Trong BLTTHS có quy định đầy đủ các biện pháp cưỡng chế Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành nhằm tạo điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính trung thực, đúng người, đúng tội, không gây oan ức cũng như không bỏ lọt tội phạm. Việc sử dụng những biện pháp này là cần thiết. Trong số đó, biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của con người. Chính vì lẽ đó, BLTTHS đã dành hẳn một chương để quy định một cách chặt chẽ về vấn đề này để đảm bảo cho việc tạm giam phát huy một cách hiệu quả nhất những mục đích của mình. Và cũng vì thế, em xin được chọn đề tài “Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng” để được tìm hiểu rõ hơn về biện pháp ngăn chặn này.
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3005 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong BLTTHS có quy định đầy đủ các biện pháp cưỡng chế Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành nhằm tạo điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính trung thực, đúng người, đúng tội, không gây oan ức cũng như không bỏ lọt tội phạm. Việc sử dụng những biện pháp này là cần thiết. Trong số đó, biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của con người. Chính vì lẽ đó, BLTTHS đã dành hẳn một chương để quy định một cách chặt chẽ về vấn đề này để đảm bảo cho việc tạm giam phát huy một cách hiệu quả nhất những mục đích của mình. Và cũng vì thế, em xin được chọn đề tài “Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng” để được tìm hiểu rõ hơn về biện pháp ngăn chặn này.
NỘI DUNG
I – Lý luận chung về biện pháp tạm giam:
Định nghĩa:
Biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 88 BLTTHS 2003 gồm 4 khoản, khoản 1 quy định về các trường hợp có thể áp dụng, khoản 2 quy định về các trường hợp ngoại lệ, khoản 3 quy định về các cơ quan có thẩm quyền và khoản 4 quy định về thủ tục tiến hành áp dụng biện pháp tạm giam. Để tìm hiểu về BPNC tạm giam, đã có nhiều quan điểm khác, nhưng nhìn chung các quan điểm đã đưa ra được một lượng kiến thức cơ bản về biện pháp tạm giam. Tuy nhiên các quan điểm này có những một vài thiếu sót. Giáo trình luật TTHS Việt Nam trường Đại học Luật Hà Nội đã khái quát vấn đề như sau:
“Tạm giam là BPNC trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Việt kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiệm hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiệm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Định nghĩa này đã đưa ra được đầy đủ các yếu tố để có thể hiểu được BPNC tạm giam là gì. Thông qua những khái niệm đã phân tích, ta có thể thấy tạm giam là một trong những BPNC có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự và phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật. Đối tượng bị áp dụng sẽ bị cách ly với xã hội trong một khoảng thời gian nhất định (quy định tại Điều 120 BLTTHS 2003) và bị hạn chế một số quyền tự do của công dân.
Mục đích của biện pháp tạm giam:
Việc giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình rất phức tạp từ khởi tố vụ án, điều tra thu thập chứng cứ đến xét xử vụ án... Trong đó, quá trình điều tra vụ án đòi hỏi các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm tìm hiểu, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và xác định người phạm tội. Quá trình này không những đòi hỏi sự tích cực của điều tra `viên, kiểm sát viên, thẩm phán mà còn cả sự hợp tác từ phía những người tham gia hoạt động tố tụng khác, trong đó bị can, bị cáo là những người có đóng góp vai trò rất lớn. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo cũng tham gia tố tụng và tự giác, hợp tác thực hiện đúng nghĩa vụ của mình mà có khi còn cố tình trốn tránh, hoặc gây cản trở cho quá trình tiến hành tố tụng. Do đó, để ngăn chặn và phòng ngừa kịp thời tội phạm, đảm bảo người phạm tội thực hiện đúng nghĩa vụ hoặc có hành vi bỏ trốn gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra, truy tố cũng như xét xử thì pháp luật đã trao cho các cơ quan có thẩm quyền quyền được áp dụng BPNC này. (Điều 79 BLTTHS 2003).
