MỤC LỤC
Mở bài 1
Bài làm . 2
1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người bào chữa. 2
1.1. Khái niệm người bào chữa. 2
1.2. Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự. 3
1.3. Quyền của người bào chữa. 5
1.4. Nghĩa vụ của bào chữa. 8
2. Thực trạng áp dụng và phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. 10
2.1. Nghĩa vụ thông báo về quyền được mời luật sư cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 10
2.2. Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003. 11
2.3. Điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003. 12
2.4. Điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003. 12
2.5. Đối với người bào chữa tham gia tố tụng theo những quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 13
Kết luận. 15
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4804 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa và phướng hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở bài
Quyền bào chữa là một phương tiện pháp lý cần thiết mà pháp luật tố tụng hình sự trao cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ là một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự Được ghi nhận tại ĐIều 11 BLTTHS 2003
mà còn là một quy tắc hiến định, được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 132 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm…”)
Với quyền bào chữa các chủ thể này có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong phạm vi pháp luật cho phép để bác bỏ lời buộc tội của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Họ có thể trực tiếp thực hiện quyền bào chữa nếu như có được sự hiểu biết nhất định về pháp luật hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (khi đó cũng không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ). Tuy nhiên trong thực tế trường hợp tự bào chữa rất hiếm vì không phải ai cũng hiểu biết sâu về pháp luật, hơn nữa tố tụng hình sự là một quá trình rất phức tạp với nhiều công đoạn khác nhau do đó đòi hỏi người tham gia tố tụng phải có kinh nghiệm nhiều năm trong hoạt động này mới có thể thành thục được. Hiện nay phổ biến hơn đó là hình thức nhờ người bào chữa. Cách thức này đem lại hiệu quả cao hơn hẳn so với việc tự bào chữa bởi những người bào chữa thường là những người hoạt động chuyên nghiệp và lâu năm trong lĩnh vực bào chữa và có vốn hiểu biết nhất định về pháp luật.
Như vậy khi đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền bào chữa thì trước hết phải quan tâm đến việc bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Đây cũng chính là nội dung chính của bài tiểu luận này “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa”
Bài làm
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người bào chữa
Khái niệm người bào chữa
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng với vai trò đưa ra những tình tiết để xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có thể là những người sau:
Luật sư: là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, tham gia vào tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo yêu cầu của chính cá nhân, tổ chức đó hoặc của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải là người đã thành niên, không bị tâm thần, có quốc tịch Việt Nam, cư trú tại Việt Nam trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch, người Việt nam ở nước ngoài.
Bào chữa viên nhân dân: là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sự, đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ như nhau. Tuy nhiên vì hoạt động bào chữa của luật sư mang tính chuyên nghiệp hơn nên thường đạt hiệu quả cao hơn, do đó cũng phổ biến hơn hai đối tượng kia.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003 còn quy định những người sau không được tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Mặt khác, luật tố tụng hình sự còn cho phép một người có thể bào chữa cho nhiều người trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau và ngược lại nhiều người cũng có thể bào chữa cho một người.
Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Sự tham gia của người bào chữa phụ thuộc vào ý chí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối với bị can, bị cáo từ đủ mười tám tuổi trở lên, không có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa, nếu người khác lựa chọn cho họ thì phải có sự đồng ý của họ. Đối với bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ và người đại diện hợp pháp đều có quyền lựa chọn người bào chữa.
Tuy nhiên trong một số trường hợp luật tố tụng hình sự quy định nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì sự tham gia của người bào chữa vào vụ án là do chỉ định. Đó là những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003: thứ nhất, bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS 1999; thứ hai, bị can, bị cáo là người chưa thành niên (trừ trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ mười tám tuổi), người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Khi đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Nhưng khi đó bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được chỉ định trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa. Đặc biệt nếu trước khi mở phiên tòa họ yêu cầu từ chối người bào chữa thì vẫn tiến hành triệu tập người bào chữa; nếu tại phiên tòa họ vẫn tiếp tục từ chối thì Hội đồng xét xử cần phải giải thích cho họ biết vai trò của người bào chữa và chi phí cho người bào chữa do Tòa án thanh toán. Nếu sau khi giải thích mà cả bị cáo (là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) và người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ chối người bào chữa thì phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử vụ án mà không có mặt người bào chữa. Còn nếu chỉ có bị cáo hoặc chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ chối thì vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của người bào chữa đã được cử Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
.
