LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việc Toà án giải quyết VADS là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong nhiều trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án cần phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do xuất hiện những căn cứ luật định như thụ lý không đúng, đối tượng tranh chấp không còn v.v. Tuy nhiên, việc Toà án đình chỉ giải quyết vụ án không đúng có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn sẽ không được Toà án xem xét giải quyết. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết VADS có thể xuất hiện những lý do làm cho Toà án không thể tiếp tục tiến hành tố tụng. Bởi vì việc tiếp tục giải quyết VADS trong những trường hợp này có thể sẽ không đảm bảo quyền tham gia tố tụng của các đương sự hoặc làm cho kết quả giải quyết vụ việc không chính xác. Trong những trường hợp như vậy, Toà án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS. Tuy nhiên, việc tạm đình chỉ giải quyết không đúng có thể làm cho thời gian giải quyết bị kéo dài, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của đương sự.
Các quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS nếu được quy định không hợp lý có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn sẽ không được Toà án bảo vệ hoặc thời gian giải quyết bị kéo dài, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ bản chất pháp lý của tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; sự khác biệt giữa tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS với hoãn phiên toà, ngừng phiên toà; cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận này, khoá luận sẽ đối chiếu với quy định trong BLTTDS năm 2004 và thực tiễn áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS nhằm làm rõ những hạn chế của pháp luật hiện hành, bất cập trong thực tiễn về vấn đề này, từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục là cần thiết.
Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết VADS. Tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết các VADS trong thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào việc làm rõ một số vấn đề sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS như: khái niệm, đặc điểm, hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những quy định của BLTTDS năm 2004 về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS năm 2004 về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS tại các Toà án, phát hiện những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở tổng hợp các kết quả nghiên cứu, khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS ở các Toà án Việt Nam.
Trong khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS như khái niệm, đặc điểm của tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS; phân biệt tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS với một số khái niệm như tạm ngừng phiên toà, hoãn phiên toà, cơ sở khoa học của việc quy định căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS. Ngoài ra, khoá luận còn nghiên cứu về sự phát triển của pháp luật điều chỉnh vấn đề tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS, các quy định của BLTTDS năm 2004 về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Toà án Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Khoá luận được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện các quy định của BLTTDS về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS. Kết quả nghiên cứu của khoá luận còn cung cấp thêm một nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài Lời mở đầu và phần kết luận, Khóa luận có kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương II: Nội dung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về tạm đình chì, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương III: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
54 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9627 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó (điểm g khoản 1 Điều 192 BLTTDS)
Khoản 2 Điều 57 Luật Phá sản quy định “Kể từ ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản, việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án đó phải bị đình chỉ. Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án phải chuyển hồ sơ vụ án đó cho Toà án đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết”. Như vậy, trong quá trình giải quyết VADS nếu một trong các bên đương sự trong vụ án là doanh nghiệp, hợp tác xã đã có quyết định mở thủ tục phá sản thì các quyền, nghĩa vụ của các đương sự sẽ được giải quyết thông qua thủ tục phá sản. Vì vậy, Tòa án đang giải quyết vụ án sẽ phải đình chỉ việc giải quyết VADS, đồng thời phải chuyển hồ sơ cho Tòa án đang mở thủ tục phá sản để giải quyết.
Theo quy định của Luật Phá sản thì Tòa án cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã tiến hành phục hồi hoạt động kinh doanh. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi được hoạt động kinh doanh thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, sau đó vụ án sẽ được tiếp tục giải quyết theo thủ tục TTDS. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không phục hồi được hoạt động kinh doanh và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn thì Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản. Như vậy, nếu theo Luật Phá sản thì vụ án vẫn có thể được tiếp tục giải quyết sau khi đã có quyết định đình chỉ giải quyết VADS? Điều đó có nghĩa là vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS chưa dừng hẳn mà vẫn có thể tiếp tục được giải quyết theo thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Do đó, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 57 Luật Phá sản và khoản 1 Điều 192 BLTTDS là không phù hợp với bản chất của đình chỉ giải quyết VADS [26, tr.10].
2.1.2.8. Toà án đã thụ lý vụ việc khi không đủ điều kiện thụ lý mà pháp luật quy định
Theo khoản 2 Điều 192 BLTTDS thì Toà án có quyền đình chỉ giải quyết vụ án nếu có căn cứ được quy định tại Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà Tòa án đã thụ lý rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình chỉ giải quyết vụ án. Căn cứ đó bao gồm:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà đương sự được quyền yêu cầu cơ quan Tòa án giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thông thường, thời hiệu khởi kiện vụ án được quy định trong luật nội dung. Ví dụ, Thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế (Điều 645 BLDS). Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyển là 2 năm, kể từ ngày người khiếu nại biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm (Điều 118 Bộ luật hàng hải 2005).... Trong trường hợp các văn bản pháp luật nội dung không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thì việc xác định thời hiệu khởi kiện để giải quyết VADS căn cứ vào Điều 159 BLTTDS. Thời hiệu khởi kiện là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. Tuy nhiên, khi xác định thời hiệu khởi kiện, ngoài cách tính thời hiệu thông thường, còn phải lưu ý đến những trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện (Điều 161 BLDS) hoặc bắt đầu lại thời hiệu (Điều 162 BLDS). Khi phát hiện ra thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS.
