Mục lục
Lời nói đầu
4
Nội dung đề tài
6
Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán
6
I. Chứng khoán
6
1. Khái niệm
6
2. Một số loại chứng khoán cơ bản
6
2.1 Cổ phiếu
6
2.2 Trái phiếu
7
2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán
8
II. Thị trường chứng khoán
9
1. Khái niệm
9
2. Chức năng
9
2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
9
2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
10
2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
10
2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
11
2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
11
3. Các chủ thể tham gia thị trường
11
3.1 Nhà phát hành
11
3.2 Nhà đầu tư
12
3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
12
3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
13
Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
15
4.1 Nguyên tắc công khai
15
4.2 Nguyên tắc đấu giá
15
4.3 Nguyên tắc trung gian
16
Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
16
5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn
16
5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
17
5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
18
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam
18
I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam
18
1. Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
18
2. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua
19
II. Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
21
1. Thuận lợi
22
2. Khó khăn
22
III. Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán Việt Nam
24
IV. Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
26
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp
26
1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
26
1.2 Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH
29
1.3 Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp
30
2. Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu
32
2.1 Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu
32
2.2 Xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) chuyên biệt
33
3. Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán
34
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
34
5. Các tổ chức trung gian
35
Kết luận
36
Bảng chữ viết tắt
37
Danh mục tài liệu tham khảo
38
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam bắt đầu tiến hành đổi mới từ năm 1986 và kể từ đó tới nay đất nước ta đã phát triển với một tốc độ rất nhanh. Từ một nền kinh tế bao cấp trước đổi mới nước ta đã dần chuyển sang một nền kinh tế thị trường kể từ sau đổi mới. Biết bao thách thức đã đặt ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá mà nhà nước đặt ra nhằm phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên những thách thức đó cũng đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường của chúng ta còn quá yếu kém. Cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á 1997 đã chỉ ra điều đó rất rõ. Trong khi các nước trong khu vực bị ảnh hưởng rất nặng nề từ cuộc khủng hoảng đó thì dường như chúng ta vẫn không có một chút ảnh hưởng gi đáng kể, tỗc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm vẫn đạt được ở một mức khá cao. Điều đó phải chăng là do chúng ta đã quản lý tốt, nền kinh tế chúng ta đã đủ mạnh nên không bị ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng. Nhưng sự thật không phải như vậy mà do một nguyên nhân rất đơn giản đó là do nền kinh tế của chúng ta còn quá ít có quan hệ với các nền kinh tế khác nên dù trong khu vực bị khủng hoảng thì chúng ta cũng không bị ảnh hưởng quá lớn.
Trong một thế giới mà xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay đang diễn ra rất nhanh thì thử hỏi một nền kinh tế có thể thật sự phát triển nếu không có quan hệ kinh tế với các nền kinh tế khác? Dường như nhận ra điều đó kể từ sau cuộc khủng hoảng 1997 và sang đầu năm 2000 đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước và khu vực trên thế giới để phục vụ mục tiêu phát triển kinh doanh.
Để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh doanh thì nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp để phát triển các thị trường. Trong đó thị trường vốn là một trong những thị trường hết sức quan trọng để huy động vốn cho các mục tiêu phát trỉên kinh tế xã hội. Một trong những kênh huy động vốn mà nhà nước đã tổ chức là thị trường chứng khoán với việc mở trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2000. Từ đó đến nay thì thị trường chứng khoán đã có một số đóng góp vào sự phát triển kinh tế nói chung. Tuy nhiên sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, nếu không có biện pháp khắc phục thì thậm chí nó còn là vật cản cho sự phát triển kinh tế.
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một cách kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và các kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới về cơ cấu quản lý và kiểm soát hoạt động của thị trường chứng khoán. Để thị trường này thất sự là một kênh huy động vốn hiêu quả cho các mục tiêu phát triển kinh tế.
Trên cơ sở đó em hi vọng đề án tài chính tiền tệ với đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán có thể có những đóng góp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3898 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có mức cổ tức cố định. Người chủ của cố phiếu này có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không nhận được cổ tức kì đó. Một vấn đề rất quan trọng trong việc phát hành cổ phiếu ưu đãi là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy thì cổ phiếu ưu đãI vẫn có ưu điểm với cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Tuy nhiên thông thường thì cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành.
