Trong cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về nhân quyền thì vấn đề
tôn giáo, dân tộc nổi lên là một điểm nóng trước mắt và lâu dài. Tôn giáo dễ bị các thế
lực phản động lợi dụng vì tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm và thiêng liêng đối với đông
đảo quần chúng tín đồ. Việt Nam cũng là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em có
trình độ phát triển không đồng đều, kẻ thù lợi dụng đặc điểm này để chống phá ta. Việc
xuyên tạc vấn đề tôn giáo, dân tộc ở nước ta diễn ra từ lâu, phức tạp, nhiều vụ việc
nghiêm trọng đã diễn ra gây cho ta những khó khăn nhất định.
165 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 587 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan niệm của C.mác, Ph.ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hoạt động tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là tư tưởng về nhân quyền nhằm nâng
cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân; nâng cao đời sống kinh tế để người dân ổn định
cuộc sống, tránh bị lôi kéo, dụ dỗ của các thế lực thù địch; khi phát hiện có hành vi sai
trái về nhân quyền cần kiên quyết tìm ra và loại bỏ, khi cần thiết thì nên có sự can thiệp
của cơ quan chức năng. Với những quan điểm thù địch, các thế lực thường sử dụng
những thủ đoạn tinh vi, có khi kèm theo hoạt động bạo động, chúng ta cần nắm rõ tình
hình, phát hiện kịp thời, ngăn chặn thành công với những hoạt động chống phá. Sử
dụng cả mặt trận ngoại giao, các diễn đàn khu vực và quốc tế để đấu tranh với những
luận điệu này.
Qua hơn ba mươi năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện, tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng những yếu
kém, khuyết điểm trong nước, tăng cường các hoạt động chống phá, lợi dụng vấn đề
136
dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc đất nước. Mục đích của chúng là nhằm
chuyển hóa niềm tin của nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, phá hoại về
chính trị, tư tưởng, xuyên tạc đường lối của Đảng từ đó phá hoại vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội, dần lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta Đây
vừa là cuộc đấu tranh chính trị, vừa là đấu tranh ngoại giao, có ảnh hưởng trực tiếp tới
vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
QCN có tính phổ biến chung cho tất cả mọi dân tộc nhưng lại chịu sự tác động,
chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử và đặc thù văn hóa, vì vậy quan
điểm về QCN ở mỗi nước lại có sự khác nhau. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay, với xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa sâu sắc, cần giải quyết hài hòa, hợp lý mối
quan hệ giữa cái tương đồng và khác biệt, giữa thống nhất và đa dạng, giữa dân tộc và
quốc tế trong vấn đề nhân quyền.
Để cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch về nhân quyền có hiệu
quả, cần kiên định quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN. Đây vừa là
yêu cầu có tính nguyên tắc, vừa là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng, Nhà nước ta. Sự kế thừa đòi hỏi phải có tính sáng tạo, phù hợp với tình hình
thực tế. Hiện nay có một số quan điểm sai trái, thù địch về QCN vẫn đang tồn tại cần
phải đấu tranh xóa bỏ như:
Quan điểm xuyên tạc về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” ở nước ta.
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, các nước tăng cường mở
rộng, hợp tác quốc tế, xu thế dân chủ hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trong đời
sống quốc tế. Vấn đề dân chủ và nhân quyền được tất cả các nước đều quan tâm và đôi
khi trở thành những vấn đề bức xúc nhất trong nhân quyền. Dân chủ và nhân quyền đã
bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước câu kết với nhau để phá hoại an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Chúng dùng nhân quyền làm điều kiện cho việc
hợp tác kinh tế và hoạt động viện trợ nhân đạo, để ép ta phải thỏa hiệp, phải chấp nhận
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách dân chủ, làm chệch hướng đường lối
chính trị của Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng chống phá bên ngoài câu kết với số
137
phần tử phản động trong nước thu thập, chuyển tải thông tin, bài viết cho các hãng
thông tấn, báo chí phương Tây, tổ chức nhân quyền quốc tế, phản ánh không đúng sự
thật, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, vu khống ta vi phạm quy
chế dân chủ, hạn chế quyền tự do của nhân dân, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do
tôn giáo, tín ngưỡng Chúng lợi dụng một số phần tử quá khích, bất mãn với chế độ,
hình thành các tổ chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp, lôi kéo quần chúng để gây rối
và phá hoại an ninh trật tự của ta.
Các thế lực thù địch xuyên tạc chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước, cho rằng Nhà nước Việt Nam là độc tài, chuyên chính; lợi dụng hạn
chế, yếu kém trong quản lý xã hội hoặc những bức xúc trong nhân dân để lôi kéo, kích
động nhân dân biểu tình, gây bạo loạn. Chúng cường điệu các giá trị dân chủ tư sản
phương Tây, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm QCN. Chúng cho rằng QCN là tuyệt
đối, bất biến, là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, nhằm lợi dụng hoạt động
nhân quyền vi phạm pháp luật đất nước. Những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân
tộc, tôn giáo cũng bị các thế lực thù địch thổi phồng, bóp méo để xuyên tạc chủ trương,
đường lối, vu cáo ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, kích động nhân dân biểu tình, gây
rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta.
Quốc hội Mỹ, EU, các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế dưới sự tác động
của các thế lực thù địch đã ban hành các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên
xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Các báo cáo như: Báo cáo tự do
tôn giáo quốc tế của Bộ ngoại giao Mỹ, Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hàng
năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu Các tổ chức quốc tế cũng có
báo cáo thường niên như Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá Quốc
tế (AI), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ) Hàng năm, Hạ viện Mỹ thông qua nhiều Dự
luật, Nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: Dự luật HR 1587 (năm
2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013) xuyên tạc,
vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân tộc, đàn áp những
người “bất đồng chính kiến”, bỏ tù những người “yêu nước”, nhằm gây ra bất ổn trong
nước, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng về tình hình nhân quyền nước ta.