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có năng lực hành vi tố tụng dân sự
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện là trường hợp đã được phân tích ở trên. Người khởi kiện không có NLHVTTDS là trường hợp người khởi kiện là người chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật hoặc đã đủ tuổi nhưng bị mất, hạn chế NLHVDS. Do vậy, họ không thể tự mình thực hiện việc khởi kiện và tham gia tố tụng được mà phải thực hiện thông qua người đại diện. Nếu Tòa án thụ lý vụ án do những chủ thể này khởi kiện thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án, quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
Sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhiều đương sự vẫn không thỏa mãn với quyết định giải quyết của Tòa án nên họ vẫn tiếp tục khởi kiện đến Tòa án. Trong trường hợp này nhằm tránh hiện tượng cùng một vụ án mà Tòa phải thụ lý giải quyết nhiều lần, dẫn tới việc các tranh chấp không được giải quyết một cách triệt để...Tòa án sẽ không thụ lý vụ án, nếu đối tượng tranh chấp, nguyên đơn, bị đơn không thay đổi. Dĩ nhiên, trong các trường hợp đó, họ có thể tiếp tục khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc thủ tục khiếu nại tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật. Nếu vì một nguyên nhân nào đó mà Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ những trường hợp mà theo luật định, đương sự có quyền khởi kiện lại như trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con nuôi, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại; vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện...v.v.
- Hết thời hạn thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Theo quy định của pháp luật thì người khởi kiện có nghĩa vụ đóng tiền tạm ứng án phí nếu họ không thuộc trường hợp được miễn nộp khoản tiền này. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án nếu họ không có mặt tại Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án trừ trường hợp sự vắng mặt đó là có lý do chính đáng. Để việc trả lại đơn cho đương sự trong trường hợp này không vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì việc thông báo cho đương sự phải thực hiện đúng thủ tục, nghĩa là thông báo phải đến tận tay đương sự. Đây là điều kiện quan trọng để thực hiện việc trả lại đơn trong trường hợp này [7, tr.215].
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/ NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 thì chưa đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả điều kiện về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã thiếu một trong các điều kiện đó. Khi đó, Tòa án sẽ không thụ lý vụ án, nếu đã thụ lý vụ án thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
- Vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án.
“Vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án” là trường hợp mà người khởi kiện đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ án không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS mà thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan nhà nước khác. Khi đã thụ lý đơn khởi kiện về những loại việc không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án. Cần phân biệt trường hợp này với trường hợp Tòa án chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án khác giải quyết quy định tại Điều 37 BLTTDS, do vụ án thông thuộc thẩm quyền của Tòa án đã thụ lý theo cấp hoặc theo lãnh thổ.
2.1.2.9. Các trường hợp đình chỉ khác mà pháp luật quy định
Đây thực chất là quy định mở, mang tính dự phòng của các nhà lập pháp đối với những trường hợp phát sinh những lý do mà Tòa án cần phải đình chỉ giải quyết vụ án mà pháp luật chưa quy định hết.
2.2. THẨM QUYỀN, THỦ TỤC VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN DÂN SỰ
2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
2.2.1.1. Thẩm quyền, thủ tục tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
- Tại Toà án cấp sơ thẩm
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu xuất hiện một trong các căn cứ tại Điều 189 BLTTDS thì Tòa án sẽ quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS. Theo quy định tại khoản 2 Điều 194 BLTTDS thì thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS thuộc về thẩm phán phân công giải quyết vụ án đó. Điều luật này không quy định rõ thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS trong giai đoạn nào của quá trình tố tụng, nhưng thực tế thẩm quyền này chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bởi vì, theo khoản 2 Điều 210 BLTTDS thì các quyết định tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải được Hội đồng thẩm phán thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Do vậy, có thể khẳng định tại phiên tòa sơ thẩm, thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS thuộc về Hội đồng xét xử.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn bản. Mẫu, nội dung quyết định được quy định cụ thể tại Nghị quyết ssó 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Tại Toà án cấp phúc thẩm
Việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm hiện nay được BLTTDS quy định rõ tại hai thời điểm trước phiên tòa (Điều 259) và tại phiên tòa (Điều 265). Trước khi mở phiên tòa, nếu có căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VADS thì thẩm phán được phân công phụ trách vụ án ra có quyền ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử sau khi đã thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm phải được lập thành văn bản. Mẫu, nội dung quyết định được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
2.2.1.2. Hậu quả pháp lý tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS chỉ làm tạm ngừng quá trình tố tụng trong một thời gian nhất định chứ không phải làm dừng hẳn hoạt động giải quyết vụ án. Do vậy, sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS, Tòa án không xóa tên vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số, ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó. Tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc Nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết VADS.
Theo khoản 3 Điều 190 BLTTDS thì quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Theo hướng dẫn tại Mục II. 9 Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP ngày 12/5/2006 thì quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS cũng có thể bị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có khiếu nại, kiến nghị nếu tòa án cấp sơ thẩm xét thấy quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS là đúng và vẫn giữ nguyên, thì khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Đối với quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm thì có hiệu lưc pháp luật ngay, các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị đối với quyết định này.