Ngoài ra, việc áp dụng BPNC tạm giam tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra xử lý tội phạm. Việc áp dụng biện pháp này sẽ đảm bảo sự có mặt của bị cao, bị cáo khi cần thiết để thu thập chứng cứ từ lời khai của bị cào vào bất cứ lúc nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý giảm sát bị can được chặt chẽ. Bên cạnh đó còn đảm bảo cho tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng như đảm bảo bí mật điều tra, không cho bị cáo thông đồng khi khai báo, cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội cũng như xóa dấu vết vụ án, không cho bị can, bị cáo đe dọa, cưỡng ép người làm chứng, người bị hại...
Ý nghĩa của biện pháp tạm giam:
Trước hết, biện pháp tạm giam là biện pháp thể hiện ý chí, thái độ nghiêm khắc của nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, củng cố tăng cường pháp chếp XHCN. Biện pháp này sử dụng quyền uy của nhà nước để bắt buộc người phạm tội phải tuân thủ các mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hạn chế đi một số quyền công dân, cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định.
Tiếp đó, biện pháp tạm giam tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Đó là các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và tài sản. Việc hạn chế một số quyền của những người thực hiện hành vi tội phạm cũng đồng thời là việc bảo vệ lợi ích của của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà bị hành vi đó xâm hại.
Cuối cùng, việc quy định các thủ tục cụ thể cho các chủ thể có thẩm quyền thực hiện biện pháp tạm giam giúp bảo vệ cho các quyền của công dân được tôn trọng ngay cả khi họ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
II – Các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm giam
Đối tượng và các căn cứ áp dụng:
Đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 chỉ có thể là bị can, bị cáo. Trong đó có 2 loại đối tượng căn cứ vào mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Đối tượng thứ nhất, đó là các bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Theo Điều 8 BLHS năm 1999 thì tội rất nghiêm trọng là những tội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù, tội đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài yếu tố về mức độ tội phạm, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có điều kiện: người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị Thẩm phán ra quyết đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo.
Đối tượng thứ hai, đó là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội tí nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Vì vậy, nếu muốn áp dụng biện pháp tạm giam đối với những đối tượng này thì cơ quan có thẩm quyền cần thỏa mãn 3 yếu tố:
Thứ nhất, người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo. Bởi trong BLHS còn quy định những trường hợp người thực hiện tội phạm nhưng không phải là người phạm tội, ví dụ như người thực hiện tội phạm là người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi, người thực hiện tội phạm trong tình thế cấp thiết…
Thứ hai, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm. Theo như quy định trước đây thì mức hình phạt phải trên 1 năm tù và tương ứng có 11 tội danh trong BLHS có khung hình phạt cao nhất là trên 1 năm tù. Còn hiện nay, với quy định điều kiện để áp dụng BPNC tạm giam hiện nay đã được nâng lên mức 2 năm tù. Tương ứng trong BLHS 1999 bao gồm 16 tội danh có khung hình phạt cao nhất đến 2 năm tù, đó là các tội quy định tại các điều: 94, 128, 129, 130, 148, 152, 159… Như vậy đối với các tội danh đã nêu, cơ quan có thẩm quyền không được phép áp dụng BPNC tạm giam. Bên cạnh đó, đối với những tội danh có thể có khung hình phạt cao hơn nhưng bị can, bị cáo chỉ bị truy tố trong khung hình phạt là 2 năm thì cũng không được áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là các quy đinh tại khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 105, khoản 1 Điều 110… BLHS 1999.
