MỤC LỤC
Mục lục .01
Mở đầu 04
I. Biển và đại dương 05
1. Giới thiệu chung 05
2. Chức năng của biển và đại dương 07
1. Sinh vật biển 07
2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển 08
3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên 08
4. Nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều 09
5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ 09
6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí 09
7. Biển điều hoà khí hậu 10
3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương 10
1. Ô nhiễm biển 10
2. Hiện tượng tràn dầu 11
3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản 12
4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao 13
4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương 14
1. Công cụ pháp chế 14
2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật 15
3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển 16
3.1.Các hệ sinh thái rạn san hô 16
3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển 18
II. Các hệ dòng chảy 20
1. Giới thiệu chung 20
2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam 22
1. Sông Nile 22
2. Sông Hồng 25
3. Sông Mekong 26
3. Chức năng của sông 26
1. Sông cung cấp thủy sản 26
2. Sông cung cấp nước ngọt 27
3. Sông điều hòa khí hậu 28
4. Sông đồng hóa các chất thải của con người 28
5. Sông là đường vận tải quan trọng 28
6. Sông cung cấp sức nước 28
7. Sông chuyên chở phù sa 28
4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông 29
1. Khai thác quá mức nguồn nước 29
2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông 29
3. Ô nhiễm các dòng sông 30
4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản 30
5. Quản lý hệ sinh thái sông 30
III. Các thủy vực nước tĩnh 32
1. Giới thiệu chung 32
2. Chức năng của hồ ao 32
1. Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước 32
2. Hồ điều hòa vi khí hậu. 32
3. Hồ cung cấp thủy sản 33
4. Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải 33
5. Hồ là cảnh quan du lịch 33
3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ 33
1. Ô nhiễm hồ ao 33
2. Cạn kiệt hồ ao 34
3. Tác động của hồ nhân tạo 35
4. Quản lý hồ ao 35
Kết luận 36
Tài liệu tham khảo 38
Mở đầu
Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thuỷ quyển bao gồm đại dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết. Khối lượng của thuỷ quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn bộ thuỷ quyển. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm 1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%. Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ quyển phân bố không đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.
Về mặt sinh thái, thủy quyển là nơi tồn tại một loạt các hệ sinh thái rất đa dạng và phong phú. Người ta chia các hệ sinh thái dưới nước thành: hệ sinh thái nước mặn và hệ sinh thái nước ngọt. Do các đặc trưng riêng của nó, hệ sinh thái nước ngọt lại được chia thành hệ sinh thái nước tĩnh (ao, hồ) và hệ sinh thái nước chảy (sông, suối).
Các hệ sinh thái dưới nước rất đa dạng, từ các rạn san hô ở biển đến các hệ sinh thái hồ ao. Cuộc sống xuất phát từ đại dương và nền văn minh nhân loại cũng xuất phát từ các lưu vực các con sông lớn. Bảo vệ các hệ sinh thái dưới nước chính là bảo vệ sự sống nhân loại.
Thủy quyển đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống trên hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, các hoạt động của con người đang ngày càng tác động xấu đến thủy quyển và các hệ sinh thái dưới nước. Chính vì vậy, tìm hiểu các hệ sinh thái dưới nước, các tác động của con người lên các hệ sinh thái dưới nước, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý hiệu quả các hệ sinh thái này nhằm mục đích duy trì chất lượng các thành phần của hệ sinh thái này (duy trì đa dạng sinh học, duy trì, cải thiện chất lượng môi trường nước và bảo vệ các chức năng của các hệ sinh thái nước) là vấn đề quan trọng.
Tiểu luận này phân tích ảnh hưởng của con người lên thủy quyển và đề cập đến các biện pháp quản lý chúng theo phương pháp tiếp cận tổng hợp. Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng lớn, trong khi phạm vi tiểu luận và hiểu biết của nhóm thực hiện còn nhiều hạn chế nên tiểu luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm thực hiện tiểu luận rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3427 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý hệ sinh thái dưới nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a con người, gồm hàng loạt nhóm động vật, thực vật và vi sinh vật. Hai nhóm đầu có tới 200.000 loài. Hiện nay người ta ước tính trong số 63 lớp động vật thì có 52 lớp ở đại dương, trong số 33 lớp thực vật thì biển và đại dương có 10 lớp. Sản lượng sinh học của biển và đại dương như sau: Thực vật nổi 550 tỷ tấn, thực vật đáy 0,2 tỷ tấn, các loài động vật tự bơi (mực, cá, thú...) 0,2 tỷ tấn. Năng suất sơ cấp của biển khoảng 50 - 250g/m2/năm.
Vùng biển nước ta hiện có chừng 11 ngàn loại sinh vật, trong đó có khoảng 6 ngàn loài động vật đáy, hơn 2 ngàn loài cá, hơn 6 trăm loài rong, hơn 1 ngàn loại động vật và thực vật phù du, trên 200 loài tôm, 15 loài rắn, 5 loài rùa, 12 loài thú biển và 43 loài chim nước.
Trong vùng biển Việt Nam có khoảng trên 1 ngàn km2 rạn san hô với khoảng trên 300 loài san hô đá, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 20% loài thuộc mức tốt và rất tốt. Sống quanh quẩn trong các vùng rạn san hô có trên 2.000 loài sinh vật đáy và cá. Đây là vùng có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch sinh thái, nguồn lợi sinh vật biển và nguồn giống hải sản tự nhiên.
Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế cao. Sản lượng khai thác cho phép hằng năm khoảng 1,4-1,5 triệu tấn. Do đặc điểm của vùng biển nhiêt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các loài kích thước nhỏ và chu kỳ sinh sản ngắn. Sản lượng khai thác cá biển hằng năm hiện nay khoảng 1,2- 1,3 triệu tấn.
2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển
Muối biển là khoáng chất không thể thiếu được trong đời sống con người. Ngoài công dụng như một gia vị và khoáng chất trực tiếp cung cấp cho cơ thể con người, muối biển còn được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp. Ngoài muối, biển còn cung cấp cho ta nhiều khoáng chất, không chỉ trong khối nước mà còn cả dưới đáy biển.
Biển và đại dương là kho chứa hoá chất vô tận. Tổng lượng muối tan chứa trong nước biển là 48 triệu km3, trong đó có muối ăn, iốt và 60 nguyên tố hoá học khác. Các loại khoáng sản khai thác chủ yếu từ biển như dầu khí, quặng Fe, Mn, quặng sa khoáng và các loại muối.
3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên
Sa khoáng biển - ven biển là loại hình mỏ có chứa chủ yếu các khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm quý như titan, ziacôn và xeri đã được phát hiện ở một số nơi trên bờ biển nước ta (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Vũng Tàu).
Vật liệu xây dựng ở biển bao gồm cát, cuội, sỏi, đá vôi, vỏ sò ốc, phân bổ chủ yếu ở các vùng ven biển, ven đảo, đáy các vũng, vịnh và trong trầm tích thềm lục địa. Trong số đó, vật liệu dồi dào nhất là cát. Cát thường giàu chất thạch anh, ít tạp chất.
Dầu khí được khai thác chủ yếu là từ các thềm lục địa. Sản lượng dầu khí khai thác ở vùng biển Việt Nam đạt 20 triệu tấn vào năm 2000 và hiện nay mỗi năm khai thác gần 30 triệu tấn.
4. nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều.
Năng lượng sạch từ biển và đại dương hiện đang được khai thác phục vụ vận tải biển, chạy máy phát điện và nhiều lợi ích khác của con người.
5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ.
Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2004, những con tàu vận tải trên biển đã chuyên chở vòng quanh thế giới hơn 90% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, trị giá khoảng 8.900 tỷ USD. Hàng hóa chủ yếu được vận chuyển trên biển là dầu khí với những con tầu hàng vạn , chục vạn tấn. Các eo biển quan trọng nhất trên tuyến đường vận tải biển là eo Malacca, kênh đào Panama, kênh đào Suê.