Do quyết định tạm đình chỉ tạm thời làm gián đoạn quá trình giải quyết vụ án trong một thời gian nhất định. Đến khi lý do cho việc tạm đình chỉ không còn thì Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết VADS.
2.2.2. Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
2.2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
- Tại Toà án cấp sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 194 BLTTDS thì trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, thẩm phán được phân công giải quyết VADS có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ. Tại phiên tòa sơ thẩm, theo khoản 2 Điều 210 BLTTDS thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS thuộc về Hội đồng xét xử sau khi đã thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn bản. Mẫu, nội dung quyết định được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định đình chỉ, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự Viện kiểm sát cùng cấp.
- Tại Toà án cấp phúc
Đình chỉ giải quyết VADS trong thủ tục phúc thẩm chỉ được áp dụng trong phiên tòa phúc thẩm. Do đó, thẩm quyền đình chỉ giải quyết VADS trong thủ tục phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 269, 278 BLTTDS). Thẩm phán cấp phúc thẩm được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền này.
- Tại thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS thuộc về Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm.
2.2.2.2. Hậu quả pháp lý của đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Quyết định đình chỉ giải quyết VADS làm chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động tố tụng. Tòa án ngừng hẳn việc giải quyết vụ án.
- Tại Tòa án cấp sơ thẩm
Khi quyết định đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật, các đương sự không thể khởi kiện lại để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án một lần nữa nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 193 BLTTDS cũng quy định một số ngoại lệ theo đó các đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết vụ án. Đó là các trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, không có quyền khởi kiện, nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt hoặc đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà vụ án đang giải quyết liên quan đến nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước, nếu Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS theo quy định tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Nếu Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS theo quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho người đã nộp trước đó (Điều 193 BLTTDS).
Quyết định đình chỉ giải quyết VADS trong thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 245 BLTTDS nếu không bị kháng cáo, kháng nghị thì quyết định đình chỉ giải quyết VADS đó có hiệu lực pháp luật và làm chấm dứt tố tụng. Quyết định này vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ.
- Tại Tòa án cấp phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp phúc thẩm đồng nghĩa với việc hủy bản án, quyết định sơ thẩm và chấm dứt tố tụng. Tuy nhiên, cần phân biệt hậu quả pháp lý của đình chỉ giải quyết vụ án ở Toà án cấp phúc thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ làm chấm dứt trình tự tố tụng phúc thẩm mà không làm chấm dứt các quyền, nghĩa vụ về nội dung nên bản án, quyết định sơ thẩm vẫn có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 260 BLTTDS chỉ quy định về hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 260 BLTTDS. Vậy khi Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm theo căn cứ tại điểm a, c khoản 1 Điều 260 BLTTD thì hậu quả pháp lý ra sao, BLTTDS lại không quy định.
Theo nguyên tắc chung, quyết định hay bản án phúc thẩm đình chỉ giải quyết VADS cũng như những bản án, quyết định phúc thẩm khác sẽ có hiệu lực pháp luật ngay. Đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị. Tuy nhiên, nếu có căn cứ quyết định này vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Theo quy định tại Điều 297 và Điều 309 BLTTDS thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có căn cứ theo Điều 192 BLTTDS. Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm về huỷ án và đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật ngay.
CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Theo số liệu thống kê tại Báo cáo tổng kết năm 2008 của nghành TAND thì trong số các VADS mà Tòa án đã thụ lý, số vụ án bị tạm đình chỉ trong năm tại Tòa án cấp sơ thẩm là 5539 VADS, 1278 vụ án về Hôn nhân và gia đình, 295 vụ án về kinh doanh thương mại và tuyên bố phá sản, 68 vụ án lao động. Tại cấp phúc thẩm, số vụ án bị tạm đình chỉ là 240 VADS, 281 vụ án về Hôn nhân và gia đình, 78 vụ án về kinh doanh thương mại và tuyên bố phá sản [20]. Như vậy, số liệu này cho thấy số VADS bị tạm đình chỉ chiếm tỷ lệ không nhỏ so với những vụ án được giải quyết.
Theo một số Thẩm phán mà em tiến hành hỏi ý kiến khi nghiên cứu vấn đề này thì nguyên nhân dẫn tới việc Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án chủ yếu phía đương sự như nguyên đơn có yêu cầu do bận việc cá nhân, bị đơn bị ốm đau cần điều trị dài ngày, bị đơn vắng mặt hoặc cần phải đợi kết quả giải quyết giải quyết trước của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan...Như vậy, trong một số trường hợp việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án đã vượt ra ngoài khuôn khổ quy định của Điều 189 BLTTDS
Nhìn chung, việc áp dụng các quy định của BLTTDS về tạm đình chỉ giải quyết VADS ở các Tòa án khá phổ biến và chính xác. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định này cũng nảy sinh những vướng mắc, bất cập sau:
- Vướng mắc về việc Toà án tạm đình chỉ hay đình chỉ giải quyết vụ án nếu bị đơn là cá nhân chết nhưng không để lại tài sản thừa kế
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu đương sự là cá nhân chết mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân đó thì Tòa án sẽ tạm đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 189 BLTTDS). Nếu nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án (điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS). Vậy, trong trường hợp bị đơn chết mà không có tài sản để lại thừa kế thì sẽ giải quyết như thế nào, Tòa án có ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 189 BLTTDS hay không và nếu tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì đến khi nào vụ án mới được tiếp tục giải quyết. BLTTDS hiện nay lại không quy định vấn đề này.
