Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từtỷgiá tới lạm phát 
Thứnhất,cơchế điều hành lãi suất: vềcơbản, lãi suất là giá cảcủa quyền sử
dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sửdụng trảcho người sởhữu 
nó. Vì là giá cảnên nó được quyết định bởi cung cầu. Nhưng nếu nhưnhà nước can 
thiệp điều chỉnh lãi suất vì một mục đích nào đó sẽlàm méo mó thịtrường, ảnh hưởng 
trực tiếp đến các nhà đầu tư. Khi đó, dòng vốn trực tiếp từnước ngoài đổvào sẽgiảm 
xuống làm giảm nguồn cung ngoại tệvà cán cân tổng thểkhông được cải thiện. 
Thứhai, mức độdi chuyển vốn quốc tếthểhiện khảnăng thay thếcho nhau 
giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độdi chuyển vốn hoàn hảo khi tài 
sản trong nước và tài sản nước ngoài có thểhoàn toàn thay thếcho nhau với chi phí 
thấp và nhanh chóng. Mức độdi chuyển vốn không hoàn hảo khi có những rào cản về
di chuyển vốn nhưnhững quy định pháp luật, chi phí di chuyển vốn cao, thời gian thực 
hiện di chuyển vốn chậm
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29 | P a g e 
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TỚI LẠM PHÁT 
 Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2012 
Lương Thị Nga-K14NHTME 
Đào Thị Thu Hiền-K14NHTME 
Nguyễn Mạnh Chiến-K14NHTMA 
 Một trong những biến số vĩ mô được các nhà hoạch định chính sách, các doanh 
nghiệp, người dân quan tâm là lạm phát. Gần đây nhất, năm 2012, lạm phát Việt Nam 
ở mức khá thấp 6,81% - một con số khá nhỏ, có thể nói là trong tầm kiểm soát- nhưng 
đây có phải là tín hiệu tốt cho nền kinh tế không? Bởi nguyên nhân chính của mức lạm 
phát này là do sự sụt giảm mạnh của tổng cầu. Trong điều kiện kinh tế đầy khó khăn, 
không lối thoát, người dân tiếp tục thắt chặt chi tiêu, doanh nghiệp giải thể, phá sản 
nhiều hơn… Đó là lý do tại sao, mặc dù trong thời gian qua chính sách tỷ giá được 
duy trì khá ổn định nhưng mỗi khi đưa ra bất kỳ chính sách tỷ giá nào, các nhà chức 
trách luôn phải quan tâm tới tác động của nó tới lạm phát. Trong bài viết này, nhóm 
tác giả phân tích các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát và các nhân tố 
ảnh hưởng tới các kênh đó, sau đó đi sâu phân tích thực trạng tác động của chính 
sách tỷ giá tới lạm phát, nhận định những rủi ro tiềm ẩn và đưa ra khuyến nghị cho 
điều hành chính sách tỷ giá thời gian tới. 
1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát 
1.1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát 
Về mặt lý thuyết, tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát thông qua 4 kênh 
chính: (1) cách tiếp cận tiền tệ, nghiên cứu tác động của tỷ giá tới cung cầu tiền tệ, 
qua đó đánh giá tác động tới lạm phát; (2) cách tiếp cận theo trường phái Keynes, 
nghiên cứu tác động của tỷ giá qua kênh tổng cung- tổng cầu; (3) cách tiếp cận ảnh 
hưởng của tỷ giá tới lạm phát theo kênh mức giá chung; (4) cách tiếp cận ảnh hưởng 
của tỷ giá tới lạm phát kỳ vọng. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tỷ giá đến 
lạm phát trong nền kinh tế mở có thể mô tả như sơ đồ sau: |Xem trang sau) 
Qua sơ đồ, tỷ giá tác động gián tiếp đến lạm phát chủ yếu thông qua các con 
đường như xuất khẩu ròng, cán cân thanh toán, giá hàng hóa nhập khẩu và đây đều là 
các mối quan hệ đồng biến. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến lạm phát thông 
qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi nền kinh tế mở đều tuân 
theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có những quốc gia có tỷ trọng nhập 
khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt. 
Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu ròng đó là 
khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài, xuất khẩu ròng tăng lên, cán cân 
thương mại có thể được cải thiện; do xuất khẩu ròng là một thành phần của tổng cầu 
30 | P a g e 
AD, nên khi xuất khẩu ròng tăng, đường AD dịch chuyển lên trên (trong mô hình AD, 
AS), làm tăng mức giá và sản lượng cân bằng, tác động làm lạm phát gia tăng. 
Sơ đồ 1: Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát 
Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán. Cơ chế 
truyền dẫn này trải qua hai giai đoạn: 
- Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên, góp phần cải thiện tình trạng 
cán cân thương mại. Mặt khác khi xuất nhập khẩu ròng tăng, đường IS dịch chuyển 
sang phải (mô hình IS-LM), lãi suất trong nước tăng lên, trong ngắn hạn luồng vốn đổ 
vào trong nước tăng (nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp) làm cán cân vốn tăng 
lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện. 
- Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là luồng vốn nước ngoài đổ vào 
trong nước tăng lên, lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: (1) NHTW sẽ phải cung ứng 
thêm tiền để mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống để khuyến khích xuất 
khẩu và hạn chế nhập khẩu, mặt khác để tăng cường dự trữ ngoại hối quốc gia. Như 
vậy, tác động không mong muốn là cung tiền tăng lên, đường LM dịch chuyển sang 
phải (mô hình IS- LM) làm cân bằng tiền hàng trong nền kinh tế thay đổi, lạm phát sẽ 
tăng lên; (2) nếu NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng bản tệ được định giá thấp để 
khuyến khích xuất khẩu và giả định rằng dự trữ ngoại hối đã đủ mức cần thiết và 
không cần tăng thêm, trong trường hợp cán cân tổng thể thặng dư thì vẫn có một lượng 
ngoại tệ tăng lên trong nền kinh tế. Với những nước có nền kinh tế bị đôla hóa ở mức 
độ cao, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế trong trường hợp này vẫn tăng lên 
vì nó bao gồm hai phần là: Tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và tổng phương 
tiện thanh toán bằng ngoại tệ. Khi tổng phương tiện thanh toán tăng lại gây sức ép lên 
giá cả và đẩy lạm phát tăng lên. 
Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Tác 
động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Khi tỉ giá tăng làm cho giá hàng 
nhập khẩu tăng, từ đó dẫn đến mặt bằng giá hàng hóa trong nước hay chỉ số CPI tăng 
lên. Ngoài ra, một số hàng hóa nhập khẩu cũng là nguyên liệu đầu vào của một số đơn 
vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng trong nước làm giá các loại hàng hòa này tăng lên 
khi chưa có nguồn nguyên liệu thay thế và cũng tương tự đẩy giá hàng hóa trong nước 
tăng lên. Kênh này có tác dụng mạnh đối với những quốc gia có tỉ trọng nhập 
khẩu/GDP lớn. 
Xuất nhập khẩu 
ròng ( NX) 
Cán cân t hanh 
toán 
Giá hàng nh ậ p 
kh ẩ u 
T ỷ giá 
danh nghĩa 
Tổng cầu nền 
kinh tế ( AD) 
L ạ m phát M ứ c cung ti ền 
M 2) ( 
31 | P a g e 
Kênh thứ tư: tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát kỳ vọng thông qua tâm lý. Kênh này có 
tác động mạnh tới những quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, dân trí thấp, nền 
kinh tế chứa đựng nhiều bất ổn, đặc biệt là tỷ lệ lạm phát tăng cao, không ổn định 
trong nhiều năm đã khiến người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ. Thay bằng việc tiết 
kiệm/giữ đồng nội tệ họ chuyển sang giữ các tài sản khác như vàng, bất động sản, 
ngoại tệ mạnh. Lúc này chỉ cần một chính sách giảm giá đồng nội tệ dự kiến được đưa 
ra là các ông lớn sẽ đầu cơ, thao túng thị trường ngoại tệ, gây nhiễu loạn thị trường, và 
làm nhà nước bất lực trong việc quản lý thị trường đầy rủi ro này. 
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát 
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất: về cơ bản, lãi suất là giá cả của quyền sử 
dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu 
nó. Vì là giá cả nên nó được quyết định bởi cung cầu. Nhưng nếu như nhà nước can 
thiệp điều chỉnh lãi suất vì một mục đích nào đó sẽ làm méo mó thị trường, ảnh hưởng 
trực tiếp đến các nhà đầu tư. Khi đó, dòng vốn trực tiếp từ nước ngoài đổ vào sẽ giảm 
xuống làm giảm nguồn cung ngoại tệ và cán cân tổng thể không được cải thiện. 
Thứ hai, mức độ di chuyển vốn quốc tế thể hiện khả năng thay thế cho nhau 
giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độ di chuyển vốn hoàn hảo khi tài 
sản trong nước và tài sản nước ngoài có thể hoàn toàn thay thế cho nhau với chi phí 
thấp và nhanh chóng. Mức độ di chuyển vốn không hoàn hảo khi có những rào cản về 
di chuyển vốn như những quy định pháp luật, chi phí di chuyển vốn cao, thời gian thực 
hiện di chuyển vốn chậm. 
Thứ ba, mức độ nhạy cảm của xuất nhập khẩu với tỷ giá. 
 Độ nhạy cảm này thể hiện ở hệ số co giãn xuất khẩu (X), nhập khẩu (M) với tỷ giá: 
µx=dX/X + dE/E và µm=dM/M + dE/E 
Trong đó: X/M là tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu, E là tỉ giá hối đoái. Hệ số 
co giãn µx/m cho biết tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu thay đổi bao nhiêu khi tỉ giá hối 
đoái E thay đổi 1 đơn vị. 
Trên cơ sở đó, Marshall và lerner đã đưa ra điều kiện để phá giá tiền tệ có thể 
cải thiện cán cân thương mại: “tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu phải lớn 
hơn 1” tức µx + µM >1. Khi tổng hai hệ số này nhỏ hơn 1, phá giá sẽ làm trầm trọng cán 
cân thương mai, còn khi bằng 1 thì không có ảnh hưởng. 