6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí
Du lịch biển đang là ngành du lịch quan trọng, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho các vùng ven biển. Cảnh quan các hòn đảo trên biển và các bãi biển trải dài dọc bờ biển đang là nguồn tài nguyên khổng lồ và vẫn chưa được khai thác hết.
Việt Nam có những khu du lịch biển nổi tiếng như Hạ Long, Nha Trang, hay các hòn đảo du lịch nhiều tiềm năng như Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo.
Nói đến lợi thế của bờ biển Việt Nam ta còn phải tính đến tiềm năng phát triển du lịch. Đó là những yếu tố thuận lợi như vùng biển rộng, bờ biển dài, nhiều đảo, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, giàu đa dạng sinh học, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử ven biển. Năm 1994, vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; năm 2003, vịnh Nha Trang được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất hành tinh.
Ta đã xác định được dọc theo ven biển cả nước có đến 126 bãi cát biển, trong đó có khoảng 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đó là chưa kể đến hàng trăm bãi nhỏ, đẹp, nằm tĩnh lặng ven các vịnh, vũng, ven các đảo hoang ở vịnh Bắc Bộ và miền Nam Trung Bộ, rất hợp với loại hình du lịch pícníc, thích hợp với nhu cầu thưởng ngoạn của những nhóm khách nhỏ.
Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên biển - đảo, hang động ngầm, các vùng rạn san hô lộng lẫy kỳ thú, cùng với các giá trị văn hoá của những di tích lịch sử ven biển đã tạo nhiều lợi thế cho phát triển du lịch biển. Một số hình thức du lịch đặc biệt như du lịch sinh thái, du lịch lặn, du lịch bổ dưỡng chữa bệnh đã hình thành và phát triển tốt, mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước ta. 19 trong số 31 điểm du lịch quốc gia thuộc các tỉnh ven biển (tiếp nhận 37% lượt khách du lịch so với cả nước)
7. Biển điều hoà khí hậu
Biển và đại dương có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều hòa khí hậu trên Trái Đất. Hàng năm, đại dương trao đổi với khí quyển một lượng khoảng 90 tỷ tấn Cacboníc. Cũng từ biển, các cơn bão nhiệt đới được tạo thành. Các dòng chảy trên biển điều hòa khí hậu ở cấp độ toàn cầu, chúng ảnh hưởng đến khí hậu Trái đất rõ nét nhất thông qua các hiện tượng El Ninõ và La Nina.
3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương
1.Ô nhiễm biển
Một trong những nguyên nhân gây suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, làm suy giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh học biển là hiện tượng ô nhiễm môi trường biển. Các nguyên nhân gây ra ô nhiễm biển cơ bản đều xuất phát từ các hoạt động của con người như các hoạt động trên biển, khai thác và thăm dò tài nguyên trên thềm lục địa và đáy đại dương, việc thải chất độc hại ra biển, vận tải hàng hoá trên biển và ô nhiễm khí quyển. Các nguồn gây ô nhiễm trên đây đang ngày càng gia tăng và đe doạ chất lượng môi trường biển. Các nguồn gây ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang ra biển nước thải, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học, chất phóng xạ,...Theo tính toán vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20 lượng chất thải rắn đổ ra biển hàng năm ước chừng khoảng 50 triệu tấn gồm đất, cát, rác , phế thải và chất phóng xạ,...một số chất thải lắng tu lại ven biển còn một số còn lại lan truyền ra khắp các đại dương. Theo ước tính của các nhà khoa học thì gần 2/3 lượng DDT (khoảng 1 triệu tấn) do con người đã sản xuất hiện vẫn còn tồn tại trong nước biển, chúng sẽ bị tích luỹ dần trong cơ thể các sinh vật biển.
Biển cũng là nơi tiếp nhận một lượng một lượng chất thải lớn từ hoạt động công nghiệp. Một lượng lớn chất thải phóng xạ bị một số quốc gia đổ ra biển. Riêng Mỹ năm 1961 có 4087 thùng và năm 1962 có 6120 thùng phóng xạ được đổ xuống biển. Một lượng lớn vũ khí bom mìn thuốc nổ được tiêu hủy bằng cách nhấn chìm trong biển.
Hiện tượng thủy triều đỏ do ô nhiễm sinh học thường xuất hiện từ đầu tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch hàng năm ở vùng biển Nam Trung Bộ, tạo nên những khối nhầy màu xám, bao quanh một số loài vi tảo biển, làm cho nước biển đặc quánh, có nơi như cháo. Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận là 3 địa phương bị nạn thuỷ triều đỏ tàn phá nặng nề nhất.
2. Hiện tượng tràn dầu
Đại dương là kho tài nguyên thiên nhiên vĩ đại. Các hoạt động thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng để lại hậu quả ô nhiễm biển, đặc biệt là thăm dò và khai thác dầu khí. Hiện tượng rò rỉ dầu từ các dàn khoan và hiện tượng tràn dầu trên biển là những sự cố môi trường nghiêm trọng đe dọa một phạm vi không gian rộng lớn, làm suy thoái nghiêm trọng các hệ sinh thái dưới nước. Khi một lượng dầu lớn lam tỏa trên mặt nước nó sẽ làm giảm khả năng trao đổi các chất khí hòa tan trong nước, giảm khả năng quang hợp và hàm lượng õi hòa tan trong nước sẽ thấp có tác dụng tiêu cực với các loài động thực vật thủy sinh. Số vụ tràn dầu tại Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000 được thống kê trong bảng sau:
Bảng 2: Số vụ tràn dầu từ năm 1995 đến năm 2000
Nguồn: VEPA: Vấn đề môi trường cấp bách Việt Nam
Năm
Số vụ tràn dầu
Lượng dầu (tấn)
1995
2
202
1996
7
68.000
1997
4
2.450
1998
6
12.900
1999
10
7.600
2000
2
45
Tổng
31
91.497
3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản
Nước ta có bờ biển trải dài suốt từ Bắc vào Nam, diện tích biển của nước ta là rất lớn so với diện tích đất liền nên rất thuận lơi cho việc đánh bắt hải sản và phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên việc khai thác các nguồn lợi từ biển nếu không được quy hoạch thì sẽ dẫn đến làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này. Những năm gần đây chúng ta chúng ta đã phát triển nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản một cách ồ ạt dẫn đến việc khai thác một cách thiếu bền vững, làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này, đặc biệt là việc quy hoach nuôi tô cũng đang là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức vì bên cạnh đó có rất nhiều các vấn đề môi trường xảy ra. Theo các nhà khoa học nguồn lợi thuỷ sản phá Tam Giang đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Đó là việc gia tăng khai thác một cách ồ ạt mà biểu hiện bằng việc gia tăng các loại và số lượng ngư cụ trong khai thác từng loại, kích cỡ mắt lưới ngày càng dày đặc, gia tăng thuyền bè, lao động khai thác thuỷ sản đầm phá. Mặt khác do việc sử dụng các dụng cụ có tính chất huỷ diệt như xung điện, mìn đã làm suy giảm nghiêm trọng. Qua một số dữ liệu phân tích thấy trữ lượng nguồn lợi thuỷ sản Phá Tam Giang ngày càng giảm và trữ lượng khai thác ngày càng tăng. Điều đó càng khẳng định nếu không có các biện pháp quản lý hợp lý thì việc giữ gìn và bảo vệ các loài trong hệ sinh thái dưới nước là khó thực hiện được.
4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao
CO2 tích tụ trong không khí phần lớn được các đại dương hấp thụ. Lượng CO2 trong khí quyển đang tăng lên, vì vậy, lượng CO2 hòa tan vào nước biển cũng tăng lên, kéo theo nồng độ axit trong nước biển cũng ngày càng tăng lên. Sự axit hóa đại dương ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ âm thanh của các phân tử mang điện tích trong nước biển, gây khó khăn cho các sinh vật biển trong việc tìm kiếm thức ăn và bạn tình. Người ta vẫn chưa đánh giá được hết những ảnh hưởng của hiện tượng axit hóa đại dương đến các sinh vật biển. Nhưng kết quả nghiên cứu này một lần nữa cho thấy những tác động của con người (phát thải khí CO2) đối với môi trường và những hậu quả không mong muốn.
