Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy: trong những thời gian áp dụng lý luận 
máy móc, thiếu sáng tạo, đã phạmsai lầm giáo điều, tả khuynh. Trong thời gian 
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin, tiến lên dưới ngọn cờ tư 
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng có đường lối độc lập tự chủ, và đưa cách mạng giành 
thắng lợi. Thực tiễn đó cũng cho thấy, những người làm công tác nghiên cứu Lịch 
sử Đảng không bao giờ được lãng quên vấn đề thuộc phương pháp luận là so sánh 
các nguồn sử liệu; phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, quán triệt quan điểm 
toàn diện và lịch sử cụ thể, tranh luận học thuật công khai và vô tư, để khoa học 
lịch sử hoàn thành cả hai chức năng: nhận thức khoa học và giáo dục tư tưởng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2582 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh nguồn sử liệu trong nghiên cứu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
So sánh nguồn sử liệu trong nghiên cứu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 
Trong nhiều công trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng có hiện tượng trình bày khác 
nhau về một số sự kiện và quá trình Lịch sử Đảng, mà nguyên nhân chủ yếu là 
thiếu sự thẩm định, so sánh nguồn sử liệu. 
1. Nguồn sử liệu Lịch sử Đảng rất phong phú, thể hiện qua nhiều loại tài liệu 
khác nhau 
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là một chuyên ngành của khoa học 
lịch sử, có đối tượng nghiên cứu không chỉ là tổ chức và hoạt động của Đảng (kể 
cả hoạt động lý luận, thực tiễn), mà cả những phong trào quần chúng dưới sự lãnh 
đạo của Đảng. Hoạt động của Đảng rất phong phú, diễn ra trong nhiều hoàn cảnh 
khác nhau, khi bí mật, lúc công khai; khi chưa có chính quyền, khi có chính 
quyền; khi tiến hành khởi nghĩa, khi tiến hành chiến tranh; khi tiến hành một chiến 
lược cách mạng, khi đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng…, trong tình 
hình quốc tế cũng có nhiều biến đổi. Nguồn sử liệu lịch sử Đảng rất phong phú, có 
thể khai thác qua nhiều loại tài liệu khác nhau: 
- Các Văn kiện Đảng (phần lớn đã được công bố trong một bộ sách 54 tập), trong 
đó nhiều văn kiên trực tiếp phản ánh hoạt động của Đảng, nhưng cũng có những 
văn kiện phản ánh nhận thức của Đảng về những sự kiện đã xảy ra. 
- Các tác phẩm của Hồ Chí Minh (phần lớn đã công bố trong bộ sách 12 tập). 
- Những bài nói, bài viết của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội… 
- Các sách nghiên cứu về Lịch sử Đảng, lịch sử Việt Nam, lịch sử địa phương, lịch 
sử đảng bộ địa phương, hoặc nghiên cứu về những lĩnh vực khác nhau của đất 
nước hoặc mỗi địa phương (chính trị, kinh tế quân sự, văn hoá…) có liên quan đến 
lịch sử Đảng. 
- Tài liệu được khai thác qua các nhân chứng lịch sử, những người tham gia hoặc 
chứng kiến diễn biến lịch sử. Nguồn tài liệu này có thể đã thành văn hoặc chưa 
thành văn. Một số tài liệu được ghi chép lại dưới dạng hồi ký, đã hoặc chưa được 
xuất bản, đã được hoặc chưa được thẩm định. 
Đến nay, còn rất nhiều tài liệu chưa được công bố do nhiều lý do khác nhau, đặc 
biệt là các biên bản đại hội Đảng và hội nghị Trung ương Đảng. Do điều kiện 
Đảng phải trải qua những thời kỳ hoạt động bí mật và chiến tranh, ảnh hưởng rất 
nhiều đến tình trạng các tài liệu lưu trữ về Lịch sử Đảng, nhiều tài liệu đánh máy, 
in thạch, viết tay bằng nhiều thứ tiếng: Việt, Pháp, Trung Quốc, Nga, Anh, Đức, 
gây ra nhiều khó khăn, phức tạp trong việc giám định, dịch thuật... 
Có thể phân chia nguồn sử liệu lịch sử Đảng thành hai loai cơ bản: 1- Nguồn sử 
liệu trực tiếp (phản ánh lịch sử khách quan), 2- Nguồn sử liệu gián tiếp (phản ánh 
sự kiện được nhận thức thông qua yếu tố chủ quan). 