138
Học thuyết của các nhà kinh điển mácxit có điểm xuất phát từ con người và mục
đích cuối cùng cũng vì con người, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, quyền và
lợi ích chính đáng của mọi người, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn là mục tiêu cuối
cùng mà các ông hướng đến. Nhận rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo QCN, Đảng,
Nhà nước ta luôn thực hiện đường lối nhất quán tất cả vì sự nghiệp giải phóng con
người mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đề xướng, vì hạnh phúc và QCN đích
thực. Dựa trên quan niệm của các nhà kinh điển và những thành tựu Việt Nam đã đạt
được trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền cho nhân dân Việt Nam, chúng ta kiên quyết
đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, xây dựng một
xã hội dân chủ, tiến bộ, văn minh, vì con người, tất cả mọi người được thực hiện đầy
đủ quyền dân chủ. Chính thực tế công tác nhân quyền ở nước ta đã bác bỏ mọi mưu
toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, phá hoại kinh tế và
can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Việt Nam cũng sẵn sàng mở cửa giao lưu,
hợp tác với các nước trong lĩnh vực nhân quyền trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, một mặt giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về chủ
trương, chính sách, thành tựu nhân quyền nước ta đạt được, mặt khác góp phần vào
cuộc đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong cuộc đấu tranh phòng chống dịch bệnh Covid -19 gần đây, chúng ta cũng
gặp phải những luận điệu xuyên tạc về tình hình nhân quyền. Cuối năm 2019, khi dịch
bệnh Covid - 19 được phát hiện, thì từ đầu năm 2020 đến nay, Đảng, Nhà nước, Quốc
hội, Chính phủ Việt Nam quyết tâm bằng mọi biện pháp để bảo vệ tính mạng con
người trước đại dịch. Không chỉ bảo đảm tính mạng cho người dân Việt Nam mà Nhà
nước ta còn cứu chữa, bảo đảm tính mạng cho công dân nước ngoài đang ở trên lãnh
thổ nước ta, điển hình như bệnh nhân số 91, phi công người Anh. Với phương châm
“Chống dịch như chống giặc” và cam kết “Không ai bị bỏ lại phía sau”, mặc dù phải
thực hiện giãn cách xã hội, có những hoạt động phải tạm dừng, gây ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế, nhưng Đảng, Nhà nước ta đã hành động có trách nhiệm, đặt sự an
toàn của người dân lên hàng đầu, đây là biểu hiện rõ ràng nhất của việc nâng cao QCN
ở Việt Nam. Đầu năm 2020, khi đại dịch bùng phát, Chính phủ đã tổ chức hàng trăm
139
chuyến bay giải cứu hàng chục nghìn người từ vùng dịch trở về nước an toàn. Bên cạnh
đó, gói an sinh xã hội gần 62.000 tỷ đồng nhằm giúp nhân dân khắc phục phần nào khó
khăn do đại dịch Covid - 19 gây ra, sự ủng hộ của những mạnh thường quân trong
nước bằng tiền và hiện vật là sự giúp đỡ kịp thời, giúp người dân vượt qua khó khăn
trong đại dịch, con người được bảo đảm quyền sống, quyền mưu sinh, quyền được
chăm sóc y tế, và đặc biệt là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước ta luôn đặt
sự an toàn và lợi ích nhân dân lên hàng đầu. Việt Nam được bạn bè quốc tế ca ngợi là
một trong những nước xử lý với đại dịch viêm đường hô hấp cấp thành công nhất.
Nhưng có một số người không hiểu và các thế lực thù địch lại cho rằng những
việc làm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đang hạn chế một số QCN của người dân.
Những ngày đầu năm 2021, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) có trụ sở tại Hoa Kỳ
đã đưa ra kết luận: Việt Nam lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid - 19 để vi phạm nhân
quyền. Đây là một kết luận thiếu tính khách quan, không có thiện chí, xuyên tạc tình
hình ở nước ta. Ba tháng đầu của đại dịch, chúng ta đã phát hiện hơn 600 trường hợp
và 134 trường hợp bị xử lý hành chính khi đăng thông tin sai lệch trên mạng xã hội.
Thế lực thù địch cho rằng, chúng ta vi phạm tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của người
dân. Với việc áp dụng một số biện pháp ứng phó với đại dịch như cách ly xã hội, hạn
chế tụ tập đông người, đóng cửa biên giới với các nước, kiểm soát, cách ly bắt buộc với
người nhập cảnh, đóng cửa trường học, hạn chế đi lại, khai báo y tế, quản lý lây nhiễm
chéo tại cơ sở y tế, xử lý nguồn lây bệnh, ổ dịch lại bị coi là vi phạm quyền tự do đi
lại, quyền hội họp ôn hòa, quyền tự do kinh doanh, quyền về việc làm, quyền được
giáo dục Việc công bố bí mật về sức khỏe cũng như quá trình di chuyển của người
bệnh tuy có xâm phạm quyền giữ bí mật thông tin sức khỏe của người bệnh, nhưng
những thông tin đưa ra công khai chỉ là phạm vi di chuyển để có thể khoanh vùng tiếp
xúc của người bệnh, tránh tình trạng dịch bùng phát ở nhiều nơi, kịp thời tìm kiếm
người tiếp xúc gần, nhanh chóng dập tắt dịch bệnh, đây cũng là một biện pháp để bảo
vệ QCN.