Sự nóng lên của mặt nước biển đã tiếp cận tới tầng bình lưu nhiệt đới, lớp khí quyển cách mặt đất 7 đến 10 dặm và kéo dài khoảng 30 dặm. Quá trình tăng lưu thông không khí và độ ẩm từ các chí tuyến đến tầng bình lưu đang lan rộng, sau đó lại giảm xuống ở những vĩ độ cao hơn. Đây là sự lưu thông cơ bản trong hệ thống khí hậu của chúng ta, gọi là sự lưu thông Brewer-Dobson. Sự nóng lên của toàn cầu đang thay đổi rõ rệt xu thế lưu thông nhưng cách thức ra sao hiện vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Trong một nghiên cứu khoa học mới đây, Rudolf Deckert và Martin Dameris thuộc Viện Vật lí học Khí quyển Đức cho biết sự lưu thông cơ bản này đang tăng tốc. Điều này không chỉ thay đổi những phương diện vật chất quan trọng của lưu thông khí quyển mà có thể còn phân phối lại hoặc thay đổi thành phần hoá học của không khí từ tầng bình lưu đến mặt đất.Các nhà khoa học cho biết sự lưu thông Brewer-Dobson sẽ tác động đến khí hậu tương lai với sự thay đổi không những thành phần hóa học và không khí của tầng bình lưu mà của cả bề mặt trái đất.
Sự nóng lên của khí hậu Trái đất kéo theo sự gia tăng hiện tượng tan băng và hiện tượng này khiến mực nước biển dâng cao. Nhìn chung, các nhà khoa học cho rằng trong thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất sẽ tăng 2 - 6oC và mực nước biển sẽ dâng cao thêm 50 - 150 cm; như vậy, rất nhiều vùng của nước ta sẽ chìm dưới mực nước biển. Mực nước biển dâng cao không chỉ khiến nhiều khu vực ven biển bị chìm trong nước biển, kéo theo sự xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền mà còn nhấn chìm nhiều rạn san hô. Nhiều loài san hô không thích ứng kịp đã bị chết đuối.
4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương
1. Công cụ pháp chế
Quản lý biển và đại dương là một vấn đề phức tạp vì sự rộng lớn của đại dương. Nhìn chung, quản lý biển và đại dương đòi hỏi sự hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, trên bình diện quốc tế đã có nhiều công ước liên quan đến biển và đại dương đã được phê chuẩn.
Điển hình trong số đó là Công ước quốc tế về luật biển được thông qua năm 1982 mà Việt Nam là một thành viên. Đây là công ước quan trọng nhất về biển vì nó quy định quyền của các quốc gia với vùng biển bên cạnh. Công ước quy định rõ về lãnh hải, về vùng đặc quyền kinh tế trên biển của các quốc gia ven biển, về trách nhiệm bảo vệ biển của các quốc gia.
Công ước quốc tế về luật biển được đưa ra ký năm 1982 và có hiệu lực từ năm 1994 sau khi được 64 quốc gia phê chuẩn. Hiện công ước có 155 quốc gia thành viên. Công ước quy định:
Vùng nước nội thủy (là vùng biển phía trong đường cơ sở) có quy chế pháp lý như vùng lãnh thổ trên đất liền.
Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có quy chế như lãnh thổ trên đất liền. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền các nước khác được phép đi lại không gây hại.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Trong vùng này, nước ven biển có quyền quy định về các biện pháp ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm luật lệ.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, các nước có quyền chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác tài nguyên.
Ngoài ra, cũng có thể kể ra các công ước quốc tế về cấm săn bắt cá voi, về hàng hải quốc tế…
Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cũng đã có các chính sách, các bộ luật, các quy định về bảo vệ biển như luật biên giới quốc gia, bộ luật hàng hải, luật bảo vệ nguồn lợi thủy sản, luật bảo vệ môi trường, chiến lược về biển, các quy định ứng cứu khi xảy ra sự cố tràn dầu...
Tuy nhiên, cái khó trong việc triển khai các công ước ở tầm quốc tế là tính ràng buộc về pháp lý yếu, dẫn đến kém hiệu quả trong thực tiễn.
Ở cấp độ quốc gia, khó khăn nhất với các nước nghèo như Việt Nam là khả năng tài chính, kỹ thuật yếu kém, dẫn đến khó khăn trong quản lý vùng biển đặc quyền kinh tế cũng như lãnh hải của mình.
2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật
Biển và đại dương vô cùng rộng lớn và đầy bí ẩn. Con người luôn luôn có tham vọng và thích thú khám phá biển và đại dương. Các hoạt động thám hiểm biển và đại dương liên tục được tiến hành, các nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực về biển và đại dương cũng liên tiếp được công bố. Hiểu biết của con người về biển và đại dương nâng lên là tiền đề cho các biện pháp bảo vệ hệ sinh thái biển phù hợp ra đời. Trình độ công nghệ của con người nâng lên cũng góp phần tăng cường các kỹ thuật bảo vệ hệ sinh thái biển. Hiện nay, Việt Nam đã có quy tắc xử lý sự cố tràn dầu trên biển và trên thực tế nhiều vụ tràn dầu trên biển đã được xử lý thành công.
Việc UNESCO tổ chức công nhận các khu dự trữ sinh quyển, các di sản thiên nhiên thế giới cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên và việc các quốc gia tổ chức các vườn quốc gia tại các khu vực biển và ven biển cũng là những hoạt động bảo vệ các hệ sinh thái biển có quả. Ở Việt Nam có thể kể đến vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Cát Bà, vườn quốc gia Cát Tiên hay di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long.
3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển
Việc quản lý hệ sinh thái biển và đại dương có thể được xem xét cụ thể với các khu hệ sinh thái biển riêng biệt. Ở đây, chúng tôi xin đề cập đến các khu hệ sinh thái rạn san hô và khu hệ sinh thái cỏ biển.
3.1. Các hệ sinh thái rạn san hô
Các rạn san hô thường được coi là các khu hệ sinh thái với sự đa dạng sinh học vào loại cao nhất. Sống xung quanh các rạn san hô còn có nhiều loài cá, tôm và các sinh vật biển đa dạng khác với mật độ cao. Rạn san hô Great Barrier ở Australia đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Đây là một khu vực đa dạng về sinh học, bao gồm cả nhiều loài đang lâm nguy và đang gặp nguy hiểm. 30 loài cá voi, cá heo đã được ghi nhận tại rạn san hô Great Barrier, kể cả loài cá voi Dwarf Minke, cá heo Indo-Pacific Humpback, và cá voi Humpback. Một lượng lớn dân số cá nược cũng sinh sống ở đây. Sáu loài rùa biển đã đến rạn san hô để gây giống, như: Green, Leatherback, Hawksbill, Loggerhead, Flatback, và Olive Ridley. Trên 200 loài chim (bao gồm cả 40 loài chim nước) sống trên vùng trời của rạn san hô Great Barrier, kể cả loài đại bàng biển bụng trắng và chim nhạn hồng. 5000 loài động vật thân mềm cũng đã được ghi nhận, có cả loài trai khổng lồ, nhiều loài Nudibranch và ốc sên vỏ hình nón. 17 loài rắn biển. Hơn 1500 loài cá, có cả Clownfish, Red Bass, Red-Throat Emperor, và nhiều loài cá Snapper và cá hồi san hô. 400 loài san hô kể cả san hô cứng và san hô mềm. Có 15 loài cỏ biển ở gần rạn san hô thu hút các nược và rùa biển. 500 loài tảo đại dương hoặc tảo biển. Loài sứa Irukandji cũng sinh sống ở rạn san hô này.
