So sánh ngân hàng nhà nước Việt Nam và Cục dữ trữ liên bang Hoa Kỳ FED

Mục Lục 1. SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ FED 3 1.1.Thành lập 3 1.2.Vị trí 3 1.3.Bộ máy tổ chức 3 1.4. Lãnh đạo 4 1.5. Tính độc lập 5 1.6.Các ngân hàng thành viên 5 1.7. Đồng tiền phát hành 6 1.8. Ngân sách hoạt động 6 1.9. Nhiệm vụ 6 2. TẠI SAO KHÔNG GỌI LÀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG MÀ GỌI LÀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ ? 9 3.TẠI SAO NÓI “ MỘT CÁI HẮT HƠI SỔ MŨI CỦA CHỦ TỊCH FED CŨNG LÀM CHAO ĐẢO CẢ THẾ GIỚI” ? 11 1. SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ FED Trên thế giới hiện nay có hai mô hình tổ chức ngân hàng TW: một là mô hình ngân hàng trực thuộc chính phủ như: NHTW Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam, , hai là mô hình ngân hàng TW không trực thuộc chính phủ như: FED, vậy giữa NHTWVN và FED khác nhau chỗ nào đó là vấn đề chúng ta sẽ nghiên cứu ngay sau đây: Các tiêu chí so sánh: 1.1.Thành lập + NHNNVN: sắc lệnh 15/SL của Chủ tịch Hồ chí minh ký ngày 6/5/1951. + FED: năm 1913 theo Federal Reserve Act ( Đạo luật dự trữ liên bang) được Quốc Hội mỹ thông qua 1.2.Vị trí + Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội + Cục dự trữ liên bang Mỹ(federal reserve system hay FED) là tổ chức độc lập với chính phủ và Quốc hội Mỹ. Trụ sỡ chính của FED hiện nay ở Washington, D.C 1.3.Bộ máy tổ chức + Ngân hàng nhà nước VN: thống đốc các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc Gia,

docx10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4914 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh ngân hàng nhà nước Việt Nam và Cục dữ trữ liên bang Hoa Kỳ FED, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục 1. SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ FED Trên thế giới hiện nay có hai mô hình tổ chức ngân hàng TW: một là mô hình ngân hàng trực thuộc chính phủ như: NHTW Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam,… , hai là mô hình ngân hàng TW không trực thuộc chính phủ như: FED,… vậy giữa NHTWVN và FED khác nhau chỗ nào đó là vấn đề chúng ta sẽ nghiên cứu ngay sau đây: Các tiêu chí so sánh: 1.1.Thành lập + NHNNVN: sắc lệnh 15/SL của Chủ tịch Hồ chí minh ký ngày 6/5/1951. + FED: năm 1913 theo Federal Reserve Act ( Đạo luật dự trữ liên bang) được Quốc Hội mỹ thông qua 1.2.Vị trí + Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội + Cục dự trữ liên bang Mỹ(federal reserve system hay FED) là tổ chức độc lập với chính phủ và Quốc hội Mỹ. Trụ sỡ chính của FED hiện nay ở Washington, D.C 1.3.Bộ máy tổ chức + Ngân hàng nhà nước VN: thống đốc các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc Gia,.. + FED: Hội đồng thống đốc, ủy ban thị trường, các ngân hàng của FED và các ngân hàng địa phương 1.4. Lãnh đạo + NHNNVN: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Thống đốc ngân hàng nhà nước do thủ tướng chính phủ đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm. Thống đốc của ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay là tiến sỹ Nguyễn Văn Giàu. Từ khi thành lập đến nay thì Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã trải qua 13 đời thống đốc: Nguyễn Lương Bằng (1951 – 1952), Lê Viết Lượng (1952 – 1963), Tạ Hoàng Cơ (1963 – 1974), Đặng Việt Châu (1974 – 1976), Hoàng Anh (1976 – 1977), Trần Dương (1977 – 1981), Nguyễn Duy Gia (1981 – 1986), Lữ Minh Châu (1986 – 1989), Cao Sỹ Liêm (1989 – 1997), Đỗ Quế Lượng (1997 – 1998), Nguyễn Tấn Dũng (1998 – 1999), Lê Đức Thúy(1999 – 2007), Nguyễn Văn Giàu (2007 – nay). + FED: Điều hành FED là Ủy ban Thống đốc gồm bảy thành viên do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm và Thượng viện Mỹ phê chuẩn, nhiệm kỳ kéo dài đến 14 năm để khỏi chịu tác động chính trị. Riêng chủ tịch và phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn năm. Chủ tịch FED do Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED. Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này phải được Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện nay là Giáo Sư Ben Bernanke. Từ khi thành lập đến nay FED đã có 14 đời chủ tịch: Charles S. Hamlin (1914 - 1916), William P. G. Harding (1916 – 1922), Daniel R. Crissinger (1923 – 1927), Roy A. Young ( 1927 – 1930), Eugene Meyer ( 1930 – 1933), Eugene R. Black ( 1933 – 1934), Marriner S. Eccles ( 1934 – 1948), Thomas B. McCabe ( 1948 - 1951), William McChesney Martin, Jr ( 1951 – 1970), Arthur F. Burns ( 1970 – 1978), G. William Miller ( 1978 – 1979), Paul A. Volcker ( 1979 – 1987), Alan Greenspan ( 1987 – 2006), Ben BernanKe ( 2006 – nay). 1.5. Tính độc lập ( Bao gồm độc lập về việc lựa chọn công cụ và độc lập về lựa chọn mục tiêu khi thực hiện chính sách tiền tệ) +NHNNVN: thấp do trực thuộc và phải nhận chỉ thị từ chính phủ( các chính sách cũng phải có chính phủ quyết định), ngân sách hoạt động cũng do chính phủ xét duyệt + FED: Cao do độc lập với chính phủ ( để thay đổi quy chế của FED Quốc hội thậm chí còn phải sửa đổi cả hiến pháp), các lãnh đạo có nhiệm kỳ và không được tái cử, ngân sách hoạt động độc lập 1.6.Các ngân hàng thành viên + NHNNVN: Ngân hàng nhà nước VN và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố. + FED: FED gồm 12 ngân hàng địa phương và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên chính thức mà nói, đây là hệ thống ngân hàng trung ương chứ không phải là một ngân hàng trung ương riêng lẻ. 12 ngân hàng của FED gồm: Boston, New York, philadelphia, Cleveland, Richmon, Atlanta, Chicago, St. Luois, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco, 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ. 1.7. Đồng tiền phát hành + NHNNVN: Việt Nam đồng “đ”. Do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành + FED: Federal Reserve Note (USD). Do các ngân hàng dự trữ khu vực phát hành Mỗi ngân hàng khu vực của FED được ký hiệu bằng chữ cái. Những cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành. Boston (A), New York (B), philadelphia (C), Cleveland (D), Richmon (E), Atlanta (F), Chicago (G) , St. Luois (H) , Minneapolis (I) , Kansas City (J), Dallas (K), San Francisco (L) 1.8. Ngân sách hoạt động + NHNNVN: Được sử dụng các khoản thu để trang trải chi phí hoạt động của mình, chênh lệch thu chi sau khi trích quỹ được nộp vào ngân sách nhà nước +FED: độc lập về tài chính, doanh thu đến từ tiền lãi của các tài sản nắm giữ. 1.9. Nhiệm vụ + NHNNVN: Phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ Việt Nam . Phát hành tiền tệ: Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế. Quản lý tham mưu chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ việt Nam: Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô + FED: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , giám sát và quản lý các tổ chức tín dụng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế , cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia. Kiểm soát cung ứng tiền tệ: Cục dự trữ liên bang kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng các hoạt động thị trường mà qua đó Fed mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với Fed gọi là người giao dịch ưu tiên (primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của Fed ở Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần với tỷ lệ mục tiêu. Gồm + Thõa thuận mua lại: Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của Fed. Trong ngày giao dịch, Fed sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại Fed hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày. + Giao dịch mua đứt: Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt. Trong giao dịch này, Cục dự trữ liên bang mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại Fed. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng. Từ những năm 1980, Cục dự trữ liên bang cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại Fed, do đó mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế.Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). Fed tiến hành giao dịch này hàng ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), Fed sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, Fed sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi. Thực hiện chính sách tiền tệ + Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn. + Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên. + Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay. Tỷ lệ chiết khấu Cục dự trữ liên bang thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường. Cục dự trữ liên bang còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả khi vay tiền từ Fed. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại Fed từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của Fed. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ Fed mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay. Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so với "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất. Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn. Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn tại Fed” mỗi lần ở mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần, từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi suất do Fed điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED" tụt xuống mức 1%, con số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 – 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 06/2004, Cục dự trữ liên bang bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25% ngày 08/08/2006. Có thể, Fed cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị trường nhằm thay đổi tỷ lệ cho vay dài hạn, tuy nhiên năng lực của nó yếu hơn rất nhiều các định chế tài chính tư nhân. 2. TẠI SAO KHÔNG GỌI LÀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG MÀ GỌI LÀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ ? Tên gọi của FED liên tục được thay đổi qua các thời kỳ, trong đó có những giai đoạn xuất hiện cùng lúc ba loại hình: Free Bank Era, Independent Treasury System, National Banks… Mãi đến năm 1913, mới chính thức có tên gọi là “Hệ thống dự trữ liên bang” (FED). Tại sao vậy, câu chuyện bí mật đảo JekyII là một phần của lịch sử FED. Để cải tổ và vực dậy nền tài chính Hoa Kỳ sau cuộc đại khủng hoảng tài chính xảy ra tại Mỹ năm 1907, năm 1908, Tổng thống Theodore Roosevelt (1901-1909) là vị Tổng thống thứ 26 của Mỹ quyết định thành lập Ủy ban tiền tệ quốc gia (National Monetary Commission) để chỉnh đốn và cải cách hệ thống tài chính Mỹ. Chủ tịch Ủy ban tiền tệ quốc gia lúc bấy giờ là Nghị sỹ Nelson Aldrich (phía bên ngoại của David Rockefeller). David Rockefeller là ông vua dầu lửa, Chủ tịch tập đoàn dầu lửa Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ cho đến khi ông qua đời năm 1937. Trước khi bắt tay vào cải cách, ông Aldrich và các thành viên trong Ủy ban đã tiến hành chuyến “công du” châu Âu trong vòng 2 năm nhằm khảo sát và nghiên cứu toàn diện hệ thống tài chính châu Âu. Khi trở về nước, ông cùng các thành viên và các nhà tài phiệt ngân hàng hàng đầu nước Mỹ lúc bấy giờ bắt tay vào thực hiện công cuộc cải tổ hệ thống tài chính và ngân hàng Mỹ, đặc biệt là Ngân hàng Trung ương. Dấu mốc được đặt vào ngày 22/11/1910, tức ngày mà Nelson Aldrich cùng các nhà tài phiệt ngân hàng quan trọng nhất nước Mỹ lúc bấy giờ tiến ra hòn đảo JekyII thuộc bang Georgia. Là một hòn đảo nghỉ đông thuộc sở hữu của những nhân vật giàu có siêu hạng ở Mỹ, trong đó có J.P.Morgan. Morgan cũng là người thành lập ra câu lạc bộ đi săn trên đảo JekyII. Tại đây, Nelson Aldrich đã thành lập “The First Name Club”, với tên gọi của câu lạc bộ như vậy, buộc tất cả những người phục vụ trên đảo JekyII chỉ được xưng tên, tuyệt đối không được xưng họ đối với những vị khách quan trọng (đến từ đất liền). Tức người ta tránh không nhắc tới “Last Name” nhằm không cho ai biết, kể cả người hầu, nghĩa là dù bất cứ ai trên đảo có nghe trộm các cuộc đàm thoại của những nhân vật chóp bu về tài chính này thì cũng không biết tên họ là ai, để nói lại cho người ngoài hay báo chí biết về họ. Chính vì vậy, cho đến ngày nay, ít có tài liệu nhắc đến hoặc viết một cách đầy đủ về The First Name Club. Đó là điều bí mật gắn liền với hòn đảo JekyII Island, ngoài khơi bang Georgia, được coi là cái nôi sinh ra FED. Nhóm người do Nelson Aldrich dẫn đầu gồm một số nhân vật được chọn lọc rất cẩn trọng trong giới tài chính và ngân hàng Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Trong số đó, người đóng vai trò quan trọng nhất là ông Paul Warburg (1868-1932) người Mỹ gốc Đức, di cư sang Mỹ năm 1904, nhập quốc tịch Mỹ năm 1911. Paul đến Mỹ và hùn một khoản vốn khổng lồ vào Công ty Kuhn Loeband Company tại New York. Paul