Tính đến cuối tháng 4 năm 2021, trong khi số người tử vong vì dịch bệnh trên thế
giới lên đến hơn ba triệu người, nhiều nước rơi vào tình trạng mất kiểm soát, thì ở Việt
140
Nam chỉ có 35 người chết, trong đó chủ yếu là những người có bệnh lý nền nặng, tình
hình dịch bệnh được kiểm soát tốt trên cả nước. Đó là những bằng chứng xác thực nhất
chứng tỏ sự đúng đắn trong các biện pháp phòng chống dịch bệnh của Chính Phủ ta.
Chúng ta cần nhận thức rõ, những biện pháp mà Đảng, Nhà nước đưa ra là hiệu
quả, phù hợp, thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất ảnh hưởng của dịch bệnh, vì sự an toàn của con người được đặt lên hàng đầu, mặc
dù phải hi sinh về kinh tế nhưng sức khỏe của nhân dân được bảo đảm, một số quyền
bị hạn chế nhưng để đẩy lùi dịch bệnh, đảm bảo quyền được chăm sóc y tế, quyền được
sống của con người, có những quyền này thì con người mới thực hiện được những
quyền khác. Những luận điệu sai trái, thù địch như trên chỉ là sự xuyên tạc tình hình,
không phản ánh đúng thực tế bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam hiện nay.
Quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”
Các thế lực thù địch đã đưa ra khẩu hiệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, cho
rằng quyền của con người là tối cao, phải được quan tâm trước hết, các nước đã không
đảm bảo, thực thi quyền cho người dân và lợi dụng vào đó để xâm phạm chủ quyền,
can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đây là một quan điểm sai lầm vì một đất
nước không có độc lập tự do, bị nước khác đô hộ thì người dân không thể có tự do,
những quyền và lợi ích không được thực thi đầy đủ; khi đất nước bị xâm lược thì các
cuộc đấu tranh để giành lại độc lập, tự do sẽ diễn ra, người dân không có điều kiện để
thực thi quyền. Vì vậy đất nước hòa bình, tự do là điều kiện tiên quyết để thực hiện
nhân quyền hay nói cách khác nhân quyền của cá nhân gắn bó chặt chẽ với chủ quyền
quốc gia, có chủ quyền quốc gia dân tộc mới thực hiện được QCN.
C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định: “Sự giải phóng chính trị của người Do Thái
và sự ban bố “nhân quyền” cho người Do Thái là một hành vi trong đó cả hai mặt quy
định lẫn nhau” [78, tr.172]. Như vậy sự giải phóng chính trị - sự độc lập của một đất
nước và việc thực thi nhân quyền cho nhân dân có mối quan hệ mật thiết với nhau, đất
nước độc lập là cơ sở, điều kiện để bảo đảm nhân quyền, mặt khác quyền của cá nhân
được đảm bảo góp phần củng cố vững chắc nền độc lập ấy. Dựa trên quan niệm của
các nhà kinh điển, Đảng, Nhà nước ta khẳng định giữa nhân quyền và chủ quyền có
141
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm
giành lại quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc, giành lại QCN gắn với cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Hàng nghìn năm đất nước chịu cảnh đô hộ, mất chủ quyền, những quyền cơ bản của
con người không được đáp ứng, chỉ đến khi đất nước được hòa bình độc lập, người dân
mới được đảm bảo và thực thi quyền của mình. Chính độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho nhân quyền ở nước ta, khi quyền của con người
được đảm bảo lại là cơ sở để giữ vững độc lập, tự do của tổ quốc.
Quan điểm xuyên tạc về vấn đề tôn giáo, dân tộc ở Việt Nam.
Trong cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về nhân quyền thì vấn đề
tôn giáo, dân tộc nổi lên là một điểm nóng trước mắt và lâu dài. Tôn giáo dễ bị các thế
lực phản động lợi dụng vì tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm và thiêng liêng đối với đông
đảo quần chúng tín đồ. Việt Nam cũng là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em có
trình độ phát triển không đồng đều, kẻ thù lợi dụng đặc điểm này để chống phá ta. Việc
xuyên tạc vấn đề tôn giáo, dân tộc ở nước ta diễn ra từ lâu, phức tạp, nhiều vụ việc
nghiêm trọng đã diễn ra gây cho ta những khó khăn nhất định.
Các thế lực phản động, thù địch thường đưa ra luận điệu xuyên tạc, vu cáo Việt
Nam không bảo đảm tự do tôn giáo, dùng quân đội, cảnh sát đàn áp tôn giáo, bỏ tù
những vị chức sắc; yêu cầu Việt Nam tôn trọng quyền thờ cúng, hoạt động của tất cả
các tổ chức tôn giáo độc lập; ngoài ra còn thông qua các đạo luật, nghị quyết, báo cáo
định kỳ để can thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ nhằm chống phá nước ta. Mỹ nhiều
lần tuyên bố công khai “nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo là rào cản lớn nhất quan
hệ Việt - Mỹ”. Các thế lực thù địch thường lợi dụng những vùng có điều kiện kinh tế
khó khăn, trình độ dân trí chưa cao như khu vực Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Trung du
miền núi phía bắc để tuyên truyền cho những tư tưởng phản động, lôi kéo, kích động
nhân dân chống phá chính quyền, gây rối an ninh trật tự, gây chia rẽ trong nội bộ nhân
dân. Những hoạt động chống phá là hết sức trắng trợn, xuất phát từ âm mưu, mục đích
chính trị, nhằm lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và chính
quyền các cấp của ta.