Thứ tư, cơ chế điều hành tỷ giá: Trong cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, mối 
quan hệ giữa tỷ giá-lãi suất, lãi suất-tỷ giá vận hành khá linh hoạt theo tín hiệu của thị 
trường. Trong cơ chế tỷ giá cố định hoàn toàn, hay thả nổi có điều tiết, tỷ giá bị ấn 
định hoặc chậm được điều chỉnh không phản ánh các yếu tố thị trường, tác động của tỷ 
giá đến xuất khẩu ròng là rất hạn chế hoặc không kịp thời làm thị trường bị méo mó và 
xuất hiện nhiều khuyết tật. 
Thứ năm, mức độ đô la hóa của nền kinh tế: Một nền kinh tế có mức độ đô la 
hóa cao hoặc khả năng thay thế giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài hoàn hảo 
thì lãi suất nội tệ sẽ không thể độc lập thay đổi dưới tác động của NHTW mà bị chi 
phối mạnh bởi lãi suất quốc tế. Việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ trở nên thụ động 
32 | P a g e 
và không có nhiều hiệu quả khiến vai trò của ngân hàng nhà nước bị giảm thiểu. Nếu 
đi kèm với cơ chế tỷ giá kém linh hoạt, tác động của tỷ giá đến thu hút dòng vốn từ 
nước ngoài đổ vào trong nước bị hạn chế. 
2. Thực trạng tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam 
2.1. Diễn biến tỷ giá và chính sách tỷ giá thời gian qua 
Về chính sách tỷ giá, trong thời gian qua, hàng loạt chính sách tỷ giá đã được 
Nhà nước đưa ra để ổn định tỷ giá, kìm chế lạm phát và phát triển kinh tế : 
- Quyết định 65/1999/Q Đ–NHNN7 của NHNN về việc thay đổi cách xác định tỷ 
giá hối đoái chính thức. Theo quyết định này kể từ ngày 26/2/1999, NHNN sẽ không 
công bố tỷ giá chính thức nữa mà thay vào đó là công bố tỷ giá bình quân liên ngân 
hàng. Đây chính là một bước tiến quan trọng dẫn đến tự do hóa tiền tệ, và tới năm 
2000 nó đã phát huy đầy đủ tác động tới tỷ giá. Như vậy, 2000 là năm bắt đầu cho giai 
đoạn mới của tỷ giá. 
- Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN, NHNN chính thức chuyển sang cơ chế tự 
do hóa ngoại tệ. Các NHTM được tự chủ động quy định các mức lãi suất USD trên cơ 
sở giao dịch trên thị trường liên ngân hàng Singapore – Sibor… Với chính sách này, tỷ 
giá đã khá ổn định (năm 2003: 1,7%); thị trường liên ngân hàng có bước phát triển 
mạnh, năm 2005 doanh số giao dịch đã tăng 29% so với 2004. 
- Năm 2012, NHNN chính thức tham gia thị trường vàng bằng việc quốc hữu hóa 
thương hiệu SJC nhằm mục đích giảm sự liên thông giữa thị trường vàng và thị trường 
ngoại tệ. Ngoài ra việc nhập siêu trong năm 2012 giảm cùng với lượng kiều hối tăng 
mạnh cũng góp phần ổn định tỷ giá. 
Và rất nhiều các thông tư khác hướng dẫn thực hiện, ổn định tỷ giá. 
Về diễn biến tỷ giá 
Tỷ giá danh nghĩa song phương: ở Việt Nam, tỷ giá danh nghĩa song phương 
đóng vai trò quan trọng nhất, được các cơ quan chức năng, doanh nghiệp xuất nhập 
khẩu và người dân coi trọng nhất là tỷ giá danh nghĩa song phương USD/VND bởi 
USD là đồng tiền được sử dụng chủ yếu, thường xuyên trong hoạt động xuất nhập 
khẩu của Việt Nam đồng thời đây cũng là đồng tiền dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Và 
một nguyên nhân khác, nền kinh tế Việt Nam bị đô la hóa cao do VND thường xuyên 
mất giá và người dân có thói quen dự trữ ngoại hối. 
 Từ biểu đồ, có thể nhận thấy, xu hướng tăng nhanh từ 14.168 VND/USD trong 
năm 2000 lên mức 20.828 VND/USD trong năm 2012. Như vậy qua 12 năm tỷ giá đã 
tăng 6680 VND, trung bình mỗi năm tăng 555 VND tương đương VND bị mất giá 
3.26% so với USD hàng năm. 
Trong giai đoạn gần đây, từ 2008- 2012, tỷ giá có xu hướng leo thang nhanh, từ 
16.645 VND/USD lên mức 20.828 VND/USD. Tốc độ tăng trung bình khá cao 
6.08%/năm. Điều này được lý giải do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác 
động của gói kích cầu năm 2009 và việc hỗ trợ lãi suất ưu đãi mức 4% và sự nới lỏng tín 
dụng vào năm 2010 làm bùng lên lạm phát và VND bị mất giá một cách đáng kể. 
