã tham dự hội thảo “Tơng lai Châu á” và đã thăm Nhật Bản. ngày
27/03/2002, Thủ tớng Nhật Bản Junichiro Koizumi cùng các thành viên trong đoàn đại biểu
Chính phủ Nhật Bản đã đến Hà Nội, tại cuộc hộ đàm, Thủ tớng Phan Văn Khải và thủ tớng
Koizumi đã dành nhiều thời gian trao đổi ý kiến về các biện pháp cụ thể nhằm tăng cờng hơn
nữa quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực để hớng tới kỷ niệm 30 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản vào năm 2003.
Qua các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo, Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết với nhau
nhiều hiệp định hợp tác kinh tế, giải quyết những vấn đề tồn đọng và xục tiến quan hệ mậu
dịch, đầu t giữa hai nớc. Tính đến ngày 29/2/2004, tổng vốn đầu t trực tiếp FDI của Nhật Bản
lên tới 4,585 triệu USD và tổng vốn thực hiện là 3,947 triệu USD chiếm 86 %. Có thể nói
Chính phủ ta đã có cố gắng nỗ lực trong việc tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp nớc
ngoài đầu t, liên doanh liên kết vào thị trờng Việt Nam.
Mấy năm gần đây Việt Nam dần dần hiểu rõ hơn thị trờng Nhật Bản, các doanh
nghiệp thành thạo hơn trong các nghiệp vụ xuất nhập khẩu và đã có sự chủ động hợp tác với
nớc bạn. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng hiểu rõ khả năng hợp tác vớc các doanh nghiệp Việt
Nam trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Cho đến nay, rất nhiều sản phẩm của các hãng nổi tiếng
ở Nhật Bản nh Toshiba, Mitsubisi, Tozota, HonDa, SamSung… đã trở nên khá quen thuộc và
đã đi sâu vào cuộc sống hàng ngày của ngời dân Việt Nam. Tuy nhiên, không phải dễ dàng
mà các sản phẩm trên đạt đợc điều này. Để có đợc điều đó, các công ty của Nhật đã phải nỗ
lực trong việc tiếp thị, quảng cáo và hoạt động quan trọng hơn cả là tìm hiểu đợc thị hiếu ng-
ời tiêu dùng Việt Nam. Phần nữa là nhờ vào những thiết bị máy móc tiên tiến hiện đại của
mình mà Nhật Bản có thể sản xuất hàng hoá có chất lợng cao, mẫu mã đẹp đợc ngời tiêu
dùng tin tởng. Nh vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản đã dựa vào thế mạnh, uy tín của mình để
phát huy. Còn Việt Nam thì sao? Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nỗ lực phát huy những
lợi thế so sánh của mình trong lĩnh vực hàng nông sản, dầu thô, dệt may… nh lao động rẻ,
nguyên liệu đầu vào rẻ… vì vậy, các doanh nghiệp của ta cũng đã từng bớc thâm nhập vào
thị trờng Nhật Bản.
Việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (aesan), Diễn đàn hợp tác
châu á - Thái Bình Dơng ( apec) sẽ tạo ra những cơ hội mới cho hoạt động thơng mại. Khi
cha tham gia vào WTO (tổ chức thơng mại thế giới) thì việc gia nhập vào (APEC) sẽ giúp
Việt Nam mở rộng thị trờng với nhiều u đãi giúp hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đợc đẩy
mạnh. Nếu muốn tham gia vào WTO, Việt Nam buộc phải mở rộng thị trờng của mình và
phải chấp nhận một môi trờng cạnh tranh ác liệt và hoàn toàn bình đẳng với các nớc trong
khu vực và thậm chí là với các nớc có nền kinh tế phát triển nh Mỹ, Nhật, Hàn Quốc… Đây
vừa là thách đố vừa là động lực kích thích các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn trơng nâng
cao sức cạnh tranh các sản phẩm của mình cả trên thị trờng trong nớc cũng nh thì trờng ở nớc
ngoài. Để làm đợc điều này, Việt Nam phải thực hiện đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng
cao trình độ quản lí, tiếp thị, cải tiến mẫu mã, chất lợng, giảm giá thành sản phẩm.
Việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực Châu á Thái Bình Dơng, một
khu vực vẫn còn chứa nhiều yếu tố của sự phát triển năng động và đầy hứa hẹn trong thập kỷ
tới. Với t cách là một thành viên lâu đời của APEC và WTO, là bên đối thoại tích cực của
ASEAN, Nhật Bản sẽ cho Việt Nam đợc hởng các u đãi theo qui định của các tổ chức này
trên các lĩnh vực khác nhau và cũng có điều kiện hơn trong việc hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam
học hỏi những kinh nghiệm xúc tiến nhanh hơn quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Tóm lại, triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong thời gian tới rất
khả quan. Nó phù hợp với chiến lợc mở của thị trờng tăng cờng quan hệ kinh tế đối ngoại
trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên để triển vọng hợp tác đó trở thành hiện thực,
chính phủ hai nớc cần có những nỗ lực, cố gắn hơn nữa trong việc tạo dựng hành lang pháp
lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nớc thâm nhập thị trờng của nhau, thúc đẩy quan hệ
hợp tác hai bên cùng có lợi, cùng phát triển.
3.3. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa Việt Nam -
Nhật Bản.
Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng mục tiêu chiến
lợc trong những năm tiếp theo là giữ vững hoà bình tranh thủ điều kiện bên ngoài thuận lợi,
tranh thủ thời gian nhằm từng bớc giữ vững ổn định hoà bình để tập trung phát triển kinh tế.
Phơng hớng trong thời gian tới là chúng ta cần vận dụng đờng lối độc lập, tự chủ, đa đạng
hoá, đa phơng hoá; cần xác định chiến lợc đối ngoại mới vừa hợp tác vừa đấu tranh, củng cố
sự tin cậy quốc tế và khu vực đối với nớc ta bằng nhiều biện pháp, để các nớc thấy Việt Nam
là một đối tác tin cậy, một thị trờng làm ăn có lợi. Mở rộng quan hệ làm ăn đối với tất cả các
nớc, trớc hết là các nớc lớn , các nớc láng giềng, các nớc trong khu vực, cố gắng làm tốt trách
nhiệm của một thành viên ASEAN và hớng tới chủ động hoà nhập vào kinh tế khu vực Châu
á - Thái Bình Dơng. Đồng thời quan hệ với các nớc khu vực khác, không vì quan hệ hẳn với
một nớc này mà phải tránh quan hệ với các nớc khác. Tranh thủ sự hợp tác, đầu t và viện trợ
để thúc đẩy tăng trởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Phát triển ngoại thơng trên cơ sở
xây dựng nền kinh tế mở, hớng mạnh về xuất khẩu thay thế hàng xuất khẩu bằng các mặt
hàng sản xuất trong nớc có chất lợng cao mẫu mã đẹp, giá thành ổn định.
* Quan hệ kinh tế – thơng mại với Nhật Bản là một trong những mối quan hệ
lớn, ổn định lâu dài trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của nớc ta. Hơn nữa nớc ta nằm
trong khu vực châu á và đặc biệt là thành viên của khối các nớc ASEAN nên chúng ta cùng
chịu tác động chiến lợc kinh tế tài chính của Nhật Bản đối với khu vực Châu á và của khối
ASEAN đối với Nhật Bản.
* Tăng cờng hợp tác kinh tế với Nhật Bản nhằm tranh thủ các lợi ích kinh tế có
đợc, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhng đồng thời để giảm tối thiểu sự
phụ thuộc kinh tế vào Nhật Bản cũng nh tác động xấu đến chiến lợc phát triển kinh tế đất nớc
trong thời gian tới, chúng ta cần xây dựng những chiến lợc cụ thể trong quan hệ kinh tế và
quan hệ đối ngoại với Nhật Bản trên quan điểm: Đánh giá đúng chiến lợc kinh tế các nớc
trong khu vực, các tổ chức quốc tế, thấy rõ những điểm chung điểm bất đồng giữa ta và họ,
củng cố tăng cờng các điểm chung, không bỏ lỡ thời cơ để hợp tác để tránh những bất đồng
về lợi ích giữa các bên.