142
Hàng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ đều thông qua “Báo cáo Tự do Tôn giáo quốc
tế”, trong đó có nói về tình hình tôn giáo ở Việt Nam với nhiều thông tin vu cáo, không
đúng sự thật. Trong Báo cáo được công bố năm 2019 và 2020, Bộ Ngoại giao Mỹ đã
đưa ra đánh giá thiếu khách quan, với những thông tin sai lệch, khi cho rằng Việt Nam
đàn áp tự do tôn giáo, vi phạm quyền tự do tôn giáo của người dân, bắt bớ tín đồ theo
đạo Cao Đài, Chính phủ Việt Nam tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều
tôn giáo
Để đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu của các thế lực thù địch, chính
sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mọi người đều có quyền
bày tỏ đức tin tôn giáo, được hành lễ, theo học và truyền bá tôn giáo. Những chính sách
này đều dựa trên quan niệm nền tảng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền tự
do tôn giáo, là định hướng trong hoạt động của Đảng, Nhà nước ta. Không chỉ đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, mà thực tiễn hoạt động tôn giáo ở nước ta đã
chứng minh cho việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Nước ta có 95% dân
số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo trong đó hơn 26 triệu người là tín đồ tôn giáo, gần
55.000 chức sắc, 28.000 cơ sở thờ tự, hơn 8.000 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ
chức hàng năm. Bên cạnh đó cần tăng cường hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng,
nâng cao nhận thức nói chung và kiến thức về nhân quyền nói riêng, nhận diện rõ
những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, đấu tranh kịp thời, có hiệu quả với
những luận điệu xuyên tạc đó.
Luận điệu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam bóp nghẹt tự do tư tưởng, tự do ngôn
luận, tự do báo chí.
Tự do tư tưởng là một quyền hết sức quan trọng đối với con người, mỗi người
phải được tự do trong suy nghĩ của mình, và biểu hiện sự tự do ấy thông qua hành
động, qua các phương tiện truyền đạt là ngôn luận và báo chí. Các nhà kinh điển
mácxit đã phê phán xã hội tư bản bấy giờ vi phạm các quyền tự do của con người,
trong đó có tự do tư tưởng, báo chí và khẳng định đây là một quyền chính đáng của con
người, cần phải được xã hội tôn trọng và thực thi. Ở nước ta, các thế lực thù địch trong
143
và ngoài nước với luận điệu cho rằng Việt Nam không có tự do tư tưởng, tự do ngôn
luận, tự do báo chí, đòi cho ra báo tư nhân, tự do theo kiểu tư sản Mục đích của
chúng là nhằm gây rối về tư tưởng trong xã hội, muốn dùng báo chí tư nhân để truyền
tải mưu đồ của chúng. Báo chí ở nước ta vẫn là tiếng nói của toàn dân, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi người đều có quyền tự do sáng tác, cung cấp
thông tin, truyền bá tác phẩm báo chí miễn là những tác phẩm ấy không đi ngược lại
với lợi ích quốc gia, dân tộc.
Các thế lực thù địch cũng sử dụng một kiểu gây rối nữa là dùng loại “báo chí
ngầm” với một số loại báo chí in lậu, thông tin xuyên tạc và lén lút đưa vào trong nước,
bên cạnh đó còn phát tán những tài liệu xấu, khơi vào những tồn tại, khuyết điểm của
cá nhân để giảm uy tín và hạ bệ lãnh đạo, gây mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, của hệ thống chính trị. Trước những hành động gây rối, phá hoại của kẻ
thù, chúng ta cần hiểu rõ tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về tự do ngôn
luận, báo chí, phân biệt đâu là sự tự do, đâu là hoạt động lợi dụng, phá hoại, kiên quyết
đấu tranh, nhận rõ âm mưu và vô hiệu hoá các hoạt động của chúng.
Ở nước ta tự do ngôn luận, báo chí, thông tin đã được Hiến pháp và pháp luật
quy định cụ thể, được thực hiện thông qua các cơ chế, bộ máy của nhà nước. Thực tế
sự phát triển đa dạng, phong phú của những phương tiện truyền thông và loại hình báo
chí, sự tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề trọng đại của đất
nước là minh chứng rõ ràng cho quyền tự do thông tin, ngôn luận ở nước ta.
Các thế lực thù địch sử dụng những luận điệu xuyên tạc trên tựu chung lại đều
nhằm vào hai chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược diễn biến
hòa bình về tư tưởng, lý luận, pháp lý và chiến lược gây bạo loạn lật đổ. Chiến lược
diễn biến hòa bình, nhằm dần dần làm lung lay lập trường vô sản, thay vào đó là lập
trường và quan điểm tư sản, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hạ thấp lợi ích
của cộng đồng, dân tộc, tuyệt đối hóa quyền và lợi ích cá nhân. Những âm mưu này
được thực hiện một cách mạnh mẽ mà êm ái để đối tượng bị tác động tự chuyển hóa.
Hoạt động này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư
tưởng lý luận, quân sự; với quy mô, cách thức tổ chức đa dạng. Với chiến lược bạo
144
loạn, lật đổ, kích động lôi kéo quần chúng nhân dân, làm tê liệt, giành quyền kiểm soát
chính quyền ở địa phương, tiến đến lật đổ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa do Đảng ta
lãnh đạo và nhân dân đang xây dựng.
Với chiến lược diễn biến hòa bình, chúng ta cần kịp thời phát hiện ra âm mưu,
thủ đoạn, đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tuyên truyền để nhân dân
hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên
quyết đấu tranh chống lại kẻ thù. Đối với chiến lược gây bạo loạn, lật đổ, chúng ta cần
sớm phát hiện và kiên quyết đập tan ý đồ từ khi chúng đang nhen nhóm. Cách xử lý
cần khéo léo, linh hoạt và sáng tạo. Để kịp thời phát hiện ra những âm mưu đó đòi hỏi
sự cảnh giác cao của các cấp chính quyền, của nhân dân; nắm vững hệ thống tư tưởng
lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta trong vấn đề nhân quyền, xử lý một cách kiên quyết và kịp thời.