Nguồn sử liệu trực tiếp có độ chính xác tuyệt đối, chẳng hạn như các tài liệu lưu 
trữ văn bản có nội dung về những chủ trương, biện pháp của Đảng để lãnh đạo, chỉ 
đạo cách mạng, hoặc phim ảnh tư liệu phản ánh những hoạt động của Đảng trong 
mỗi giai đoạn, thời kỳ. Những người làm công tác nghiên cứu có thể được đối diện 
trực tiếp với những mảnh, những mảng của hiện thực lịch sử. Nội dung của nguồn 
sử liệu này là không thể tranh cãi. Tuy nhiên, không phải tất cả các sự kiện Lịch sử 
Đảng đều được phản ánh một cách trực tiếp trong các tài liệu thành văn hoặc ảnh 
tư liệu, mà thường được phản ánh sau khi sự kiện đã diễn ra, qua các báo cáo, tổng 
kết, những công trình nghiên cứu, hồi ký… Nhiều sự kiện không được ghi chép lại 
một cách tức thời, mà phải sau một thời gian dài mới được nhận thức lại, và 
thường không được ghi chép đầy đủ. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải khai thác sử 
liệu qua các nhân chứng lịch sử, những người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến 
sự thật lịch sử, nhưng đồng thời phải so sánh sử liệu để phục dựng lại sự thật lịch 
sử. Trên thực tế, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nguồn 
sử liệu phản ánh gián tiếp các sự kiện vẫn có sự sai lệch. 
Nhiều nguồn sử liệu khác nhau có tác dụng bổ sung cho nhau, tạo điều kiện cho 
nhà nghiên cứu so sánh, xác minh để tiếp cận chân lý. Nhưng mọi khó khăn chỉ 
bắt đầu khi chỉnh lý tài liệu. Không ít những sự kiện bị phản ánh không đầy đủ, 
thậm chí không đúng thực tiễn. 
2. Xuất phát từ những nguồn sử liệu khác nhau, đã có nhiều nội dung lịch sử 
Đảng được trình bày khác nhau 
Trong nghiên cứu lịch sử Đảng, đã và đang có nhiều nội dung sự kiện được trình 
bày khác nhau do căn cứ vào những nguồn sử liệu khác nhau. Sau đây là một số ví 
dụ về sự sai lệch trong việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng: 
1- Về Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 
Căn cứ vào Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản[1] của Nguyễn Ái Quốc (18-11-1930), 
thời gian bắt đầu họp Hội nghị là ngày 6-1-1930. Thời gian kết thúc Hội nghị 
không ghi rõ, mà chỉ biết ngày 8-2-1930 các đại biểu dự Hội nghị về nước. Thành 
phần dự Hội nghị ngoài Nguyễn Ái Quốc, có đại biểu của hai tổ chức Đông 
Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng. Theo đó, Nguyễn Ái Quốc là 
người chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị, chứ không phải là “theo chỉ thị của 
Quốc tế Cộng sản”, hoặc “được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản”. 
Tuy nhiên, vào thời điểm họp Đại hội lần thứ ba của Đảng (9-1960), các nhà 
nghiên cứu chưa được tiếp cận với Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái 
Quốc. Khi đó, phía Liên Xô cung cấp cho Việt Nam bài viết Kỷ niệm ba năm ngày 
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương của Hà Huy Tập với bút danh Hồng Thế 
Công đăng trên báo Bolsévick. Theo bài báo này, Hội nghị thành lập Đảng họp từ 
ngày 3 đến ngày 7-2-1930. Trong khi một số đại biểu dự Hội nghị thành lập Đảng 
(Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Thiệu) lại không nhớ chính xác thời gian họp Hội 
nghị, Đại hội lần thứ III của Đảng đã ra Nghị quyết lấy ngày 3-2 dương lịch hàng 
năm “làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”. Từ đó, các sách đều viết Hội nghị thành 
lập Đảng họp từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930. 
Điều đáng chú ý là, chính Hà Huy Tập, trong tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào 
cộng sản ở Đông Dương, có một mục riêng với tiêu đề “Hội nghị hợp nhất ngày 6-
1-1930”, và cuối trang, ông có ghi chú thích, cải chính rằng Hội nghị hợp nhất họp 
ngày 6-1-1930. 
Theo GS, TS Đỗ Quang Hưng, trong hồ sơ ký hiệu 405-154-676 của Quốc tế 
Cộng sản (bản báo cáo của Ban chỉ huy ở ngoài, bằng tiếng Pháp, gồm 8 trang chữ 
nhỏ, đề ngày 20-12-1934) có ghi: “giai cấp công nông và nhân dân lao động Việt 
Nam đã có hai tuần lễ đỏ trong nước từ ngày 6-1 (thành lập Đảng) đến ngày 21-1 
(ngày mất của Lênin)…”[2]. 