* Cải tiến hệ thống chính sách thuế khoá và thuế quan phù hợp với xu thế tự do
hoá thơng mại thế giới :
Nhanh chóng thực hiện các chơng trình về thuế quan trong chơng trình của khối
ASEAN để có thể sớm hoà nhập vào thị trờng khu vực, và có thể tham gia vào quá trình hội
nhấp kinh tế quốc tế. Điều này, sẽ tạo cho chúng ta cơ hội tham gia vào các hoạt động thơng
mại với Nhật Bản. Thông qua việc cung cấp các nguyên - nhiên liệu đầu vào cho mạng lới
các công ty Nhật Bản, đã và đang đợc hình thành trên khu vực Châu á sẽ tăng thêm về mặt số
lợng và hiệu quả kinh tế đối với hàng hoá của ta.
Song với chơng trình cắt giảm thuế quan trên, chúng ta cũng nên mạnh dạn áp
dụng các mức thuế u đãi đối với thu nhập của các doanh nghiệp trong nớc tạo điều kiện cho
doanh nghiệp thu nhập cao hơn. Để tăng nhanh khối lợng hàng hoá qua chế biến, cách tốt
nhất chính phủ nên đa ra các chính sách tích cực, khuyến khích sự tham gia của các hãng
Nhật Bản trong quá trình sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là
chìa khóa để Việt Nam nâng cao chất lợng và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trờng
Nhật Bản và thị trờng các nớc khác.
* Ngoài ra, Việt Nam cũng phải có những biện pháp hiệu quả trong việc chuyển dịch
cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý để quan hệ thơng mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển thực sự
với tiềm năng và nhu cầu của hai nớc. nhất là về phía Việt Nam, chúng ta phải không ngừng
đổi mới, hoàn thiện hệ thống hoạt động ngoại thơng, không chỉ dừng lại trong việc nâng cao
chất lợng của cơ sở hạ tầng mà ở ngay cả, các chính sách thuế quan, giấy phép xuất nhập
khẩu, đội ngũ cán bộ công nhân viên…. Hiện tại, chúng ta phải chấp nhận cơ cấu xuất nhập
khẩu nh đã trình bảy ở (chơng 2). song để giảm bớt sự “trả giá”, ngay từ bây giờ cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam sẽ phát triển theo hớng là: làm giảm và tiến tới loại bỏ các nguyên, nhiên
liệu thô, gia tăng tỷ trọng xuất của những mặt hàng đã qua chế biến. Cơ cấu nhập khẩu cũng
phải chuyển dịch theo hớng u tiên nhập khẩu những máy móc công nghệ đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nớc. Có nghĩa là các công nghệ hiện đại sẽ chiếm tỷ
trọng cao trong giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản, bởi vì Nhật Bản là một nớc có
tiềm lực khoa học, công nghệ rất phát triển so với các nớc trên thế giới. Các mặt hàng tiêu
dùng, nếu không phải là thiếu yếu thì sẽ không nhập khẩu hoặc chỉ nhập khẩu với tỷ trọng
không đáng kể, u tiên dành mọi nguồn lực cho nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đaị hoá đất nớc.
* Tình trạng yếu kém trong khả năng tài chính của các công ty Việt Nam, nhất
là các công ty nhà nớc, khiến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Nhật Bản bị giảm
sút. Do vậy, Chính phủ cũng cần có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết
triệt để những khoản nợ mà các công ty Việt Nam đang mắc phải (chủ yếu là nợ khó đòi).