Luận điệu xuyên tạc về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước diễn ra liên tục, dưới nhiều hình thức, bằng nhiều thủ đoạn, ngày
càng tinh vi, phức tạp hơn. Để đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu này, chúng ta
cần tiếp tục làm rõ quan niệm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, của Đảng ta về QCN, khẳng định tính đúng đắn của những tư tưởng đó; tăng
cường và mở rộng dân chủ, phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, tạo điều kiện để con người được phát triển toàn diện, trong các chính
sách kinh tế - xã hội, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm; tiếp tục hoàn thiện
hệ thống văn bản pháp luật để bảo vệ QCN, QCD; kịp thời phát hiện và đấu tranh có
hiệu quả với những hành vi vi phạm QCN, QCD; tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục để nâng cao nhận thức của nhân dân về những quyền mình được hưởng, biết
tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích của người khác; hợp tác và đối thoại với các nước và
khu vực trên thế giới trong lĩnh vực nhân quyền. Đấu tranh chống lại những luận điệu
sai trái về nhân quyền là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Cuộc đấu tranh không chỉ diễn ra bằng lý luận mà
phải bằng mọi hình thức, biện pháp chủ động, sáng tạo của mọi cá nhân và cả hệ thống
145
chính trị; đấu tranh trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, đồng thời
khẳng định trên thực tế những QCN ở nước ta ngày càng được bảo đảm vững chắc.
Tiểu kết chương 4
Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN với những luận điểm
khoa học, cách mạng đã bênh vực, bảo vệ cho quyền của nhân dân lao động trên khắp
thế giới. Những quan niệm đó đã “đóng góp cho kho tàng nhân loại một loại hình lý
thuyết mới về nhân quyền, nó bao gồm một tập hợp các quan niệm có giá trị nhân văn
sâu sắc về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và vai trò của nhân quyền trong tiến trình
lịch sử” [117, tr.31]. Nhiều tư tưởng đến ngày nay vẫn còn ý nghĩa, giá trị to lớn trong
việc bảo đảm, thực thi nhân quyền ở các nước, trong đó có Việt Nam.
Dưới ánh sáng tư tưởng của các nhà kinh điển mácxit về nhân quyền, Đảng,
Nhà nước ta đã ban hành các bản Hiến pháp và một hệ thống văn bản pháp luật, cùng
với những đường lối, chủ trương chính sách phù hợp thúc đẩy việc bảo đảm, bảo vệ
QCN ở nước ta phát triển. Những quan niệm được kế thừa như quyền tự do, bình đẳng,
quyền tự do báo chí, tự do tôn giáo, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em Những
quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước làm cơ sở cho việc bảo vệ QCN trong
thực tế. Những thành tựu trong bảo vệ nhân quyền ở nước ta khá toàn diện, trên tất cả
các mặt, quyền và lợi ích của nhân dân được đảm bảo và giữ vững. Quan niệm của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN cũng là cơ sở lý luận, phương pháp luận để
chúng ta đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc vấn đề nhân quyền của các thế
lực thù địch trong và ngoài nước. Những kết quả đạt được đã chứng tỏ chủ trương,
chính sách của Đảng, nhà nước được đưa ra là đúng đắn và chứng minh cho sức sống
vững bền tư tưởng bảo vệ quyền cho con người của các nhà kinh điển mácxit.
146
KẾT LUẬN
Nhân quyền là một giá trị cao quý, đầy tính nhân văn, là thành quả đấu tranh
lâu dài của toàn nhân loại nhằm khẳng định giá trị của tự do, dân chủ, bình đẳng,
quyền và lợi ích chính đáng cho con người. Mỗi bước tiến của nhân quyền là bước
tiến của thành quả và sự tiến bộ nhân loại trong việc khẳng định phẩm giá của con
người. Nhân quyền luôn nhận được sự quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Các
quốc gia trong bất cứ chính sách phát triển kinh tế, xã hội nào cũng đều nhằm mang
lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người, quyền và lợi ích cao nhất cho mọi người.
Với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản đã đẩy tình trạng vi phạm
QCN trở nên phổ biến và nghiêm trọng, những quyền cơ bản của con người không
được thực thi. Dưới sự tác động của điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội; kế thừa
quan điểm tiến bộ của các trường phái triết học trước, nhất là quan điểm về quyền tự
nhiên; đặc biệt là tầm trí tuệ thiên tài, có khả năng lý luận và tổng hợp cao, cùng thế
giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
đã đưa ra những quan niệm tiến bộ, đúng đắn về QCN. Những luận điểm khoa học
này đã giải thích đầy đủ, toàn diện và triệt để các vấn đề lý luận và thực tiễn của QCN
mà lịch sử đặt ra. Kể từ khi những tư tưởng về QCN của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin ra đời đến nay, thế giới có biết bao đổi thay trong đó có cả những biến
động mà bản thân những nhà kinh điển mácxit lúc sinh thời không dự kiến hết được.
Tuy nhiên, những quan niệm cơ bản của các ông về QCN cho đến nay vẫn còn nhiều
giá trị, đang dẫn dắt và soi đường cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thực thi nhân
quyền ở nước ta hiện nay.
