MỤC LỤC
* LỜI MỞ ĐẦU . . .1
* NỘI DUNG .2
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC 2
1. Lịch sử ra đời và vai trò kinh tế của Nhà nước .2
1.1. Qúa trình hình thành Nhà nước 2
1.2. Vai trò kinh tế của Nhà nước 3
2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước .4
2.1. Nhà nước là một bộ máy, là một lực lượng quản lý toàn bộ xã hội trong đó có quản lý về kinh tế . 5
2.2. Sản xuất ngày càng được xã hội hoá vì thế cần phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất .5
2.3. Do khuyết tật của cơ chế thị trường tác động vào kinh tế vì thế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước 6
II. SỰ HÌNH THÀNH CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ MỚI Ở VIỆT NAM.7
1. Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở Việt Nam 7
1.1. Cơ chế này được hình thành như thế nào? 7
1.2. Đặc trưng của cơ chế cũ 7
1.3. Ưu điểm của cơ chế cũ .7
1.4. Nhược điểm của cơ chế cũ 8
2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng của cơ chế đó vào Việt Nam 8
2.1. Khái niệm cơ chế thị trường .8
2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường 9
2.3. Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam .11
III. SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 12
1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .12
1.1. Nội dung 12
1.2. Sự biểu hiện vai trò kinh tế của Nhà nước .15
2. Mục tiêu, chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước Việt Nam 16
2.1. Mục tiêu 16
2.2. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước 17
3. Những công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý vĩ mô 19
4. Thực trạng quản lý kinh tế Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 20
5. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước .22
* KẾT LUẬN .26
* TÀI LIỆU THAM KHẢO .27
thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật ( chế độ tem phiếu ) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Bốn là: Bộ máy quản lý cồng kềnh có nhiều khâu trung gian kém hiệu lực. Từ đó nảy sinh một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta thời kỳ này đã tích cực ghép những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Sau một quá trình dài thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung này Đảng và Nhà nước đã nhận thức được thiếu sót và hạn chế của nó. Vì vậy từ những năm 1986 cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước thì ở nước ta cũng thực hiện đổi mới từ cơ chế cũ ( cơ chế kế hoạch hoá tập trung ) sang cơ chế mới ( cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa) như là một yếu tố để phát triển nền kinh tế của đất nước, nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế của thời đại.
2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng cơ chế đó vào Việt Nam
2.1 Khái niệm cơ chế thị trường
Cơ chế đang hình thành ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy cơ chế thị trường là gì?
Một hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra những hàng hoá gì, việc sản xuất được tiến hành theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế- xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó ?. Trong một nền kinh tế, mà người ta gọi là kinh tế chỉ huy, những vấn đề cơ bản đó do cơ quan của nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thi trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ …và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất đối với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
Như vậy có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hóa do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó.
2.2 Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường
Ưu điểm:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khẳ năng thích nghi cao hơn khi những đIều kiện kinh tế thay đổi, là thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu dòng tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có lợi nhuận cao. Do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương thức nào, bằng công nghệ gì. Được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá cả. Và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất ( đất đai, lao động, vốn ). Thu nhập của các tầng lớp dân cư phụ thuộc vào số lượng và giá cả các nhân tố sản xuất.
Như vậy, thi trường giải quyết vấn đề cái gì, như thế nào và cho ai.
Khuyết tật:
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế đIều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là sự hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội:
+Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn đến phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
Như vậy hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của chạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả của kinh tế- xã hội không được đảm bảo.
+ Có những mục tiêu xã hội mà dù ở cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nhà nghiên cứu phương tây đã nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau: “ trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người “
+ Một nền kinh tế do cơ chế thị trường đIều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hỏng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giảI của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp và công ăn việc làm đầy đủ.
Như vậy, cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó. Do đó, ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi nền kinh tế hỗn hợp.
2.3 Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam
Sau Đại hội VI của Đảng, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ hơn, toàn diện hơn việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Có thể nêu ra những điểm đổi mới cơ bản sau:
Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Nếu trước đây kinh tế tư nhân, cá thể không được thừa nhận thì nay được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Nhà nước đã ban hành nhiều luật như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các công dân Việt Nam theo đúng luật pháp, không hạn chế về vốn đầu tư và số lượng lao động.Trong nông nghiệp, nông dân được quyền sử dụng đất lâu dài và tự do bán sản phẩm trên thị trường. Các hợp tác xã được cải tổ lại theo hướng tập chung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.
Chuyển mạnh cơ chế thị trường với việc sử dụng mạnh mẽ các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế.
Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế.
Trong thời gian qua chúng ta đã có những thay đổi có ý nghĩa trong xuất nhập khẩu và đầu tư hợp tác nước ngoài.