Như vậy, phải khẳng định ngày họp Hội nghị thành lập Đảng là ngày 6-1-1930. 
Ngày 8-2-1930 các đại biểu dự Hội nghị về nước. Nhưng Hội nghị kết thúc vào 
ngày nào thì đến nay vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn. Mặc dù một số công 
trình nghiên cứu viết ngày 7-2-1930, nhưng hoàn toàn không có cơ sở khoa học. 
Vào đúng ngày này Nguyễn Ái Quốc viết Báo cáo tóm tắt Hội nghị, và theo Hồi kí 
của Trịnh Đình Cửu thì “chiều ngày 7 tháng 2, ông Nguyễn làm một bữa tiệc liên 
hoan nhỏ để tiễn các đại biểu, các đồng chí, học trò của ông về nước”. Có ý kiến 
cho rằng, Hội nghị đã kết thúc từ ngày 3-2-1930, nhưng các đại biểu phải chờ đến 
ngày 8-2-1930 mới có tàu (mỗi tháng có hai chuyến từ Hồng Kông) về nước. 
Những thông tin này cho phép nghĩ đến việc kết thúc Hội nghị sớm hơn ngày 7-2-
1930. 
Về thành phần dự Hội nghị, theo Báo cáo tóm tắt Hội nghị, chỉ có 5 người[3]. 
Nhưng nhiều tác phẩm nghiên cứu, luận văn, luận án lại viết là 7 nguời. 
Như vậy, xung quanh một sự kiện Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
có tới 3 chi tiết được trình bày khác nhau, do căn cứ vào những nguồn sử liệu khác 
nhau. 
2- Về Luận cương chính trị tháng 10-1930 
Đã từng có nhiều sách và công trình nghiên cứu cho rằng, Hội nghị Hợp nhất đã 
thông qua Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, nhưng cách mạng ngày càng 
phát triển, đòi hỏi phải có một cương lĩnh đầy đủ hơn, nên Hội nghị lần thứ nhất 
Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 10-1930 đã “thông qua” bản Luận 
cương chính trị tháng 10-1930, và đi tới kết luận rằng Luận cương chính trị tháng 
10-1930 đã “phát triển” Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Thậm chí có ý 
kiến cho rằng Chính cương và Sách lược của Hội nghị thành lập Đảng là một “đề 
cương”, còn Luận Cương tháng 10-1930 là một văn bản “hoàn chỉnh”. Nhưng qua 
tài liệu lưu trữ thì không phải như vậy. Án nghị quyết của Trung ương toàn thể hội 
nghị tháng 10-1930[4] cho thấy Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương 
Đảng đã phê phán Hội nghị hợp nhất và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 
có “sai lầm”, “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”, 
“ấy là một sự rất nguy hiểm”. Từ đó Hội nghị đi tới quyết định “Thủ tiêu Chánh 
cương Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng”[5]. Như vậy, Luận cương chính trị 
tháng 10-1930 không phải là sự kế thừa và phát triển, mà là một sự thay đổi so với 
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trên thực tế, Luận cương chánh trị của 
Đảng Cộng sản Đông Dương chưa được Hội nghị thông qua, mà chỉ được công bố 
như một “Dự án để thảo luận trong Đảng”[6]. Tuy nhiên, ngay sau đó, cao trào 
cách mạng năm 1930 bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu, toàn bộ Ban chấp hành 
Trung ương Đảng bị bắt, không sót một người nào, và Luận cương tiếp tục được 
lưu hành trong Đảng như một Cương lĩnh chính thức. 
Nếu mới chỉ nhìn qua một số câu chữ, nhiều nhà nghiên cứu nhầm tưởng rằng sự 
giống nhau giữa hai cương lĩnh này là “cơ bản”. Nhưng rõ ràng là trên một loạt 
vấn đề quan trọng nhất như chiến lược cách mạng ở thuộc địa (bước đi), nhiệm vụ 
cách mạng (làm gì?) và lực lượng cách mạng (ai làm?) thì giữa hai cương lĩnh này 
hoàn toàn khác nhau. Bản thân khái niệm cách mạng tư sản dân quyền cũng có nội 
dung khác nhau. Nếu như Cương lĩnh chính trị đầu tiên nhấn mạnh chiến lược giải 
phóng dân tộc thì Luận cương chính trị tháng 10-1930 lại nhấn mạnh chiến lược 
đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh cách mạng ruộng đất. Điều đáng quan tâm là Cương 
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, còn tiếp tục bị phê phán trong nhiều văn kiện của 
Đảng sau Hội nghị thàng 10-1930. Nếu căn cứ vào những nguồn sử liệu khác, như 
Án nghị quyết Trung ương toàn thể Hội nghị tháng 10-1930, một số tác phẩm của 
Hà Huy Tập..., thì nổi lên sự khác nhau mới là cơ bản. 
3- Bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến[7] của Trung ương Đảng 
Theo nguồn tài liệu lưu trữ thì Trung ương Đảng ra bản chỉ thị này không phải vào 
ngày 22-12-1946, tức là sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19-12-1946), 
mà là ngày 12-12-1946. Vấn đề thời gian này có liên quan tới những kết luận khác 
nhau về chủ trương kháng chiến của Đảng. 
4- Về chủ trương “thay đổi chiến lược” trong giai đoạn 1939-1945 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) ghi rõ: 
"Cần phải thay đổi chiến lược”. Hội nghị phân tích: “Sự thay đổi về kinh tế, chính 
trị Đông Dương, lực lượng giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi 
chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn 
thể nhân dân Đông Dương…". Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật "không phải riêng 
của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông 
Dương", "cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách 
mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và 
điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp 
"dân tộc giải phóng""[8]. 
“Thay đổi chiến lược” là vấn đề không thể bàn cãi, nhưng xuất phát từ những tư 
liệu ngoài văn kiện Đảng, nhiều giáo trình và bài viết khi trình bày về chủ trương 
của Đảng trong thời kỳ vận động cứu nước 1939-1945, đã sử dụng những khái 
niệm như: “chuyển hướng chỉ đạo chiến lược”, “chuyển hướng chiến lược”, “điều 
chỉnh chiến lược” và “chuyển hướng đấu tranh”. 
Tựu chung, việc sử dụng nhiều khái niệm trên đây có thể phân chia thành hai loại 
ý kiến: 1- Có sự thay đổi chiến lược (chuyển hướng chiến lược, điều chỉnh chiến 
lược – tương đồng với thay đổi chiến lược); 2- Không có sự thay đổi chiến lược, 
mà chỉ là sự thay đổi về chỉ đạo (thực hiện) chiến lược. Về mặt lôgic, giữa hai ý 
kiến khác nhau thì chỉ có thể có một ý kiến đúng, hoặc cả hai cùng sai. 
Như vậy, có hai vấn đề cần quan tâm nghiên cứu: 
Một là, không có sự thay đổi chiến lược như trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã trình bày. Như thế sẽ đi tới kết luận: nghị 
quyết của Đảng viết là A, nhưng chúng ta có thể hiểu là B. Điều đó không đúng 
thực tế, hơn nữa sẽ tạo ra một tiền đề rất nguy hiểm. Đáng tiếc là hiện nay vẫn còn 
không ít nhà nghiên cứu vẫn theo hướng tư duy này. 
Hai là, có sự thay đổi về chiến lược, đúng như văn kiện Đảng đã trình bày. Nhưng 
cần làm rõ nội dung thay đổi là gì? Phải chăng ngay từ năm 1930, từ Cương lĩnh 
chính trị đầu tiên đến Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã có sự thay đổi, từ 
chiến lược đấu tranh giải phóng dân tộc sang chiến lược đấu tranh giai cấp? Và 
đến giai đoạn 1939-1945 có sự thay đổi lại, từ chiến lược đấu tranh giai cấp trở về 
với chiến lược đấu tranh giải phóng dân tộc, đúng như Cương lĩnh chính trị đầu 
tiên? Điều đáng chú ý là vai trò chủ trì của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập 
Đảng và Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đảng (5-1941). 
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong những 
năm 1930-1935 bị phê phán rất gay gắt, chưa nhận được sự đồng thuận trong ban 
lãnh đạo của Đảng cũng như của Quốc tế Cộng sản. 
Cũng cần nói thêm rằng, là người đã vận dụng có phê phán và phát triển sáng tạo 
chủ nghĩa Mác vào phong trào giải phóng dân tộc, nhưng Nguyễn Ái Quốc bị quy 
kết là người “dân tộc chủ nghĩa”. Trong những năm 1923-1924, 1927-1928, 1934-
1938, Người không được Quốc tế Cộng sản đồng tình, nên bị kiềm chế, bị phê 
phán, thậm chí có lúc bị “bỏ rơi”. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và tên 
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) bị bác bỏ. Những người cộng sản trẻ tuổi Việt 
Nam lúc đó, như Trần Phú, Hà Huy Tập... được Quốc tế Cộng sản đào tạo, ý chí 
cách mạng kiên trung, nhưng ít kinh nghiệm thực tiễn, nên chỉ có thể đi theo 
hướng của Quốc tế Cộng sản. 
