Tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2012

Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từtỷgiá tới lạm phát Thứnhất,cơchế điều hành lãi suất: vềcơbản, lãi suất là giá cảcủa quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sửdụng trảcho người sởhữu nó. Vì là giá cảnên nó được quyết định bởi cung cầu. Nhưng nếu nhưnhà nước can thiệp điều chỉnh lãi suất vì một mục đích nào đó sẽlàm méo mó thịtrường, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư. Khi đó, dòng vốn trực tiếp từnước ngoài đổvào sẽgiảm xuống làm giảm nguồn cung ngoại tệvà cán cân tổng thểkhông được cải thiện. Thứhai, mức độdi chuyển vốn quốc tếthểhiện khảnăng thay thếcho nhau giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độdi chuyển vốn hoàn hảo khi tài sản trong nước và tài sản nước ngoài có thểhoàn toàn thay thếcho nhau với chi phí thấp và nhanh chóng. Mức độdi chuyển vốn không hoàn hảo khi có những rào cản về di chuyển vốn nhưnhững quy định pháp luật, chi phí di chuyển vốn cao, thời gian thực hiện di chuyển vốn chậm

pdf13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29 | P a g e TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2012 Lương Thị Nga-K14NHTME Đào Thị Thu Hiền-K14NHTME Nguyễn Mạnh Chiến-K14NHTMA Một trong những biến số vĩ mô được các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp, người dân quan tâm là lạm phát. Gần đây nhất, năm 2012, lạm phát Việt Nam ở mức khá thấp 6,81% - một con số khá nhỏ, có thể nói là trong tầm kiểm soát- nhưng đây có phải là tín hiệu tốt cho nền kinh tế không? Bởi nguyên nhân chính của mức lạm phát này là do sự sụt giảm mạnh của tổng cầu. Trong điều kiện kinh tế đầy khó khăn, không lối thoát, người dân tiếp tục thắt chặt chi tiêu, doanh nghiệp giải thể, phá sản nhiều hơn… Đó là lý do tại sao, mặc dù trong thời gian qua chính sách tỷ giá được duy trì khá ổn định nhưng mỗi khi đưa ra bất kỳ chính sách tỷ giá nào, các nhà chức trách luôn phải quan tâm tới tác động của nó tới lạm phát. Trong bài viết này, nhóm tác giả phân tích các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát và các nhân tố ảnh hưởng tới các kênh đó, sau đó đi sâu phân tích thực trạng tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát, nhận định những rủi ro tiềm ẩn và đưa ra khuyến nghị cho điều hành chính sách tỷ giá thời gian tới. 1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát 1.1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát Về mặt lý thuyết, tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát thông qua 4 kênh chính: (1) cách tiếp cận tiền tệ, nghiên cứu tác động của tỷ giá tới cung cầu tiền tệ, qua đó đánh giá tác động tới lạm phát; (2) cách tiếp cận theo trường phái Keynes, nghiên cứu tác động của tỷ giá qua kênh tổng cung- tổng cầu; (3) cách tiếp cận ảnh hưởng của tỷ giá tới lạm phát theo kênh mức giá chung; (4) cách tiếp cận ảnh hưởng của tỷ giá tới lạm phát kỳ vọng. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát trong nền kinh tế mở có thể mô tả như sơ đồ sau: |Xem trang sau) Qua sơ đồ, tỷ giá tác động gián tiếp đến lạm phát chủ yếu thông qua các con đường như xuất khẩu ròng, cán cân thanh toán, giá hàng hóa nhập khẩu và đây đều là các mối quan hệ đồng biến. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến lạm phát thông qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi nền kinh tế mở đều tuân theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có những quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt. Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu ròng đó là khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài, xuất khẩu ròng tăng lên, cán cân thương mại có thể được cải thiện; do xuất khẩu ròng là một thành phần của tổng cầu 30 | P a g e AD, nên khi xuất khẩu ròng tăng, đường AD dịch chuyển lên trên (trong mô hình AD, AS), làm tăng mức giá và sản lượng cân bằng, tác động làm lạm phát gia tăng. Sơ đồ 1: Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán. Cơ chế truyền dẫn này trải qua hai giai đoạn: - Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên, góp phần cải thiện tình trạng cán cân thương mại. Mặt khác khi xuất nhập khẩu ròng tăng, đường IS dịch chuyển sang phải (mô hình IS-LM), lãi suất trong nước tăng