33 | P a g e 
Hình 2.1: Diễn biến của tỷ giá danh nghĩa song phương 
trong giai đoạn 2000- 2012 
Nguồn: Tổng cục thống kê 
Tỷ giá đa phương: Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay 
tỷ giá đa phương ngày càng trở nên quan trọng hơn, nó thể hiện sự tăng lên hay giảm 
giá của đồng VND đối với phần còn lại của thế giới (tỷ giá danh nghĩa đa phương-
Norminal Effective Exchange Rate –NEER); thể hiện sức cạnh tranh thương mại của 
Việt Nam với các nước còn lại (tỷ giá thực đa phương- Real Effective Exchange Rate 
–REER). 
Hình 2.2: Diễn biến tỷ giá đa phương (danh nghĩa và thực) 
trong giai đoạn 2000-2011 
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
%
Tỷ giá danh nghĩa đa phương Tỷ giá thực đa phương
Nguồn: Tổng cục thống kê 
Tỷ lệ NEER tăng đáng kể giai đoạn 2001- 2009 với mức tăng trung bình 
4.1%/năm và tăng mạnh giai đoạn 2009-2011 từ mức 134.7% năm 2009 lên 180% 
năm 2011. Khi phân tích vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì không thể không 
tính tới tương quan sức mua giữa các đồng tiền được thể hiện qua REER. Quan sát đồ 
thị ta thấy so với năm 2000, vị thế cạnh tranh của Việt Nam duy trì ở mức cao trong 
34 | P a g e 
giai đoạn 2000-2007, đạt đỉnh điểm tại năm 2003 với mức 107.7. Tuy nhiên từ 2007 
đến nay, vị thế cạnh tranh Việt Nam đã có xu hướng giảm rõ rệt từ 102,5 vào năm 
2007, tới năm 2011 chỉ còn 95 - nghĩa là VND đang được định giá thực cao 5%. Ở đây 
ta có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rằng VND bị mất giá so với USD nhưng lại tăng 
giá so với các đồng tiền khác. Điều này được lý giải rằng VND mất giá với USD, 
nhưng mức mất giá còn thấp hơn các quốc gia khác và giai đoạn này USD bị mất giá 
so với hầu hết các đồng tiền lớn trên thế giới. Như vậy, có thể nói so với một số nước 
bạn hàng, VND đang khá sát giá trị thực. 
2.2. Diễn biến lạm phát giai đoạn 2000-2012 
Hình 2.3: Diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn 2000-2012 
4,1 3,3
7,9 8,4 7,5
8,4
23,1
6,7
5
10
15
20
25
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế 
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, trong giai đoạn 2000-2002, lạm phát có một sự tăng 
nhẹ, từ mức giảm phát - 0,8% tăng lên mức lên mức 3,3% năm 2003. Nhưng sau đó 
lạm phát có sự tăng mạnh lên 7,9% năm 2004, nguyên nhân của đợt lạm phát này là 
do: (1) Tác động của tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao giai đoạn 
trước đó; (2) sự tăng lên của tổng cầu sau cuộc khủng hoảng cùng với sự tăng lên của 
tiền lương danh nghĩa ở các khu vực kinh tế khiến cho giá cả tăng lên; (3) do biến 
động của thế giới làm cho giá cả một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam tăng cao… 
kết hợp với dịch bệnh năm 2003 đã tạo nên sự tăng mạnh cung, đẩy lạm phát tăng cao. 
Trước diễn biến lạm phát tăng cao, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt 
chặt cho lãi suất tăng lên chút ít, duy trì ổn định tỷ giá nhưng lạm phát vẫn ở mức cao 
trong giai đoạn 2005 - 2008 và đạt mức đỉnh điểm 23,12% vào năm 2008. Sự tăng 
mạnh của lạm phát trong giai đoạn này do nhiều nguyên nhân, nhất là từ phía cung. 
Trong đó gồm có: sự tăng mạnh của tiền lương, sự gia tăng giá cả hàng hóa nhập khẩu, 
chính sách quản lý lõng lẽo, chính sách tỷ giá cứng nhắc. Ngoài ra, tác động của chính 
sách gia nhập WTO năm 2006, đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng 
mạnh, làm cho cung USD tăng mạnh. Để giữ tỷ giá không bị xuống mức quá thấp, 
NHNN đã phải mua lượng ngoại tệ lớn tức bán ra lượng nội tệ nhiều, mặc dù NHNN 
35 | P a g e 
đã thực hiện chính sách hấp thụ nội tệ về, nhưng không nhiều do đó một lượng nội tệ 
lớn đã được bơm vào nền kinh tế, lạm phát tăng cao. Đây chính là mặt trái của chính 
sách tỷ giá cứng nhắc, tỷ giá bị kìm hãm ở mức thấp trong thời gian dài và khi NHNN 
không còn khả năng duy trì tỷ giá nữa thì lạm phát đã bùng nổ lên cao đặc biệt trong 
giai đoạn khủng hoảng. 
Đến năm 2009, tưởng chừng với tín dụng và cung tiền tăng mạnh mẽ sau gói 
kích cầu của chính phủ cùng với sự tăng mạnh của tỷ giá sẽ làm cho lạm phát tiếp tục 
tăng cao nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần làm giảm lạm phát ở 
Việt Nam. Tỷ lệ lạm phát Việt Nam chỉ ở mức 6,72%. 