Cổ phiếu thông thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì các ưu đIểm của nó đáp ứng được yêu cầu của cả người đầu tư và công ty phát hành. Là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép phát hành gọi là vốn cổ phần. Phần lớn những cổ phiếu đã phát hành nằm trong tay những nhà đầu tư - cổ đông. Những cổ phiếu này được coi là đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ nó nhằm những mục đích nhất định và những cổ phiếu đó được coi như không lưu hành.
2.2 Trái phiếu
Trái phiếu là thoả thuận vay nợ mang tính chất hợp đồng theo đó người đi vay phát hành trái phiếu với cam kết se trả cho người cho vay, người nắm giữ trái phiếu một số tiền lãi định kì và khi trái phiếu hết hạn là lúc khoản thanh toán cuối cùng sẽ được thực hiện
Trái phiếu được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khac nhau
Căn cứ theo chủ thể phát hành
Trái phiếu công ty: do công ty phat hành nhằm mục đích gia tăng vốn cho công ty. Tuy nhiên không phải công ty nào cũng được quyền phát hành trái phiếu mà chỉ có những công ty lớn có uy tín trên thị trường
Trái phiếu chính phủ: do chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn phục vụ cho các mục xây dựng các công trình hay tài trợ cho các dự án của chính phủ
Trái phiếu chính quyền địa phương do chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích tài trợ cho dự án của chính quyền địa phương
Căn cứ tính chất chuyển đổi của trái phiêu
Trái có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu
Trái phiếu không có khả năng chuyển đổi
Căn cứ cách thức trả lãi
Trái phiếu có lãi suất cố định: lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn cuả nó. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được qui định rõ ràng
Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ.
Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa- mệnh giá trái phiếu và giá mua).
2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán
Gồm các loại chứng khoán sau
Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới phát hành tại mức giải tường bán ra của công ty. Các chứng quyền thường được phát hành cho cổ đông cũ, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch.
Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu, trong đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất định.
Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng là những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Chứng chỉ này có thể được mua bán, giao dịch trên thị trường chứng khoán như các giấy tờ có giá trị khác. Chứng chỉ này do công ty tín thác đầu tư hay các quỹ tương hỗ phát hành (là tổ chức chuyên nghiệp thực hiện đầu tư theo sự uỷ nhiệm của khách hàng)...
Thị trường chứng khoán
Khái niệm
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động trong giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành trên thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua di bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp
Như vậy xét về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán
Chức năng
2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường CK,chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những TTCK lớn như Luân Đôn, Niu óc , Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những TTCK từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tầm cơ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác.
2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Bên cạnh các thị trường mà từ trước đén giờ người dân hay đầu tư như thị trường bất động sản hay hình thức đầu tư qua gửi tiền vào ngân hàng thì từ khi có thị trường chứng khoán nó trở thành một trong những môI trường đầu tư mới cho người dân, giúp họ có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư hơn. Hơn thế nữa thị trường chứng khoán với các hàng hoá là chứng khoán hết sức đa dạng cũng làm tăng lựa chọn đầu tư cho công chúng
2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và năng động. Không chỉ vậy mà nhờ có thị trường chứng khoán cung cấp tính thanh khoản mà các chứng khoán do công ty phát hành dễ dàng được chấp nhận trên thị trường do nó có thể đựoc mua đI bán lại dễ dàng
2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá chính xác các hoạt động của doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích thích các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, áp dụng công nghệ mới. Ví dụ một loại chưng khoán như cổ phiếu mà trên thị trường đang có như cầu cao điều đó chứng tỏ hoạt động của công ty phát hành đang rất thuận lợi, làm ăn hiệu quả nên giá trị thi trường của cổ phiếu của nó trên thi trường cũng tăng cao. Điều đó đồng thời thúc đây doanh nghiệp mở rộng đầu tư thúc đây kinh doanh. Có thể nói tối đa hoá giá trị cổ phiếu trên thị trường là một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
Thông qua các chính sách vĩ mô đối với thị trường chứng khoán chính phủ có thể định hướng đầu tư hay thúc đẩy thị trường tài chính bởi thị trường chứng khoán là một trong những thị trường bậc cao nhất của thị trường chứng khoán. Ngoài ra chính phủ cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường để huy động vốn cho các mục tiêu vĩ mô hay mua bán trái phiếu kiềm chế lạm phát
Các chủ thể tham gia thị trường