lên, trong ngắn hạn luồng vốn đổ vào trong nước tăng (nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp) làm cán cân vốn tăng lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện. - Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là luồng vốn nước ngoài đổ vào trong nước tăng lên, lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: (1) NHTW sẽ phải cung ứng thêm tiền để mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, mặt khác để tăng cường dự trữ ngoại hối quốc gia. Như vậy, tác động không mong muốn là cung tiền tăng lên, đường LM dịch chuyển sang phải (mô hình IS- LM) làm cân bằng tiền hàng trong nền kinh tế thay đổi, lạm phát sẽ tăng lên; (2) nếu NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng bản tệ được định giá thấp để khuyến khích xuất khẩu và giả định rằng dự trữ ngoại hối đã đủ mức cần thiết và không cần tăng thêm, trong trường hợp cán cân tổng thể thặng dư thì vẫn có một lượng ngoại tệ tăng lên trong nền kinh tế. Với những nước có nền kinh tế bị đôla hóa ở mức độ cao, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế trong trường hợp này vẫn tăng lên vì nó bao gồm hai phần là: Tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và tổng phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ. Khi tổng phương tiện thanh toán tăng lại gây sức ép lên giá cả và đẩy lạm phát tăng lên. Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Khi tỉ giá tăng làm cho giá hàng nhập khẩu tăng, từ đó dẫn đến mặt bằng giá hàng hóa trong nước hay chỉ số CPI tăng lên. Ngoài ra, một số hàng hóa nhập khẩu cũng là nguyên liệu đầu vào của một số đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng trong nước làm giá các loại hàng hòa này tăng lên khi chưa có nguồn nguyên liệu thay thế và cũng tương tự đẩy giá hàng hóa trong nước tăng lên. Kênh này có tác dụng mạnh đối với những quốc gia có tỉ trọng nhập khẩu/GDP lớn. Xuất nhập khẩu ròng ( NX) Cán cân t hanh toán Giá hàng nh ậ p kh ẩ u T ỷ giá danh nghĩa Tổng cầu nền kinh tế ( AD) L ạ m phát M ứ c cung ti ền M 2) ( 31 | P a g e Kênh thứ tư: tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát kỳ vọng thông qua tâm lý. Kênh này có tác động mạnh tới những quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, dân trí thấp, nền kinh tế chứa đựng nhiều bất ổn, đặc biệt là tỷ lệ lạm phát tăng cao, không ổn định trong nhiều năm đã khiến người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ. Thay bằng việc tiết kiệm/giữ đồng nội tệ họ chuyển sang giữ các tài sản khác như vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh. Lúc này chỉ cần một chính sách giảm giá đồng nội tệ dự kiến được đưa ra là các ông lớn sẽ đầu cơ, thao túng thị trường ngoại tệ, gây nhiễu loạn thị trường, và làm nhà nước bất lực trong việc quản lý thị trường đầy rủi ro này. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất: về cơ bản, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Vì là giá cả nên nó được quyết định bởi cung cầu. Nhưng nếu như nhà nước can thiệp điều chỉnh lãi suất vì một mục đích nào đó sẽ làm méo mó thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư. Khi đó, dòng vốn trực tiếp từ nước ngoài đổ vào sẽ giảm xuống làm giảm nguồn cung ngoại tệ và cán cân tổng thể không được cải thiện. Thứ hai, mức độ di chuyển vốn quốc tế thể hiện khả năng thay thế cho nhau giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độ di chuyển vốn hoàn hảo khi tài sản trong nước và tài sản nước ngoài có thể hoàn toàn thay thế cho nhau với chi phí thấp và nhanh chóng. Mức độ di chuyển vốn không hoàn hảo khi có những rào cản về di chuyển vốn như những quy định pháp luật, chi phí di chuyển vốn cao, thời gian thực hiện di chuyển vốn chậm. Thứ ba, mức độ nhạy cảm của xuất nhập khẩu với tỷ giá. Độ nhạy cảm này thể hiện ở hệ số co giãn xuất khẩu (X), nhập khẩu (M) với tỷ giá: µx=dX/X + dE/E và µm=dM/M + dE/E Trong đó: X/M là tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu, E là tỉ giá hối đoái. Hệ số co giãn µx/m cho biết tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu thay đổi bao nhiêu khi tỉ giá hối đoái E thay đổi 1 đơn vị. Trên cơ sở đó, Marshall và lerner đã đưa ra điều kiện để phá giá tiền tệ có thể cải thiện cán cân thương mại: “tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu phải lớn hơn 1” tức µx + µM >1. Khi tổng hai hệ số này nhỏ hơn 1, phá giá sẽ làm trầm trọng cán cân thương mai, còn khi bằng 1 thì không có ảnh hưởng. Thứ tư, cơ chế điều hành tỷ giá: Trong cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, mối quan hệ giữa tỷ giá-lãi suất, lãi suất-tỷ giá vận hành khá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. Trong cơ chế tỷ giá cố định hoàn toàn, hay thả nổi có điều tiết, tỷ giá bị ấn định hoặc chậm được điều chỉnh không phản ánh các yếu tố thị trường, tác động của tỷ giá đến xuất khẩu ròng là rất hạn chế hoặc không kịp thời làm thị trường bị méo mó và xuất hiện nhiều khuyết tật. Thứ năm, mức độ đô la hóa của nền kinh tế: Một nền kinh tế có mức độ đô la hóa cao hoặc khả năng thay thế giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài hoàn hảo thì lãi suất nội tệ sẽ không thể độc lập thay đổi dưới tác động của NHTW mà bị chi phối mạnh bởi lãi suất quốc tế. Việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ trở nên thụ động 32 | P a g e và không có nhiều hiệu quả khiến vai trò của ngân hàng nhà nước bị giảm thiểu. Nếu đi kèm với cơ chế tỷ giá kém linh hoạt, tác động của tỷ giá đến thu hút dòng vốn từ nước ngoài đổ vào trong nước bị hạn chế. 2. Thực trạng tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam 2.1. Diễn biến tỷ giá và chính sách tỷ giá thời gian qua Về chính sách tỷ giá, trong thời gian qua, hàng loạt chính sách tỷ giá đã được Nhà nước đưa ra để ổn định tỷ giá, kìm chế lạm phát và phát triển kinh tế : - Quyết định 65/1999/Q Đ–NHNN7 của NHNN về việc thay đổi cách xác định tỷ giá hối đoái chính thức. Theo quyết định này kể từ ngày 26/2/1999, NHNN sẽ không công bố tỷ giá chính thức nữa mà thay vào đó là công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đây chính là một bước tiến quan trọng dẫn đến tự do hóa tiền tệ, và tới năm 2000 nó đã phát huy đầy đủ tác động tới tỷ giá. Như vậy, 2000 là năm bắt đầu cho giai đoạn mới của tỷ giá. - Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN, NHNN chính thức chuyển sang cơ chế tự do hóa ngoại tệ. Các NHTM được tự chủ động quy định các mức lãi suất USD trên cơ sở giao dịch trên thị trường liên ngân hàng Singapore – Sibor… Với chính sách này, tỷ giá đã khá ổn định (năm 2003: 1,7%); thị trường liên ngân hàng có bước phát triển mạnh, năm 2005 doanh số giao dịch đã tăng 29% so với 2004. - Năm 2012, NHNN chính thức tham gia thị trường vàng bằng việc quốc hữu hóa thương hiệu SJC nhằm mục đích giảm sự liên thông giữa thị trường vàng và thị trường ngoại tệ. Ngoài ra việc nhập siêu trong năm 2012 giảm cùng với lượng kiều hối tăng mạnh cũng góp phần ổn định tỷ giá. Và rất nhiều các thông tư khác hướng dẫn thực hiện, ổn định tỷ giá. Về diễn biến tỷ giá Tỷ giá danh nghĩa song phương: ở Việt Nam, tỷ giá danh nghĩa song phương đóng vai trò quan trọng nhất, được các cơ quan chức năng, doanh nghiệp xuất nhập khẩu và người dân coi trọng nhất là tỷ giá danh nghĩa song phương USD/VND bởi USD là đồng tiền được sử dụng chủ yếu, thường xuyên trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đồng thời đây cũng là đồng tiền dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Và một nguyên nhân khác, nền kinh tế Việt Nam bị đô la hóa cao do VND thường xuyên mất giá và người dân có thói quen dự trữ ngoại hối. Từ biểu đồ, có thể nhận thấy, xu hướng tăng nhanh từ 14.168 VND/USD trong năm 2000 lên mức 20.828 VND/USD trong năm 2012. Như vậy qua 12 năm tỷ giá đã tăng 6680 VND, trung bình mỗi năm tăng 555 VND tương đương VND bị mất giá 3.26% so với USD hàng năm. Trong giai đoạn gần đây, từ 2008- 2012, tỷ giá có xu hướng leo thang nhanh, từ 16.645 VND/USD lên mức 20.828 VND/USD. Tốc độ tăng trung bình khá cao 6.08%/năm. Điều này được lý giải do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác động của gói kích cầu năm 2009 và việc hỗ trợ lãi suất ưu đãi mức 4% và sự nới lỏng tín dụng vào năm 2010 làm bùng lên lạm phát và VND bị mất giá một cách đáng kể. 33 | P a g e Hình 2.1: Diễn biến của tỷ giá danh nghĩa song phương trong giai đoạn 2000- 2012 Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ giá đa phương: Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay tỷ giá đa phương ngày càng