Năm 2010, việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010 và biến động 
của thị trường vàng quốc tế là một trong số những nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm 
phát tăng. 
Năm 2011, lạm phát lên mức khá cao 18,68%. Theo nghiên cứu của các nhà 
kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động 
tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ 
đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của 
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu 
đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, 
cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác 
động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát 
là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao 
hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. 
Năm 2012, theo tinh thần Nghị quyết 11 của chính phủ, NHNN đã tiến hành 
kiểm soát tốt cung tiền và tín dụng đi kèm với ổn định tỷ giá đã góp phần làm cho lạm 
phát giảm dần và đạt mức 6,81% năm 2012. Tuy nhiên nguyên nhân chính làm cho 
lạm phát giảm là do tổng cầu tiếp tục giảm. Trong giai tình hình kinh tế đầy biến động, 
suy giảm mạnh, người dân lại thắt chặt chi tiêu, nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể 
thì việc giảm lạm phát chưa hẳn là tín hiệu tốt. 
2.3. Tác động của tỷ giá tới lạm phát 
Về mặt lý thuyết, như đã phân tích trên, tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát qua bốn 
kênh. Tuy nhiên trên thực tế, liệu có phải ổn định tỷ giá luôn đạt được mục tiêu kiểm 
soát lạm phát ? 
Hình 2.4 cho ta thấy sự biến động của tỷ giá và lạm phát giai đoạn 2000-2012. 
Năm 2000, 2001 mặc dù tỷ giá tăng nhưng Việt Nam đã rơi vào tình trạng giảm phát, 
như vậy nguyên nhân chính của tình trạng này là do tác động cuộc khủng hoảng tài 
chính châu Á (1997), còn tác động tỷ giá tới lạm phát là hạn chế. Giai đoạn 2001-
2003, tỷ giá và lạm phát được được duy trì tương đối ổn định, điều này góp phần 
không nhỏ tới ổn định và phát triển kinh tế. Giai đoạn tiếp theo 2003-2007, Chính phủ 
đã áp dụng chính sách tỷ giá ổn định và đã kiểm soát tốt lạm phát. Nhưng giai đoạn 
36 | P a g e 
khủng hoảng 2008-2011, chính sách tỷ giá ổn định đã bắt đầu gây tác động ngược, lạm 
phát tăng cao đột ngột tới mức 23,1% vào năm 2008 và 18,7% năm 2011. 
Hình 2.4: Diễn biến của tỷ giá USD/VND và lạm phát trong giai đoạn 2000-2012 
Nguồn : Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia 
 Điều này được giải thích rằng: năm 2006, lạm phát giảm nhẹ, nhưng khi Chính 
phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát đã dẫn tới lạm 
phát thực tế tăng cao ở giai đoạn tiếp theo chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá có tác 
động cộng hưởng tới lạm phát chứ không tác động trực tiếp mà nhân tố tác động trực 
tiếp tới lạm phát là cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Đồ thị 2 cho thấy sự tăng 
lên mạnh mẽ của cung tiền và tăng trưởng tín dụng năm 2007 đã tác động lạm phát 
2008 tăng lên cao ở mức gần 24%. 
Hình 2.5: Diễn biến lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng của Việt Nam 
Nguồn: Tổng hợp IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281 và NHNN 
 Sự tăng cao của lạm phát năm 2008, ngoài do các nguyên nhân thuộc chính 
sách tiền tệ kể trên, còn phải kể đến nguyên nhân: chính sách điều hành tỷ giá 
USD/VND ‘neo’ trong giai đoạn khá dài, trong khi từ năm 2006 tới nay, đồng USD 
giảm giá mạnh (khoảng 15%) so với đồng tiền khác, trong khi đó đồng VND lại mất 
giá so với USD, điều này càng làm cho mức độ mất giá của VND với các đồng tiền 
-5
0
5
10
15
20
25
0
5000
10000
15000
20000
25000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Axis Title
USD/VND Lạm phát
37 | P a g e 
mạnh khác. Điều này làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đăt đỏ hơn. Mặt khác, Việt 
Nam là một quốc gia có tỷ trọng xuất khẩu cao, đặc biệt là trong những năm gần đây, 
tỷ trọng nhập khẩu/GDP trung bình giai đoạn 2000-2010 là 75,98% GDP do đó, chi 
phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, kéo theo giá thành sản xuất tăng, lạm phát tăng 
(Hình 2.5). Như vậy, khi tỷ giá tăng liên tục làm chỉ số giá hàng nhập khẩu tăng, kéo 
theo tăng lạm phát. 
Hình 2.6: Tác động của chỉ số giá hàng nhập khẩu tới lạm phát (1997-2011) 
Nguồn: Tổng hợp từ IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281; 
 Tổng cục thống kê 
 Ở Việt Nam, NHNN cam kết một tỷ giá danh nghĩa và phải chấp nhận lạm phát 
cao hơn. Năm 2009, 2010, nhờ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 làm 
giá cả hàng hóa giảm, tổng cầu giảm, giúp Việt Nam giảm lạm phát. Tuy nhiên với gói 
kích cầu giữa năm 2009 của Chính phủ cùng với mở rộng cung tiền và tín dụng khiến 
lạm phát gia tăng trở lại năm 2010 và 2011. Bên cạnh đó, việc Chính phủ phá giá VND 
trong năm 2009 cũng đóng góp đáng kể trong sự gia tăng lạm phát năm 2010. 