Sự phủ nhận Cương lĩnh chính trị đầu tiên và việc khẳng định Luận cương chính 
trị tháng 10-1930 thể hiện hai quan điểm hoàn toàn khác nhau về chiến lược cách 
mạng ở một nước thuộc địa 
5- Về Chính phủ cộng hòa và là quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng năm cánh: 
Hồi ký của Nguyễn Thiệu - tức Nghĩa - người cùng bị giam với Trần Phú tại 
Khám Lớn (Sài Gòn) năm 1931, cho biết: "Trần Phú thường xuyên trao đổi với 
anh em tù chính trị về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Anh tổ 
chức những buổi huấn luyện chính trị cho anh em trong tù. Khi giảng về thời kỳ 
Đảng lãnh đạo chính quyền, đồng chí Trần Phú nói rằng: Ở một nước thuộc địa 
như ta nếu đánh đổ được đế quốc phong kiến thì cần thành lập một chính phủ 
cộng hoà và lá quốc kỳ nên là một lá cờ nền đỏ và sao vàng năm cánh"[9]. 
Căn cứ vào các văn kiện Đảng trong thời gian Trần Phú làm Tổng Bí thư của 
Đảng (từ tháng 10-1930 đến tháng 4-1931), nổi lên chủ trương nhấn mạnh đấu 
tranh giai cấp, tiến hành cuộc cách mạng tư sản dân quyền với hai nhiệm vụ điền 
địa và phản đế, coi “vấn đề thổ địa là cái cốt của cuộc cách mạng tư sản dân 
quyền”, thành lập chính quyền công-nông-binh (chính quyền của quần chúng lao 
động), thì ý tưởng thành lập một “chính phủ cộng hòa” (chính quyền của tất cả lực 
lượng đã tham gia cách mạng giải phóng dân tộc) là một vấn đề rất mới mẻ. Hơn 
nữa, từ khi đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, vấn đề chính quyền 
cũng được đặt ra trên phạm vi toàn Đông Dương. Trần Phú có ý tưởng thành lập 
“ở nước ta” một “Chính phủ cộng hòa” thì quả là khó hình dung, vì như thế Trần 
Phú đã ý thức được phải giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở 
Đông Dương. Phải chăng đây là một bước ngoặt mang tính cách mạng trong tư 
tưởng của Trần Phú sau khi bị thực dân Pháp bắt giam? Liệu Hồi ký của Nguyễn 
Thiệu có đủ độ tin cậy để khẳng định vấn đề này? 
Căn cứ vào nguồn tài liệu lưu trữ, có thể khẳng định chủ trương của Đảng về việc 
thành lập chính quyền nhà nước với hình thức cộng hòa dân chủ được đề ra lần 
đầu tiên tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (11-1939). Nghị 
quyết của Hội nghị ghi rõ: “Lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa dân chủ Đông 
Dương”[10]. Đến Hội nghị lần thứ 8 (5-1941), cùng với chủ trương giải quyết vấn 
đề dân tộc trong phạm vi từng nước ở Đông Dương, thực hiện quyền dân tộc tự 
quyết, Trung ương Đảng chủ trương: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ 
tùy theo ý muốn tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành 
lập một dân tộc quốc gia tùy ý”. “Riêng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đông và 
mạnh hơn hết ở Đông Dương, sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập 
một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền 
cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai 
cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc 
Pháp - Nhật, và những bọn phản quốc, những bọn thù, không được giữ chính 
quyền, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần 
tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính 
quyền ấy”. Trong công tác tuyên truyền, “không nên nói công nông liên hiệp và 
lập chính quyền Xôviết, mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ 
dân chủ cộng hòa”[11]. 
Về lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, Hồi ký của Nguyễn Thiệu cho rằng Trần Phú đã 
nghĩ tới từ đầu năm 1931, nhưng theo tập thể tác giả Lịch sử khởi nghĩa Nam kỳ 
thì người vẽ lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên là Nguyễn Hữu Tiến - tức giáo Hoài, khi bị 
bắt (30.7.1940) đang tham gia Xứ uỷ Nam kỳ[12]. Liệu có đúng không vào thời 
điểm đầu năm 1931, Trần Phú đã nghĩ tới một là cờ riêng của “nước ta”? Trong 
các văn kiện của Đảng từ khi Đảng ra đời đến trước Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp 
hành Trung ương (5-1941) không có bất cứ tài liệu nào nói tới việc đó. Trong 
Chương trình Việt Minh, một văn kiện kèm theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, 
nêu rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ 
nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh 
làm lá cờ toàn quốc”[13]. Ý kiến của Nguyễn Thiệu trong Hồi ký của ông không 
phù hợp với lôgíc trong tư duy của Trần Phú và xu hướng nhấn mạnh cuộc đấu 
tranh giai cấp ở thuộc địa kể từ Hội nghị tháng 10-1930 của Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng. Hồi ký của Nguyễn Thiệu cần được thẩm định lại một cách nghiêm 
túc. 