Về xuất khẩu: Tự do hoá thương mại, giảm bớt một số thủ tục xuất nhập khẩu không cần thiết. Thay đổi định hướng thị trường xuất nhập khẩutheo hướng mở rộng thị trường ra một số nước mới, nhất là các nước trong khu vực.Việc áp dụng tỷ giá hiện thực và tự do trao đổi ngoại tệ tại các thị trường ngoại hối chính thức cũng góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu.
Cải cách một bước bộ máy kinh tế. Vai trò lập pháp, kiểm soát, giám sát của Quốc hội được tăng cường. Bộ máy quản lý các cấp được sắp xếp một bước theo hướng thu gom đầu mối, tinh giảm biên chế, phân định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp. Từng bước phân định tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp. Từng bước thay đổi phương thức đIều khiển nền kinh tế từ ra các mệnh lệnh trực tiếp là chủ yếu sang gián tiếp là chủ yếu. Bước đầu tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Bước đầu phát huy đựoc năng lực nội tại nền kinh tế, làm cho nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn ra khỏi khủng hoảng. Quan trọng nhất là đã phát huy được động lực, nhân cách, sức sáng tạo, tính chủ động và đức tính cần cùcủa người lao động. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát.
Tăng mạnh đầu tư trong nước. Trong tổng vốn đầu tư trong nước thì đầu tư của nông dân, kinh tế tư nhân, cá thể chiếm một phần quan trọng. Sản xuất trong nước có phát triển, đặc biệt là khu vực tư nhân. Việt Nam đã từ nước phải thường xuyên nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thên thế giới.
Xuất nhập khẩu về cơ bản đã bảo đảm được các nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế và xã hội. Ngân sách Nhà nước có thể bảo đảm được các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Hiệu quả chung của nền kinh tế được nâng cao hơn trước. Đã tạo được những điều kiện ban đầu cho tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật làm cho công nghệ, kỹ thuật nhanh chóng được đổi mới, chất lượng sản phẩm được nâng cao và giá thành hạ, bao bì đóng gói phù hợp hơn, nghĩa là guồng máy kinh tế bớt trì trệ, người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá và dịch vụ nên sản xuất phù hợp hơn với tiêu dùng, tránh cho xã hội những tổn thất lớn do sản xuất không phù hợp với tiêu dùng.
Đời sống phần lớn lao động được cải thiện đáng kể trên nhiều chỉ tiêu tiêu dùng cá nhân. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn trên trường quốc tế.
Tuy nhiên còn không ít thiếu sót cần khắc phục trong thời gian tới, đó là :
Tự do kinh doanh và cạch tranh theo pháp luật – hai thế mạnh của cơ chế thị trường- chưa được quán triệt đầy đủ và thực thi hữu hiệu trên thực tế.
Hệ thống thị trường chưa đầy đủ. Một số thị trường đã có mới ở giai đoạn kém phát triển nên hoạt động chưa hoàn hảo, gây ra nhiều ách tắc trong nền kinh tế.
đổi mới không đồng bộ, chưa toàn diện. Mới chú trọng đổi mới về các chính sách kinh tế. một số lĩnh vực quan trọng khác đổi mới rất chậm hoặc chưa đổi mới,ví dụ, kế hoạch hoá định hướng.
Bộ máy Nhà nước trên thực tế vẫn còn can thiệp sâu vào quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước chưa thật sự điều hành nền kinh tế theo pháp luật, cộng với cơ chế phân phối chưa phát huy đầy đủ và đúng đắn động lực vật chất cũng như động lực tinh thần của cán bộ và người lao động nên tham nhũng buôn lậu v.v…. đã trở thành quốc nạn. Có thể nói đây là vấn đề nhức nhối liên quan đến sự tồn, vong của chế độ.
III. SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1 Nội dung.
Thứ nhất, về chế độ sử hữu.
Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hoá, trao đôỉ mua bán hàng hoá, dịch trên thị trường theo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo nguyên tắc trên, sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào kinh tế thị trường ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ sự trao đổi đó. Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những người tư nhân mới đối diện với nhau như là những hàng hoá”(1).Người lao động tư nhân, độc lập có thể là một người lao động cá thể hay một người lao động tổng thể ( một xí nghiệp hợp tác, một công xưởng, một liên hiệp xí nghiệp…) mà chỉ sản phẩm của cả tập thể mới trở thành hàng hoá. Xét trên phạm vi cả xã hội thì lao động của mỗi người lao động cá thể hay người lao động tổng thể trước hết biểu hiện là lao động tư nhân, sản phẩm tạo ra trước hết thuộc quyền sở hữu
của mỗi tư nhân đó và chỉ thông qua trao đổi lao động tư nhân đó mới biểu hiện thành lao động xã hội, mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa nhận hay không. Chính vì vậy, “ muốn cho những đồ vật đó quan hệ với nhau như những hàng hoá thì người giữ hàng hoá phải đối sử với nhau như những người mà ý chí của họ chi phối các vật đó…Do đó, họ phải công nhận lẫn nhau là những người tư hữu”(2) .