 Như vậy, không phải khi nào ổn định tỷ giá cũng đem lại mục tiêu kiểm soát 
lạm phát. Nguyên nhân của sự biến đổi của lạm phát là do các nguyên nhân liên quan 
tới nguồn gốc lạm phát. Theo bài nghiên cứu định lượng của Nguyễn Đức Thành 
(2009), Camen (2006) cho thấy nguyên nhân gây lạm phát của Việt Nam giai đoạn qua 
là do sự gia tăng quá mức của cung tiền và tín dụng. Do chính sách tiền tệ lỏng kết hợp 
với gia tăng tín dụng dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn kinh tế tiếp theo. Do đó, 
trong giai đoạn này, tác động của chính sách tỷ giá sẽ không mạnh mẽ trực tiếp mà chỉ 
có tác động cộng hưởng làm tăng thêm lạm phát, điều này lý giải tại sao giai đoạn 
2007-2008, tỷ giá được duy trì ổn định nhưng lạm phát vẫn tăng cao. Tuy nhiên, trong 
các giai đoạn mà nền kinh tế được kiểm soát tốt, ổn định tỷ giá lại góp phần kiểm soát 
lạm phát (giai đoạn cuối năm 2011). 
38 | P a g e 
 Ngoài ra, sự thay đổi lạm phát còn do một số nhân tố khác ảnh hưởng, chẳng 
hạn, năm 2009, mặc dù cung tiền và tín dụng tăng đáng kể, VND bị phá giá mạnh 
(khoảng 36%) nhưng lạm phát vẫn được kiểm soát ở mức thấp do tác động của khủng 
hoảng kinh tế và sự sụt giảm của tổng cầu. 
 Tóm lại, chính sách tỷ giá không tác động độc lập tới lạm phát mà nó luôn chịu 
ảnh hưởng bởi cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng cầu. Như vậy, muốn 
kiểm soát lạm phát thì cần tiến hành kết hợp ổn định tỷ giá và kiểm soát cung tiền và 
tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như điều tiết vĩ mô nhằm kiểm soát tổng cầu. Và khi 
tổng cầu và các chính sách tiền tệ được kiểm soát hợp lý thì việc điều chính tỷ giá 
không nhất định gây nên lạm phát. Chính sự lưỡng lự, không nhanh chóng trong việc 
điều chỉnh tỷ giá mới làm trầm trọng hơn lạm phát kỳ vọng và có thể gây ra lạm phát 
khi các chính sách vĩ mô không đi theo hướng kiểm soát lạm phát. 
3. Những rủi ro tiềm ẩn và một số kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ 
giá giai đoạn 2013-2015. 
3.1. Những rủi ro tiềm ẩn của việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn 
2013-2015 
Có thể nói diễn biến tỷ giá USD/VND trong 10 tháng đầu năm 2013 là khá ổn 
định, chỉ có vài biến động nhỏ mang tính thời vụ và tâm lý nhất thời, tuy nhiên thị 
trường vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro biến động gây áp lực đối với việc điều hành chính 
sách tỷ giá trong thời gian tới. Cụ thể: 
(i), Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với điểm 
thắt lớn nhất là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao, vấn đề hàng tồn kho của 
các doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 
thấp với 5,03% năm 2012 và theo kết quả dự báo (kịch bản trung bình) của Viện Hàn 
lâm Khoa học xã hội Việt Nam (cập nhật 24/12/2012) về triển vọng tăng trưởng kinh 
tế Việt Nam năm 2013 là 5,31%, năm 2014 là 5,63% và năm 2015 (5,92%). Trong 
trường hợp kiên định mục tiêu hàng đầu “ổn định kinh tế vĩ mô” trong toàn bộ giai 
đoạn 2013-2015 thì nhiều khả năng kịch bản tăng trưởng thấp sẽ xảy ra ( tăng trưởng 
năm 2013 là 4,92%, năm 2014 là 5,17% và năm 2015 là 5,33%). 
(ii), Vấn đề thâm hụt thương mại là một trong những nguyên nhân gây áp lực 
đối với tỷ giá. Trong năm 2012, Việt Nam xuất siêu 780 triệu USD, tuy nhiên, trạng 
thái này lại không bền vững, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cầu trong 
nước suy giảm mạnh dẫn tới nhu cầu nhập khẩu giảm. Đầu năm 2013, nhập siêu đã 
quay trở lại, kết hợp với việc nhu cầu nước ngoài giảm mạnh (đặc biệt là khu vực 
Euro, Mỹ) và sự tăng lên của các hàng rào thương mại, khiến việc xuất khẩu của Việt 
Nam gặp khó khăn hơn. Đây cũng là thách thức trong việc điều hành chính sách trong 
thời gian tiếp theo. 
(iii), Những bất ổn về chính trị của khu vực Trung Đông có thể gây ra những cú 
sốc về giá dầu nguyên liệu, khiến giá cả thế giới tăng mạnh, và với điều kiện là nước 
hội nhập sâu với thế giới và chấp nhận giá cả như Việt Nam hiện nay, có thể khiến giá 
cả trong nước bị ảnh hưởng, từ đó gây ra áp lực về lạm phát. 