3. Phải so sánh nguồn sử liệu lịch sử Đảng là yêu cầu không thể thiếu trong 
quá trình nghiên cứu 
Trên cơ sở so sánh nguồn sử liệu, việc nghiên cứu Lịch sử Đảng mới có điều kiện 
tiếp cận các sự kiện, thấy được các sự kiện đầy đủ và chính xác. Điều đó không 
chỉ liên quan đến nội dung mỗi sự kiện, mà quan trọng hơn là quyết định cả sự 
luận giải khoa học. 
Yêu cầu có tính nguyên tắc là phải nghiên cứu một cách toàn diện các nguồn sử 
liệu, so sánh và thẩm định độ chính xác của mỗi nguồn. 
Trước hết, cần có quan điểm toàn diện, nghiên cứu đầy đủ các nguồn sử liệu, 
trước hết là các văn kiện của Đảng. Bản thân các văn kiện Đảng cũng càn được 
nghiên cứu so sánh để có nhận thức đúng về lịch sử Đảng. Ví dụ, trở lại với chủ 
trương “thay đổi chiến lược” của Đảng trong giai đoạn 1939-1945 đã nói ở trên, 
thì không chỉ căn cứ vào nghị quyết các hội nghị lần thứ 6 (11-1939) và lần thứ 8 
(5-1941) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, mà cả một số văn kiện trước đó, 
nhất là tác phẩm Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc, Ngay trong tác phẩm 
Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng khái niệm “dân tộc cách mạng”. 
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) cho rằng “chiến 
lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với 
tình thế mới”[14]. 
Liên quan đến chủ trương thay đổi chiến lược còn có nhiều văn kiện trong 
thời gian sau Hội nghị lần thứ 8, lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng (và đã 
được xuất bản), nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, như Lời kêu gọi đồng 
bào, các đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, Thư của 
Ban Trung ương đảng gửi các chiến sĩ Bắc Sơn, Cuộc chiến tranh Thái Bình 
dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng... 
Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) khẳng định “không 
thể hoàn thành luôn một lúc hai nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân chủ là: cách 
mạng dân tộc giải phóng và cách mạng thổ địa”. “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc giải 
phóng cần kíp và quan trọng hơn. Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách 
mạng đặng mau hoàn thành nhiệm vụ ấy trước... Do đó khẩu hiệu thổ địa cách 
mạng không thể đặt ra lúc này. Như thế chiến lược của Đảng có thay đổi ít nhiều 
chứ không phải chỉ có chiến thuật mà thôi...”[15]. 
Bản báo cáoHoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, 
tiến tới chủ nghĩa xã hội (Luận cương cách mạng Việt Nam) tại Đại hội II của 
Đảng (2-1951) khẳng định con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là quá 
trình phát triển “từ xã hội có tính chất thuộc địa, nửa phong kiến qua dân chủ nhân 
dân, đến xã hội xã hội chủ nghĩa”. Muốn tiến tới chủ nghĩa xã hội, nước Việt Nam 
phải trải qua ba giai đoạn: 
a) Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà 
nước dân chủ nhân dân. 
b) Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để 
thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. 
c) Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, gây đầy đủ điều kiện để 
tiến lên chủ nghĩa xã hội”[16]. 
Bản báo cáo khẳng định: “Trong điều kiện cách mạng của nước ta, đánh đổ 
đế quốc xâm lược là một chiến lược, nằm trong một giai đoạn chiến lược. Thủ tiêu 
mọi di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện người cày có ruộng lại là một 
chiến lược khác, nằm trong một giai đoạn chiến lược khác (TG nhấn mạnh)”. 
“Xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị điều kiện để tiến lên thực 
hiện chủ nghĩa xã hội lại là một chiến lược khác, nằm trong một giai đoạn chiến 
lược khác (TG nhấn mạnh). Trong giai đoạn đó, ta làm trọn nhiệm vụ dân chủ 
nhân dân, đồng thời xúc tiến việc xây dựng và phát triển cơ sở của chủ nghĩa xã 
hội”. 
“Song giai đoạn thứ ba không phải hoàn toàn là giai đoạn của cách mạng 
xã hội chủ nghĩa, mà chính là một quá trình trong đó cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân Việt Nam hoàn thành và biến chuyển thành cách mạng xã hội chủ 
nghĩa”[17]. “Những bước cụ thể của giai đoạn này phải tùy theo điều kiện cụ thể 
của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định”[18]. 