Cuối cùng, có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Hành vi bỏ trốn hoặc cản trở việc đầu tra, truy tố, xét xử có thể được nhận biết vào thời điểm sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết vụ án, bàn bạc nhau thông cung, trốn tránh pháp luật, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép người bị hại… dẫn đến nhiều khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền xác minh và làm rõ vụ việc. Hành vi có thể tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu tố nhân thân của các bị can, bị cáo là những phần tử xấu, tái phạm, là những trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, côn đồ hoặc cũng có thể là bị can, bị cáo đe dọa trả thù người làm chứng, bị cáo.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định về các trường hợp không được áp dụng biện pháp tạm giam mà phải áp dụng các biện pháp khác, đó là trường hợp: những đối tượng là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi; là người già yếu; người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng. Trừ trường hợp:
“a. Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b. Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử”.
Thẩm quyền ra quyết định tạm giam:
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 ghi nhận về các cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam (những chủ thể quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003).
Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND và VKS quân sự.
Chánh án, phó chánh án TAND và Tòa án quân sự.
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC.
Hội đồng xét xử.
Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Riêng trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn VKS ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam.
Thủ tục tạm giam:
BPNC tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, đo dó có ảnh hưởng lớn đến đời sống của người bị tạm giam. Do đó, thủ tục tiến hành tạm giam phải được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật (phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam). Việc tạm giam phải có lệnh tạm giam, đồng thời lệnh này phải do người có thẩm quyền kí. Theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 88 BLTTHS 2003 thì lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Không những thế, trước khi tiến hành tạm giam, “cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”.
4. Thời hạn tạm giam:
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn: Điều tra; truy tố; xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Cụ thể:
4.1. Giai đoạn điều tra:
Giai đoạn này có các loại thời hạn tạm giam sau:
* Thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội. Cụ thể:
Nếu tội phạm được điều tra là tội ít nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá hai tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn một lần không quá một tháng. Trong khi đó, Điều 119 BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng”. Như vậy, tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 4 tháng và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 3 tháng.
Riêng đối với những vụ án về tội ít nghiêm trọng được áp dụng thủ tục rút gọn thì thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố được quy định tại khoản 3 Điều 322 BLTTHS là không được quá mười sáu ngày.
Nếu tội phạm được điều tra là tội nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá ba tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá một tháng. Trong khi đó, Điều 119 BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án đối với tội nghiêm trọng không quá ba tháng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng”. Như vậy, tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 8 tháng và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 6 tháng.
Nếu tội phạm được điều tra là tội rất nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá bốn tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng. Trong khi đó, Điều 119 BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án đối với tội rất nghiêm trọng không quá bốn tháng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng”. Như vậy, tổng thời hạn để điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 12 tháng và tổng thời hạn tạm giam điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 9 tháng.
Nếu tội phạm được điều tra là tội đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá bốn tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn ba lần mỗi lần không quá bốn tháng. Và tại Điều 119 BLTTHS cũng quy định: “Thời hạn điều tra vụ án đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá bốn tháng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng”. Tổng thời hạn để điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng cũng là 16 tháng.
Như vậy, trong số các loại tội phạm nêu trên chỉ có tội đặc biệt nghiêm trọng là có tổng thời hạn tạm giam để điều tra bằng tổng thời hạn điều tra. Còn tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng là các tội có tổng thời hạn tạm giam để điều tra ngắn hơn tổng thời hạn điều tra.
* Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra được quy định tại khoản 4 Điều 121 BLTTHS như sau:
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi điều tra quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS 2003. Như vậy, chỉ được tạm giam bị can để phục hồi điều tra khi có đầy đủ các căn cứ quy định tại các điều 88 và 303 BLTTHS 2003. Thời hạn phục hồi điều tra được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS 2003 là: Không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau: Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng. Do vậy, thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội ít nghiêm trọng là không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội nghiêm trọng là không quá hai tháng, có thể được gia hạn một lần nhưng không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội rất nghiêm trọng là không quá hai tháng, có thể được gia hạn một lần không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá ba tháng và có thể được gia hạn một lần nhưng không qua ba tháng.
* Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung cũng được quy định tại khoản 4 Điều 121 BLTTHS 2003 như sau: trong trường hợp có căn cứ của Bộ luật luật tố tụng hình sự cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không quá thời hạn điều tra bổ sung quy định tại khoản 2 Điều này. Khoản 2 Điều 121 BLTTHS 2003 quy định thời hạn điều tra bổ sung như sau: “Trong trường hợp vụ án do viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra”. Như vậy, thời hạn tạm giam bị can để điều tra bổ sung không phụ thuộc vào loại tội mà tuỳ thuộc vào cơ quan (toà án hay viện kiểm sát) trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ do viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can là không quá hai tháng. Trường hợp này hồ sơ vụ án do viện kiểm sát trả lại lần thứ hai để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can để điều tra bổ sung lần này cũng không quá hai tháng. Nếu hồ sơ do tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can là không quá một tháng. Trường hợp toà án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai thì thời hạn tạm giam bị can để điều tra bổ sung lần thứ hai cũng là một tháng.
4.2. Giai đoạn truy tố:
Thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS 2003 và không được quá thời hạn để ra một trong bốn quyết định: Truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng; trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Cũng giống như ở giai đoạn điều tra, thời hạn tạm giam ở giai đoạn truy tố được quy định đối với từng loại tội phạm như sau:Thời hạn tạm giam bị can phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng để truy tố là hai mươi ngày; có thể được gia hạn thêm nhưng không quá mười ngày. Thời hạn tạm giam bị can phạm tội rất nghiêm trọng để truy tố là ba mươi ngày có thể được gia hạn thêm nhưng không quá mười lăm ngày. Thời hạn tạm giam bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để truy tố là ba mươi ngày và có thể gia hạn thêm nhưng không quá ba mươi ngày.
4.3. Giai đoạn xét xử sơ thẩm:
Giai đoạn này có các loại thời hạn: Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án.
* Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm bao gồm hai loại.
Loại thứ nhất là thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án toà án quyết định sau khi thụ lí hồ sơ vụ án. Thời hạn này được quy định cụ thể đối với từng loại tội, cụ thể, đó là: Ba mươi ngày đối với tội ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng và ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao thì thời hạn tạm giam đối với từng trường hợp cụ thể như sau: Đầu tiên, đối với bị can đang bị tạm giam mà khi thời hạn tạm giam gần hết (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày) và xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam bị can thì chánh án hoặc phó chánh án toà án ra lệnh tạm giam. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này được tính kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và không được quá bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Tiếp đó, đối với bị can đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đang còn thì khi thời hạn tạm giam gần hết (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày) cần phải xem xét có cần thiết tiếp tục tạm giam nữa hay không. Nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo thì chánh án hoặc phó chánh án toà án ra lệnh tạm giam. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này được tính kể từ ngày tiếp theo ngày tạm giam cuối cùng của lệnh tạm giam trước đó và không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử: Bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng; hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Cuối cùng, đối với bị can đang được tại ngoại, nếu sau khi nhận hồ sơ vụ án hoặc trong thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án xét thấy cần thiết áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ thì chánh án hoặc phó chánh án toà án ra lệnh bắt và tạm giam ngay. Theo quy định tại đoạn 2 Điều 177 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS 2003 và được tính kể từ ngày bắt bị can để tạm giam; do đó, trong trường hợp này phải tính thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 176 BLTTHS 2003 để xác định cụ thể ngày kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử và ghi thời hạn tạm giam trong lệnh bắt và tạm giam. Trong trường hợp phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu khi gần hết thời hạn tạm giam (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày) và xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam thì chánh án toà án có quyền ra lệnh tạm giam tiếp. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Với hướng dẫn nêu trên của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì:
Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp tạm giam (đặc biệt là thời hạn tạm giam) của toà án ít nhiều phụ thuộc vào thời hạn tạm giam theo lệnh của viện kiểm sát. Nếu thời hạn tạm giam theo lệnh tạm giam của viện kiểm sát đang còn thì toà án chỉ xem xét có cần tiếp tục tạm giam hay không khi thời hạn tạm giam gần hết.Thứ hai, trong mọi trường hợp toà án (thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà) phải tính toán rất kĩ để xác định ngày mở phiên toà và ghi trong lệnh tạm giam. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy sau khi thụ lí hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà còn phải nghiên cứu hồ sơ để ra một trong bốn quyết định theo quy định tại Điều 176 BLTTHS 2003. Việc tính toán và lên lịch xét xử chỉ được tiến hành khi quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, nội dung hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao khó khả thi trong thực tế và không bảo đảm hoạt động độc lập của toà án; nên chăng cần nghiên cứu lại hướng dẫn nêu trên.