trở nên quan trọng hơn, nó thể hiện sự tăng lên hay giảm giá của đồng VND đối với phần còn lại của thế giới (tỷ giá danh nghĩa đa phương- Norminal Effective Exchange Rate –NEER); thể hiện sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam với các nước còn lại (tỷ giá thực đa phương- Real Effective Exchange Rate –REER). Hình 2.2: Diễn biến tỷ giá đa phương (danh nghĩa và thực) trong giai đoạn 2000-2011 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 % Tỷ giá danh nghĩa đa phương Tỷ giá thực đa phương Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ NEER tăng đáng kể giai đoạn 2001- 2009 với mức tăng trung bình 4.1%/năm và tăng mạnh giai đoạn 2009-2011 từ mức 134.7% năm 2009 lên 180% năm 2011. Khi phân tích vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì không thể không tính tới tương quan sức mua giữa các đồng tiền được thể hiện qua REER. Quan sát đồ thị ta thấy so với năm 2000, vị thế cạnh tranh của Việt Nam duy trì ở mức cao trong 34 | P a g e giai đoạn 2000-2007, đạt đỉnh điểm tại năm 2003 với mức 107.7. Tuy nhiên từ 2007 đến nay, vị thế cạnh tranh Việt Nam đã có xu hướng giảm rõ rệt từ 102,5 vào năm 2007, tới năm 2011 chỉ còn 95 - nghĩa là VND đang được định giá thực cao 5%. Ở đây ta có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rằng VND bị mất giá so với USD nhưng lại tăng giá so với các đồng tiền khác. Điều này được lý giải rằng VND mất giá với USD, nhưng mức mất giá còn thấp hơn các quốc gia khác và giai đoạn này USD bị mất giá so với hầu hết các đồng tiền lớn trên thế giới. Như vậy, có thể nói so với một số nước bạn hàng, VND đang khá sát giá trị thực. 2.2. Diễn biến lạm phát giai đoạn 2000-2012 Hình 2.3: Diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn 2000-2012 4,1 3,3 7,9 8,4 7,5 8,4 23,1 6,7 5 10 15 20 25 Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế Nhìn vào biểu đồ ta thấy, trong giai đoạn 2000-2002, lạm phát có một sự tăng nhẹ, từ mức giảm phát - 0,8% tăng lên mức lên mức 3,3% năm 2003. Nhưng sau đó lạm phát có sự tăng mạnh lên 7,9% năm 2004, nguyên nhân của đợt lạm phát này là do: (1) Tác động của tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao giai đoạn trước đó; (2) sự tăng lên của tổng cầu sau cuộc khủng hoảng cùng với sự tăng lên của tiền lương danh nghĩa ở các khu vực kinh tế khiến cho giá cả tăng lên; (3) do biến động của thế giới làm cho giá cả một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam tăng cao… kết hợp với dịch bệnh năm 2003 đã tạo nên sự tăng mạnh cung, đẩy lạm phát tăng cao. Trước diễn biến lạm phát tăng cao, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt cho lãi suất tăng lên chút ít, duy trì ổn định tỷ giá nhưng lạm phát vẫn ở mức cao trong giai đoạn 2005 - 2008 và đạt mức đỉnh điểm 23,12% vào năm 2008. Sự tăng mạnh của lạm phát trong giai đoạn này do nhiều nguyên nhân, nhất là từ phía cung. Trong đó gồm có: sự tăng mạnh của tiền lương, sự gia tăng giá cả hàng hóa nhập khẩu, chính sách quản lý lõng lẽo, chính sách tỷ giá cứng nhắc. Ngoài ra, tác động của chính sách gia nhập WTO năm 2006, đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh, làm cho cung USD tăng mạnh. Để giữ tỷ giá không bị xuống mức quá thấp, NHNN đã phải mua lượng ngoại tệ lớn tức bán ra lượng nội tệ nhiều, mặc dù NHNN 35 | P a g e đã thực hiện chính sách hấp thụ nội tệ về, nhưng không nhiều do đó một lượng nội tệ lớn đã được bơm vào nền kinh tế, lạm phát tăng cao. Đây chính là mặt trái của chính sách tỷ giá cứng nhắc, tỷ giá bị kìm hãm ở mức thấp trong thời gian dài và khi NHNN không còn khả năng duy trì tỷ giá nữa thì lạm phát đã bùng nổ lên cao đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng. Đến năm 2009, tưởng chừng với tín dụng và cung tiền tăng mạnh mẽ sau gói kích cầu của chính phủ cùng với sự tăng mạnh của tỷ giá sẽ làm cho lạm phát tiếp tục tăng cao nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam. Tỷ lệ lạm phát Việt Nam chỉ ở mức 6,72%. Năm 2010, việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010 và biến động của thị trường vàng quốc tế là một trong số những nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm phát tăng. Năm 2011, lạm phát lên mức khá cao 18,68%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Năm 