Cho phép các công ty mua lại dới hình thức trả chậm. Chính phủ Việt Nam cũng cần phải có
những biện pháp củng cố, sắp xếp, điểu chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động các doanh nghiệp nhà nớc kể cả những doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Có thể cho giải
thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong các lĩnh vực ít phục vụ cho nền kinh
tế quốc dân. Đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc và nâng cao
hơn nữa vai trò của thị trờng Chứng khoán trong đời sống kinh tế quốc gia, đồng thời khuyến
khích phát triển đa dạng hoá kinh tế t bản t nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất,
kinh doanh mà pháp luật không cấm, đa dạng hoá cả những thành phần kinh tế ngoài 6 thành
phần kinh tế chính mà Đại hội Đảng XI đã công nhận.
* Mặt khác, Chính phủ ta cũng cần có biện pháp nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc
hơn về cách thức làm ăn của ngời Nhật, để điều chỉnh lại chính sách của mình cho phù hợp
hơn và để tăng cờng hiểu biết hơn nữa về thị trờng đối tác của mình. Hiện nay, Việt Nam đã
thành lập các trung tâm t vấn chuyên về Nhật Bản trực thuộc Bộ thơng mại nhằm giảm bớt
những thua thiệt không đáng có của các công ty Việt Nam khi ký hợp đồng gia công, liên
doanh… với các công ty Nhật Bản.
* Một vấn đề nữa, không kém phần quan trọng đối với hoạt động thơng mại đó
là chúng ta phải tích cực đẩy mạnh việc tìm kiếm, mở rộng thị trờng ra các nớc trớc hết với
các nớc trong khu vực ASEAN và thu hút nhiều quốc gia hợp tác để tránh tình trạng phụ
thuộc vào các công ty Nhật Bản trong việc cung cấp sản phẩm đầu t cũng nh tiêu thụ sản
phẩm đầu ra. Mục đích của việc này, một mặt là để hạn chế và chia nhỏ những rủi ro cho các
nhà xuất khẩu Việt Nam khi các thị trờng truyền thống bị biến động. Mặt khác, nâng cao tính
cạnh tranh, vị thế của hàng hoá Việt Nam trên thị trờng quốc tế, tránh bị ép giá do mất đầu
ra.
* Ngoài ra, cũng cần có các biện pháp triển khai từ cả hai phía Việt Nam và
Nhật Bản
Đó là, hai nớc cần có trao đổi, bàn bạc cụ thể trong khuôn khổ song phơng để đi
đến ký hiệp định thơng mại giữa hai nớc, trong đó Nhật Bản dành cho Việt Nam quy chế tối
huệ quốc (MFN) đầy đủ. Hiệp định này nếu đợc ký sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho quan hệ
thơng mại giữa hai nớc phát triển hơn nữa.
+ Sớm thành lập cục xúc tiến thơng mại để làm cầu nối giữa Bộ Thơng mại, Th-
ơng vụ tại các nớc với các doanh nghiệp Việt Nam và nớc ngoài trong việc trao đổi, thu thập
thông tin về thị trờng cũng nh thông tin về hàng hoá nớc ngoài.
+ Trong tiến trình cải thiện môi trờng đầu t và đẩy mạnh thu hút vốn đầu t nớc
ngoài, phía nhà nớc Việt Nam cần hết sức quan tâm tới vốn đầu t của Nhật Bản vì các nhà
đầu t Nhật khi chuyển sang sản xuất tại Việt Nam sẽ xuất khẩu trở lại Nhật Bản một phần,
hoặc có thể toàn bộ sản phẩm của nhà máy họ, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá sản xuất tại Việt Nam xuất sang thị trờng Nhật Bản. Đặc biệt các nhà đầu t Nhật Bản
cũng rất quan tâm đến sự kiện Việt Nam ký hiệp định thơng mại song phơng với Mỹ ngày
13/7/2000 và sự kiện Việt Nam đăng cai tổ chức Seagame lần thứ 22 của Đông Nam á. Đây
là cơ hội cho các cơ sở đầu t của họ tại Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hoá sang cả thị trờng
Mỹ và các nớc khác giúp cho việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và tạo
ra một cơ hội cho việc tiếp thị quảng cáo giới thiệu các sản phẩm mới.