Trong nền KTTT ở các nước TBCN có nhiều hình thức sở hữu, nhưng nền tảng của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân và nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Tính định hướng XHCN đòi hỏi, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta phải phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác để trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết như an ninh quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có đIều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có lãi hoặc ít lãi.
Thứ hai, về cơ chế quản lý và vận hành nền KTTT định hướng XHCN.
Cơ chế vận hành KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hấp dẫn, đIều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước đIều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường “ tự điều chỉnh”. Mặt khác, do thị trường trong nền KTTT định hướng XHCN không phải là thị trường tự đIều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kì, do đó nó còn phải chịu sự đIều chỉnh, quản lý của nhà nước XHCN. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật khách quan một cách độc lập, biệt lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu ở trên thể hiện rõ các mặt cơ bản:
Một là, Nhà nước XHCN – nhà nước của dân, do dân, vì dân – là nhân tố đóng vai trò “ nhân vật trung tâm” và đIều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường; thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố “ trung tâm” của nền kinh tế, đóng vai trò “ trung gian” giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nữa là Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Có một số người cho rằng, khi chuyển sang KTTT thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của nhà nước cũng không cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá thị trường, xét từ góc độ nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt dộng kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông qua công cụ kế hoạch hoá mà nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp.
Thứ ba, về phân phối thu nhập.
Như đã nói, sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội.Từ đó kinh tế thị trường định hướng XHCN phải thực hiện hài hoà ba vấn đề sau:
Một là, kết hợp vấn dềlợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể tham gia KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của KTTT như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối theo quỹ phúc lợi xã hội…, trong đó phân phối theo lao động là chính.
Ba là, điều tiết phân phối thu nhập. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách sao chogiảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, mặt khác phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: một là, nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức đIều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội; hai là, đIều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
1.2 Sự biểu hiện của vai trò kinh tế của Nhà nước.
Vai trò kinh tế của Nhà nước là vai trò không thể thiếu của mỗi Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước trong nền kinh tế thị trường, vai trò kinh tế của nhà nước được biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất: Nhà nước có vai trò định hướng sự phát triển kinh tế trước hết và quan trọng ở chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, xác định chương trình mục tiêu, Nhà nước cụ thể hoá đường lối kinh tế của dảng thành những mục tiêu, tốc độ phát triển kinh tế cần phải đạt tới và xác định thứ tự mục tiêu. Do đó không những cần coi trọng mà phải nâng cao chất lượng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: Nhà nước tạo môi trường, điều kiện cho các hoạt động kinh tế. Điều quan trọng hàng đầu là sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội để các tổ chức kinh tế, các chủ thể kinh doanh hàng hoá yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất.
Xây dựng, phát triển hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất, bao gồm thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền tệ, sản phẩm khoa học, dịch vụ…
Phát triển hệ thống thông tin kinh tế, khoa học công nghệ, các dự báo về mặt hàng, giá cả, các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Xây dựng mới và nâng cấp dần cơ sở hạ tầng cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Bao gồm cơ sở hạ tầng về vật chất, về tài chính- tiền tệ và cơ sở hạ tầng xã hội.
Thứ ba: Nhà nước điều tiết thị trường bằng các công cụ chủ yếu như:
Pháp luật: quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng pháp luật. Pháp luật, quan trọng là hệ thống pháp luật về kinh tế tạo hành lang an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm kỷ cương cho các hoạt động muôn màu, muôn vẻ của đời sống kinh tế. Do đó, cần có pháp luật đồng bộ, thống nhất và từng bước hoàn chỉnh khắc phục tình trạng thiếu pháp luật, còn nhiều kẽ hở trong quản lý. Đó là một nguyên nhân quan trọng của những hành vi lạm dụng, tiêu cực, tham nhũng, buôn lậu, ăn cắp tài sản quốc gia gây hỗn loạn trong các hoạt động kinh tế.
Các chính sách kinh tế: trong nền kinh tế thị trường, các chính sách kinh tế là những công cụ cực kỳ sắc bén và trước hết là chính sách tài chính tiền tệ, tín dụng, giá cả, chính sách thuế và đầu tư.
Thứ tư: Sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Kiểm soát là nhằm thiết lập trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế, bảo vệ tài sản quốc gia, lợi ích của người lao động và góp phần thực hiện công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Nhà nước thực hiện kiểm kê, kiểm soát về đăng ký kinh doanh, hoạt động kinh doanh.
Như vậy, vai trò kinh tế của nhà nước biểu hiện trong kinh tế thị trường là quản lý vĩ mô.
2. Mục tiêu, chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước Việt Nam
2.1 Mục tiêu:
Một là: mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy tốc độ tăng trưởng chất lượng sản phẩm, giá cả, tài chính…đối với mọi hoạt động sản xuất lưu thông. kinh tế bình quân hàng năm 10-15% nhằm rút khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tránh những cơn khủng hoảng thiếu hoặc thừa, lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/ năm, tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%, tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên trên 75%.