Vấn đề là khi tạm đình chỉ giải quyết vụ án dù có tìm được cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì việc tiếp tục giải quyết vụ án dường như cũng không có ý nghĩa. Do vậy, để tránh lãng phí thời gian, công sức Tòa án cần ra luôn quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, căn cứ này hiện nay lại không được quy định trong BLTTDS. Do đó, các Tòa án không có cơ sở pháp lý để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án trong trường hợp này.
- Vướng mắc khi vận dụng quy định về quyền của nguyên đơn đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án
Tại điểm d khoản 1 Điều 59 BLTTDS hiện nay quy định nguyên đơn có quyền đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết VADS. Tuy nhiên, Điều 189 BLTTDS lại không quy định căn cứ Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo yêu cầu của nguyên đơn và cũng không có quy định trong những trường hợp nào thì đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Vấn đề đặt ra là khi đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nguyên đơn có bắt buộc phải dựa vào các căn cứ quy định tại Điều 189 BLTTDS hay không. Do việc quy định chưa thống nhất, nên trên thực tế các Tòa án vận dụng pháp luật cũng khác nhau. Những ví dụ dưới đây sẽ minh hoạ cho thực tiễn này:
Trong vụ “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là bà Đỗ thị T và bị đơn là bà Phạm thị Y: Bà T kiện bà Y đến TAND, đòi số tiền bà Y đã vay của bà còn thiếu chưa trả là 25.000.000 đồng và lãi theo quy định của pháp luật. Tại các bản khai, bà Y thừa nhận có vay của bà T 25.000.000 đồng nhưng bà Y đã trả cho bà T trước 20.000.000 đồng, đến nay chỉ còn thiếu của bà T 5.000.000 đồng còn lại và tiền lãi. Việc trả tiền cho bà T, chính K là con trai của bà T nhận. Tòa án đã ra thông báo về phiên hòa giải và mời K tham dự với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, trong thời gian này anh K đang ở thành phố HCM luyện thi và chuẩn bị thi đại học. Để K ổn định về mặt tinh thần và không bị phân tâm khi thi đại học, bà T đã làm đơn xin tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ K thi xong đại học sẽ tiếp tục giải quyết vụ án. Xét thấy yêu cầu này là chính đáng, Tòa án đã ra quyết định tạm đình giải quyết vụ án [29]. Như vậy, trong trường hợp này đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
Tuy nhiên, cũng có Tòa án không chấp nhận đề nghị của nguyên đơn mặc dù có lý do chính đáng, nên đã không ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Ví dụ, vụ án kiện đòi tài sản giữa ông Nguyễn Đinh Th với bị đơn là Trần Đình K. Do ông Th phải đi công tác xa đột xuất trong thời gian một tháng, sau đó lại bị ốm đau nặng. Gia đình ông Th có đơn đề nghị Tòa án tạm dừng giải quyết vụ án. Tòa án biết tình trạng sức khỏe của ông Th là sự thật nhưng không có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Ngày cuối cùng của thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Sau khi ông Th chữa khỏi bệnh thì đã hết thời hiệu khởi kiện [30]. Ta thấy rằng, rõ ràng nếu đề nghị của nguyên đơn là chính đáng mà Tòa án không chấp nhận sẽ dẫn tới kết quả không có lợi cho nguyên đơn. Cũng có nhiều Tòa án khi nguyên đơn đề nghị tạm ngừng việc giải quyết vụ án mặc dù đề nghị của nguyên đơn không có lý do chính đáng nhưng Tòa án cũng tạm đình chỉ và trong quyết định tạm đình chỉ, Thẩm phán chỉ ghi “theo đề nghị của nguyên đơn” việc này sẽ dẫn tới tình trạng và do đó vụ án sẽ bị kéo dài. Để tránh tình trạng áp dụng không thống nhất như trên, BLTTDS cần có sự sửa đổi và hướng dẫn cụ thể.
Điều 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS hiện nay đã mở rộng quyền đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án đối với các đương sự nhưng lại không quy định về căn cứ mà Toà án có thể chấp nhận yêu cầu này của đương sự. Do vậy, việc hướng dẫn cụ thể về vấn đề này là cần thiết.
3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Theo số liệu thống kê tại Báo cáo tổng kết năm 2008 của nghành TAND thì trong số các VADS mà Tòa án đã thụ lý, số vụ án bị đình chỉ trong năm tại Tòa án cấp sơ thẩm là 13890 VADS, 12628 vụ án về Hôn nhân và gia đình, 987 vụ án về kinh doanh thương mại và tuyên bố phá sản, 398 vụ án lao động. Tại cấp phúc thẩm, số vụ án bị tạm đình chỉ là 515 VADS, 21 vụ án về kinh doanh thương mại và tuyên bố phá sản, 19 vụ án về lao động [20].