Từ sự phân tích trên, bản Báo cáo khẳng định: “Đó là nguyên nhân chính 
khiến ta phải qua ba giai đoạn mới đạt tới chủ nghĩa xã hội được. Thuyết một giai 
đoạn hoàn toàn không có căn cứ, thậm chí lại nguy hiểm nữa”. 
Báo cáo cũng phê phán quan điểm không đúng, cho rằng “ta chỉ cần qua hai 
giai đoạn cũng đạt tới chủ nghĩa xã hội được: giai đoạn thứ nhất tức là giai đoạn 
cách mạng dân chủ tư sản, trong đó ta vừa hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân 
tộc, vừa thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”; giai đoạn thứ hai là giai đoạn 
cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó ta thực hiện chủ nghĩa xã hội”. “Nếu cho 
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và nhiệm vụ thực hiện người cày có ruộng vào một 
giai đoạn, thì sẽ dễ có khuynh hướng coi hai nhiệm vụ đó ngang nhau, không nhận 
rõ rằng: lúc này phải tập trung mọi lực lượng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân 
tộc trước, và chỉ có thể bài trừ một phần nhỏ những di tích phong kiến (giảm tô, 
giảm tức, v. v.). Quyết không thể thực hiện hẳn hoi khẩu hiệu “người cày có 
ruộng” cùng với nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc xâm lược. Vì làm như thế khác nào 
“đánh cả hai tay”, rất không lợi”[19]. 
Hoạch định con đường giải phóng và phát triển của Việt Nam là lâu dài, qua ba 
chiến lược cách mạng khác nhau. Đó chính là một quá trình cải biến cách mạng 
lâu dài, chứ “không thể giang chân ra mà bước một bước khổng lồ để đến ngay 
chủ nghĩa xã hội. Phải bước nhiều bước, chia thành nhiều độ mà đi”[20]. 
Như vậy, nếu như căn cứ vào nhiều văn kiện của Đảng, chúng ta mới hiểu một 
cách chắc chắn chủ trương “thay đổi chiến lược” trong giai đoạn 1939-1945 là 
đúng. 
Thứ hai, cần quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. Mỗi nguồn sử liệu có xuất sứ 
khác nhau. Đáng chú ý là một số tài liệu được biên soạn lại, bị chi phối bởi hoàn 
cảnh lịch sử, nên không phản ánh đúng thực tế lịch sử, chẳng hạn như tác phẩm 
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” xuất bản lại vào những năm 60 hoặc 70 của thế 
kỷ trước có những sai lệch so với lần xuất bản năm 1947. Do sự chi phối của quan 
điểm nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, một chủ trương của Đảng giai đoạn 
1930-1945 cũng được giải thích khác so với tinh thần những văn kiện ra đời trước 
Cách mạng tháng Tám 1945. Để trình bày đúng sự thật lịch sử, người làm công tác 
nghiên cứu cần so sánh nguồn sử liệu, và phải căn cứ vào nguồn sử liệu xuất hiện 
vào thời điểm mà sự kiện đang diễn ra để đảm bảo tính khách quan, khoa học. 
Trong sự nghiệp đổi mới, khoa học Lịch sử Đảng có điều kiện phát triển và đạt 
được nhiều thành tựu. Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng hết sức nặng nề. Trên 
Tạp chí Lịch sử Đảng hơn 20 năm qua đã có nhiều bài viết thẳng thắn yêu cầu 
khắc phục những hạn chế trong các công trình nghiên cứu Lịch sử Đảng, xác định 
nhiệm vụ cụ thể đối với khoa học Lịch sử Đảng: “Khi trình bày những quyết sách 
của Đảng, không chỉ giới thiệu tóm tắt các văn kiện, mà cần phản ánh nhiều chiều 
bằng những quan điểm, luận cứ được đưa ra thảo luận để đi tới quyết định: những 
biện pháp tổ chức, triển khai đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong 
thực tiễn, tính chủ động sáng tạo của các cấp bộ đảng, của cán bộ, đảng viên và 
nhân dân”. “Trình bày đúng mức vai trò và cống hiến, hy sinh lớn lao của các tầng 
lớp nhân dân trong tiến trình lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ và xây 
dựng đất nước”. “Nêu bật mối quan hệ hữu cơ, sâu rộng giữa Đảng và dân tộc”. 