Để giải quyết tốt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, Nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường, phát huy các mặt tích cực của nó, xác định rõ quyền sở hữu tài sản và bảo đảm mọi nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới. Khuyến khích phát minh, sáng kiến, sử dụng nguồn lực chất xám, cạch tranh lành mạnh, chống độc quyền…thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố: lao động, vốn, kỹ thuật, đất đai trong tất cả các lĩnh vực và trong mội không gian.
Hai là: phân bố nguồn lực có hiệu quả. Muốn phân bố nguồn lực có hiệu quả, Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện nền kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước có thể nắm bắt được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung với các thành phần kinh tế, bảo đảm các hoạt động kinh tế tốt hơn. và mức cầu, trạng thái kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bố nguồn lực: vốn, lao động…cho phù hợp với từng vùng và sử dụng có hiệu quả nhất, để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với sản lượng tiềm năng, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà Chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực: Xây dựng chức năng công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học – kỹ thuật, giảm bớt những rủi ro đối với các thành phần kinh tế, bảo đảm các hoạt động kinh tế tốt hơn.
Ba là: phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội. Để đảm bảo phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần phải sử dụng tốt các công cụ luật pháp điều tiết thu nhập bảo hộ và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của nhà nước có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Song phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động đối với sản phẩm làm ra. Đối với các vấn đề xã hội cần có các chính sách thiết thực, phù hợp với từng điều kiện: trợ cấp, phân phối lại, bảo hiểm phát triển công nghệ…
Bốn là: Mở rộng và năng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng khả năng xuất khẩu những mặt hàng đã qua chế biến, tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm tăng khoảng 30%.
Năm là: ngăn chặn ô nhiễm môi trường, đẩy lùi tham nhũng …ở các thành phố, khu công nghiệp. Đẩy lùi tham nhũng, tệ nạn xã hội, loại trừ văn hoá độc hại bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, trọn vẹn lãnh thổ và an ninh của tổ quốc.
Sáu là: tạo ra những yếu tố để sớm hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo kịp trình độ kinh tế thị trường so với các nước đi trước.
Ngoài ra, quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước còn có mục tiêu củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế sản xuất và mục tiêu củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trong tình hình mới, bảo đảm trật tự an toàn và môi trường hoà bình, ổn định sự hợp tác cho phát triển kinh tế.
2.2 Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những hậu quả của nền kinh tế thị trường và đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Một là, chức năng định hướng sự phát triển nền kinh tế.
Qua các lần Đại hội Đảng toàn quốc tính từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu đến nay đã xác định mô hình “ xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mô hình kinh tế này vừa có cái chung, vừa có cái đặc thù được kết hợp trong đó, định hướng xã hội chủ nghĩa xác định tính chất và mục tiêu mà Chính phủ trong quá trình quản lý vĩ mô phải đạt tới. Song đó chỉ là định hướng chung phải biết lựa chọn để tìm ra những chiến lược và chính sách phát triển trong từng thời kỳ.
Kết quả của sự lựa chọn phải được hệ thống qua hệ thống cân đối mục tiêu định hướng cho từng thời kỳ.
Mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập tính theo đầu người.
Mục tiêu dân số việc làm và thất nghiệp. Đây là mục tiêu gắn liền với GDP/người, gắn với tiến bộ xã hội, gắn với quan hệ cung cầu, sức lao động cho sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Mục tiêu giảm lạm phát và ổn định giá cả.
Mục tiêu cân đối trong nước và trong cán cân thanh toán quốc tế.
Bốn nhóm mục tiêu nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và có liên quan đến định hướng phát triển, một chức năng quan trọng đầu tiên của vai trò Nhà nước, được thực hiện thông qua công cụ vĩ mô kế hoạch hoá.
Hai là, chức năng thiết lập khuôn khổ, lập pháp để tạo ra những đIều kiện cần thiết cho sự hoạt động của các chủ thể kinh tế. Nội dung của các chức năng này thể hiện ở các khía cạnh sau:
Xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế và các văn bản pháp qui, đủ để quyền lực của Nhà nước được thể hiện bằng pháp luật đối với xã hội.
Thực hiện sự thống nhất có phân công giữa các cơ quan thuộc quyền lập pháp ( Quốc hội ), quyền hành pháp ( Chính phủ ) và quyền tư pháp ( các cơ quan tài phán ).
Nâng cao năng lực và tính nghiêm minh của các cơ quan toà án, viện kiểm soát, công an… trong kiểm tra, thụ lý và xử lý các trường hợp vi phạm xảy ra.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội lâu bền chỉ có thể xảy ra và duy trì được khi Nhà nước thực hiện chức năng thiết lập khuôn khổ về luật pháp, đặc biệt là duy trì nó trong thực tế.
Ba là, chức năng tạo môi trường chính trị, kinh tế –xã hội không đảm bảo cho nó. Nội dung của chức năng này biểu hiện:
Về môi trường chính trị: đường lối, chính sách kinh tế đúng đắn và nhất quán. Bộ máy Nhà nước có năng lực và có uy tín đối với nhân dân, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, các chủ đầu tư trong và ngoài nước.