Như vậy, qua số liệu trên ta thấy rằng số VADS bị đình chỉ chiếm tỷ lệ không nhỏ so với những vụ án được giải quyết, đặc biệt là các vụ án liên quan đến tranh chấp dân sự và Hôn nhân và gia đình. So với số vụ án bị tạm đình chỉ thì số vụ án bị đình chỉ lớn hơn rất nhiều. Việc nghiên cứu thực tiễn cũng cho thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là do nguyên đơn rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận, nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, sự việc chưa đủ điều kiện khởi kiện...v.v.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về đình chỉ giải quyết VADS tại các Toà án cho thấy những bất cập, vướng mắc sau đây:
- Về vận dụng căn cứ nguyên đơn, bị đơn chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế (điểm a Khoản 1 Điều 192)
Khi vận dụng căn cứ này, đã có nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng trường hợp “nguyên đơn, bị đơn chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế” được hiểu là nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà không có người thừa kế tham gia tố tụng. Chẳng hạn, A kiện B đòi căn nhà B đang ở, sau khi Tòa án thụ lý vụ án B chết mà không có người thừa kế. Trong trường hợp này, nhiều Tòa án theo vận dụng theo cách hiểu trên đã căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án [24].
Việc Tòa án ra quyết định trong trường hợp nêu trên là không đúng với tinh thần của BLTTDS. Bởi căn cứ “nguyên đơn, bị đơn chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế” phải được hiểu theo hướng là các quan hệ nhân thân như đã phân tích tại Chương 1 và Chương 2. Theo đó, các quyền, nghĩa vụ này là quyền, nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của đương sự đã chết đó và không được phép chuyển giao cho người thừa kế. Do vậy, quy định này chỉ được áp dụng trong trường hợp quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn không được thừa kế.
- Về vấn đề đình chỉ vụ án nếu Toà án có thẩm quyền đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc đã có quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
Theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 192 BLTTDS thì Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nếu một bên đương sự trong vụ án là doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Phá sản thì sau khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Tòa án cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không phục hồi được hoạt động kinh doanh và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu thì Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản. Khi đó VADS chấm dứt hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi được hoạt động kinh doanh thì theo quy định tại Điều 76, Điều 77 Luật Phá sản và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP thì sau khi Tòa án ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì VADS đã bị đình chỉ trước đó lại được tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung. Nghĩa là thủ tục tố tụng chưa thực sự chấm dứt.
Xét theo pháp luật hiện hành thì trong trường hợp này Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu ra quyết định đình chỉ trong khi thủ tục tố TTDS chưa chấm dứt hoàn toàn, điều này không đúng với bản chất của đình chỉ giải quyết vụ án là quá trình tố tụng bị dừng lại vĩnh viễn. Một vấn đề đặt ra nữa là, khi Tòa án có thẩm quyền tiếp tục giải quyết VADS theo thủ tục chung do doang nghiệp, hợp tác xã đã phục hồi được hoạt động kinh doanh thì đương sự có cần khởi kiện lại hay không. Quan điểm thứ nhất cho rằng Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án mà không cần đương sự làm đơn khởi kiện lại. Theo quan điểm thứ hai thì, do khoản 2 Điều 193 quy định tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ Nhà nước khi Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Do vậy, trong trường hợp này đương sự phải làm đơn khởi kiện lại và nộp tiền tạm ứng án phí cho lần khởi kiện này. Nếu theo quan điểm thứ hai thì sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của đương sự, vì đương sự hoàn toàn không có lỗi trong việc đình chỉ giải quyết vụ án mà tiền tạm ứng án phí vẫn bị sung công quỹ Nhà nước. Do BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS chưa có quy định rõ ràng và cũng chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền nên thực tiễn áp dụng quy định này các Tòa án hết sức lúng túng. Do vậy, quy định này cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Về căn cứ nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt (điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS)
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Việc áp dụng quy định trên của BLTTDS trong thực tiễn tại các Tòa án cũng vẫn còn có sự sai sót. Chẳng hạn như trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai trong khi chưa có căn cứ xác định đương sự đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ hay chưa [21].
Ngoài ra, các quy định của BLTTDS cũng còn có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn như BLTTDS chưa quy định về phương án xử lý trong trường hợp nguyên đơn vắng mặt trong vụ án có nhiều nguyên đơn, mà mỗi nguyên đơn lại có yêu cầu độc lập với bị đơn hoặc trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu một trong các nguyên đơn vắng mặt, các nguyên đơn khác đều có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, Tòa án sẽ giải quyết ra sao.
Nếu như nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, Tòa án không phải giải quyết yêu cầu của nguyên đơn nữa nhưng vẫn có yêu cầu của nguyên đơn khác (trong vụ án có nhiều nguyên đơn), yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đối với các yêu cầu này. Nếu chỉ vì một nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt mà Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của các nguyên đơn khác và không đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự.
Một vấn đề nữa là, mặc dù khoản 2 Điều 61 BLTTDS quy định người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền nghĩa vụ của nguyên đơn. Nhưng trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nếu nguyên đơn và bị đơn đồng ý. Tuy nhiên, trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án mà không cần bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đồng ý. Các quy định này không đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự [31]. Từ những bất cập đó, kiến nghị BLTTDS cần được sửa đổi, bổ sung và có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này.