Loại thứ hai là thời hạn được tính bằng sự kiện “kết thúc phiên toà”. Thời hạn này chỉ xuất hiện khi loại thời hạn thứ nhất đã hết mà không có căn cứ để thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đang áp dụng và trả tự do cho bị cáo. Thời hạn này không phụ thuộc vào loại tội phạm mà giống nhau đối với tất cả các loại tội. Thời hạn này được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án quyết định (lần thứ hai) với mục đích là để bảo đảm cho việc xét xử.
* Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án là thời hạn tạm giam đối với bị cáo sau khi tuyên án. Theo quy định tại khoản 3 Điều 228 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giam bị cáo trong trường hợp này là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Về cơ bản, nội dung quy định tại Điều 228 đã tạo thành cơ chế bảo đảm cho cho việc tạm giam bị cáo cho đến khi toà án cấp phúc thẩm thụ lí hồ sơ vụ án (nếu bản án bị kháng cáo, kháng nghị) hoặc toà án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án.
4.4. Giai đoạn xét xử phúc thẩm
Giai đoạn này cũng có thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm.
* Thời hạn tạm giam để bảo cho việc xét xử phúc thẩm cũng giống như thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử phúc thẩm bao gồm hai loại: Một là, thời hạn tạm giam được tính bằng ngày. Thời hạn này được quy định chung cho các loại tội phạm và phụ thuộc vào toà án cấp nào thụ lí vụ án. Nếu vụ án do toà án nhân dân cấp tỉnh, toà án quân sự cấp quân khu thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là sáu mươi ngày. Nếu vụ án do Toà án quân sự trung ương, Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là chín mươi ngày. Hai là, thời hạn tạm giam xuất hiện sau khi loại thời hạn thứ nhất đã hết và kéo dài cho tới khi kết thúc phiên toà phúc thẩm. Đây là thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết và toà án ra lệnh tạm giam (tiếp theo) khi xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử.
* Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm được quy định tại khoản 3 Điều 243 BLTTHS như sau:“Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này. Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định tại Điều 261 của Bộ luật này. Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án”.
4.5. Thời hạn tạm giam đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm:
Ngoài các thời hạn nêu trên, còn một loại thời hạn nữa được đề cập tại Điều 287 BLTTHS, đó là loại thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm giam mà toà án cấp giám đốc thẩm huỷ án để điều tra hoặc xét xử lại. Theo quy định tại đoạn 2 Điều 287 BLTTHS thì: “Trong trường hợp huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra hoặc để xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết thì hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi viện kiểm sát hoặc toà án thụ lí lại vụ án”.
5. Chế độ tạm giam:
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn, còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Tòa án nhằm trừng phạt người phạm tội và nhằm mục đích cải tạo họ trở thành có ích cho xã hội. Do đó, tại Điều 89 BLTTHS 2003 quy định chế độ tam giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam phải chấp hành các quy định của Chính phủ tại Nghị định 89/NĐ-CP ban hành ngày 07/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trogn thời gian bị tạm giữ, tạm giam.
Một số biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản của người bị tam giam:
Vấn đề này được quy định tại Điều 90 BLTTHS 2003 như sau:
“1. Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
2. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
3. Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng”.