Về môi trường kinh tế: kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội đảm bảo đủ để mở rộng kinh tế thị trường trong nước và quốc tế, kìm chế được mức lạm phát theo kế hoạch, ổn định tiền tệ và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền mạnh với đồng tiền Việt Nam; giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định; đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp giữa nước ta và nước ngoài diễn ra bình thường và có chiều hướng phát triển; hoạt động ngân sách không bội chi đột biến.
Về môi trường xã hội: công ăn việc làm có thể tìm kiếm được; giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo, công bằng xã hội phát triển theo xu hướng lành mạnh, tệ nạn xã hội có xu hướng giảm, lòng tin của nhân dân, nhất là của thanh niên vào lý tưởng và chế độ chính trị ngày một tăng. An ninh – quốc phòng phát triển theo chiều hướnh tốt, mặc dù quan hệ kinh tế đối ngoại ngày một mở rộng. Văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội ngày một tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Bốn là, chức năng thực hiện công bằng xã hội và cân bằng môi trường sinh thái.
Chức năng thực hiện công bằng xã hội và cân bằng sinh thái mặc dù Nhà nước cũng có, song chỉ đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, một nhà nước mà tính chất của nó thể hiện rõ nhất, tập chung nhất ở tính chất : “ của dân, do dân, vì dân “, thì mục tiêu công bằng xã hội mới có cơ sở để thực hiện.
Chức năng này thực hiện thông qua chính sách thuế, chính sách phân phối và chính sách xã hội để điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư.
Nhà nước cần ban hành luật bảo vệ môi trường sinh thái, chính sách đầu tư , bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm minh những hành động làm thiệt hại đến sự cân bằng môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường.
Ngoài ra, Nhà nước còn có các chức năng khác như: bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền, điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định.
3. Những công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý vĩ mô.
Hệ thống pháp luật: pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội. Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, bởi vì nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì không được làm và đương nhiên cái gì được làm là được pháp luật bảo hộ quyền tự do. Chính vì vậy rất có sự khác nhau giữa pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá và pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá doanh nghiệp nhận thấy cái gì được làm thì trong luật của kinh tế thị trường có sự quản lý doanh nghiệp sẽ nhận thấy cái gì không được làm, không được phép ngoài những cái đó ra họ có quyền làm ra tất cả những cái đó ra họ có khả năng.
Kế hoạch hoá định hướng : kế hoạch hoá là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của nền kinh tế, nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của các bộ, các nghành, các địa phương. Kế hoạch hoá là công cụ duy nhát để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối chính sách. Kinh tế quản lý tập trung công cụ kế hoach hoá đã được sử dụng một cách không thành công bởi các kế hoạch mục tiêu lựa chọn. Khi chuyển sang cơ chế mới kế hoạch hoá vẫn còn là công cụ đóng vai trò quan trọng vấn đề là phải đổi mới công cụ này cho thích hợp. Kế hoạch hoá trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án.
Chính sách tài chính : bao gôm các công cụ như chi tiêu của chính phủ,thuế và thu của chính phủ; chuyển nhượng, vay nợ của chính phủ,… với mục tiêu bao quát là thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển… góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát. chính sách này tác động rất lớn đến việc khơi thông các nguồn lực tài chính, thúc đẩy quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực này có hiệu quả hơn; hơn nữa nó còn góp phần điều chỉnh và giải quyết hài hoà lọi ích giữa các chủ thể, đặc biệt là quan hệ giữa lợi ích cộng đồng, quốc gia với lợi ích của từng chủ thể kinh tế xã hội; mặt khác góp phần tạo lập sự công bằng trong xã hội, giảm bớt cách biệt giàu-nghèo, xoá đói, giảm nghèo; cùng với hệ thống pháp luật về kinh tế, chính sách tài chính góp phần hình thành môi trường tài chính ổn định, lành mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chính sách tiền tệ : bao gồm các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu ( tái chiết khấu ),hoạt động thị trường mở và một số công cụ khác như tỉ giá, lãi suất quy định, hạn ngạch tín dụng,… Nó luôn được chú trọng, quan tâm hàng đầu bởi lý do bắt nguồn từ vai trò quan trọng của nó: khai thông hệ thống huyết hạch của toàn bộ nền kinh tế, sử dụng các công cụ đặc thùcủa mình tác động nhanh và nhạy cảm đối với các hoạt động kinh tế; quyết định sự ổn định của thị trường tiền tệ, do vậy là điều kiện, là tiền đề để duy trì, mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế của mỗi quốc gia; cuối cùng chính sách tiền tệ góp phần hỗ trợ, quan sát, đIều tiết hoạt động của thị trường tài chính thông qua quá trình huy động, tạo vốn cho thị trường tài chính, thông qua cung ứng và kiểm soát số lượng tiền trong lưu thông mà tác động thay đổi mức lãi suất cần thiết của thị trường.