2012, theo tinh thần Nghị quyết 11 của chính phủ, NHNN đã tiến hành kiểm soát tốt cung tiền và tín dụng đi kèm với ổn định tỷ giá đã góp phần làm cho lạm phát giảm dần và đạt mức 6,81% năm 2012. Tuy nhiên nguyên nhân chính làm cho lạm phát giảm là do tổng cầu tiếp tục giảm. Trong giai tình hình kinh tế đầy biến động, suy giảm mạnh, người dân lại thắt chặt chi tiêu, nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể thì việc giảm lạm phát chưa hẳn là tín hiệu tốt. 2.3. Tác động của tỷ giá tới lạm phát Về mặt lý thuyết, như đã phân tích trên, tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát qua bốn kênh. Tuy nhiên trên thực tế, liệu có phải ổn định tỷ giá luôn đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát ? Hình 2.4 cho ta thấy sự biến động của tỷ giá và lạm phát giai đoạn 2000-2012. Năm 2000, 2001 mặc dù tỷ giá tăng nhưng Việt Nam đã rơi vào tình trạng giảm phát, như vậy nguyên nhân chính của tình trạng này là do tác động cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997), còn tác động tỷ giá tới lạm phát là hạn chế. Giai đoạn 2001- 2003, tỷ giá và lạm phát được được duy trì tương đối ổn định, điều này góp phần không nhỏ tới ổn định và phát triển kinh tế. Giai đoạn tiếp theo 2003-2007, Chính phủ đã áp dụng chính sách tỷ giá ổn định và đã kiểm soát tốt lạm phát. Nhưng giai đoạn 36 | P a g e khủng hoảng 2008-2011, chính sách tỷ giá ổn định đã bắt đầu gây tác động ngược, lạm phát tăng cao đột ngột tới mức 23,1% vào năm 2008 và 18,7% năm 2011. Hình 2.4: Diễn biến của tỷ giá USD/VND và lạm phát trong giai đoạn 2000-2012 Nguồn : Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia Điều này được giải thích rằng: năm 2006, lạm phát giảm nhẹ, nhưng khi Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát đã dẫn tới lạm phát thực tế tăng cao ở giai đoạn tiếp theo chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá có tác động cộng hưởng tới lạm phát chứ không tác động trực tiếp mà nhân tố tác động trực tiếp tới lạm phát là cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Đồ thị 2 cho thấy sự tăng lên mạnh mẽ của cung tiền và tăng trưởng tín dụng năm 2007 đã tác động lạm phát 2008 tăng lên cao ở mức gần 24%. Hình 2.5: Diễn biến lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng của Việt Nam Nguồn: Tổng hợp IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281 và NHNN Sự tăng cao của lạm phát năm 2008, ngoài do các nguyên nhân thuộc chính sách tiền tệ kể trên, còn phải kể đến nguyên nhân: chính sách điều hành tỷ giá USD/VND ‘neo’ trong giai đoạn khá dài, trong khi từ năm 2006 tới nay, đồng USD giảm giá mạnh (khoảng 15%) so với đồng tiền khác, trong khi đó đồng VND lại mất giá so với USD, điều này càng làm cho mức độ mất giá của VND với các đồng tiền -5 0 5 10 15 20 25 0 5000 10000 15000 20000 25000 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Axis Title USD/VND Lạm phát 37 | P a g e mạnh khác. Điều này làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đăt đỏ hơn. Mặt khác, Việt Nam là một quốc gia có tỷ trọng xuất khẩu cao, đặc biệt là trong những năm gần đây, tỷ trọng nhập khẩu/GDP trung bình giai đoạn 2000-2010 là 75,98% GDP do đó, chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, kéo theo giá thành sản xuất tăng, lạm phát tăng (Hình 2.5). Như vậy, khi tỷ giá tăng liên tục làm chỉ số giá hàng nhập khẩu tăng, kéo theo tăng lạm phát. Hình 2.6: Tác động của chỉ số giá hàng nhập khẩu tới lạm phát (1997-2011) Nguồn: Tổng hợp từ IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281; Tổng cục thống kê Ở Việt Nam, NHNN cam kết một tỷ giá danh nghĩa và phải chấp nhận lạm phát cao hơn. Năm 2009, 2010, nhờ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 làm giá cả hàng hóa giảm, tổng cầu giảm, giúp Việt Nam giảm lạm phát. Tuy nhiên với gói kích cầu giữa năm 2009 của Chính phủ cùng với mở rộng cung tiền và tín dụng khiến lạm phát gia tăng trở lại năm 2010 và 2011. Bên cạnh đó, việc Chính phủ phá giá VND trong năm 2009 cũng đóng góp đáng kể trong sự gia tăng lạm phát năm 2010. Như vậy, không phải khi nào ổn định tỷ giá cũng đem lại mục tiêu kiểm soát lạm phát. Nguyên nhân của sự biến đổi của lạm phát là do các nguyên nhân liên quan tới nguồn gốc lạm phát. Theo bài nghiên cứu định