cũng là đại diện của dòng họ Rothschild nổi tiếng ở Đức, Anh, Pháp, Italia đảm nhận chức Tổng công trình sư của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), kiêm chủ tịch đầu tiên của FED. Paul Warburg có 4 anh em đều là những nhân vật nổi tiếng trong giới tài phiệt ngân hàng thời bấy giờ, gồm: Max Warburg - anh trai cả là Cục trưởng Cục tình báo Đức, Paul Warburg là người em thứ hai giữ chức Chủ tịch FED nhiệm kỳ đầu tiên và là người giữ chức vụ cao nhất về tài chính Hoa Kỳ thời bấy giờ, Felix Warburg - em trai thứ ba là cổ đông cao cấp của Công ty Kuhn Loeb, Fritz là em trai thứ tư giữ chức Chủ tịch Sở giao dịch Vàng Humburg – Đức, là người từng đại diện cho Chính phủ Đức bí mật giảng hòa với Nga. Cả bốn anh em nhà họ Warburg đều là những nhân vật chóp bu mang trong mình dòng máu do thái – Người Đức. Xin nhắc lại rằng, mặc dù Gia tộc Rothschild không có mặt trên đảo JekyII, nhưng toàn bộ định hướng hình thành FED đều do Gia tộc Rothschild (bài viết sẽ đề cập cụ thể ở phần tiếp theo) điều khiển đằng sau hậu trường thông qua Paul Warburg nhân vật chính thiết kế ra FED. Cùng với Paul là các nhân vật tài phiệt như: Nelson Aldrich – thượng nghị sỹ, Chủ tịch Ủy ban tiền tệ quốc gia; A.Piatt Andrew – Trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ; Frank Vanderlip – Chủ tịch National Bank City; Henry P. Davision – cổ đông cao cấp của Công ty J.P.Morgan; Charles D.Norton – Chủ tịch First National Bank; Benjamin Strong – trợ lý của J.P.Morgan. Nhóm làm việc do Nelson Aldrich chủ trì đã họp trong vòng 9 ngày liên tục, để viết nên một dự luật cải tổ hệ thống ngân hàng và luật pháp tiền tệ trình lên Quốc hội. Dự luật mới có những đặc điểm khác với dự luật trước đó, ở chỗ: như đã đề cập ở trên, tên gọi của Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ thay đổi liên tục, cho đến năm 1863-1913, mới chính thức gọi là Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ (được hiểu là Ngân hàng Trung ương). Sau khủng hoảng tài chính 1907, những yếu kém của Ngân hàng Quốc gia bộc lộ, niềm tin dân chúng vào sự điều hành của Ngân hàng Quốc gia suy giảm mạnh, bởi Ngân hàng Quốc gia là ngân hàng tư nhân, do các nhà tài phiệt ngân hàng tư nhân Hoa Kỳ và quốc tế lập nên. Chính vì vậy, để phục hồi sức mạnh của Ngân hàng Quốc gia do tư nhân nắm giữ, điều đặc biệt đầu tiên của dự thảo mới là đổi tên Ngân hàng Trung ương thành Cục Dự trữ liên bang (Federal Reserve System – FED) mặc dù bản chất bên trong không thay đổi. Việc đổi tên từ “Ngân hàng” sang “Dự trữ” nhằm đánh lạc hướng dư luận công chúng, làm cho công chúng tin rằng cơ quan điều hành này là cơ quan của Chính phủ, do nhân viên Chính phủ điều hành, chứ không phải là “tư nhân điều hành” (các nhà tài phiệt). Hơn nữa, tên gọi Ngân hàng Trung ương thường liên quan đến hàng loạt âm mưu đen tối của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh quốc, vì thế Paul kiến nghị nên sử dụng tên gọi “Cục Dự trữ liên bang” (FED) thay cho NHTW để che đậy tai mắt thiên hạ. 3.TẠI SAO NÓI “ MỘT CÁI HẮT HƠI SỔ MŨI CỦA CHỦ TỊCH FED CŨNG LÀM CHAO ĐẢO CẢ THẾ GIỚI” ? Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới, mỗi quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Người ta hay nói vui rằng "một cái hắt hơi sổ mũi của chủ tịch FED" cũng đủ làm chao đảo nền kinh tế thế giới, xét về mặt nào đó cũng không phải là không có lý. Vậy FED đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu như thế nào? + Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực tiếp đến sức mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các đối tác thương mại của Mỹ. Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm kiềm chế lạm phát, vô hình chung làm tăng sức mạnh của đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm xuất khẩu, giảm đầu tư vào Mỹ. + Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng USD thông qua hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ, nếu Mỹ bán đồng Yen ra đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD sẽ tăng, trong khi giá trị Yen giảm xuống, dẫn đến tỉ giá USD/Yen tăng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxSo sánh ngân hàng nhà nước Việt Nam và Cục dữ trữ liên bang Hoa Kỳ FED.docx
Luận văn liên quan