Chính sách đầu tư: bao gồm các công cụ như ưu đãi thuế, tín dụng, giá đầu vào ( đặc biệt là giá thuê đất, thuê kết cấu hạ tầng, điện, nước, lao động ), chính sách về ngoại hối, tỷ giá, được sử dụng trong kích thích tăng trưởng và đảm bảo cân đối ngành, vùng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầu tư có tác động trực tiếp làm tăng tổng cung của xã hội, do vậy về mặt dài hạn, nó quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Về ngắn hạn, nó có vai trò đảm bảo cân đối tổng cầu- tổng cung trong kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện các hàng hoá - dịch vụ được sản xuất ra của nền kinh tế. Đầu tư có vai trò quyết định đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của các quốc gia, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu sở hữu; nó tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và quốc gia đổi mới công nghệ, hiện đại hóa quá trình sản xuất, thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập hiện nay.
Như vậy, mỗi chính sách kinh tế vĩ mô với hệ thống công cụ của nó nhằm vào một hoặc một số mục tiêu kinh tế vĩ mô tương ứng. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách thường giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện. Do vậy, trong quản lý kinh tế vĩ mô rất cần sự phối hợp chính sách.
4. Thực trạng quản lý kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
Nhà nước kiểu mới của nước ta hiện nay là Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã ra đời từ sau ngày Cách mạng Tháng tám ( 1945 ), đã quản lý kinh tế xã hội qua các thời kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã phát huy vai trò, trách nhiệm trong quản lý kinh tế xã hội, tiến hành đổi mới trong quản lý kinh tế nhưng vẫn giữ ổn định chính trị – xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đã đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế và đIều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp và có kết quả tốt. Nhà nước ta đã đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới và xây dựng hệ thống đội mgũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước phù hợp với cơ chế mới…
Do đó, đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế xã hội và thành công trong công cuộc đổi mới.
Về chức năng cụ thể, từ khi đổi mới, Nhà nước ta đã thực hiện thành công các nội dung sau đây:
Kịp thời ban hành và từng bước đưa vào cuộc sống một hệ thống luật pháp khá đầy đủ theo hướng đổi mới, tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho nền kinh tế vận hành và phát triển với tốc độ của một thời gian dài.
Huy động được nguồn lực tài chính khá lớn để chủ động đầu tư phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ bản như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc.
Chuyển đổi cách thức định hướng, hướng dẫn từ kiểu trực tiếp trước đây sang kiểu gián tiếp: Nhà nước chủ yếu quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường sử dụng các chính sách kinh tế như tài chính, tiền tệ…
Trong quá trình phát triển, Nhà nước thực hiện điều tiết thành công, bảo đảm các tiêu chí công bằng xã hội trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế xã hội còn thấp.
Bước đầu làm quen và từng bước đổi mới các phương pháp kiểm tra, kiểm soát phù hợp với điều kiện thị trường.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới, quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đổi mới, chưa phát huy đầy đủ mọi mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Thứ ba, quản lý các lĩnh vực tài chính, giá cả, ngân hàng, kế hoạch hoá, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa tốt và chậm đổi mới.
Thứ tư, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng và còn nhiều vướng mắc; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng, cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Thứ năm, cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu quả thấp.
Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, nhưng chủ yếu là do: nước ta đang trong quá trình đổi mới, cái cũ chưa xoá bỏ hết, cái mới chưa ra đời đồng bộ, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và quản lý nền kinh tế đang chuyển sang kinh tế thị trường là công việc mới mẻ, phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Việc đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trong đIều kiện cụ thể của nước ta vừa thiếu cơ sở lý luận khoa học nên khi thực hiện còn nhiều vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế, vừa thiếu trách nhiệm và kiên quyết tự đổi mới, tự chỉnh đốn các cơ quan quản lý Nhà nước để đảm bảo sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước còn nhiều hạn chế.
5. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
Một là, xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc đIểm kinh tế xã hội nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước những diễn biến mới. Xu thế thương mạI hoá toàn cầu cùng với xu thế hoà bình, ổn định, cải cách và dịch chuyển cơ cấu để phát triển… đang là sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, chất xám…quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế đang làm nảy sinh những nhu cầu mới về hợp tác đồng thời cũng gây ra những xung đột vì lợi ích dân tộc và khu vực trên thế giới.
Bối cảnh đó tác động sâu sắc đến mọi mặt củađời sống kinh tế- xã hội nước ta, tạo ra những cơ hội và những thách thức mới.
Để có cơ sở đề ra các chính sách và chỉ đạo có hiệu quả, cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng trưởng cao và bền vững trên một số lĩnh vực sau đây :
+Quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực cánh sinh và thay thế nhập khẩu … với các yếu tố bên ngoài.
+Quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồng thời phát triển các vùng trong cả nước,trong giai đoạn trước mắt, cần ưu tiên ngành vá vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh.
+Quan hệ giữa xây dựng các công trình quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện tổng số vốn có hạn .
+ Quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xủ lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin, quản lý và chất xám trong nền kinh tế hiện đại.
+Trong chiến lược phát triển ngành cần tập trung chú ý đến nông nghiệp trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước.
+ Đi đôi với việc chiến lược lâu dài, Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cho từng thời kỳ.
Hai là, tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao, bền vững.
Trên cơ sở những chiến lược tổng quát, trong những năm trước mắt, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tránh tụt hậu xa là đảm bảo tốc dộ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Tăng trưởng kinh tế là việc tăng GDP bình quân theo đầu người, vấn đề có ý nghĩa quyết định để có thể tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là phải đảm bảo về giải quyết cấc mối liên hệ trong quá trình tăng trưởng. Những điều kiện và các mối liên hệ này là:
Về vốn: muốn có tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện nước ta đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Để có được lượng vốn đó phải dựa vào vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Về công nghệ: theo tính toán của nhiều nước trong khu vực thì công nghệ đóng góp một phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta việc lựa chọn được ứng dụng công nghệ thích hợp cũng là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, công nghệ ở nước hiện còn rất lạc hậu. Thêm vào đó, việc đổi mới thiết bị chiếm tỷ trọng thấp, không đồng bộ , hiệu suất thấp. Vì vậy việc đổi mới công nghệ đang là vấn đề cấp bách đặt ra ở nước ta. Là một nước đi sau chúng ta có thuận lợi là có thể sử dụng công nghệ của nước ngoài. đIều đó cho phép chúng ta tiết kiệm được chi phí nghiên cứu , vừa có được công nghệ hiện đại lạiphù hợp với điều kiện kinh tế phát triển ở nước ta. Do vậy một trong những biện pháp quan trọng đối với nước ta là phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ đúng đắn, trong đó vừa chú ý đến nghiên cứu cơ bản, vừa chú ý tới nghiên cứu ứng dụng.
Về lao động : trong mọi kiểu tăng trưởng, lao động luôn là nhân tố quyết định. Vì vậy cần phải quan tâm phát triển nguồn lực. Ở nước ta nguồn lực rất dồi dào, tuy nhiên trình độ của lao động còn thấp. Về mặt này để đảm bảo tăng trưởng nhanh và ổn định thì cần phải: đảm bảo cho mọi người có việc làm, tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nâng cao kỹ luật lao động trong công nhân …
Ngoài ra để tăng trưởng kinh tế và đIều kiện đảm bảo tăng trưởng cao, bền vững thì chính phủ còn phải giải quyết nhiều mối liên hệ như : giữa tăng trưởng và lạm phát; giữa tăng trưởng và dân số; giữa tăng trưởng và vấn đề môi trường; giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập; giữa tăng trưởng và thị trường …
Ba là: Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ. Hệ thống pháp luật cần
được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực sau đây.
Trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thi trường bất động sản, thi trường vốn, thị trường chứng khoán; mua bán các giấy tờ có giá; Công ty tài chính; chế độ kế toán, kiểm soát và báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ sung điều chỉnh bộ luật thuế, tránh chồng chéo, phân tán theo hướng mở rộng diện thu thuế nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tính tích cực, tự giác đóng góp của người sản xuất kinh doanh.
Khuyến khích đầu tư trong nước, nhất là khu vực sản xuất nhỏ, rộng lớn; sửa đổi bổ sung luật Công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, luật kiểm toán độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính Nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương, bảo vệ lợi ích của đất nước và doanh nhân Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt trong mỗi cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện pháp luật trong phạm vi cơ quan, tổ chức của mình.
Bốn là: Cải cánh hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế. Đây là một nhân tố quuyết định đảm bảo kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững ở nước ta. Nhà nước muốn phát huy thành công vai trò của mình trong phát triển kinh tế cần có điều kiện nhất định, trong đó then chốt là phải có một hệ thống hành chính hoạt động có hiệu quả,có đủ năng lực để chế định và thực hiện chính sách trên cơ sở căn cứ khoa học. Cải cách hành chính nhằn tổ chức lại cơ bản nền hành chính Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường và nền dân chủ xã hội đòi hỏi được tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, xây dựng và đào tạo đội ngũ công chức hành chính, cải cách thủ tục hành chính. Trong mối quan hệ với cải cách kinh tế, cải cách hành chính nhằm bảo đảm xây dựng được một thể chế và một mô hình kinh tế thích hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Về cải cách thể chế hành chính: tập trung vào việc rà soát xây dựng, hoàn thiện thể chế để quản lý xã hội theo pháp luật, phục vụ lợi ích của nhân dân, đề cao nghĩa vụ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đảm bảo cho thể chế quản lý phù hợp với chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tạo sự thích ứng trong quan hệ đối ngoại, phù hợp với luật pháp, tập quán và thông lệ quốc tế.
Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp. Định rõ thứ bậc và mối quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính. Vận dụng đúng nguyên tắc tập cung dân chủ phù hợp với đặc điểm hệ thống hành chính, gắn với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành, theo lãnh thổ nhằm bảo đảm sự điều hành, tập trung thống nhất có kỷ luật cao từ chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương cơ sở …
Về đội ngũ công chức hành chính: sớm xây dựng chế độ công cụ mới nhằm quản lý và phát triển nguồn nhân lực thuộc bộ máy Nhà nước. Chế độ công vụ mới phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, xây dựng đội ngũ cám bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất và tận tụy đáp ứng yêu cầu,nhiệm vụ đặt ra, đồng thời trả lương tương ứng với kết quả lao động của công chức, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động .
KẾT LUẬN
Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn, yếu kém, đặc biệt là nước ta chưa thoát khỏi một nước nghèo. Để vượt qua những bước đường đó, chúng ta có không ít thử thách lớn, trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là thách thức to lớn và gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng có những cơ hội mới để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm được thời cơ kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ nhằm vươn lên phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay – thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định vững chắc công bằng xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta là một công việc hoàn toàn mới mẻ, vì thế đòi hỏi nhà nước phải luôn nghiên cứu, bám sát thực tiễn, mạnh dạn thử nghiệm và tổng kết thực tiễn để kiểm chứng hoàn thiện đường lối, chính sách cho định hướng chính trị đó.
Việc “ Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó giúp chúng ta hiểu được vai trò của nhà nước, để từ đó có những biện pháp thích hợp để nâng cao vai trò của nhà nước và phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Là một sinh viên thì cần phải nghiên cứu vấn đề một cách sâu sắc để có kiến thức vững vàng sớm làm chủ được tri thức để hoà nhập cùng với sự phát triển trên thế giới nhằm góp phần đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình lịch sử học thuyết kinh tế. Nxb: GD, 1999.
Giáo trình kinh tế chính trị Mac- Lê nin. T2, Nxb: GD, 1999.
Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam. Nxb: Thống kê, 1994.
Kinh tế học của Samuclson tập 1 chương 3.
Lê nin toàn tập /VI Lê nin- Matxcơva: tiến bộ, Hà Nội, H, Sự thật.
tập 32 - 1981 – 763tr
tập 36 – 1976 – 725tr
tập 44 - 1978 – 901tr
tập 45 – 1978 – 817tr
Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam – Phan Thành Phố – H: Giáo dục- 1996- 275tr.
Những vấn đề cơ bản về kết hợp kế hoạch hoá với thị trường- Trần Đình Bút, HN, ĐH Tổng hợp, 1974- 334tr.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN, QLTP 11/2000
Tạp chí NCLL số 8/2000
Tạp chí KTPT số 42/2000, số 102/1999.
Tạp chí CS số 8/1999.
MỤC LỤC
* LỜI MỞ ĐẦU .……………………………………………………….….1
* NỘI DUNG………………………………………………………………...2
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC......2
1. Lịch sử ra đời và vai trò kinh tế của Nhà nước…………………….........2
1.1. Qúa trình hình thành Nhà nước……………………………………....2
1.2. Vai trò kinh tế của Nhà nước………………………………………....3
2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước…...............................................................................................................4
2.1. Nhà nước là một bộ máy, là một lực lượng quản lý toàn bộ xã hội trong đó có quản lý về kinh tế……………………………………………...…5
2.2. Sản xuất ngày càng được xã hội hoá vì thế cần phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất………………………………………………………...5
2.3. Do khuyết tật của cơ chế thị trường tác động vào kinh tế vì thế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước……………………………………………6
II. SỰ HÌNH THÀNH CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ MỚI Ở VIỆT NAM……………….7
1. Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở Việt Nam…………………………………7
1.1. Cơ chế này được hình thành như thế nào?……………………………7
1.2. Đặc trưng của cơ chế cũ………………………………………………7
1.3. Ưu điểm của cơ chế cũ…………………………………………….....7
1.4. Nhược điểm của cơ chế cũ…………………………………………....8
2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng của cơ chế đó vào Việt Nam……………......8
2.1. Khái niệm cơ chế thị trường……………………………………….....8
2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường………………………....9
2.3. Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam……………………….11
III. SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA…………………………………………12
1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…………………………………………………….12
1.1. Nội dung……………………………………………………………..12
1.2. Sự biểu hiện vai trò kinh tế của Nhà nước…………………………...15
2. Mục tiêu, chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước Việt Nam....16
2.1. Mục tiêu……………………………………………………………..16
2.2. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước……………………..17
3. Những công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý vĩ mô …………........19
4. Thực trạng quản lý kinh tế Nhà nước ở Việt Nam hiện nay………......20
5. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước...........22
* KẾT LUẬN……………………………………………………………….26
* TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...27
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay.DOC