lượng của Nguyễn Đức Thành (2009), Camen (2006) cho thấy nguyên nhân gây lạm phát của Việt Nam giai đoạn qua là do sự gia tăng quá mức của cung tiền và tín dụng. Do chính sách tiền tệ lỏng kết hợp với gia tăng tín dụng dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn kinh tế tiếp theo. Do đó, trong giai đoạn này, tác động của chính sách tỷ giá sẽ không mạnh mẽ trực tiếp mà chỉ có tác động cộng hưởng làm tăng thêm lạm phát, điều này lý giải tại sao giai đoạn 2007-2008, tỷ giá được duy trì ổn định nhưng lạm phát vẫn tăng cao. Tuy nhiên, trong các giai đoạn mà nền kinh tế được kiểm soát tốt, ổn định tỷ giá lại góp phần kiểm soát lạm phát (giai đoạn cuối năm 2011). 38 | P a g e Ngoài ra, sự thay đổi lạm phát còn do một số nhân tố khác ảnh hưởng, chẳng hạn, năm 2009, mặc dù cung tiền và tín dụng tăng đáng kể, VND bị phá giá mạnh (khoảng 36%) nhưng lạm phát vẫn được kiểm soát ở mức thấp do tác động của khủng hoảng kinh tế và sự sụt giảm của tổng cầu. Tóm lại, chính sách tỷ giá không tác động độc lập tới lạm phát mà nó luôn chịu ảnh hưởng bởi cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng cầu. Như vậy, muốn kiểm soát lạm phát thì cần tiến hành kết hợp ổn định tỷ giá và kiểm soát cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như điều tiết vĩ mô nhằm kiểm soát tổng cầu. Và khi tổng cầu và các chính sách tiền tệ được kiểm soát hợp lý thì việc điều chính tỷ giá không nhất định gây nên lạm phát. Chính sự lưỡng lự, không nhanh chóng trong việc điều chỉnh tỷ giá mới làm trầm trọng hơn lạm phát kỳ vọng và có thể gây ra lạm phát khi các chính sách vĩ mô không đi theo hướng kiểm soát lạm phát. 3. Những rủi ro tiềm ẩn và một số kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ giá giai đoạn 2013-2015. 3.1. Những rủi ro tiềm ẩn của việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2013-2015 Có thể nói diễn biến tỷ giá USD/VND trong 10 tháng đầu năm 2013 là khá ổn định, chỉ có vài biến động nhỏ mang tính thời vụ và tâm lý nhất thời, tuy nhiên thị trường vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro biến động gây áp lực đối với việc điều hành chính sách tỷ giá trong thời gian tới. Cụ thể: (i), Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với điểm thắt lớn nhất là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao, vấn đề hàng tồn kho của các doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Tốc độ tăng trưởng GDP ở mức thấp với 5,03% năm 2012 và theo kết quả dự báo (kịch bản trung bình) của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (cập nhật 24/12/2012) về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2013 là 5,31%, năm 2014 là 5,63% và năm 2015 (5,92%). Trong trường hợp kiên định mục tiêu hàng đầu “ổn định kinh tế vĩ mô” trong toàn bộ giai đoạn 2013-2015 thì nhiều khả năng kịch bản tăng trưởng thấp sẽ xảy ra ( tăng trưởng năm 2013 là 4,92%, năm 2014 là 5,17% và năm 2015 là 5,33%). (ii), Vấn đề thâm hụt thương mại là một trong những nguyên nhân gây áp lực đối với tỷ giá. Trong năm 2012, Việt Nam xuất siêu 780 triệu USD, tuy nhiên, trạng thái này lại không bền vững, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cầu trong nước suy giảm mạnh dẫn tới nhu cầu nhập khẩu giảm. Đầu năm 2013, nhập siêu đã quay trở lại, kết hợp với việc nhu cầu nước ngoài giảm mạnh (đặc biệt là khu vực Euro, Mỹ) và sự tăng lên của các hàng rào thương mại, khiến việc xuất khẩu của Việt Nam gặp khó khăn hơn. Đây cũng là thách thức trong việc điều hành chính sách trong thời gian tiếp theo. (iii), Những bất ổn về chính trị của khu vực Trung Đông có thể gây ra những cú sốc về giá dầu nguyên liệu, khiến giá cả thế giới tăng mạnh, và với điều kiện là nước hội nhập sâu với thế giới và chấp nhận giá cả như Việt Nam hiện nay, có thể khiến giá cả trong nước bị ảnh hưởng, từ đó gây ra áp lực về lạm phát. 39 | P a g e (iv), Lạm phát trong năm 2012 và 10 tháng đầu năm 2013 tuy được kiềm chế ở mức thấp nhưng nó vẫn luôn thường trực nguy cơ tăng trở lại. Vấn đề lạm phát luôn được xem là con ngựa bất kham đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trước tình hình đó, đặt ra nhu cầu cấp thiết đối với các nhà lãnh đạo trong việc điều hành các chính sách tỷ giá hợp lý để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Trong