3.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán, hàng hoá của thị trường chứng khoán. Trong đó:
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng…phục vụ cho hoạt động của họ
3.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia làm 2 loại là nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư là tổ chức
Nhà đầu tư là các cá nhân là người đầu tư riêng lẻ trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích sinh lời từ khoản đầu tư
Nhà đầu tư là các tổ chức thường xuyên nghiên cứu thị trường và các loại chứng khoán để đưa ra các quyết định đầu tư với số lượng lớn. Ưu điểm của hình thức đầu tư này là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tàI chính. Ngoài ra còn có các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại
3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
3.3.1 Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
3.3.2 Quỹ đầu tư chứng khoán
Các quỹ này hoạt động trên cơ sở tập trung một số vốn lớn thông qua các chủ sở hữu quỹ hay huy động trên thị trường thông qua phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư. Trên cơ sở số vốn đó và với phân tích của các chuyên gia chứng khoán quỹ đầu tư chứng khoán với lô lớn
3.3.3 Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính khác cũng có thể trở thành các tổ chức kinh doanh chứng khoán khi nó mua chứng khoán nhằm mục đích đầu tư sinh lời. Chẳng hạn như các ngân hàng mua chứng khoán nhằm mục đích sinh lời, hơn nữa chứng khoán còn nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho các tàI sản của ngan hàng hay các công ty bảo hiẻm cũng vậy
3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
3.4.1 Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan quản lý nhà nước được thành lập để quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng nhất. Cơ quan này được thành lập với những tên gọi khác nhau, như tại Anh có uỷ ban đầu tư chứng khoán (SBI – securicties investment board ) hay tại Mỹ có uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán ( SEC – securities and exchange commisson ). ở Việt Nam thì uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo nghị định 75 của chính phủ ngày 28/11/96.
3.4.2 Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
Sở giao dịch chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán. Sở giao dịch được tổ chức thành 3 hình thức
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của SGDCK tự tổ chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK, nhưng khi đã là thành viên của SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại.
3.4.3 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
3.4.4 Các tổ chức ký gửi và lưu kí chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
3.4.5 Các công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
Các công ty này cung cấp mạng máy tính và điều hành, sửa chữa mạng máy tính cho các sở giao dịch, các công ty chứng khoán….
3.4.6 Các tổ chức tài trợ chứng khoán
3.4.7 Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức này là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm.
Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
4.1 Nguyên tắc công khai
Theo nguyên tắc này tất cả các hoạt động của thị trường chứng khoan, các văn bản pháp luật, các tài liệu về các công ty niêm yết , báo cáo kết quả kinh doanh dưới hình thức bản cáo bạch của công ty này đều phải được công bố rộng rãi công khai không có sự che giấu thông tin.
4.2 Nguyên tắc đấu giá
Khi phát hành hay bán một số lượng lô lớn cổ phiếu thì phải thực hiện đấu giá trên thị trường
4.3 Nguyên tắc trung gian
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường đều được thực hiện thông qua các trung gian
Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, mỗi tiêu thức có một sự phân chia khác nhau.
5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được phân làm hai loại
5.1.1 Thị trường cấp 1: là thị trường tài chính trong đó diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới phát hành lần đầu. Các loại hàng hoá như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của chính phủ khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp 1 thường được tiến hành thông qua các trung gian đó là ngân hàng. Ngân hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu tư hay ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng khoán trong qua trình phát hành
5.1.2 Thị trường cấp 2: là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát hành. Khi một cá nhân mua chứng khoán ở thị trường cấp 2 thì cá nhân, người vừa bán nó nhận được tiền bán chứng khoán nhưng công ty phát hành chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty mua được vốn chỉ khi chứng khoán đó được bán lần đầu trên thị trường cấp 1. Việc mua bán ở thị trường cấp 2 thường được thực hiện thông qua các công ty môi giới
Thị trường cấp 2 thực hiện 2 chức năng sau
Thứ nhất nó tạo điều kiện để bán chứng khoán nhằm thu tiền mặt tức là nó đảm bảo cho những chứng khoán này có tính lỏng thêm. Tính lỏng thêm của những chứng khoán làm chúng được ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp 1
Thứ hai thị trường cấp 2 xác định giá của chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp 1. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp 2 sẽ chấp nhận nó