Quy định về vấn đề chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo là rất cần thiết và thể hiện tính nhân đạo của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những trường hợp trên hoặc do tính chất nghiêm trọng của vụ án hoặc do bị can, bị cáo không đủ khả năng nhận thức đúng đắn về quyền và lợi ích mà mình được hưởng cũng như khả năng tự bảo vệ mình, nên rất cần có sự tham gia của người bào chữa. Quy định này còn thể hiện sự đánh giá cao của pháp luật đối với vai trò của người bào chữa khi cố gắng hạn chế tối đa những trường hợp không có sự tham gia của người bào chữa. Vai trò của người bào chữa không chỉ là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần đảm bảo tính công minh, đúng đắn của pháp luật.
Nói đến sự tham gia của người bào chữa không thể không nói đến thời điểm tham gia tố tụng của họ. Luật tố tụng hình sự đang phát triển theo hướng mở rộng quyền bào chữa bằng cách quy định thời điểm tham gia của người bào chữa ngày càng sớm. Từ chỗ BLTTHS 1988 quy định thời điểm sớm nhất người bào chữa có thể tham gia tố tụng là từ khi có quyết định khởi tố bị can, cho đến BLTTHS 2003 quy định thời điểm sớm nhất có thể là từ khi có quyết định tạm giữ (trong trường hợp bắt người khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã). Tham gia càng sớm thì người bào chữa càng có nhiều quyền lợi hơn đồng nghĩa với việc họ càng có nhiều cơ hội để trợ giúp bị cáo hơn.
Quyền của người bào chữa
Điều 19 BLTTHS 2003 ghi nhận quyền đầu tiên và cũng là cơ bản nhất của người bào chữa đó là tại phiên tòa, người bào chữa có quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật của vụ án.
Theo khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003, người bào chữa còn có các quyền sau:
● Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Việc được tham gia vào các hoạt động điều tra, đặc biệt việc được hỏi người bị tạm giữ, bị can sẽ giúp người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và chủ động nắm bắt các tình tiết, chứng cứ, từ đó chuẩn bị lời bào chữa và phần tranh tụng của họ tại phiên tòa.
Sự có mặt của người bào chữa trong quá trình điều tra có thể coi như một sự giám sát. Các hoạt động điều tra sẽ được tiến hành cẩn thận, tuân thủ pháp luật hơn và tránh được các trường hợp như Điều tra viên bức cung, dùng nhục hình hoặc dùng các thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả điều tra. Tương tự việc người bào chữa được xem các biên bản về hoạt động tố tụng và các quyết định tố tụng liên quan đến mình hoặc người được bào chữa cũng là một hình thức pháp luật trao quyền kiểm tra cho người bào chữa. Nếu phát hiện bất kỳ vi phạm pháp luật nào người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra khi có mặt người bào chữa thì tâm lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định hơn. Tâm lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động điều tra, đặc biệt là khi lấy lời khai hay hỏi cung. Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoảng sợ, mất bình tĩnh thì sẽ gây khó khăn cho việc lấy lời khai, hỏi cung.
● Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia vào hoạt động hỏi cung. Cơ quan điều tra khi được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ thông tin về thời gian và địa điểm cho người bào chữa
● Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS 2003;
Nếu nhận thấy sự tham gia hoặc tiến hành tố tụng của một trong số những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể gây ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi một trong số những người đó nếu có đầy đủ căn cứ chứng minh theo luật định.
● Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
Quy định này cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa chủ động nắm bắt được các tình tiết của vụ án, từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
● Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Người bào chữa có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật mà mình thu thập được có liên quan tới vụ án, giúp chứng minh cho những lập luận của mình. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu theo hướng có lợi cho người được bào chữa như yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng những yêu cầu đó của người bào chữa.
● Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
Nhu cầu tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của người bào chữa là hết sức thiết thực và đương nhiên. Việc được gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với những người đó sẽ giúp người bào chữa trước tiên là hiểu rõ được tâm tư, nguyện vọng của chính người mà mình bào chữa, ngoài ra còn giúp nắm bắt các tình tiết của vụ án hoặc các đặc điểm nhân thân của người được bào chữa. Mặt khác, khi tiếp xúc, người bào chữa có thể tác động đến tâm lý, suy nghĩ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo giúp họ có cái nhìn đúng đắn về pháp luật, từ đó có thái độ hợp tác điều tra.
● Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa có thể nắm bắt rõ hơn nội dung của vụ án đồng thời có thể kiểm tra lại quá trình điều tra, từ đó phát hiện những thiếu sót, vi phạm và kịp thời yêu cầu, khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền.
● Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
Hoạt động hỏi, tranh tụng tại phiên tòa của người bào chữa là không thể thiếu bởi việc luật tố tụng hình sự chấp nhận sự có mặt của người bào chữa trong tố tụng cũng chính là đang chấp nhận tính tranh tụng của phiên tòa. Tranh tụng là hoạt động thể hiện rõ nhất vai trò của người bào chữa và cũng là hoạt động chủ yếu để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình, đó là bác bỏ lời buộc tội đối với bị cáo hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tại phiên tòa, người bào chữa có thể hỏi bị cáo và những người khác có liên quan những câu hỏi theo hướng có lợi cho bị cáo. Song song với việc đó người bào chữa cũng phải đưa ra những lý lẽ, chứng cứ và phân tích để bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình cũng như bảo vệ lợi ích của bị can.
● Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Khi nhận thấy có những vi phạm, sai sót của cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng, đặc biệt những sai sót đó ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa thì người bào chữa có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi của cơ quan hoặc cá nhân đó với cơ quan có thẩm quyền.
● Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003.
Sự hợp lý của luật tố tụng hình sự ở đây là việc quy định đây là một quyền độc lập của người bào chữa mà không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo. Bởi bị cáo trong trường hợp này là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Do đó bản thân họ, thậm chí là người đại diện hợp pháp của họ cũng không có đủ khả năng để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Kháng cáo của người bào chữa phải có lợi cho bị cáo.
Nghĩa vụ của bào chữa
Nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTHS 2003, bao gồm:
● Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Đây là một nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa bởi nhiệm vụ của người bào chữa trong tố tụng chính là làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Mặt khác khi thu thập được bất cứ tài liệu, đồ vật nào liên quan đến vụ án người bào chữa phải giao lại cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án, không được che giấu với mục đích không chính đáng như nhằm che giấu tội cho người mà mình bào chữa.
● Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Bên cạnh nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, người bào chữa còn có công việc khác là trợ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
● Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
Đây là một quy định quan trọng xuất phát từ vai trò của người bào chữa trong tố tụng. Khi đã đồng ý đảm nhận bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa không được từ chối bào chữa cho người đó nếu không có lý do chính đáng. Việc đó không chỉ vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự mà còn vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp nếu là luật sư, đồng thời còn gây khó khăn cho quá trình tố tụng, ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
● Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Tôn trọng sự thật và pháp luât không chỉ là nghĩa vụ của riêng người bào chữa mà đó là nghĩa vụ chung của bất kỳ ai tham gia vào tố tụng hình sự nói riêng và của mọi công dân nói chung. Người bào chữa không được có bất kỳ hành vi nào làm sai lệch sự thật hay vi phạm các quy định của pháp luật như mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật…
● Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án;
● Không đựợc tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Đây là nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia vào những vụ án như xâm phạm an ninh quốc gia hoặc những vụ án đặc biệt nghiêm trọng.
Thực trạng áp dụng và phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
Trong thực tiễn hoạt động tố tụng những năm qua, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ngày càng được tôn trọng và bảo đảm hơn. Đồng thời cùng với sự mở rộng các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, hiệu quả bào chữa cũng ngày càng được cải thiện, đặc biệt là đội ngũ luật sư. Tuy nhiên không phải mọi quy định của pháp luật tố tụng hình sự đều đã hoàn chỉnh, vẫn còn tồn tại những hạn chế cần sửa đổi. Dưới đây là một vài hạn chế và kiến nghị về phương hướng sửa đối, hoàn thiện tương ứng
Nghĩa vụ thông báo về quyền được mời luật sư cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Trước tiên tại các Điều 48, 49, 50 BLTTHS 2003 mới chỉ quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ mình có. Quy định như vậy là chung chung và chưa chặt chẽ. Cần quy định cụ thể rằng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được giải thích về quyền có luật sư ngay khi bị bắt và quy định công việc giải thích đó là nghĩa vụ của Điều tra viên, không chỉ giải thích mà phải đảm bảo để họ thực hiện được quyền đó. Bởi hiện nay trình độ hiểu biết pháp luật của phần lớn những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn thấp do đó mặc dù có quyền nhưng họ lại không biết tới hoặc không biết thực hiện như thế nào. Do đó khi một bên có quyền thì đương nhiên bên kia phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền đó. Khi đã là nghĩa vụ do luật định thì đấy là điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ, phải thực hiện, không có lựa chọn nào khác, nếu vi phạm thì phải chịu một chế tài nhất định chứ không đơn giản là “cần rút kinh nghiệm” là xong.