39 | P a g e 
(iv), Lạm phát trong năm 2012 và 10 tháng đầu năm 2013 tuy được kiềm chế ở 
mức thấp nhưng nó vẫn luôn thường trực nguy cơ tăng trở lại. Vấn đề lạm phát luôn 
được xem là con ngựa bất kham đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. 
Trước tình hình đó, đặt ra nhu cầu cấp thiết đối với các nhà lãnh đạo trong việc điều 
hành các chính sách tỷ giá hợp lý để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định 
kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Trong phần tiếp theo, nhóm tác giả xin đưa ra một số 
kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong thời gian tới. 
3.2. Một số kiến nghị đối với NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong 
giai đoạn 2013-2015 
Thứ nhất, về cơ chế điều hành chính sách tỷ giá, NHNN nên điều hành chính 
sách tỷ giá linh hoạt tùy theo diễn biến của thi trường trong nước và thế giới, giảm dần 
việc sử dụng các công cụ mang tính hành chính. Kinh nghiệm từ năm 2012 cho thấy, 
việc sử dụng thành công công cụ lãi suất đã góp phần kiềm chế và kiểm soát được tình 
trạng lạm phát tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu về cơ chế tỷ giá và chính 
sách mục tiêu lạm phát đã chỉ ra rằng, một quốc gia sử dụng công cụ lãi suất nhằm 
điều tiết thị trường thì phải chấp nhận một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn trong điều kiện 
tài khoản vốn không bị kiểm soát hoàn toàn và sử dụng chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ hạn 
chế tốt hơn các tác động tiêu cực từ các cú sốc trên thị trường. 
Ngoài ra, trong trường hợp bắt buộc phải phá giá VND, thì NHNN cũng phải 
điều chỉnh tỷ giá mức đủ mạnh để tránh “tâm lý trông chờ phá giá tiếp” và “tâm lý đầu 
cơ” của người dân. Trong năm 2010, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá 2 lần nhưng với mức 
độ nhỏ giọt từ đó tạo tâm lý các nhà nhập khẩu nước ngoài trần trừ trong việc thanh 
toán tiền do lo ngại rủi ro tỷ giá, người dân găm giữ USD để chờ tới lúc tăng giá để 
bán. Tuy nhiên, việc phá giá cũng cần phải được cân nhắc kĩ bởi nước ta đang trong 
thời kì chống lạm phát, cộng với việc kinh tế thế giới đang phục hồi, lạm phát thế giới 
tăng lên, thì việc phá giá có thể dẫn tới nhân đôi hiệu ứng nhập khẩu hàng hóa từ bên 
ngoài vào, khiến việc kiềm chế lạm phát trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, khi phá giá 
cũng cần phải cân nhắc thật kĩ bởi trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt 
Nam thì hàm lượng nhập khẩu chiếm tới 70% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, làm 
cho chi phí sản xuất tăng, từ đó hàng Việt Nam lại kém cạnh tranh hơn. Mặt khác, nếu 
lợi ích thu được từ tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu lại nhỏ hơn chi phí tăng thêm 
cho hàng nhập khẩu sẽ làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt lớn, làm gia tăng áp 
lực lạm phát trong nền kinh tế. 
Thứ hai, NHNN cần công khai, minh bạch hóa thông tin trong việc niêm yết tỷ 
giá bình quân liên ngân hàng để tạo niềm tin cho người dân. Vì trên thực tế, việc 
NHNN tính tỷ giá trung tâm từ những ngân hàng nào, với tỷ trọng bao nhiêu không hề 
được công bố thông tin, điều này gây ra sự nghi ngờ trong việc liệu NHNN có thực sự 
đã niêm yết tỷ giá sát với tỷ giá thị trường không. Việc NHNN minh bạch hóa thông 
tin sẽ làm tăng niềm tin của người dân vào Nhà nước trong việc điều hành chính sách, 
và tỷ giá trung tâm càng sát với cung cầu bao nhiêu thì tính hiệu quả của chính sách tỷ 
giá càng được nâng lên. 
40 | P a g e 
Thứ ba, để kiểm soát lạm phát thành công, NHNN cần có sự độc lập tương đối 
trong cả hai khía cạnh: độc lập mục tiêu và độc lập hoạt động để có thể đảm bảo thực 
hiện một “chính sách tiền tệ đơn mục tiêu” và “tính công khai minh bạch” trong hoạt 
động. NHNN có thể đề ra mục tiêu ví dụ lạm phát dưới 6% và nhất quán thực hiện các 
biện pháp để đạt được mục tiêu đó mà không bị chi phối bởi các Nghị quyết của Quốc 
hội hay Chính Phủ đề ra. Việc NHNN vừa phải đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 
thấp đồng thời cũng phải đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế do nhà nước đề ra là rất 
khó thực hiện. Giữa hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm 
chế lạm phát thì chỉ nên chọn một trong hai, để đạt được mục tiêu lạm phát thấp thì 
đồng nghĩa với việc phải chấp nhận một mức tăng trưởng thấp, và ngược lại. Tuy 
nhiên, hiện nay chúng ta theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu, do vậy hiệu quả của 
nó vẫn chưa cao. Trước bối cảnh nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn, NHNN nên kiên 
định mục tiêu của chính sách tiền tệ, thiên về ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đạt được lạm 
phát mục tiêu hơn là kích cầu để tăng trưởng kinh tế. Bởi theo một nghiên cứu của 
World Bank đã chỉ ra rằng sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam 
trong ngắn hạn cao hơn đáng kể so với mức trung bình của thế giới. Hay nói cách 
khác, với cùng một tỷ lệ tăng trưởng thì Việt Nam sẽ phải gánh chịu một mức lạm phát 
cao hơn. Vì thế nhóm tác giả đề xuất, trong giai đoạn này NHNN vẫn nên thực hiện 
các chính sách ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. 