Tóm lại, trong xu thế ổn định, hợp tác phát triển của khu vực Châu á - Thái Bình
Dơng cùng dấu hiệu tích cực trong cải cách phát triển kinh tế ở cả hai quốc gia, với việc phối
hợp chặt chẽ triển khai những giải pháp cơ bản nêu trên, chúng ta có thể hy vọng về tơng lai
rực sáng trong quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản trong thời gian tới.
Kết luận
Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm
1973 đến nay, mặc dù có những bớc thăng trầm nhng mối quan hệ giữa hai nớc hiện nay đã
đạt đợc những thành tựu đáng kể và tơng lai mối quan hệ này có nhiều điều kiện để phát triển
hơn nữa. Nghiên cứu mối quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản trong những năm của
thập kỷ 90 của thế kỷ thứ 20 ta thấy có những bớc phát triển mạnh mẽ so với thập kỷ trớc.
Cũng có thể kết luận rằng, từ khi Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam cho tới
nay, quan hệ kinh tế Việt – Nhật liên tục phát triển, Việt Nam luôn đạt đợc thặng d thơng mại
với Nhật Bản, cơ cấu của mặt hàng cũng có chuyển biến tích cực góp phần tích cực vào việc
dịch chuyển cơ cấu kinh tế Việt Nam.
Qua phần nội dung trên có thể thấy, quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản đã
gia tăng mạnh cả về số lợng và chất lợng. Những thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam đợc
phản ánh qua việc Việt Nam xuất khẩu ngày càng nhiều loại hàng hoá vào thị trờng Nhật
Bản và đợc thị trờng này chấp nhận. Điều đó chứng tỏ rằng hàng Việt Nam đã bớc đầu xác
lập đợc vị thế của mình trên thị trờng nớc này. Những thế mạnh về công nghệ - kỹ thuật của
Nhật Bản đã xuất khẩu vào thị trờng Việt Nam, đợc khẳng định qua việc các doanh nghiệp n-
ớc ta xuất khẩu ngày càng nhiều các loại hàng hoá có hàm lợng công nghệ cao sang Nhật
Bản và các nớc phát triển khác. Một vài năm trở lại đây, nền kinh tế Nhật suy thoái đã làm
ảnh hởng đến tiến trình xuất nhập khẩu giữa hai nớc. Trong những năm tới, Việt Nam cần
nhiều hơn na các nguồn lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý… để phát triển đất nớc. Vì
vậy, chúng ta cần tận dụng lợi thế trong quan hệ với đối tác Nhật Bản, một có d thừa về vốn,
có trình độ công nghệ cao, phơng thức quản lý tiên tiến…
Ngoài ra, muốn có chiến lợc phát triển đúng đắn trong quan hệ giữa các nớc, đòi
hỏi phải có cái nhìn lâu dài, về phía Việt Nam chủ yếu là phải thay đổi chính sách, cơ chế
quản lý hoạt động ngoại thơng theo hớng thông thoáng hơ, phù hợp với thông lệ quốc tế và
nhu cầu hợp tác của Nhật Bản, mặt khác phải nghiên cứu thực tế và có những kiến thức sâu
rộng, hiểu biết về nhau cả Việt Nam – Nhật Bản cũng vậy.
chúng ta cũng hy vọng rằng với dấu hiệu tích cực của công cuộc khôi phục kinh
tế Nhật Bản và khu vực, cùng với quá trình đổi mới của Việt Nam, những kết quả trên sẽ là
bớc tạo đà quan trọng cho việc gia tăng hơn nữa quan hệ giữa hai nớc trong thiên niên kỷ
mới này, góp phần vào sự phát triển kinh tế của hai quốc gia cũng nh tạo ra bầu không khí
hợp tác kinh doanh trong toàn khu vực.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn - Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và giải pháp.pdf