Ngoài ra, còn một số vấn đề liên quan đến biện pháp tạm giam như vấn đề khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt, vấn về về quyền của người bị tạm giam… nhưng trong giới hạn của bài viết nên em xin không nêu ra.
III – Thực trạng thực hiện biện pháp tạm giam
BLTTHS 2003 tính cho đến nay đã áp dụng được 8 năm. Thực tiễn áp dụng đã bộc lộ những vướng mắc trong hoạt động quy định tố tụng nói chung và hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng. Những vướng mắc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của chủ thể áp dụng, nguyên nhân từ quá trình xây dựng pháp luật… Do vậy, em xin được đưa ra một số vướng mắc nổi bật hiện nay.
Vấn đề về thời hạn điều tra và tạm giam để điều tra:
Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giam để điều tra đối với tội ít nghiêm trọng là không quá 3 tháng kể cả gia hạn, không quá 6 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 9 tháng với tội rất nghiêm trọng và không quá 16 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, Điều 119 BLTTHS 2003 lại quy định thời gian điều tra kể cả gia hạn đối với các loại tội đã nêu lần lượt là 4 tháng, 8 tháng, 12 tháng và 16 tháng. Căn cứ vào đó, có thể thấy thời hạn điều tra dài hơn thời gian tạm giam để điều tra, trừ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc quy định như vậy là để hạn chế việc lạm dụng tạm giam, đồng thời đẩy mạnh tiến độ điều tra. Song, thực tiễn của quá trình điều tra đã cho thấy nhiều vụ việc phức tạp dẫn tới cần nhiều thời gian tạm giam bị can hơn dự kiến. Theo quy định của pháp luật thì trường hợp này phải trả tự do cho bị can, nếu xét thấy cần thiết có thể áp dụng BPNC khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh… Như vậy, nếu trường hợp này xảy ra tức là người phạm tội được tại ngoại thì những ý nghĩa, những mục đích của việc tạm giam sẽ không còn tác dụng, đồng thời còn gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
Vấn đề thẩm quyền ra lệnh áp dụng:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra lệnh tạm giam, nhưng lệnh này đều phải có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp. Không những vậy mà tất cả những hoạt động liên quan đến thẩm quyền tạm giam trong quá trình điều tra như hủy bỏ, thay thế, gia hạn thì đều cần có thông qua VKS, Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị. Chính vì vậy, ta có thể thấy việc quy định thẩm quyền này cho Cơ quan điều tra phần nào mang tính hình thức, khi mọi quyết định về tạm giam chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của VKS.
Vấn đề về trách nhiệm của những người có thẩm quyền:
Về thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam, những người có thể đề xuất chính là điều tra viên, thủ trưởng cơ quan điều tra và VKS phê chuẩn. Nếu như trong việc tạm giam bị can là trái pháp luật hoặc việc tạm giam đó là sai người, sai tội thì việc gây ảnh hưởng tới đời sống cũng như danh dự của họ sẽ do ai chịu trách nhiệm. Không những vậy, chúng ta cũng nên đặt ra vấn đề trách nhiệm của VKS nếu như trong phạm vị trách nhiệm của mình phê chuẩn quyết định tạm giam chậm trễ khiến cơ quan điều tra không thể tạm giam người phạm tội, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình điều tra.
Vấn đề về công tác quản lý, bảo đảm chế độ cho người bị tạm giam:
4.1. Thời hạn tạm giam:
Trong thực tiễn hoạt động tố tụng đã ghi nhận rất nhiều trường hợp tạm giam quá thời hạn quy định, chủ yếu là trong giai đoạn điều tra và truy tố. Cá biệt còn có những trường hợp thời hạn tạm giam bằng thời hạn phạt tù mà bị cáo phải chấp hành, ví dụ như vụ “kỳ án” của ông Đặng Trung Nam kết thúc ngày 4/2/2010 với 10 bản kết luận điều tra, 7 lần mở phiên xử và ông từng “được” gia hạn tạm giam tới 44 lần. Mức án Hội đồng xét xử sơ thẩm lần 7 tuyên phạt ông Nam với mức án 6 năm 2 tháng 1 ngày tù tương đương bằng với thời gian 2.251 ngày, bằng thời hạn tạm giam (báo điện tử Thị trường Việt Nam). Có thể thấy, việc tạm giam như vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, gây mất lòng tin của nhân dân và tạo kẽ hở cho bọn phản động xuyên tạc về chính quyền.