Theo báo cáo năm 2002 của Viện tài nguyên thế giới (WRI), 96% rạn san hô ở VN bị đe doạ bởi các hoạt động của con người. Những mối đe doạ chính là đánh bắt huỷ diệt (dùng chất độc, thuốc nổ, xung điện), đánh bắt quá mức, ô nhiễm từ đất liền ...Cũng theo WRI, ước tính VN có khoảng 1.122km2 rạn san hô và khoảng 300 loài san hô. Tuy nhiên, chỉ 1% rạn san hô có thể được phân loại là ở trong tình trạng tốt.
Các rạn san hô bị hủy hoại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ con người. Con người khai thác san hô phục vụ nhu cầu giải trí, san hô chết làm nguyên liệu cho các lò nung vôi, các chất thải hóa học cũng đe dọa nghiêm trọng các rạn san hô, đánh cá bằng mìn cũng phá hủy các rạn san hô. Có thể nói, chưa bao giờ các rạn san hô Việt Nam lại bị đe dọa nghiêm trọng như bây giờ.
Tuy vậy, hiện ở Việt Nam vẫn chưa có các hoạt động thật sự hiệu quả nhằm quản lý và bảo vệ các rạn san hô. Hoạt động bảo vệ các rạn san hô diễn ra lẻ tẻ và nói chung ít có hiệu quả. ngày 28/2/2008, tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Chương trình môi trường Liên hợp quốc tổ chức hội thảo "Bảo vệ rạn san hô và cỏ biển”.
Đây là hội thảo lần thứ ba với sự tham dự của ban quản lý dự án điểm trình diễn bảo vệ san hô, thảm cỏ biển thuộc hai tỉnh biên giới Kiên Giang - Việt Nam và Campot – Campuchia. Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang và tỉnh Campot của Campuchia là 2 tỉnh có vùng biển giáp biên được Liên hợp quốc chọn triển khai 2 điểm trình diễn bảo vệ rạn san hô và thảm cỏ biển thuộc dự án “Ngăn ngừa xu hướng suy thoái môi trường biển đông và vịnh Thái Lan”.
Qua 2 năm trển khai điểm trình diễn, hai bên đã tiến hành các bước cơ bản như điều tra sự phân bổ rạn san hô và thảm cỏ biển phục vụ cho việc chọn khoanh vùng bảo vệ; thành lập ban quản lý dự án và nhóm tư vấn; tổ chức giáo dục cộng đồng về ý nghĩa của việc bảo vệ san hô và thảm cỏ biển đến lợi ích phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Cũng đã có một số các biện pháp kỹ thuật được thực hiện để nuôi trồng và nhân giống san hô được thực hiện tại các Viện nghiên cứu hải sản.
3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển
Số loài cỏ biển trên toàn thế giới đến nay đă biết 58 loài. Ở Việt Nam phân tích các mẫu cỏ biển lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học Hải Phòng thuộc Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam, thu được trong các cuộc khảo sát ở một số vùng ven biển và đảo (Long Châu, đảo Trần, Bạch Long, quần đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quí, Phú Quốc đă xác định được 14 loài cỏ biển, Phân bố số loài cỏ biển của Việt Nam có xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam, ở vùng biển phía Bắc có 8 loài và ở phía Nam có 13 loài.
Ở nước ta cỏ biển thường phát triển ở vùng triều ven biển, ven đảo, vùng cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng, vịnh. Số liệu thống kê mặc dù chưa đầy đủ, diện tích phân bố cỏ biển cho đến nay đă biết khoảng trên 10.000ha. Các loài cỏ biển phát triển hầu như quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa xuân, đầu hè, phát triển kém vào mùa mưa bão. Chúng phân bố từ vùng triều đến độ sâu 3 -15m, thậm chí 28m (đảo Bạch Long Vĩ). Chúng thích nghi với độ muối 0,5-3,4%, chất đáy là bùn bột nhỏ, bùn cát, cát san hô, cát thô hoặc sỏi.
Theo thống kê chung của cả nước thì hiện nay diện tích các bãi cỏ biển của Việt Nam bị giảm 40-60%. Nếu như trước 1995 diện tích các băi cỏ biển Việt Nam là 10.770 ha, đến năm 2003 chỉ cňn hơn 4000 ha, nghĩa là mất đi 60%. Diện tích phân bố của các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa giảm trên 30% so với 6 năm trước đây, từ 1235 ha (1997) xuống 795 ha (2002), bình quân cứ một năm lại mất 80 ha (Nguyễn Hữu Đại & al, 2002). Nhiều băi cỏ biển ở Vịnh Hạ Long trước năm 1970 phát triển khá tốt với 5 loài cỏ biển, nhưng cho đến nay diện tích một số băi cỏ đă bị suy giảm hoặc bị mất hoàn toàn ( Nguyễn Văn Tiến, Từ Lan Hương,2002, 2003). Trước khi xây cảng phục vụ du lịch ở Gia Luận (Cát Bà) có 4 loài cỏ biển (Halophila ovalis, H. beccarii, H. decipiens và Zostera japonica), sau khi xây dựng cảng, cỏ biển đã chết hoàn toàn.
Nguyên nhân gây ra suy thoái, mất cỏ biển có thể nêu tóm tắt như sau:
+ Yếu tố tự nhiên: Bão, lắng đọng trầm tích, tăng độ đục, giảm độ muối, độc tố, ngọt hoá.
+ Yếu tố con người: Sử dụng các phương pháp khai thác thuỷ sản hủy diệt (lưới giã đáy, chất nổ, hóa hất độc hại, kích điện v.v.), sử dụng đất hoặc thay đổi cách sử dụng đất ven bờ, phát triển thuỷ sản và nông nghiệp hay đô thị hóa (khai hoang lấn biển, khoanh bao bãi triều để trồng lúa, đắp đầm nuôi trồng thủy sản, xây dựng khu kinh tế mới v.v.). Nước thải từ lục địa đổ ra biển, dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng, chất lơ lửng, dầu, chất phě dinh dưỡng gây hại cho cỏ biển. Sự coi nhẹ công tác quản lý HST cỏ biển trong các hoạt động phát triển kinh tế ở dải ven biển là nguyên nhân phá hủy các bãi cỏ biển. Sự thiếu hiểu biết về giá trị của cỏ biển của nhân dân địa phương, các nhà quản lý và hoạch định chính sách được xem là nguyên nhân quan trọng của việc mất các bãi cỏ ở Việt Nam.
Cũng như đối với các rạn san hô, các hoạt động bảo vệ cỏ biển ở Việt Nam tỏ ra yếu ớt và thiếu hiệu quả. Nằm trong dự án “Ngăn ngừa suy thoái môi trường biển Đông và Vịnh Thái Lan”, một hợp phần về san hô và một hợp phần về cỏ biển được triển khai song song. Các hợp phần này đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu về san hô và cỏ biển, về các nguyên nhân gây suy giảm san hô và cỏ biển và từ đó đề ra các biện pháp khắc phục. Các hợp phần này cũng đã tổ chức các khu vực trình diễn về nuôi trồng san hô và tảo biển.
II. Các hệ dòng chảy
1. Giới thiệu chung
Sông là dòng nước lưu lượng lớn thường xuyên chảy, có nguồn cung chủ yếu là từ hồ nước, từ các con suối hay từ các con sông nhỏ hơn nơi có độ cao hơn. Các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển, nơi tiếp giáp với biển được gọi là cửa sông.
Thông thường, sông được chia làm 2 loại là sông chính và sông nhánh (hay nhánh sông). Sông chính là sông có độ dài lớn nhất hoặc có diện tích lưu vực hay lượng nước lớn nhất; sông nhánh là sông chảy vào sông chính.