5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường cũng được chia làm 2 loại, đây cũng có thể coi là cách phân loại của thị trường cấp 2
5.2.1 Thị trường tập trung ( sở giao dịch chứng khoán )
Là nơi mà người mua và bán (hoặc các đại lý môI giới của họ) gặp nhau tại một vị trí trung tâm để tiến hành mua bán. Ví dụ như thị trường giao dịch chứng khoán Mỹ và NewYork là nơI giành cho cổ phiếu và phòng thương mại Chicago giành cho hàng hoá là ví dụ về giao dịch có tổ chức. Như trên trình bày thì sở giao dịch chứng khoán hiện nay có 3 hình thức tổ chức
5.2.2 Thị trường phi tập trung ( thị trường OTC - over the counter market)
Thị trường phi tập trung hay thị trường trao tay trong đó các nhà buôn bán tại các địa đIểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến cới họ, có ý định chấp nhận giác của họ. Do những nhà buôn bán thẳng có tiếp xúc với nhau qua mạng máy tính và biết giá của nhau nên thị trường kiểu này có tính cạnh tranh cao và không khác nhiều so với thị trường ở trung tâm giao dịch nói trên
5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
5.3.1 Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bá các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm tráI phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ
5.3.2 Thị trường cổ phiếu
Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi
5.3.3 Thị trường các công cụ phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đI bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn…
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam
Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Do chúng ta xuất phát điểm từ 1 nước nghèo nhưng kể từ sau đổi mới 1986 nền kinh tế đã có nhưng bước chuyển biến rất nhanh do đó nhu cầu vốn đầu tư tẳng cao. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Do đó việc phát triển thị trường chứng khoán là 1 trong những giải pháp huy động vốn cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hôi đồng thời giúp nhân dân có thể mở rộng danh mục đầu tư.
Ngoài ra sự hình thành thị trường chứng khoán còn có các lý do sau
Sự hình thành của thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh trong đIều kiện nên kinh tế Việt Nam đang ngày cang phát triển và mở rộng hội nhập như hiện nay
Dưới góc độ vĩ mô thì sự hình thành thị trường chứng khoán tạo ra một thị trường tài chính hoàn thiện hơn với chúng ta đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động cuả thị trường tàI chính
Một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả là cơ sở giúp hoạch định các chính sách kinh doanh trong tường lai, đưa ra các dự báo chính xác đồng thời giúp nhà nước quản lý vĩ mô với đầu tư thông qua các chính sách với thị trường chứng khoán. Bởi trong một nền kinh tế thị trường chứng khoán là thị trường phát triển bậc cao nhất
Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn khá nhỏ khi so sánh với vá tiêu chuẩn của Đông Nam á
Bảng thị trường chứng khoán nhỏ
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tài khoản giao dịch cá nhân
Tài khoản giao dịch tổ chức
Chứng khoán được niêm yết
Tập trung vốn trên thị trường
2870
38
5
8703
71
10
13398
122
20
15569
166
26
2.3
21402
193
26
3.8
24000
250
30
5.9
Khối lượng mua bán
3641
19028
35798
28024
72894
82300
Nguồn: UBCKNN. Đơn vị tiền tệ tính bằng nghìn tỷ
Với 2 trung tâm giao dịch chính thức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoạt động như các đơn vị kinh doanh trực thuộc uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN). Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động tháng 7 năm 2000 với chỉ 2 công ty yết danh. Đến giữa năm 2005 công ty này chỉ có 30 công ty và 249 trái phiếu phát hành cùng với 1 quĩ đóng được yêt danh trên thị trường vào cuối năm 2005. Tổng lượng vốn trên thị trường 5900 tỷ với chứng khoán yết danh và 33700 tỷ tráI phiếu phát hành và 300 tỷ với quỹ đầu tư. Trung tâm giao dịch ở Hà Nội được thành lập thang 3 năm 2005. các công ty có thể được yết danh trên thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội nếu có ít nhất 5 tỷ đồng vốn pháp định và 50 cổ đông và làm ăn có lãi trong năm trước.
Hoạt động của thị trường thứ cấp đối với các trái phiếu yết danh vẫn chưa bắt đầu ở Hà Nội nhưng đã chớm bắt đầu ở thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến đầu năm 2006 giá trị giao dịch hàng ngày của trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 3.9 tỷ đồng cổ phiếu và 78.4 tỷ đồng trái phiếu
Tính đến đầu năm 2006 trong số 30 công ty yết danh tại trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh thì có đến 29 doanh nghiệp nhà nước thực hiện bán cổ phiếu ra ngoài thị trường trong kế hoạch cổ phần hoá trước khi chính thức yết danh. Rất ít công ty sử dụng thị trường chứng khoán làm cơ sở tăng vốn thông qua bán cổ phiếu ban đầu ra ngoàI thị trường. NgoàI ra, phần lớn các trung gian môI giới trên thị trường có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tàI chính nhà nước. Hiện tại thị trường có 13 công ty chứng khoán, 1 công ty quản lý ngân quỹ, 3 ngân hàng lưu kí chứng khoán và 1 ngân hàng thanh toán. Trong số 13 công ty chứng khoán thì có đến 7 công ty thuộc sở hữu của các ngân hàng thường mại.