Theo quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, QCN là những quyền tự
nhiên, gắn với mỗi người, được xã hội thừa nhận và pháp luật bảo vệ, QCN được áp
dụng phổ biến và bình đẳng với tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử. QCN
bao gồm một tập hợp các quyền trong đó quyền tự do, quyền bình đẳng đóng vai trò
nền tảng, là cơ sở để con người có được các quyền khác. Mỗi người đều phải được tự
do trong suy nghĩ và hành động, được thể hiện năng lực của bản thân; được bình đẳng
về cơ hội, quyền và lợi ích được hưởng; được tham gia vào đời sống kinh tế, chính
147
trị, xã hội của đất nước, từ đó mỗi người khẳng định giá trị bản thân mình, đóng góp
cho sự phát triển và tiến bộ chung. Trong những quyền tự do của con người thì quyền
tự do tôn giáo và quyền tự do báo chí giữ một vị trí quan trọng, là sự biểu hiện đời
sống tinh thần của con người. Mỗi người cần được tự do lựa chọn theo hoặc không
theo tôn giáo nào, được sáng tạo và tiếp cận các nguồn thông tin báo chí, nhưng
không vi phạm tự do của người khác, ảnh hưởng xấu đến xã hội. Trong những đối
tượng được thụ hưởng quyền thì phụ nữ và trẻ em là những đối tượng dễ chịu nhiều
thiệt thòi, vì vậy họ cần được bảo đảm đầy đủ các quyền của mình, nhà nước và xã
hội cần tạo mọi điều kiện để họ được thụ hưởng quyền. Các QCN có mối quan hệ tác
động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau; chúng vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là hệ quả của
nhau. Vì vậy, cần bảo đảm, thực thi và bảo vệ tất cả các QCN, không phân biệt hay
xem nhẹ bất kỳ quyền nào. Điều này giúp cho mỗi cá nhân được phát triển toàn diện
và đất nước được ổn định, bền vững.
Tư tưởng của các nhà kinh điển mácxit về nhân quyền chứa đựng những giá trị
nhân văn mang tầm thời đại, xuất phát từ con người và mục tiêu cuối cùng cũng vì
con người, đã có ảnh hưởng sâu rộng đối với các nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN có ý nghĩa, giá trị to
lớn, là cơ sở lý luận, phương pháp luận, là nền tảng tư tưởng và định hướng trong xây
dựng chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước
cũng như việc bảo đảm, bảo vệ trong thực tế QCN ở nước ta, góp phần vào công cuộc
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực nhân quyền.
Đảng ta xác định, chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, Nhà nước ta. Dưới ánh sáng soi
đường của tư tưởng nhân quyền của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nhà nước ta đã
ban hành 5 bản Hiến pháp cùng một hệ thống văn bản pháp luật và các chính sách cụ
thể nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo QCN. Từ cơ sở đó, chúng ta đã đạt
được nhiều kết quả nổi bật trong việc bảo vệ, thực thi quyền cho nhân dân. Những kết
quả đạt được đã chứng minh tính đúng đắn trong việc kế thừa tư tưởng nhân quyền
148
của các nhà kinh điển mácxit và sự vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn
đất nước.
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển; trong mọi chính sách kinh tế - xã hội, con người luôn
được đặt vào vị trí trung tâm; việc bảo đảm, bảo vệ QCN là một trong những yếu tố
quan trọng cho sự phát triển bền vững, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về QCN sẽ luôn là cơ sở nền tảng, là ánh sáng soi đường cho Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta chăm lo, bảo vệ và thực thi ngày càng tốt hơn những quyền và
lợi ích chính đáng cho nhân dân Việt Nam. Việc phát huy những thành tựu và khắc
phục khó khăn, khuyết điểm trong thực hiện QCN đã và đang tạo ra những xung lực
mới cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cho công cuộc xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc và tiến bộ của con người.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
I. Tên bài báo
1. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2018), “Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
quyền tự do, bình đẳng”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kỳ 2, tháng 5,
trang 12 - 16.
2. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2019), “Một số quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
về quyền phụ nữ và quyền trẻ em”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 02(69),
trang 57 - 65.
3. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2019), “Đảm bảo quyền con người ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kỳ 2, tháng 3, trang 248 - 253.
4. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2020), “Khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và bản chất
quyền con người trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác”, Tạp chí
Triết học, số 6 (349), tháng 6, trang 72 - 81.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (chủ biên - 2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 về “Vấn
đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”.
3. Hoàng Chí Bảo (1989), Quyền con người trong chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Triết
học, số 2, trang 36 - 41, 54.
4. Vũ Ngọc Bình (2002), Sách bỏ túi về quyền trẻ em, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
5. Lê Bình (2018), Chống tham nhũng hiệu quả để tạo động lực phát triển đất
nước, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 6.
6. Bộ Ngoại giao (2005), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt
Nam, Hà Nội.
7. Bộ Ngoại giao (2018), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, Hà
Nội.
8. Bộ Ngoại giao (2018), Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con người, Hà Nội.
10. Đặng Dũng Chí (2010), Nhận thức lý luận của Đảng ta về quyền con người,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 9, trang 40 - 45.
11. Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con
người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Bùi Xuân Chung (2010), Một số quan điểm của Ph.Ăngghen về tôn giáo, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 7, trang 3 - 7.
13. Vũ Hoàng Công (1995), Tìm hiểu tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con
người, Luận án Phó tiến sỹ khoa học Triết học, Hà Nội.
14. Vũ Hoàng Công (2000), C.Mác, Ph.Ăng-ghen bàn về quyền con người, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 3, trang 9 - 12.