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Tuy nhiên trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, ngoài luật sư thì sự tham gia của những người còn lại rất hạn chế, hãn hữu mới có người được Tòa án chấp nhận, nếu có tham gia thì hiệu quả bào chữa của phần đông là không cao. Bởi họ hầu hết có kiến thức hạn hẹp về pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu những kỹ năng hành nghề bào chữa cũng như không có kinh nghiệm tranh tụng một vụ án hình sự. Ví dụ như người đại diện hợp pháp khi bào chữa thì với hiểu biết pháp luật hạn chế chỉ cùng lắm đưa ra những tình tiết nhân thân nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà thôi. Nên chăng chế định về người đại diện hợp pháp cũng như bào chữa viên nhân dân nên được bỏ đi.
Tuy nhiên cũng không khả quan nếu bỏ đi vì chế định này một phần cũng nhằm giải quyết tạm thời vấn đề khan hiếm luật sư của nước ta hiện nay. Nếu so với các nước trên thế giới, tỷ lệ luật sư của Việt Nam vẫn còn quá ít, tính trung bình mới đạt 1/16.000 dân. Trong khi ở Mỹ, tỷ lệ này là 1/250, Nhật Bản là 1/400, Singapore là 1/1.000, Thái Lan là 1/1.526... Nguồn:
. Nhưng nếu tiếp tục giữ lại thì nên có những quy định hướng dẫn cụ thể thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, phạm vi tham gia tố tụng của những người đó, giống hay khác với luật sư. Có như vậy các quyền và nghĩa vụ của những người không phải là luật sư nhưng tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa mới được thực hiện.
Điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003
Một số quyền của người bào chữa còn mang tính hình thức, đặc biệt khi quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác. Vậy nếu điều tra viên không đồng ý thì sự có mặt của người bào chữa trong khi hỏi cung hay lấy lời khai có tác dụng gì và người bào chữa cũng không thể tham gia vào các hoạt động điều tra khác sao? Thực tiễn tố tụng đã trả lời cho hai câu hỏi đó. Có không ít trường hợp Điều tra viên hạn chế sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động điều tra, kể cả hỏi cung và lấy lời khai, gián tiếp cản trở người bào chữa thực hiện các quyền của mình. Đây không phải là trường hợp ít gặp bởi mặc dù pháp luật đã quy định về quyền bào chữa cũng như bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng không ít cá nhân hoặc cơ quan tiến hành tố tụng không tôn trọng và tạo điều kiện để bảo đảm cho họ có quyền đó. Để khắc phục tình trạng này luật cần quy định khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung mà Điều tra viên hỏi; có quyền giải thích cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời những vấn đề Điều tra viên hỏi; có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của Điều tra viên. Đồng thời quy định thêm về vấn đề lời khai của bị can, người bị tạm giữ trong khi lấy lời khai hay hỏi cung mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sở dĩ nên quy định như vậy vì như đã phân tích ở trên sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động điều tra là vừa để giúp đỡ bị can, người bị tạm giữ, vừa thuận tiện cho việc bào chữa của họ và quan trọng hơn là để giám sát quá trình điều tra, tránh các trường hợp Điều tra viên bức cung hoặc mớm cung.
Điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003
Điểm e khoản 2 Điều 58 cần quy định thêm về việc luật sư có quyền gặp và làm việc riêng với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi cần thiết, có thể trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng đồng thời không bị hạn chế về số lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp. Quy định như vậy để tránh việc gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng, chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.
Đối với người bào chữa tham gia tố tụng theo những quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003
Đối với trường hợp người bào chữa do chỉ định luật không quy định cụ thể mức độ tham gia của họ vào quá trình tố tụng. Đối với trường hợp thông thường thì đây là một trong những nội dung thỏa thuận giữa người bào chữa và người được bào chữa, theo đó khối lượng công việc mà người bào chữa đảm nhận tỷ lệ thuận với thù lao mà họ được nhận. Trong trường hợp này thù lao do nhà nước trả theo mức cố định do vậy dễ dẫn đến sự thiếu nhiệt tình của người bào chữa khi tham gia vào các hoạt động điều tra và đương nhiên sẽ không làm tròn nghĩa vụ của một người bào chữa. Do đó luật nên quy định tối thiểu mức độ tham gia của người bào chữa chỉ định, đặc biệt trong một số hoạt động điều tra rất cần sự có mặt của người bào chữa như hỏi cung, lấy lời khai. Tuy nhiên để quy định được điều này thì trước tiên phải giải quyết được hai vấn đề, thứ nhất là mức thù lao trả cho người bào chữa phải tương xứng với công sức họ bỏ ra và thứ hai là trách nhiệm nghề nghiệp của người bào chữa.