Vướng mắc về quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS
Trong Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành BLTTDS của TANDTC có đưa ra một số vướng mắc về khoản 2 Điều 192, cụ thể: Trường hợp người có quyền, nghĩa vụ liên quan do Tòa án đưa vào tham gia tố tụng nhưng chưa biết được địa chỉ của họ thì Tòa án có quyền yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ của họ hay không. Nếu nguyên đơn không cung cấp địa chỉ và Tòa án không tìm được địa chỉ của họ thì giải quyết như thế nào. Có thuộc trường hợp đình chỉ, trả lại đơn khởi kiện theo khoản 2 Điều 192 BLTTDS hay không. Thực tế xảy ra trường hợp nguyên đơn khởi kiện đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ của bị đơn, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đến địa chỉ do nguyên đơn cung cấp nhưng bị đơn đã đi khỏi địa phương trước khi thụ lý vụ án 1 tháng nhưng không thông báo tạm vắng, không biết địa chỉ của họ ở đâu. Trường hợp này giải quyết theo cố tình dấu địa chỉ nhằm trốn tránh nghĩa vụ hay đình chỉ giải quyết vụ án theo khoản 2 Điều 192 và trả lại đơn.
Trong Báo cáo một số vướng mắc tại Hội nghị tổng kết nghành TAND năm 2010 của TAND Thành phố Hà Nội có nêu trường hợp vụ án đã thụ lý, do có yếu tố nước ngoài nên Tòa án tạm đình chỉ theo Nghị Quyết số 58 NQ-UBTVQH. Sau này vụ án được tiếp tục giải quyết theo nghị quyết số 1037 NQ-UBTVQH và Tòa án áp dụng BLTTDS để ra quyết định đình chỉ vì đương sự không cung cấp được địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đang cư trú tại nước ngoài.
Vấn đề này hiện nay có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192 và khoản 3 Điều 193 BLTTDS, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa sổ thụ lý vụ án, trả đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ kèm theo và tiền tạm ứng án phí cho đương sự. Theo quan điểm thứ hai thì Tòa án phải yêu cầu nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong một thời hạn nhất định theo quy định tại khoản 1 Điều 169 BLTTDS, nếu hết thời hạn đó mà nguyên đơn không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thì Tòa án cấp sơ thẩm trả lại đơn khởi kiện và xóa sổ thụ lý theo quy định tại khoản 2 Điều 169 BLTTDS. Đồng thời hướng dẫn họ thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Vấn đề này trước đây đã được nêu trong Tham luận của Tòa dân sự TANDTC tại Hội nghị triển khai công tác ngành Tòa án năm 2008 đã nêu và có ý kiến, nhưng không được kết luận nên các Tòa án vẫn chưa thống nhất nhận thức, dẫn đến tình trạng Thẩm phán không biết giải quyết theo hướng nào để đảm bảo an toàn cho bản án, quyết định khi ban hành [22]. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
- Sửa đổi quy định về quyền đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của nguyên đơn
Quy định tại Điều 59 BLTDS là quyền của nguyên đơn. Chứ không phải là căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để quyền này có thể thực hiện được trong thực tiễn và có sự áp dụng thống nhất giữa các Tòa án thì về lâu dài cần sửa đổi quy định này của BLTTDS theo hướng: Khi nguyên đơn có yêu cầu Tòa án tạm ngừng việc giải quyết vụ án và đề nghị đó là hợp lý như bị ốm đau nặng, hay để có thời gian thu thập thêm chứng cứ và chứng cứ đó là cần thiết để Tòa có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ án…thì Tòa án chấp nhận đề nghị của nguyên đơn và áp dụng khoản 1 Điều 59 BLTTDS để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
- Bổ sung quy định về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo hướng tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự
BLTTDS hiện nay quy định sau khi Tòa án thụ lý vụ án nếu đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong quá trình tố tụng mà không cần đến sự tác động của Tòa án nữa thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng căn cứ này không được quy định đối với vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Thiết nghĩ, để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau và cùng đề nghị Tòa án tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc một bên đương sự yêu cầu và các bên đương sự còn lại đều đồng ý cho tạm đình chỉ thì nên quy định Tòa án có quyền quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để các bên có thêm thời gian tự hòa giải, thu thập chứng cứ…Do đó, kiến nghị nên bổ sung căn cứ này vào quy định tại Điều 189 BLTTDS. Theo đó, Tòa án sẽ có cơ sở pháp lý để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp này.
- Bổ sung quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm trong một số trường hợp đặc biệt
BLTTDS hiện nay không có điều luật nào quy định về vấn đề tạm đình chỉ giải quyết VADS tại Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, dưới góc nhìn đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, đảm bảo tính chính xác trong việc giải quyết vụ việc, chúng tôi cho rằng trong trường hợp cần thiết phải có mặt đương sự, người đại diện của đương sự ở Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm để làm rõ thêm những vấn đề của vụ việc mà chưa có chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hoặc người đại diện của họ thì Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm cũng có thể tạm ngừng việc giải quyết vụ việc dân sự. Ngoài ra, nếu cần thiết phải chờ kết quả giải quyết của vụ việc khác có liên quan thì Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm cũng có thể phải tạm ngừng việc tiến hành giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, để có cở sở pháp lý cho Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định tạm đình chỉ, cần bổ sung quy định về tạm đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm trong một số trường hợp đặc biệt.