. Chế độ tạm giam:
Về vấn đề chế độ tạm giam, không thể không nhắc tới vấn đề cơ sở vật chất của các trại giam còn chưa đầy đủ, người bị tạm giam phải chịu chế độ như người đang chấp hành hình phạt tụ… Bên cạnh đó, hiện tượng cán bộ trại giam, cán bộ điều tra có những hành động ép cung, đánh đập bị can bị tam giam cũng gây ra nhiều dư luận bức xúc trong dư luận. Không hiếm những trường hợp người bị tạm giam đã chết trong trại giam mà nguyên nhân có liên quan đến vấn đề bị đánh đập tra tấn như trường hợp của anh Nguyễn Quốc Bảo tại CA quận Hai Bà Trưng, Hà Nội được đưa tin trên báo pháp luật ngày 29/03/2010.
Trên đây là một số vấn đề về việc thực hiện BPNC tạm giam qua thực tiễn hoạt động tố tụng đáng lưu ý và cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời, đảm bảo pháp chế XHCN, đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
VI – Một vài kiến nghị để khắc phục và nâng cao hiệu quả áp dụng
Qua những gì đã phân tích, có thể thấy BPNC tạm giam là một công cụ hữu hiệu giúp mang lại nhiều kết quả khả quan cho hoạt động tố tụng cũng như hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm. Chính vì lẽ đó, cần phải đưa ra những biện pháp hữu ích nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng của hoạt động áp dụng BPNC này, đồng thời giải quyết được những bất cập đem lại lòng tin cho người dân vào pháp luật.
Thứ nhất, về thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra. Thiết nghĩ, để tránh tình trạng không thống nhất, đồng bộ của pháp luật thì BLTTHS nên quy định lại theo hướng điều chỉnh lại thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra cho cân bằng. Như vậy sẽ tránh được tình trạng trong vụ án phức tạp đã hết thời gian tạm giam nhưng Cơ quan điều tra vẫn chưa làm sáng tỏ tội phạm dù còn thời gian điều tra.
Thứ hai, về thẩm quyền ra lệnh áp dụng. Vấn đề này đã được nhắc đến trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị theo hướng thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam, xác định rõ căn cứ tạm giam. Theo quan điểm cá nhân em, BLTTHS nên quy định lại thẩm quyền của các cơ quan có thẩm quyền ra lệnh theo hướng bỏ thẩm quyền của VKS trong việc phê chuẩn lệnh tạm giam mà thay vào đó Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền phê chuẩn. Trong đó, VKS vẫn giữ đúng vai trò của mình là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, nghĩa là việc phê chuẩn của Cơ quan điều tra phải được thông báo tới VKS ngay khi ra lệnh. Căn cứ vào các tình tiết VKS sẽ xem xét có yêu cầu hủy lệnh hay không. Như vậy sẽ đảm bảo được việc VKS không phê chuẩn đúng thời hạn dẫn tới khó khăn cho công tác điều tra.