phần tiếp theo, nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong thời gian tới. 3.2. Một số kiến nghị đối với NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2013-2015 Thứ nhất, về cơ chế điều hành chính sách tỷ giá, NHNN nên điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt tùy theo diễn biến của thi trường trong nước và thế giới, giảm dần việc sử dụng các công cụ mang tính hành chính. Kinh nghiệm từ năm 2012 cho thấy, việc sử dụng thành công công cụ lãi suất đã góp phần kiềm chế và kiểm soát được tình trạng lạm phát tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu về cơ chế tỷ giá và chính sách mục tiêu lạm phát đã chỉ ra rằng, một quốc gia sử dụng công cụ lãi suất nhằm điều tiết thị trường thì phải chấp nhận một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn trong điều kiện tài khoản vốn không bị kiểm soát hoàn toàn và sử dụng chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ hạn chế tốt hơn các tác động tiêu cực từ các cú sốc trên thị trường. Ngoài ra, trong trường hợp bắt buộc phải phá giá VND, thì NHNN cũng phải điều chỉnh tỷ giá mức đủ mạnh để tránh “tâm lý trông chờ phá giá tiếp” và “tâm lý đầu cơ” của người dân. Trong năm 2010, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá 2 lần nhưng với mức độ nhỏ giọt từ đó tạo tâm lý các nhà nhập khẩu nước ngoài trần trừ trong việc thanh toán tiền do lo ngại rủi ro tỷ giá, người dân găm giữ USD để chờ tới lúc tăng giá để bán. Tuy nhiên, việc phá giá cũng cần phải được cân nhắc kĩ bởi nước ta đang trong thời kì chống lạm phát, cộng với việc kinh tế thế giới đang phục hồi, lạm phát thế giới tăng lên, thì việc phá giá có thể dẫn tới nhân đôi hiệu ứng nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài vào, khiến việc kiềm chế lạm phát trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, khi phá giá cũng cần phải cân nhắc thật kĩ bởi trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam thì hàm lượng nhập khẩu chiếm tới 70% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, làm cho chi phí sản xuất tăng, từ đó hàng Việt Nam lại kém cạnh tranh hơn. Mặt khác, nếu lợi ích thu được từ tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu lại nhỏ hơn chi phí tăng thêm cho hàng nhập khẩu sẽ làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt lớn, làm gia tăng áp lực lạm phát trong nền kinh tế. Thứ hai, NHNN cần công khai, minh bạch hóa thông tin trong việc niêm yết tỷ giá bình quân liên ngân hàng để tạo niềm tin cho người dân. Vì trên thực tế, việc NHNN tính tỷ giá trung tâm từ những ngân hàng nào, với tỷ trọng bao nhiêu không hề được công bố thông tin, điều này gây ra sự nghi ngờ trong việc liệu NHNN có thực sự đã niêm yết tỷ giá sát với tỷ giá thị trường không. Việc NHNN minh bạch hóa thông tin sẽ làm tăng niềm tin của người dân vào Nhà nước trong việc điều hành chính sách, và tỷ giá trung tâm càng sát với cung cầu bao nhiêu thì tính hiệu quả của chính sách tỷ giá càng được nâng lên. 40 | P a g e Thứ ba, để kiểm soát lạm phát thành công, NHNN cần có sự độc lập tương đối trong cả hai khía cạnh: độc lập mục tiêu và độc lập hoạt động để có thể đảm bảo thực hiện một “chính sách tiền tệ đơn mục tiêu” và “tính công khai minh bạch” trong hoạt động. NHNN có thể đề ra mục tiêu ví dụ lạm phát dưới 6% và nhất quán thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu đó mà không bị chi phối bởi các Nghị quyết của Quốc hội hay Chính Phủ đề ra. Việc NHNN vừa phải đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức thấp đồng thời cũng phải đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế do nhà nước đề ra là rất khó thực hiện. Giữa hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát thì chỉ nên chọn một trong hai, để đạt được mục tiêu lạm phát thấp thì đồng nghĩa với việc phải chấp nhận một mức tăng trưởng thấp, và ngược lại. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu, do vậy hiệu quả của nó vẫn chưa cao. Trước bối cảnh nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn, NHNN nên kiên định mục tiêu của chính sách tiền tệ, thiên về ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đạt được lạm phát mục tiêu hơn là kích cầu để tăng trưởng kinh tế. Bởi theo một nghiên cứu của World Bank đã chỉ ra rằng sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam trong ngắn hạn cao hơn đáng kể so với mức trung bình của thế giới. Hay nói cách khác, với cùng một tỷ lệ tăng trưởng thì Việt Nam sẽ phải gánh chịu một mức lạm phát cao hơn. Vì thế nhóm tác giả đề xuất, trong giai đoạn này NHNN vẫn nên thực hiện các chính sách ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ tư, NHNN cần cân đối việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Bởi trong bộ ba bất khả thi thì với điều kiện dòng vốn FDI đang chảy vào Việt Nam khá nhiều, chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thanh toán thì việc kiểm soát nguồn vốn là điều không thể. Do vậy, NHNN chỉ có thể thực hiện tốt hai mục tiêu còn lại. Đối với chính sách tỷ giá, NHNN cần duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng đồng thời cũng phải kiểm soát chặt chẽ và có các biện pháp xử lý kịp thời. Đối với chính sách tiền tệ, khi NHNN sử dụng các công cụ của mình để can thiệp vào thị trường cần phải tính toán tới các tác động tới tỷ giá để có mức điều chỉnh hợp lý tránh các tác động tiêu cực tới thị trường. Như đã phân tích ở trên thì chính sách tiền tệ có ảnh hưởng trực tiếp tới lạm phát (tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng), còn chính sách tỷ giá chỉ có tác động cộng hưởng tới lạm phát. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN nên thực hiện chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, thận trọng và hiệu quả hơn để đạt được mục tiêu vĩ mô đã đề ra. Hơn nữa, NHNN cũng cần phải có lượng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn để ổn định thị trường ngoại hối, đồng thời sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tránh nguy cơ gây lạm phát cho nền kinh tế. Thứ năm, NHNN cần quản lý thị trường tự do chặt chẽ hơn, nhằm hạn chế các giao dịch trái phép, các hoạt động đầu cơ, gây ảnh hưởng tới việc điều hành chính sách tỷ giá. Cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành khác nhằm xử lý nghiêm các hoạt động kinh doanh ngoại hối trái phép, ngăn chặn các tác động tiêu cực tới thị trường. Hơn nữa, NHNN cũng cần quản lý thị trường vàng một cách linh hoạt hơn. Việc quản lý thị trường vàng mang tính hành chính như hiện nay sẽ chỉ là biện pháp mang tính 41 | P a g e ngắn hạn, chưa giải quyết được sự chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới, điều này có thể tạo điều kiên cho các hoạt động ngầm thực hiện, gây xáo trộn tới thị trường ngoại hối. Thực tế, việc cung ứng vàng của NHNN sẽ khó có thể thực hiện trong dài hạn, bởi nhu cầu vàng trên thị trường vẫn rất lớn mặc dù đã qua thời điểm tất toán trạng thái vàng ngày 30/6/2013 khá lâu. Hơn nữa, việc NHNN nhập khẩu vàng nguyên liệu cũng ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối quốc gia, từ đó có thể gây ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách tỷ giá. Kết luận: Hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam bên cạnh các chính sách vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ…Và để điều hành chính sách tỷ giá một cách thành công thì việc nhận định chính xác những diễn biến của thị trường là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, cần phối hợp đồng bộ cùng các chính sách vĩ mô, đặc biệt chính sách cung tiền, tín dụng và điều hành tổng cầu vĩ mô. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều bất ổn thì việc duy trì ổn định kinh tế, thực hiện lạm phát mục tiêu là vô cùng quan trọng. Do đó, trong thời gian tới, NHNN phải rất nhanh nhạy, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của mình trong việc đưa ra các chính sách phù hợp với biến động của thị trường để đạt được mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra. Tài liệu tham khảo: 1. Ths.Nguyễn Thị Thái Hưng, Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 118, tháng 2 năm 2012. 2. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2001, Giáo trình Tài Chính quốc tế, NXB thống kê. 3. Nguyễn Hải An, Điều hành chính sách tỷ giá nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, Công trình tham gia nghiên cứu đại học ngoại thương. 4. 20112013/184157.vgp 5. Tổng cục Thống kê.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftacdong_tygia_3_1861.pdf
Luận văn liên quan