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
- Sửa đổi các quy định về thuật ngữ trong BLTTDS theo hướng sử dụng thống nhất thuật ngữ
Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn về trường hợp đương sự rút yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 192 và Điều 219 BLTTDS. Theo Nghị quyết này, nếu trong vụ án mà các đương sự đều rút yêu cầu của mình Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp vụ án có đương sự rút đơn yêu cầu và có đương sự giữ nguyên yêu cầu thì theo hướng dẫn tại Nghị quyết này có hai thuật ngữ được sử dụng. Đó là, Tòa án đình chỉ giải quyết VADS đối với yêu cầu của đương sự đã rút (Mục 10 phần II) và đình chỉ xét xử toàn bộ đối với yêu cầu của đương sự đã rút (mục 7 phần III). Việc sử dụng thuật ngữ như vậy là không thống nhất trong việc quy định về cùng một vấn đề. Do đó, cần sửa đổi các quy định về thuật ngữ trong BLTTDS theo hướng sử dụng thống nhất thuật ngữ như sau: Trong trường hợp các đương sự đều rút yêu cầu của mình Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết VADS, trong trường hợp có đương sự rút yêu cầu, có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự đã rút.
- Bổ sung căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án nếu bị đơn là cá nhân chết nhưng không để lại tài sản thừa kế
Khi bị đơn là cá nhân bị khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chết mà không để lại tài sản để thực hiện nghĩa vụ thì nên quy định Tòa án có quyền quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà không phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Do vậy, BLTTDS cần bổ sung căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp này như sau: “Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án nếu đương sự là bị đơn trong vụ án chết mà không để lại tài sản để thực hiện nghĩa vụ”.
- Bổ sung quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường hợp tranh chấp về tài sản nhưng nguyên đơn chết mà không có người thừa kế
Thực tiễn khi áp dụng quy định điểm a khoản 1 Điều 192 đã gặp phải những vướng mắc mà chúng tôi đã phân tích ở trên. Để khắc phục những vướng mắc này, cần bổ sung quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường hợp tranh chấp về tài sản nhưng nguyên đơn chết mà không có người thừa kế như sau: “Đối với vụ án tranh chấp về tài sản mà nguyên đơn chết nhưng không có người thừa kế tài sản thì Tòa án không đình chỉ mà vẫn tiến hành giải quyết vụ án. Nếu Toà án quyết định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của nguyên đơn thì tài sản này sẽ thuộc về Nhà nước”.
- Sửa đổi bổ sung quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS về căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo hướng loại thống nhất hai căn cứ này
Về lý luận và luật thực định thì chủ thể khởi kiện có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành thì điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS quy định về “người khởi kiện rút đơn khởi kiện…”, điểm d khoản 1 Điều 192 lại quy định về “cơ quan tổ chức rút văn bản khởi kiện…”. Hai căn cứ này cùng quy định về chủ thể khởi kiện. Do vậy, để tránh sự trùng lặp thì BLTTDS nên có sự sửa đổi theo hướng thống nhất hai căn cứ này.
Ngoài ra, nếu chủ thể khởi kiện rút lại đơn khởi kiện nhưng nguyên đơn lại muốn tiếp tục giải quyết vụ án thì Tòa án có đình chỉ giải quyết vụ án không hay vẫn giải quyết vụ án trên cở sở yêu cầu của nguyên đơn. Do vậy, thiết nghĩ, sẽ phù hợp hơn nếu xác lập căn cứ đình chỉ giải quyết VADS tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS theo hướng Toà án đình chỉ giải quyết vụ án nếu “ Đương sự đã khởi kiện hoặc người đại diện cho đương sự thực hiện việc khởi kiện rút đơn khởi kiện, trừ trường hợp nguyên đơn vẫn yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án”.
- Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS theo hướng loại bỏ sự trùng lặp và sắp xếp lại căn cứ “Người khởi kiện không có quyền khởi kiện” cho phù hợp
Ta thấy rằng, căn cứ “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS, trùng lặp với điểm b khoản 1 Điều 168 BLTTDS. Vì vậy, để loại bỏ sự trùng lặp cần có sự sửa đổi theo hướng loại bỏ căn cứ người khởi kiện không có quyền khởi kiện ra khỏi khoản 1 Điều 192 BLTTDS và xếp vào nhóm căn cứ Tòa án đã thụ lý vụ việc khi chưa đủ điều kiện khởi kiện theo luật định.
- Sửa đổi quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS theo hướng cụ thể hoá hơn ý chí của đương sự trong việc không yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự
Như đã phân tích ở Chương 2, do BLTTDS hiện nay không quy định trách nhiệm này của đương sự nên trong trường hợp đương sự không thông báo kết quả của sự tự thỏa thuận cho Tòa án hoặc đương sự không tới Tòa án để yêu cầu Tòa án không tiếp tục giải quyết vụ án nữa thì Tòa án không thể biết rằng các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau để ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS đó được. Vì vậy, BLTTDS cần quy quy định lại căn cứ này theo hướng cụ thể hóa hơn ý chí của đương sự trong việc không yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, bằng việc quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của đương sự như sau: Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS nếu “Các đương sự đã tự thỏa thuận và yêu cầu Tòa án không tiếp tục giải quyết vụ án”.