Lại nói về bào chữa chỉ định, chất lượng bào chữa của hình thức này hiện đang rất có nhiều vấn đề đáng nói. Mặc dù Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa nhưng thông thường các luật sư giỏi và có kinh nghiệm đều từ chối, do đó thường được giao cho các luật sư trẻ, thậm chí là thực tập viên tham gia bào chữa dẫn đến chất lượng bào chữa không cao, chưa nói là yếu kém. Như vậy vô hình chung việc pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa trong những trường hợp đó chỉ là hình thức. Những người bị hạn chế khả năng nhận thức và tự bảo vệ bản thân hoặc những vụ án nghiêm trọng lại được bào chữa bởi những những người không chuyên? Sở dĩ có tình trạng trên chính là do hai nguyên nhân đã nêu: vấn đề thù lao và đạo đức nghề nghiệp.
Bên cạnh các hạn chế chủ yếu trên còn rất nhiều hạn chế khác như:
Cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn lý do vụ án thuộc trường hợp phải giữ bí mật điều tra vì liên quan đến tội xâm phạm an ninh quốc gia nên chỉ cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra;
Trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa người bào chữa không có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ, đồ vật hoặc yêu cầu mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã quy định đó là một quyền cơ bản của người bào chữa;
Cũng có những người bào chữa không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình. Có người do chỉ là bào chữa chỉ định nên không tìm mọi cách để làm sáng tỏ vụ án, bảo vệ cho người mà mình đã được chỉ định bào chữa. Ngược lại lại có người bào chữa làm đủ mọi cách kể cả vi phạm pháp luật, cố tình làm sai lệch kết quả điều tra để tạo những điều kiện có lợi nhất cho người mà mình bào chữa;
…
Vậy đâu là phương hướng chung cho việc sửa đổi, hoàn thiện những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
Trước tiên, cần xây dựng, đào tạo đội ngũ luật sư không chỉ phát triển về quy mô mà còn phải giỏi về nghiệp vụ và quan trọng hơn hết có đạo đức nghề nghiệp;
Nâng cao trách nhiệm của các cá nhân và cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng cách đề ra các chế tài bắt buộc khi có sự vi phạm nguyên tắc này.
Mở rộng hơn nữa các quyền và tương ứng là các nghĩa vụ của người bào chữa theo hướng các quyền thì chủ động hơn, linh hoạt hơn nhưng đồng thời các nghĩa vụ cũng phải chặt chẽ hơn và cũng phải có các chế tài nghiêm khắc khi vi phạm các nghĩa vụ đó.
Cuối cùng là nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết pháp luật của người dân để tự họ có thể chủ động nắm bắt quyền bào chữa của bản thân mình.
Kết luận
Không thể phủ nhận những tiến bộ của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 nhưng như vậy vẫn là chưa đủ so với sự phát triển nhanh chóng của xã hội nói chung và sự phức tạp của thực tiễn tố tụng hình sự nói riêng. Điều quan trọng là phải nhìn ra những thiếu sót từ đó kịp thời sửa chữa, không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật để không chỉ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được bảo đảm mà nói rộng hơn là các quyền và nghĩa vụ của công dân, trong đó có quyền bào chữa.
Trên đây chỉ là một số ý kiến của cá nhân em, do hiểu biết cũng như trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót. Kính mong thầy cô chỉ bảo. Em xin trân trọng cảm ơn!
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS 2003
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 1988
Bộ luật tố tụng hìn sự năm 1988
BLHS 1999
Bộ luật hình sự năm 1999
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb Công an nhân dân năm 2006;
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam Khoa Luật Đại học Quốc gia – Nxb Đại học quốc gia năm 2001;
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội – Phạm Hồng Hải – Nxb Công an nhân dân năm 1999;
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988;
Bộ luật hình sự năm 1999;
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa và phướng hướng hoàn thiện.docx