Phải trình bày theo hai chiều mối quan hệ giữa Đảng ta với các Đảng Cộng sản và 
nhiều tổ chức quốc tế; phản ánh đúng những thành công, nhưng đồng thời phải 
“trình bày và lý giải những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong tiến trình lãnh 
đạo cách mạng...”. “Cần vận dụng tư duy và phương pháp đổi mới để nghiên cứu 
và xử lý những vấn đề tồn đọng, chưa được nghiên cứu thấu đáo, chưa được làm 
sáng tỏ do thiếu tư liệu hoặc sử dụng các tư liệu chưa đảm bảo độ tin cậy, do định 
kiến hoặc cách xem xét lý giải một chiều. Thêm nữa, có những vấn đề, sự kiện và 
nhân vật tuy đã được nghiên cứu, đánh giá, nhưng xét thấy chưa thỏa đáng, cũng 
cần cải chính, hiệu chỉnh cho phù hợp với sự thật”[21]. 
Để hoàn thành những tâm nguyện đó, các cơ quan và nhà nghiên cứu cần so sánh 
nguồn sử liệu, tạo cơ sở vững chắc, nhất là cần căn cứ vào nguồn tài liệu trực tiếp, 
một trong những nguồn tài liệu cơ bản nhất, với độ tin cậy cao nhất, cung cấp 
những sử liệu chính xác. Hy vọng rằng với nỗ lực tập hợp và so sánh các nguồn sử 
liệu ngày càng được quan tâm, giúp cho việc nghiên cứu Lịch sử Đảng đạt được 
những thành công mới. 
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy: trong những thời gian áp dụng lý luận 
máy móc, thiếu sáng tạo, đã phạm sai lầm giáo điều, tả khuynh. Trong thời gian 
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tiến lên dưới ngọn cờ tư 
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng có đường lối độc lập tự chủ, và đưa cách mạng giành 
thắng lợi. Thực tiễn đó cũng cho thấy, những người làm công tác nghiên cứu Lịch 
sử Đảng không bao giờ được lãng quên vấn đề thuộc phương pháp luận là so sánh 
các nguồn sử liệu; phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, quán triệt quan điểm 
toàn diện và lịch sử cụ thể, tranh luận học thuật công khai và vô tư, để khoa học 
lịch sử hoàn thành cả hai chức năng: nhận thức khoa học và giáo dục tư tưởng. 
(PGS.TS Vũ Quang Hiển) 
[1] Bản báo cáo này viết bằng tiếng Anh (ký tên Nguyễn Ái Quốc bằng tiếng 
Nga), lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, đã được xuất bản trong Hồ Chí Minh 
Toàn tập, tập 3, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 11-18), và Văn kiện 
Đảng Toàn tập, tập 2 (Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, tr. 18-25). 
[2] Đỗ Quang Hưng, Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà 
Nội, 1999, tr. 279. 
[3] Một đại biểu Quốc tế Cộng sản, hai đại biểu của Cộng sản Đảng, hai đại biểu 
của An Nam Cộng sản Đảng. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng 
Toàn tập, t. 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, 2000, tr. 10. 
[4] Nguyên văn là: Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình 
hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng 10-1930, tài liệu lưu 
tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, đã xuất bản trong Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 
2 (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 104-117). 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 112-113. 
[6] Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận 
trong Đảng), lưutại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, đã được xuất bản trong Văn 
kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 88-103. 
[7] Bản chỉ thị này lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, đã được xuất bản trong 
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8 (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 150-
155). 
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc 
gia, Hà Nội, 2000, tr. 118 và 119. 
[9] Một số hồi ký cách mạng Hà Tĩnh, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Tĩnh xuất 
bản, 1965, tập 1, tr.21. 
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 542. 
[11] Trung ương Hội nghị lần thứ tám Đảng Cộng sản Đông Dương, tài liệu lưu 
tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, đã xuất bản trong Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 
7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 113, 114 và 127. 
[12] Lịch sử khởi nghĩa Nam kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 103 - 
105. 
[13] Chương trình Việt Minh, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, đã 
xuất bản trong Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
2000, tr.150. 
[14] Nghị quyết của Ban Trung ương đảng ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939, Đảng 
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, 2000, tr. 538. 
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 314-315. 
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 87 và 88. 
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 92. 
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 89. 
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, Sđd, tr. 91,và 92. 
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, Sđd, tr. 91. 
[21] Viện Lịch sử Đảng: Về phương pháp nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch 
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 2008, tr. 51, 53 và 
56. 
Nguồn: Bài in Kỷ yếu "Hội thảo Sử học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn 
cầu hóa, 
những vấn đề lý luận và phương pháp tiếp cận", Hà Nội, ngày 4-3-2011. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_lich_su_18__3842.pdf nghien_cuu_lich_su_18__3842.pdf