151
15. Nguyễn Thị Dung (2007), Các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về
quyền con người, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên - 2009),
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
17. Ngô Thành Dương (2004), Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác -
Ph.Ăngghen (giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác), Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
18. Nguyễn Bá Dương (chủ biên - 2018), Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của chủ
nghĩa Mác, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Lê Tâm Đắc, Nguyễn Đức Sự (2018), Giá trị và hạn chế của Chủ nghĩa Mác về
vấn đề tôn giáo dưới góc nhìn tôn giáo học, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2.
26. Nguyễn Văn Động (2009), Quan điểm và giải pháp pháp lý nhằm nâng cao vai
trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 8 (209), trang 9 - 15.
27. Nguyễn Văn Động (2009), Quan niệm về quyền con người trong thời đại ngày
nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12 (213), trang 3 - 10.
152
28. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Vũ Công Giao (2009), Bàn về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của quyền
con người, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5 (253), trang 66 - 72.
31. Vũ Công Giao (chủ biên, 2016), Hỏi - đáp về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Tất Giáp, Đặng Dũng Chí,Hoàng Văn Nghĩa (2016), Đảm bảo quyền
con người trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội.
33. Lê Thị Thanh Hà (chủ nhiệm - 2008), Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
vấn đề quyền con người - từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo
tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2008, Viện Kinh
điển Mác-Lênin, Hà Nội.
34. Trương Thị Hồng Hà (2018), Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp với việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, trang 38 -
43.
35. Hà Hồng Hà (2018), Nhìn lại công tác phòng chống tham nhũng: Cần kết hợp
giữa đức trị và pháp trị, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 5.
36. Hoàng Hùng Hải (2008), Góp phần tìm hiểu quyền con người ở Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
37. Lương Đình Hải (2013), Cơ sở lý luận của quyền con người vì sự phát triển con
người, Tạp chí Triết học, số 7 (266), trang 68 - 79.
38. Nguyễn Văn Hải (2018), 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
về phát triển văn hóa: Nhà nước đảm bảo quyền văn hóa cho mọi người dân,
Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 5.
39. Hoàng Văn Hảo (chủ nhiệm - 1993), Quyền con người, quyền công dân - nội
dung, thực trạng, điều kiện đảm bảo (tập II), đề tài KX.07 - 16, Hà Nội.
153
40. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (chủ biên - 1996), Một số vấn đề về quyền
kinh tế - xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
41. Hoàng Văn Hảo (chủ nhiệm - 1998), Quan điểm Mác - Lênin về quyền con
người, quyền công dân, Kỷ yếu sản phẩm nghiên cứu khoa học đề tài tiềm lực
năm 1997, Hà Nội.
42. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hoàng Văn Hảo (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, số 9 (150), trang 2 - 7.
44. Hoàng Văn Hảo (2014), Quyền con người, lý luận và thực tiễn, Viện Nghiên
cứu quyền con người, Hà Nội.
45. Thanh Hằng (2017), Vì mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, Tạp chí Nhân quyền
Việt Nam, số 7.
46. Vũ Văn Hậu (2016), Vấn đề thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Tạp chí Giáo dục lý luận, số
250, trang 12 - 14.
47. Hồ Trọng Hoài (2005), Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền hiện nay, Tạp
chí Cộng sản, số 726/3, trang 59 - 63.
48. Trần Thị Hòe (2002), Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền con
người ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội.
49. Trần Thị Hòe (2005), Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, trang 54 - 58.
50. Trần Thị Hòe (2015), Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
51. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2010), Tư tưởng của V.I.Lênin về quyền
con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Thảo Hương (2018), Thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số:
Những khoảng cách cần lấp đầy, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 3.
154
53. Jacques Mourgon (1990), Quyền con người, Nhà xuất bản Đại học Pháp (tài
liệu dịch).
54. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (Chủ biên - 1995), Quyền con người trong
thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Nguyễn Linh Kha (2018), Thực hiện các quyền dân sự, chính trị: Nỗ lực và
thách thức, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 9.
56. Khoa Luật, Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1992), Việt Nam với công ước
quốc tế về quyền con người, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
58. Tường Duy Kiên (2001), Mấy nét chính về nhân quyền trong thế kỷ 20 và dự
báo trong thế kỷ 21, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, trang 75 - 79, 83.
59. Tường Duy Kiên (2007), Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về
quyền con người, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, trang 25 - 30.
60. Tường Duy Kiên (2016), Tác động của nghiên cứu, giáo dục quyền con người
đến sự thay đổi trong nhận thức và hoạch định chính sách của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Cộng sản, số 885, trang 66 - 70.
61. Tuờng Duy Kiên (2017), Đẩy mạnh giáo dục quyền con người trong hệ thống
giáo dục quốc dân, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 7.
62. Tường Duy Kiên (2018), Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo
dục trong hệ thống giáo dục quốc dân - bước ngoặt trong thúc đẩy, bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Pháp luật về quyền con người,
số 1, trang 32 - 38.
63. Lê Văn Kiện (2016), Một số quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
tôn giáo, Tạp chí Giáo dục lý luận số 248, trang 26 - 28.
64. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
66. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
155
68. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 38, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 44, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Đức Lữ (2011), Tôn giáo - quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của
Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội.
77. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
82. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
83. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
84. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
85. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
86. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
87. Phạm Bình Minh (2009), Về tình hình đảm bảo quyền con người ở Việt Nam
theo cơ chế kiểm điểm phổ cập định kỳ của Liên Hợp Quốc, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 6 (254), trang 3 - 8.
156
88. Phạm Xuân Mỹ (2000), Từ di sản lý luận của V.I.Lê-nin về dân chủ, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 1, trang 23 - 26.
89. Mai Quỳnh Nam (chủ biên - 2009), Con người - văn hóa, quyền và phát triển,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
90. Hoàng Văn Nghĩa (1999), Quan niệm của triết học Mác về quyền con người,
Luận văn thạc sĩ Khoa học Triết học, Hà Nội.