Ở mức độ chi tiết hơn người ta còn phân cấp sông: theo Horton, các sông ở đầu nguồn được đánh số 1. Hai sông cấp 1 nhập lại tạo thành một dòng sông cấp 2. Một sông cấp 1 hợp với sông cấp 2 thì chỉ tạo thành sông cấp 2; nhưng hai sông cấp 2 nhập lại thành một sông cấp ba. Nghĩa là, hai sông phải có cùng cấp thì hợp lại được thành sông có cấp cao hơn một đơn vị. Cứ như vậy đánh số cho đến cửa sông.
Đặc điểm quan trọng của sông là chế độ nước chảy, chế độ nhiệt và nồng độ muối khoáng hoà tan.
Sông là loại hình nước chảy tiêu biểu nên hàm lượng oxy hoà tan trong nước sông thường cao, ở những đoạn chảy siết, hàm lượng oxy hoà tan có thể lên đến bão hoà, DO phụ thuộc vào nhiệt độ, cường độ quang hợp, hô hấp của các sinh vật.
COD của nước sông thường rất thấp, chỉ dao động trong khoảng 2-5 mg/l.
pH phụ thuộc nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, địa hình, tác động của con người. Nhìn chung pH tương đối ổn định, dao động trong khoảng 6-8.
Nhịêt độ: phụ thuộc nhiệt độ, không khí, khí hậu…, ít có sự phân tầng về nhiệt độ.
- Độ trong: phụ thuộc vào hàm lượng phù sa, độ lớn, nhỏ của sông và các hoạt động của lưu vực.
Nhìn chung, hàm lượng các muối dinh dưỡng và vật chất hữu cơ trong nước sông thường nghèo nàn. Hàm lượng TAN (tổng đạm amôn) ít khi vượt quá 0,1ppm. Hàm lượng NO2- ít khi vượt quá 0,02 ppm, có khi chỉ có lượng vết. Do hàm lượng oxy cao nên dạng này dễ bị hoà tan thành dạng đạm nitrat. Hàm lượng NO3- thường gặp trong khoảng 0,1-0,5ppm. Hàm lượng dạng này trong nước sông thường thay đổi theo mùa:
- Mùa hạ: thực vật phù du phát triển mạnh, quá trình quang hợp của chúng hấp thu nhiều NO3- làm hàm lượng muối này trong thuỷ vực giảm đáng kể, có khi bằng 0.
- Vào mùa thu: hàm lượng muối này tăng lên hẳn và đạt cực đại ở mùa đông, sang mùa xuân bắt đầu giảm xuống.
Hàm lượng PO43- dao động trong khoảng 0,03 - 0,1 ppm và cũng dao động theo mùa, vào mùa lũ hàm lượng thường cao do nước mưa mang vào thuỷ vực.
Hàm lượng SiO32- dao động trong khoảng 2 - 10 mg/l. Hàm lượng muối sắt hoà tan trong nước sông thường rất thấp vì hàm lượng oxy hoà tan cao, các muối hoà tan của sắt dễ dàng bị oxy hoá thành dạng keo Fe(OH)3 không hoà tan. Tuy nhiên, hàm lượng sắt tổng sẽ cao đối với những vùng chịu ảnh hưởng của đất phèn ( vùng đồng bằng sông Cửu Long).
Thành phần trung bình của các ion khác trong nước sông được trình bày trong bảng sau:
Bảng 3: Thành phần trung bình của các ion chính trong nước sông ở các lục địa khác nhau:
Lục địa
Hàm lượng ion ( mg/L)
Na+
Ca2+
Mg2+
K+
HCO3-
SO42-
Cl-
NO2-
Châu Á
5,6
18,4
9,3
2,3
79,0
8,4
8,7
0,7
Châu Phi
3,8
12,5
11,0
-
43,0
13,5
12,1
0,8
Bắc Mỹ
5,0
21,0
9,0
1,4
68,0
20,0
8,0
1,0
Châu Âu
5,6
31,1
5,5
1,7
95,0
24,0
6,9
3,7
Châu Úc
2,7
3,9
2,9
1,4
31,6
2,0
10,0
0,05
Nhìn chung thành phần hoá học giữa các khúc sông trong một dòng sông không hoàn toàn giống nhau, nó phụ thuộc vào vị trí địa lý của từng khúc sông và nguồn bổ sung.
2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam
1. Sông Nile
Đây là con sông dài nhất hành tinh với chiều dài 6.695 km, bắt nguồn từ cao nguyên Ethiopian. Sông Nile có 3 giai đoạn với 3 màu nước khác nhau được gọi là sông Nile trắng, Nile xanh và Nile chính. Nó chảy qua các nước Uganda, Sudan, Ai cập và cuối cùng đổ ra Địa Trung Hải.
Sông Nile có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người và lịch sử. Bắt nguồn từ Burundi, một phần sông Nile chảy vào hồ Victoria - hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi và thứ nhì thế giới.
Sông Nile chính là yếu tố quan trọng được xây dựng ngay giữa lòng sa mạc Sahara - một trong những nơi khắc nghiệt nhất trên trái đất - một nền văn minh cổ xưa nhất: Ai Cập. Những người dân Ai Cập đã xây dựng một đất nước phát triển ngay bên bờ sông Nile từ cách đây 10.000 năm.
Diện tích lãnh thổ Việt Nam ( bao gồm cả các đảo ven bờ và ngoài khơi) khoảng 330.000 km2. Mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km2, và đối với ¾ lãnh thổ VN là 1,0 - 1,5 km/km2.
Việt Nam có 2.345 con sông với chiều dài hơn 10 km mỗi sông. Do địa hình núi cao và chiều ngang tương đối hẹp nên phần lớn sông VN là nhỏ và trung bình. 90% các sông có lưu vực nhỏ hơn 500 km2. Các hệ thống sông lớn nhất như sông Hồng, sông Cửu long, sông Cả và sông Đồng Nai có lưu vực lớn lan rộng cả sang các nước xung quanh.
Hướng chính của sông Việt Nam là Tây Bắc – Đông Nam rồi đổ ra Việt Nam trừ hệ thống sông Kỳ Cùng - Bằng Giang ở Đông Bắc Việt Nam là thượng nguồn của các sông chảy vào từ Trung Quốc.
Trong suốt chiều dài 3260 km bờ biển, trung bình cứ 20 km lại có một cửa sông.
Việt Nam có 9 hệ thống sông lớn với lưu vực lớn hơn 10.000 km2/hệ thống. Đó là các hệ thống sông: Kỳ Cùng – Bằng Giang, Hồng, Thái Bình, Mã, Cả, Thu Bồn, Ba, Đồng Nai – Sài Gòn, Cửu Long. Hàng năm các sông Việt Nam đổ ra biển khoảng 880 m3 nước.
Bảng 4: Đặc trưng của các hệ thống sông chính ở Việt Nam
HT sông và sông
Diện tích lưu vực (km2)
Chiều dài sông (km)
Độ cao TB của lưu vực (m)
Độ dốc TB của lưu vực (%)
Lưu lượng TB (m3/s)
Lượng nước TB năm (km3)
HT sông Kỳ Cùng - Bằng Giang
1.Bằng Giang
2.Kỳ Cùng
4.565
6.663
108
243
482
386
20,1
18,1
73,5
26,9
2,4
0,85
HT sông Thái Bình
1. Cầu
2.Thương
3. Lục Nam
4.Thái Bình
6.030
3.580
3.070
15.520
288
160
175
385
190
186
207
16.0
9,4
16,5
43,7
32,8
38,6
318
4,7
1,76
1,8
38
HT sông Hồng
1.Thao
2.Đà
3.Lô
4.Hồng
51.750
52.610
38.970
154.720
902
1.013
469
1.126
647
965
884
29,9
36,8
19,7
796
1.744
980
3.630
26,4
56,4
32,2
85
HT sông Mã
1.Mã
2.Chu
28.370
7.552
512
325
762
790
17,6
18,3
525
148
16,60
4,72
HT sông Cả
1.Ngàn Sâu
2.Hiếu
3.Cả
3.813
5.330
27.224
135
228
531
362
303
294
28,2
13,0
18,3
124
112
430
4,0
3,82
13,6
HT sông Thu Bồn
10.590
205
552
25,5
444
14,0
HT sông Ba
13.814
388
400
10,9
184
5,8
HT sông Đồng Nai – Sài Gòn
1.Đồng Nai
2.La Ngà
3.Bé
4.Sài Gòn
29.520
4.000
8.200
5.560
586
272
344
256
470
468
240
4,6
5,6
5,3
693
83
240
167
29,7
5,3
10,3
5,2
HT sông Mê Kông
1.Sêsan
2.Srê pôck
3.Cửu Long
17.500
18.280
795.000
4.200
-
-
13.974
12,5
10,6
550
2. Sông Hồng
Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149km bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ yếu nó chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km.
Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà, sông Cái Nguyên Giang.Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.
Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ. Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào.
Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên nhưng con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.
3. Sông Mê Kông
Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam.
Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 triệu m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy ban sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của Encyclopaedia Britannica 2004). Sông này xuất phát từ vùng núi cao Guozongmucha tỉnh Thanh Hải, băng qua Tây Tạng theo suốt chiều dài tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam, cửa sông là đồng bằng sông Cửu Long.
Sông Mê Kông có tiềm năng rất lớn về tất cả các mặt của đời sống xã hội cũng như môi trường sinh thái.
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World Wildlife Fund - WWF) cho biết các nhà khoa học sẽ tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, cá tầm (để làm trứng cá muối) và cá hồi ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét
3. Chức năng của sông
1. Sông cung cấp thủy sản
Các thuỷ vực nước ngọt là nơi cư trú của rất nhiều loài cá, lưỡng cư, động vật không xương sống, thực vật thuỷ sinh, và các vi sinh vật. Ước tính, chỉ riêng sông Amazon đã có 3000 loài cá, chỉ ít hơn 25% tổng số loài thú trên toàn trái đất. Đa dạng sinh học nước ngọt là ít được biết đến nhất trên trái đất. Các nhà khoa học tin rằng, chẳng hạn Thái Lan có thể có khoảng 1000 loài cá nước ngọt, nhưng chỉ khoảng 475 loài được ghi nhận hiện nay. Hệ động thực vật trên sông có thể kể ra:
Thực vật thuỷ sinh: rong…
Thực vật nổi: tảo…
Động vật nổi: giáp xác, ấu trùng côn trùng
Động vật đáy: ốc, trai, hến, tôm, ấu trùng côn trùng
Động vật nước: tôm, cua. ốc, côn trùng nước, cá…
Các sinh vật thường không ổn định và có sự thay đổi theo dòng nước, theo mùa. Một số loài có tập tính di cư vào mùa sinh sản. Sông cũng là con đường du nhập các loài ngoại lai từ nơi này đến nơi khác theo dòng nước.
2. Sông cung cấp nước ngọt
Các nền văn hoá của trên thế giới xưa và nay đều tập trung trên các nơi cư trú nước ngọt. Babylon được xây dựng ở vùng châu thổ giữa sông Tigris và Euphrates, Ai Cập bên cạnh sông Nile, thành Rome bên cạnh sông Tiber, thủ đô Aztec trên một hòn đảo nhân tạo trên hồ Tenochtitlan, Pari bên sông Seine, Kinshsa bên sông Zaire. Đối với dân tộc Việt cũng như những dân tộc trưởng thành từ nền văn minh lúa nước, con sông bồi đắp nên nhiều đồng bằng là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo.
Các sông, hồ, ao, suối, các vùng đất ngập nước trên thế giới đã cung cấp phần lớn nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như một số lượng lớn cá và các thuỷ sản khác cho con người trên toàn thế giới.
Nước đóng 1 vai trò không thể thiếu cho việc trồng trọt nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, cây trồng nông nghiệp chủ yếu ở nước ta, hơn thế nước từ các sông ngòi còn giúp cho việc tưới tiêu các cây công nghiệp....Ngoài ra mặt nước còn là nơi để nuôi trồng thủy sản....
3. Sông điều hòa khí hậu
Sông là lá phổi sinh thái, là cỗ máy điều hoà khổng lồ mang lại sự cân bằng môi sinh.
4. Sông đồng hóa các chất thải của con người
Khả năng đồng hoá các chất thải cũng như vai trò của sông đối với sự điều tiết vòng tuần hoàn nước có ý nghĩa không chỉ với môi trường mà còn có ý nghĩa quan sống còn đối với loài người.
5. Sông là đường vận tải quan trọng
Vận chuyển bằng đường sông cũng là 1 ưu thế với khối lượng vận chuyển hàng hóa lớn, cồng kềnh, ít tốn kém và khá an toàn.Và không thể phủ nhận vai trò của sông ngòi, mặt nước trong việc vận chuyển hành khách du lịch....
6. Sông cung cấp sức nước
Từ việc khai thác được sức nước, nhất là những dòng nước có vận tốc chảy lớn bằng các tuabin đã tạo ra điện. Việt Nam là một nước có tiềm năng thủy điện lớn và thực tế có những nhà máy thủy điện lớn đã và đang được xây dựng, cung cấp khoảng 40% lượng điện năng cho đất nước.
7. Sông chuyên chở phù sa
Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước, đây là con song đứng thứ 8 thế giới về lưu lượng phù sa.
Sông Cửu Long có hàm lượng phù sa tương đối khiêm tốn, chỉ khoảng 300 g/m3 vào mùa lũ, nhưng do lưu lượng nước lớn nên tổng lượng phù sa của sông Cửu Long cũng rất lớn, khoảng 160 triệu tấn/năm. Tổng lượng phù sa của sông Hồng và sông Cửu Long chiếm đến 90% tổng lượng phù sa của tất cả các con sông ở Việt Nam.
Cùng với khối lượng phù sa đó là lượng rất lớn chất dinh dưỡng cho nông nghiệp. Người ta tính rằng cứ 1000 m3 nước chứa phù sa tương đương với 1 tấn phân bón. Phù sa đóng vai trò quyết định trong việc bồi lắng ở vùng bờ, làm cho đất ven biển mở rộng ra phía biển.
4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông
1. Khai thác quá mức nguồn nước
Nước ngọt hiện được coi là một tài nguyên quý và ngày càng khan hiếm. Trên dòng Mekong, Thái Lan đang triển khai nhiều dự án nhằm dẫn nước sông về vùng Đông Bắc khô cằn của nước này. Cùng với việc Trung Quốc liên tiếp xây những con đập trên thượng nguồn, các nước ở hạ lưu sông Mekong đang nhận rõ sự thiếu hụt nguồn nước của con sông này. Sông Cửu Long cạn nguồn, đó là lời cảnh báo của Viện nghiên cứu các vùng đất ngập trũng thế giới.
2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông
Trên thượng nguồn sông Mekong, Trung Quốc đã xây 3 trên 14 đập nước làm thủy điện. Tại Việt Nam, các đập thủy điện lớn như Hòa Bình, Sơn La cũng đã và đang được xây dựng trên sông Hồng.
Đắp đập, xây hồ, phá ghềnh đá để mở đường giao thông thủy, khai thác quá mức cát sông làm thay đổi mạnh chế độ thủy văn của các dòng sông. Hậu quả về sinh thái có thể thấy được là hiện tượng nước mặn nhiễm sâu vào trong đất liền ở các tỉnh ven biển Việt Nam như ở đồng bằng sông Cửu Long ở miền nam, Nam Định, Thái Bình ở miền bắc. Một số loài cá có thói quen di cư từ sông ra biển nay bị chặn đường di chuyển và đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Trên sông Cửu Long, đã không còn thấy xuất hiện loài cá chép khổng lồ nổi tiếng. Ba loài cá chép cũng đã biến mất trên sông Hồng.