- Về sửa đổi quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS về căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án theo hướng làm rõ hơn căn cứ suy đoán là đương sự đã từ bỏ việc khởi kiện
Khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do tức là họ đã không quan tâm hay từ bỏ lợi ích của mình. Trong trường hợp này sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên cách diễn đạt của điều luật chưa thực sự chính xác. Không phải trong mọi trường hợp Tòa án đều có thể đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Toà án chỉ có thể đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Trường hợp có những sự kiện bất khả kháng mà nguyên đơn không thể lường trước được như ốm đau, thiên tai, địch họa...thì việc vắng mặt của nguyên đơn hoàn toàn không phải do họ từ bỏ việc khởi kiện. Do vậy, BLTTDS cần sửa đổi quy định này theo hướng làm rõ hơn căn cứ suy đoán là đương sự đã từ bỏ việc khởi kiện: “Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án sẽ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án”.
Trong trường hợp vụ án có nhiều nguyên đơn, mỗi nguyên đơn có yêu cầu độc lập với bị đơn, có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà một trong các nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng, nguyên đơn khác vẫn có mặt thì Tòa án chỉ đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt đồng thời vẫn tiếp tục giải quyết yêu cầu của nguyên đơn có mặt, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp Toà án có thẩm quyền đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc đã có quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
Theo quy định của Luật Phá sản thì vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS chỉ thực sự chấm dứt hoàn toàn khi doanh nghiệp, hợp tác xã không phục hồi được hoạt động kinh doanh và Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản. Do vậy, để phù hợp với bản chất của đình chỉ giải quyết VADS, cần sửa đổi điểm g khoản 1 Điều 192 và khoản 2 Điều 57 Luật Phá sản theo hướng: Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục thanh lí tài sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó [26, tr.10].
- Sửa đổi khoản 2 Điều 192 BLTTDS theo hướng không quy định căn cứ tại điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật này là lý do để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Điểm d khoản 1 Điều 168 BLTTDS quy định khi hết thời hạn thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án mà không có lý do chính đáng thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, căn cứ này rất ít khi xảy ra. Bởi hầu như không có Tòa án nào lại thụ lý vụ án khi mà người khởi kiện không đến Tòa án để làm thủ tục thụ lý. Do vậy, cần sửa đổi khoản 2 Điều 192 BLTTDS theo hướng không quy định căn cứ tại điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật này là lý do để đình chỉ giải quyết VADS.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền khởi kiện lại khi Toà án đã quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân.
Điều 193 BLTTDS quy định về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết VADS, theo đó thì sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đương sự không có quyền khởi kiện lại, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại các điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự, pháp luật nên mở rộng các trường hợp đương sự được quyền khởi kiện lại khi đã thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định. Chẳng hạn như trường hợp Tòa án đình chỉ vụ án do chưa đủ điều kiện khởi kiện, người khởi kiện không có NLHVDS... Trong những trường hợp này, đương sự sẽ có quyền khởi kiện lại khi đã khắc phục được những lý do trên.
Hơn nữa, sau khi Toà án đình chỉ giải quyết vụ án thì việc đương sự khởi kiện lại tuy vẫn cùng nguyên đơn, bị đơn và quan hệ tranh chấp nhưng có tình tiết mới khác với lần khởi kiện ban đầu ở chỗ người khởi kiện hoặc đã có quyền khởi kiện hoặc đã có đủ NLHVTTDS hoặc đã nộp tiền tạm ứng án phí hoặc đã có đủ điều kiện khởi kiện. Vì vậy, BLTTDS cần sửa đổi, bổ sung quy định về quyền khởi kiện lại như sau: “Khi Tòa án đình chỉ giải quyết VADS, đương sự không có quyền khởi kiện lại, trừ các trường hợp quy định tại điểm c, e và g khoản 1 Điều 192 và điểm b, d, đ khoản 1 Điều 168 BLTTDS”.
KẾT LUẬN
Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS là một nội dung quan trọng trong tố tụng dân sự. Việc Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS đúng đắn sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo kết quả giải quyết vụ án khách quan, chính xác. Do đó, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách hệ thống, khái quát và toàn diện về đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết VADS là rất cần thiết.
Trong bản khóa luận này, tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của việc quy định về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS. Trên cơ sở đó, khóa luận đã phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, phân tích và làm rõ các vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong pháp luật tố tụng dân sự về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu tại Chương 1 và Chương 2, bản khoá luận đã đi sâu phân tích về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VADS. Từ đó phát hiện những vướng mắc, những hạn chế của pháp luật được bộc lộ thông qua thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở tổng hợp toàn bộ kết quả nghiên cứu, bản khoá luận này đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
Nghiên cứu về đình chỉ, tạm đình chỉ là một việc phức tạp, đòi hỏi trình độ chuyên sâu và thời gian cần thiết. Trong khuôn khổ của khoá luận này, với một thời gian hạn chế nên mặc dù tác giả đã hết sức cố gắng tìm tòi, nghiên cứu và luận giải nhưng do là lần đầu tiên thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học nên khóa luận không thể tránh khỏi thiếu sót về nội dung và hình thức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp và chỉ dẫn của Quý Thầy Cô và các bạn sinh viên để công trình nghiên cứu có thể được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự.doc