91. Chu Thị Ngọc (2016), Hiến pháp cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền
con người, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9 (294), trang 2 - 7.
92. Nguyễn Ngọc Quang (2018), Giảm nghèo đa chiều bền vững: tăng cơ hội tiếp
cận toàn diện cho người nghèo, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 4.
93. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
94. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
95. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
96. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm
1992.
97. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
100. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
101. Roland Wlos (1996), Một quan niệm đầy đủ hơn về quyền con người, Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (tài liệu dịch).
102. Vũ Hồng Sơn (2007), Vấn đề sở hữu và quyền con người, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 12, trang 46 - 49.
103. Tạp chí Con số và Sự kiện, Tạp chí của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, số 01 + 02/2018
104. Tạp chí Con số và Sự kiện, Tạp chí của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, số 3/2018
157
105. Tạp chí Con số và Sự kiện, Tạp chí của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, số 4/2018
106. Tạp chí Con số và Sự kiện, Tạp chí của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, số 9/2018
107. Tạ Ngọc Tấn (chỉ đạo biên soạn - 2014), Niên giám khoa học 2011 - 2014. Tập
1: Một số vấn đề về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
108. Tạ Ngọc Tấn (chỉ đạo biên soạn - 2014), Niên giám khoa học 2011 - 2014. Tập
5: Lý luận và thực tiễn về Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
109. Tạ Ngọc Tấn (2014), Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con
người trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12, trang 3 - 10.
110. Tạ Ngọc Tấn, Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (2016), Thành tựu nhân
quyền Việt Nam 70 năm qua, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
111. Cao Đức Thái (chủ nhiệm - 2003), Sự phát triển quyền con người trên lĩnh vực
kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Tổng quan khoa học đề tài cấp
Bộ, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người, Hà Nội.
112. Cao Đức Thái (chủ nhiệm - 2005), Quyền con người trong thời kỳ đổi mới -
thành tựu, vấn đề và phương hướng giải quyết (Tập I), Đề tài khoa học cấp Nhà
nước, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.
113. Cao Đức Thái (2009), Những đóng góp có ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người, Tạp chí Cộng sản, số 799, trang 60 - 65.
114. Đỗ Đức Thịnh (2005), Lịch sử Châu Âu, Nxb Thế giới, Hà Nội.
115. Vũ Duy Thông (2017), Nỗ lực vì một nền giáo dục nâng cao tầm vóc con người,
Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 11.
116. Đoàn Trường Thụ (2006), Quyền con người - thước đo quan trọng của tiến bộ
xã hội, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
158
117. Nguyễn Đức Thùy (chủ nhiệm - 2008), Những quan điểm cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay, Kỷ
yếu đề tài cấp Bộ năm 2007, Viện Nghiên cứu Quyền con người, Hà Nội.
118. Tiểu ban lý luận về lĩnh vực xây dựng lực lượng công an nhân dân, Học viện
Chính trị Công an nhân dân (2017), Đấu tranh chống các quan điểm, luận điệu
xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
119. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự
và chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
120. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người (1998), Lý luận về quyền con người,
Tập bài giảng, Hà Nội.
121. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người (1998), Về quyền con người, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
122. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người (2000), Một số bài viết về quyền con
người của các tác giả Việt Nam, Tài liệu phục vụ tọa đàm, Hà Nội.
123. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2003), Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý
luận và thực tiễn), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người (2004), Quyền con người - lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam và Ô - xtrây - lia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125. Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Lý luận về
tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà
Nội.
126. Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Đổng (2018), Thực hiện một số quy định của Hiến
pháp về quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, Tạp chí Pháp luật
về quyền con người, số 3, trang 76 - 84.
159
127. Nguyễn Thanh Tuấn (chủ biên - 2014), Quyền con người trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
128. Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Thị Hòe (2015), Nâng cao trách nhiệm bảo đảm
quyền con người của Nhà nước hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 1, trang
36 - 40.
129. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ (2009),
Những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền con người, Hà Nội.
130. Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (phối hợp thực hiện - 2015), Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Hà Nội.
131. Viện Khoa học công an (1994), Thông tin chuyên đề về nhân quyền, Trung tâm
thông tin khoa học, Hà Nội.
132. Viện Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (2014), Quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013 - Quan điểm mới, cách tiếp cận mới và các quy định mới, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
133. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2008), Bình luận và khuyến nghị chung của
các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con người, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
134. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học, Hà Nội.
135. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2014), Quyền con người lý luận và thực
tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
136. Viện Nghiên cứu Quyền con người, Pháp luật về Quyền con người, số 1, 2,
3/2018.
137. Viện Thông tin khoa học (1993), Bảo vệ quyền con người trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường, Hà Nội.
160
138. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2009), Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
139. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2011), Giáo dục quyền con người: Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
140. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
141. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
142. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2011), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
143. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2015), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
144. Nguyễn Văn Vĩnh (1995), Tư duy chính trị về quyền con người (nhìn từ góc độ
triết học), luận án Phó tiến sỹ khoa học Triết học, Hà Nội.
145. Nguyễn Văn Vĩnh (2005), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
146. Nguyễn Tường Vy (2018), Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ quyền trẻ
em, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 6.
147. Wolfgang Benedek (chủ biên - 2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư
pháp, Hà Nội (tài liệu dịch).
148. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên), Phạm Thị Ngọc Diệp (2011), Địa lý kinh tế - xã hội
Châu Âu, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_niem_cua_c_mac_ph_angghen_v_i_lenin_ve_quyen_con_nguoi.pdf
- Trichyeu_NguyenThiHongHanh.pdf