3. Ô nhiễm các dòng sông
Ô nhiễm kim loại nặng và các chất thải nguy hại khác: Các kim loại nặng từ các nhà máy xí nghiệp thải vào sông ngòi mà không có sự kiểm soát, không được xử lý làm cho chất lượng nước suy giảm. Sự tích tụ kim loại nặng trong các động thực vật thủy sinh theo cơ chế khuếch đại sinh học đã làm thay đổi đời sống bình thường của sinh vật, gây đột biến gen, thậm chí tiêu diệt chúng. Việc nhà máy Vedan xả thải vào sông Thị Vải trong suốt thời gian qua là một ví dụ điển hình cho vấn đề này. Có thể nói chúng ta đang chứng kiến nhiều dòng sông chết, những dòng sông chết điển hình như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy là lời cảnh báo về mức độ nguy hại của hiện tượng ô nhiễm sông.
Các loại hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón hóa học cũng đang ngày càng gia tăng trong môi trường nước, đặc biệt là ở các khu vực sản xuất nông nghiệp. Nó là tác nhân quan trọng bậc nhất gây suy giảm đa dạng sinh học nước, các loài tôm cua cá ở các sông ngòi, đồng ruộng giờ đây đã trở lên khan hiếm, thậm chí không còn thấy xuất hiện như trong những năm trước đây. Đó chính là do dư lượng hóa chất BVTV, các loại phân bón hóa học ngày càng gia tăng trong nước bởi quá trình canh tác nông nghiệp.
4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản
Khai thác quá mức các nguồn lợi thủy sản trên sông cũng là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với các hệ sinh thái sông. Nhưng nghiêm trọng hơn là cách thức khai thác tận diệt thủy sản như đánh cá bằng mìn, dùng lưới mắt nhỏ tận thu nguồn thủy sản.
5. Quản lý hệ sinh thái sông
Hiện nay, cách tiếp cận chủ yếu trong quản lý hệ sinh thái sông là quản lý theo lưu vực sông theo các Ủy ban lưu vực. Theo chương trình Nghị sự 21, đây là một phương pháp tiếp cận hành động, nhằm đảm bảo kết hợp giữa phát triển và quản lý tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên có liên quan thông qua việc phát huy tối đa các lợi ích về kinh tế và xã hội mà không gây tổn hại đến tính bền vững của các hệ sinh thái có tầm quan trọng sống còn.
Quản lý nguồn nước theo lưu vực sông giúp:
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng nước, sử dụng tài nguyên - môi trường,
+ Điều phối giải quyết tốt các mâu thuẫn trong khai thác và sử dụng tài nguyên giữa các vùng,
+ Khai thác sử dụng tài nguyên giữa các khu vực thượng, trung, hạ lưu;
+ Giảm nhẹ các tác động tiêu cực của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của con người tới tài nguyên và môi trường.
Việt Nam là thành viên của Ủy ban sông Mekong và trong phạm vi quốc gia đã thành lập các Ủy ban lưu vực các con sông: Nhuệ - Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai.
Ủy ban sông Mekông được thành lập năm 1995 với 4 nước thành viên ban đầu là các nước ở hạ lưu sông Mekông gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Hiện đã có thêm hai quốc gia là Trung Quốc và Mianma tham gia. Ủy ban được thành lập với mục tiêu:
+ Hỗ trợ các hoạt động hợp tác phát triển bền vững.
+ Tăng cường các hoạt động hiệu quả trong khu vực.
+ Thúc đẩy đánh giá tác động và quản lý môi trường.
+ Tăng cường năng lực quản lý tổng hợp nguồn nước và các kiến thức cơ bản về sông Mêkông.
Tuy nhiên, khó khăn trong việc bảo đảm các hoạt động khai thác bền vững hệ sinh thái sông nói chung chính là khả năng điều hòa các lợi ích cục bộ, địa phương và các lợi ích chung mà đôi khi giữa chúng có sự xung đột. Ngoài ra cũng phải kể đến sự yếu kém về năng lực quản lý của các cấp chính quyền.
III. Các thủy vực nước tĩnh
Giới thiệu chung
Hồ, ao, đầm (các thủy vực nước tĩnh) được hình thành do nhiều nguyên nhân: do sự sụt lún của vỏ Trái đất, do trượt đất, do băng tan, do nhân tạo…
Đa số hồ trên Trái Đất nằm ở Bắc bán cầu. Hồ được cung cấp nước từ nguồn nước mưa, do đó thường có mực nước giảm vào mùa khô; một số hồ được cung cấp nước từ các nhánh sông và nước ngầm. Ở các hồ nước sâu, nước thường bị phân tầng theo nhiệt thành ba tầng: tầng trên thường có nhiệt độ cao hơn, giảm dần qua tầng trung gian xuống tầng dưới. Kéo theo sự phân nhiệt như vậy là sự phân bố các loài sinh vật theo các tầng.
Do sự chia cắt về địa lý, sinh vật trong hồ thường có tính đặc hữu cao do ít có sự trao đổi với các quần xã sinh vật ở các khu vực khác. Tuy nhiên, các hồ nhân tạo thường nghèo nàn về quần xã sinh vật và rất ít tính đặc hữu.
Hồ Baikal ở Nga là một trong những hồ nổi tiếng nhất trên thế giới. Nằm trong vùng Siberi, ở độ cao 1.485 m, đây là hồ lâu đời nhất thế giới. Hồ Baikal vốn là một chỗ lõm sâu 7.000 m và bị một lớp trầm tích lấp trong 25 triệu năm. Trên trầm tích là nước. Chỗ sâu nhất đo được hiện nay là 1.637 m. Hồ Baikal dài 636 km, rộng 80 km, với dung tích chứa 23.000 km³. Được 336 nhánh sông cung cấp, hồ dự trữ 20% nước ngọt của Trái Đất, nhiều hơn số nước ngọt tại Ngũ Đại Hồ cộng lại. Trong hồ có đến hơn 1500 loài sinh vật, trong đó có hơn 800 loài đặc hữu.
Chức năng của hồ ao
Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước
Hồ là nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt của người dân trong một khu vực nhất định. Bên cạnh đó, hồ còn giữ chức năng điều hòa nguồn nước, tích nước vào mùa mưa và cung cấp nước trong mùa khô. Chức năng này có thể thấy rõ ở hoạt động của hồ thủy điện Hòa Bình, hồ đã góp phần vào công tác phòng chống lụt bão trong mùa mưa và cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của người dân đồng bằng sông Hồng trong mùa khô.
Hồ điều hòa vi khí hậu.
Hồ ao có tác dụng điều hòa vi khí hậu rất rõ rệt. Cũng hồ thủy điện Hòa Bình đã chứng minh chức năng này của hồ với khu vực xung quanh khi khí hậu khu vực này trong những năm sau khi có hồ trở lên ổn định và ôn hòa hơn cả.
Hồ cung cấp thủy sản
Khác với sông, biển, hồ, nhất là các ao nhân tạo với mục đích nuôi cá, là nguồn cung cấp thủy sản dễ tiếp cận nhất với con người. Rất nhiều hồ, ao được sử dụng làm nơi nuôi trồng thủy sản đã tạo ra nguồn thu đáng kể cho người nông dân cũng như cải thiện chất lượng bữa ăn của họ.
Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải
Hồ, ao, nhất là ở các vùng đô thị, cũng là một nơi chứa và phân giải nước thải, chất thải sinh hoạt. Tuy nhiên, khả năng này của hồ ao thấp hơn ở sông suối rất nhiều vì nước hồ ít có sự giao lưu, thay đổi.
Hồ là cảnh quan du lịch
Rất nhiều hồ là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng, mang lại nguồn thu đáng kể cho ngành du lịch. Có thể kể đến các hồ nổi tiếng về du lịch ở Việt Nam như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, các hồ ở Đà Lạt….
3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ
1. Ô nhiễm hồ ao
Hệ sinh thái nước ngọt bao gồm các hệ sinh thái nước đứng (ao hồ) và hệ sinh thái nước chảy (sông, suối) đang bị suy giảm nhanh chóng bởi các tác nhân gây ô nhiễm mà nguyên nhân chủ yếu bao gồm các hiện tượng phú dưỡng, hàm lượng các kim loại năng trong nước gia tăng do sản xuất công và nông nghiệp (do phân bón), các hợp chất hữu cơ từ nước thải sinh hoạt và của các nhà máy chế biến thực phẩm,...đang ngày càng trở lên trầm trọng đã đe dọa đến sự cân bằng của các hệ sinh thái dưới nước.