Thứ ba, về trách nhiệm của người có thẩm quyền. Cần phải có sự phân định rõ ràng giữa người đề xuất, người phê chuẩn và trách nhiệm của họ. Nếu việc tạm giam là trái pháp luật thì người đề xuất, người phê chuẩn phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền của mình. Về vấn đề này, pháp luật nhất thiết phải đề cao trách nhiệm của từng cá nhân, của cả tập thể khi thực hiện hoạt động tố tụng trái pháp luật. Có thể đề ra các chế tài về hành chính cũng như hình sự. Nếu sai phạm ở mức nhẹ thì có thể áp dụng các hình thức kỷ luật như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch… nếu ở mức độ cần phải nghiêm trị thì có thể áp dụng hình phạt tù. Không những thế, các cơ quan có thẩm quyền xử lý sai phạm phải thực sự nghiêm minh, tiến hành xử lý đúng người đúng tội theo đúng quy định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động tư pháp có hiệu quả, gây dựng được lòng tin nơi quần chúng.
Thứ tư, về thời hạn tạm giam. Như đã phân tích ở trên, việc tạm giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo hướng là phải có lệnh bắt tạm giam. Vì nếu quy chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không có căn cứ để tạm giam bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS 2003. Như vậy vừa đảm bảo thủ tục pháp luật một cách rõ ràng, tránh gây hiểu lầm về hoạt động tố tụng.
Cuối cùng, về nâng cao phẩm chất của các chủ thể có thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp tạm giam. Đối với Cơ quan điều tra cần phải tập trung nâng cao trình độ chất lượng, kiện toàn đội ngũ điều tra viên. Bởi họ chính là những người trực tiếp lập hồ sơ vụ án, đề xuất Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra lệnh tạm giạm nên có ảnh hường chính đến người bị tạm giam. Có thể mở các lớp huấn luyện, đào tạo chuyên ngành hoặc hơn nữa là hợp tác đào tạo liên quốc gia… nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ cho điều tra viên. Nếu trình độ, phẩm chất của những người tham gia hoạt động điều tra được nâng cao sẽ phần nào hạn chế được việc áp dụng biện pháp tạm giam không đúng theo luật định. Về phía Viện kiểm sát cũng cần phải có nhiều hoạt động hơn nữa để kiện toàn đội ngũ kiểm sát viên, nâng cao nghiệp vụ, tăng cường tập huấn cho kiểm sát viên. Như vậy sẽ giúp Viện kiểm sát đảm bảo được vai trò kiểm sát của mình một cách chặt chẽ hơn, bảo đảm cho quyền lợi hợp pháp của những người không thực sự phải tạm giam. Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng cần kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của Cơ quan tiến hành tố tụng kháchơn nữa để đảm bảo một cách tốt nhất nguyên tắc pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, kịp thời phát hiện và xử lý những trường hợp cố tình vi phạm. Tòa án cũng cần phải thường xuyên thực hiện công tác tập huấn nghiệp vụ nói chung và về vấn đề áp dụng, hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp tạm giam nói riêng cho Thẩm phán và Hội thẩm.
THAY LỜI KẾT
BPNC tạm giam được quy định trong BLTTHS đã thực sự tạo được một hành lang pháp lý rất quan trọng và hữu hiệu không những đảm bảo cho hoạt động tố tụng hoạt động một cách có hiệu quả mà còn đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Tuy nhiên để biện pháp tạm giam phát huy đúng mục đích, ý nghĩa của nó thì điều đó còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức của từng người dân, của từng cá nhân tham gia quá trình tố tụng. Có như thế BPNC tạm giam mới có thể trở thành một công cụ pháp lý đắc lực giúp cho Nhà nước xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nền pháp chế XHCN một cách hữu hiệu nhất.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam – nxb CAND, Trường ĐH Luật Hà Nội 2008.
Bộ luật Tố tụng Hình sự số 19/2003/QH11 của Quốc Hội ban hành 26/11/2003.
Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp – Trường ĐH Luật Hà Nội – Luận án tiến sĩ Luật học, Nguyễn Văn Điệp, Hà Nội 2005.
Tạm giam trong tố tụng hình sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn – Trường ĐH Luật Hà Nội – Khóa luận tốt nghiệp, Hà Đình Hiệu, Hà Nội 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.doc