Thứ tư, NHNN cần cân đối việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ 
giá. Bởi trong bộ ba bất khả thi thì với điều kiện dòng vốn FDI đang chảy vào Việt 
Nam khá nhiều, chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thanh toán thì việc kiểm soát nguồn 
vốn là điều không thể. Do vậy, NHNN chỉ có thể thực hiện tốt hai mục tiêu còn lại. 
Đối với chính sách tỷ giá, NHNN cần duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng đồng thời 
cũng phải kiểm soát chặt chẽ và có các biện pháp xử lý kịp thời. Đối với chính sách 
tiền tệ, khi NHNN sử dụng các công cụ của mình để can thiệp vào thị trường cần phải 
tính toán tới các tác động tới tỷ giá để có mức điều chỉnh hợp lý tránh các tác động 
tiêu cực tới thị trường. Như đã phân tích ở trên thì chính sách tiền tệ có ảnh hưởng trực 
tiếp tới lạm phát (tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng), còn chính sách tỷ giá chỉ có 
tác động cộng hưởng tới lạm phát. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN nên thực hiện 
chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, thận trọng và hiệu quả hơn để đạt được mục tiêu 
vĩ mô đã đề ra. 
Hơn nữa, NHNN cũng cần phải có lượng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn để ổn định thị 
trường ngoại hối, đồng thời sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ đặc 
biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tránh nguy cơ gây lạm phát cho nền kinh tế. 
Thứ năm, NHNN cần quản lý thị trường tự do chặt chẽ hơn, nhằm hạn chế các 
giao dịch trái phép, các hoạt động đầu cơ, gây ảnh hưởng tới việc điều hành chính sách 
tỷ giá. Cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành khác nhằm xử lý nghiêm các hoạt 
động kinh doanh ngoại hối trái phép, ngăn chặn các tác động tiêu cực tới thị trường. 
Hơn nữa, NHNN cũng cần quản lý thị trường vàng một cách linh hoạt hơn. Việc quản 
lý thị trường vàng mang tính hành chính như hiện nay sẽ chỉ là biện pháp mang tính 
41 | P a g e 
ngắn hạn, chưa giải quyết được sự chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và giá 
vàng thế giới, điều này có thể tạo điều kiên cho các hoạt động ngầm thực hiện, gây xáo 
trộn tới thị trường ngoại hối. Thực tế, việc cung ứng vàng của NHNN sẽ khó có thể 
thực hiện trong dài hạn, bởi nhu cầu vàng trên thị trường vẫn rất lớn mặc dù đã qua 
thời điểm tất toán trạng thái vàng ngày 30/6/2013 khá lâu. Hơn nữa, việc NHNN nhập 
khẩu vàng nguyên liệu cũng ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối quốc gia, từ đó có thể gây 
ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách tỷ giá. 
Kết luận: 
 Hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì 
ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam bên cạnh các chính sách vĩ mô khác như chính 
sách tài khóa, chính sách tiền tệ…Và để điều hành chính sách tỷ giá một cách thành 
công thì việc nhận định chính xác những diễn biến của thị trường là vô cùng quan 
trọng. Bên cạnh đó, cần phối hợp đồng bộ cùng các chính sách vĩ mô, đặc biệt chính 
sách cung tiền, tín dụng và điều hành tổng cầu vĩ mô. Trong điều kiện kinh tế Việt 
Nam vẫn còn nhiều bất ổn thì việc duy trì ổn định kinh tế, thực hiện lạm phát mục tiêu 
là vô cùng quan trọng. Do đó, trong thời gian tới, NHNN phải rất nhanh nhạy, linh 
hoạt trong việc sử dụng các công cụ của mình trong việc đưa ra các chính sách phù 
hợp với biến động của thị trường để đạt được mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra. 
Tài liệu tham khảo: 
1. Ths.Nguyễn Thị Thái Hưng, Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở 
Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 118, tháng 2 năm 2012. 
2. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2001, Giáo trình Tài Chính quốc tế, NXB thống kê. 
3. Nguyễn Hải An, Điều hành chính sách tỷ giá nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ 
mô ở Việt Nam, Công trình tham gia nghiên cứu đại học ngoại thương. 
4. 
20112013/184157.vgp 
5. Tổng cục Thống kê. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tacdong_tygia_3_1861.pdf tacdong_tygia_3_1861.pdf