Hiện tượng phú dưỡng đang trở lên phổ biến ở các hồ đô thị do sự gia tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước. Nó làm cho thực vật thủy sinh (rong, rêu, tảo) lúc đầu phát triển rất mạnh (tảo nở hoa) dẫn đến sự quang hợp trong nước trở lên mạnh mẽ làm nồng độ ôxi trong nước tăng lên, theo quy luật sinh thái khi số lượng loài phát triển mạnh mẽ đến một ngưỡng nào đó sẽ có sự cạnh tranh về điều kiện sống lúc đó các loài thực vật thủy sinh chết đi, sự phân hủy không hoàn toàn sinh khối sẽ làm cho môi trường nước trở lên ô nhiễm nghiêm, hàm lượng ôxi hòa tan trong nước giảm nhanh chóng, sự gia tăng trầm tích, thủy vực cạn dần. Đây có thể coi là một sự điển hình cho việc suy giảm hệ sinh thái nước ngọt bởi sự ô nhiễm môi trường. Đặc biệt sự gia tăng các chất ô nhiễm hữu cơ trong các hệ sinh thái ao hồ làm cho hàm lượng DO giảm thấp, hàm lượng COD và BOD cao đã làm cho các loài động vật như cá, tôm cua chết hàng loạt ở các ao hồ đô thị.
Ô nhiễm vi sinh vật do xả thải làm hủy hoại hệ sinh thái hồ và chất lượng nước hồ khiến cho nước hồ không thể sử dụng vào mục đích sinh hoạt. hiện tượng này đang ngày càng phổ biến từ các hồ thành thị đến các ao làng ở nông thôn mà nguyên nhân là do kiểm soát thiếu chặt chẽ với nguồn thải.
2. Cạn kiệt nước hồ ao.
Hồ ao cũng có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong như một quy luật tự nhiên. Quá trình này diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cạn kiệt nguồn nước và bồi lấp hồ. Quá trình cạn kiệt hồ nước có thể do nguyên nhân tự nhiên nhưng cũng có thể do tác động của con người. Biển Hồ ở Campuchia tiếp nhận nguồn nước sông Mekong và làm chức năng dự trữ, cung cấp nước cho cả vùng nay đang cạn kiệt dần vì nguồn nước giảm do các nước thượng nguồn xây đập, dẫn nước làm thủy lợi và xây hồ tích nước làm thủy điện.
Cũng phải kể đến hiện tượng lắng đọng bùn đất tại các hồ ao, Biển Hồ cũng đang xuất hiện nguy cơ bồi lấp này.
Tác động của các hồ nhân tạo
Việc xây dựng các đập và hồ chứa lớn cũng gây ra những tác động xấu tới môi trường như:
Gây địa chấn và động đất xung quanh những hồ chứa lớn
Làm bùng phát các tác nhân gây bệnh đối với con người như bệnh Schistosomiasis do 3 loài giun dẹt gây ra mà vòng đời của nó phụ thuộc vào ốc sên. Khi con ngườI tiếp xúc vớI nước có ốc sên, các kí sinh trùng sẽ truyền sang ngườI và gây bệnh; hoặc bệnh sốt rét do kí sinh trùng sống trong muỗi gây ra…
Làm thay đổi dòng chảy của các con sông dẫn tới tăng cường bồi lắng các lòng sông và xói lở vùng hạ nguồn
Làm thay đổi môi trường sống các loài thủy sinh: giảm lượng dinh dưỡng trong nước đối với các loài thủy sinh vùng hạ lưu.
Làm mất đi một diện tích lớn đất nông nghiệp và cư dân.
Gây ra nguy cơ mất an toàn đối với người dân trong vùng mỗi khi có sự cố mất an toàn của đập.
4. Quản lý hồ ao
Hồ ao có đặc điểm là dễ quản lý hơn so với sông hay biển vì có ranh giới xác định rõ ràng hơn nhiều. Do đặc điểm đó mà việc quản lý hồ ao thường là do các địa phương và gia đình thực hiện. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà khung pháp lý cho việc quản lý hồ ao thường thiếu, việc quản lý các hồ ao, nhất là hồ lớn thường không được phân định trách nhiệm rõ ràng. Tại hồ Tây, hiện có đến năm cơ quản cùng có trách nhiệm tham gia quản lý, dẫn đến chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Tuy vậy, việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật để bảo vệ chức năng sinh thái của các hồ ao thường dễ dàng hơn so với sông, biển. Việc tiến hành phun thuốc DT100 xử lý ô nhiễm hồ Văn là một ví dụ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, sau khi xử lý, nước hồ có trong xanh hơn nhưng hệ sinh thái hồ Văn bị ảnh hưởng thế nào thì vẫn chưa có nghiên cứu rõ ràng.
Kết luận
Quản lý các hệ sinh thái nói chung cũng như hê sinh thái dưới nước nói riêng đều phải dựa trên phương pháp tiếp cận hệ thống một cách khoa học và tổng thể. Ta có thể phân nhỏ các hệ sinh thái dưới thành các hệ sinh thái nhỏ hơn như hệ sinh thái ao hồ, hệ sinh thái ven biển và đại dương hệ sinh thái san hô,...Mỗi một kiểu hệ sinh thái này sẽ có những tính chất đặc trưng riêng từ đó rất thuận lợi cho việc quản lý.Việc quản lý có thể áp dụng các công cụ trong quản lý môi trường như luật pháp chính sách, kinh tế, khoa học kỹ thuật, các công cụ này nên kết hợp hài hoà với nhau sẽ cho kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là các chính sách, luật pháp phải được thực thi trong thực tiễn. Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đến nhân dân, nhất là những đối tượng trực tiếp khai thác và thụ hưởng tài nguyên của các hệ sinh thái nước. Thực tiễn cho thấy, chính sách có nhiều và khá đầy đủ nhưng sự tiếp cận luật pháp của người dân còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ những nguyên nhân gây suy giảm hệ sinh thái nêu trên chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau :
1) Tăng cường giám sát và kiểm soát ô các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước trên nguyên tắc ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm. Kiên quyết không để xả thải bừa bãi các loại chất thải ra các thuỷ vực, đặc biệt là các thuỷ vực có khả năng chị tải kém, phải có các phương án ứng cứu kịp thời khi có các sự cố xảy ra như tràn dầu,...
2) Quản lý chặt chẽ các hoạt động đánh các nguồn lợi thuỷ sản như quản lý phương tiện khai thác. Đây là cách quản lý có tính khả thi cao và đang được áp dụng phổ biến. Đưa ra một hạn ngạch đánh bắt hợp lý đảm bảo khai thác bền vững các nguòn lợi vốn có, duy trì được tính đa dạng sinh học.
3) Khoanh vùng và quản lý các hệ sinh thái san hô. Việc khai thác các hệ sinh thái này phải được giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng.
4) Tăng cường nghiên cứu các hệ sinh thái dưới nước vì các hệ sinh thái dưới nước vẫn chưa được đầu tư quan tâm một cách đúng mức nhất là trong quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu với sự nóng lên của Trái Đất.
5) Tăng cường công tác tuyên truyền luật pháp, chính sách và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lưu Đức Hải. Giáo trình Cơ sở khoa học môi trường. Hà Nội, 1997.
Vũ Trung Tạng. Cơ sở sinh thái học. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
CMESRC. Báo cáo quốc gia về ô nhiễm biển từ đất liền Việt Nam. Hà Nội, 2005.
Ban biên giới Bộ ngoại giao. Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
VLOS. Biển đem lại cho ta những gì. (website)
VLOS. Đại dương nguy hiểm. (website)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý hệ sinh thái dưới nước.doc