Trong khi đó một thị trường chứng khoán không chính thức (OTC) được phát triển mạnh mẽ hơn nhiều. Hiện tại thì giá trị của nó ứoc tính gấp 4 đến 5 lần giá trị của 2 trung tâm giao dịch chính thức. Thị trường OTC này được thực sự hình thành như một sản phẩm phụ của quá trình cổ phần hoá ngay cả trước khi trung tâm giao dich thành phố Hồ Chí Minh thành lập. Theo một ước tính có khoảng 30 ngân hàng cổ phần và 100 công ty cổ phần có cổ phiếu được giao dịch trên thị trường OTC
Có hai nhóm trung gian hoạt động trên thị trường phi chính thức này. Loại thứ nhất chiếm 60 đến 80 môi giới chứng khoán độc lập, không có giấy phép. Một số buôn bán chứng khoán làm nghề phụ nhưng nghề chính là làm việc cho các tổ chức tài chính kể cả các công ty môi giới chính thức. Nhóm thứ hai gồm những nhà môi giới được cấp giáy phép môi giới ở bất kì một thị trường nào kể cả ơ trung tâm giao dịch chính thức và thị trường OTC.
Hiện tại chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán chính thức. Tháng 8/2005 chính phủ đã chỉ thị các doanh nghiệp nhà nứơc được cổ phần hoá nhanh chóng yết danh tại 2 trung tâm giao dịch chứng khoán. Ngoài ra thị chính phủ cũng đã cam kết hỗ trợ thành lập và phát triển các quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài. Tháng 9/2005 nhóm các tổ chức và cá nhân nước ngoàI có thể giữ tới 49% tổng số cổ phần của một công ty so với 30% như trước đây.Mặc dù đây là những bước tiến đáng khích lệ trong thời gian gần đây nhưng để hiểu tại sao thị trường OTC lại phát đạt trong khi thị trường chính thức lại suy yếu hơn cần xem xét trên 3 khía cạnh chủ yếu sau: Phạm vi và tính chất của các công ty có chứng khoán được giao dịch, mức độ công khai thông tin về tình hình hoạt động của các công ty này, các nguyên tắc chỉ đạo với trung gian thị trường.
(Theo báo cáo phát triển Việt Nam 2006)
Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Thuận lợi
Có thể nói thuận lợi đầu tiên và cũng là một ưu điểm ở Việt Nam đó là có một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty phát triển ổn định. Hơn nữa nền kinh tế nước ta đang trong thời gian cất cánh, tức là một nền kinh tế đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng thực tế trong những năm gần đây bình quân là hơn 8% tạo những đIều kiện vĩ mô cho thị trường chứng khoán phát triển và việc phát triển thị trường chứng khoán cũng là một yêu cầu cần thiết với sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Thuận lợi thứ hai với chúng ta đó là chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp của nhà nước. Sau một thời gian dàI nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không thật sư hiệu quả và để đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường thì nhà nước đã thực hiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp trong đó thực hiện trước tiên với các doanh nghiệp nhà nước là thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán
Thuận lợi thứ ba với sự phát triển của thị trường chứng khoán là mội trường đầu tư của Việt Nam ngày càng cải thiện và chúng ta đã thu hút được một lượng lớn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chính phủ thì sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết đồng thời với việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoàI thông qua thị trường chứng khoán sẽ làm thị trường chứng khoán phát triển nhanh và lành mạnh.
Thứ tư nữa là quá trình phát triển kinh tế nước ta trong thời gian qua đã hình thành nên một hệ thống các ngân hàng thường mại, các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư . Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khóan. Và đặc biệt với việc gia nhâp WTO ngày 9/11 vừa qua thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển.
Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì khó khăn với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhiều. Khó khăn trước tiên và cũng là khó khăn của hầu hết các nước đang phát triển khi mới phát trỉên thị trường chứng khoán đó là thu nhập của đại bộ phận dân chúng còn thấp, chênh lệch giữa tiết kiệm và thu nhập cao. Chính do thu nhập thấp mà đại bộ phận dân chúng sau khi đã chi tiêu thì số dư còn lại từ thu nhập là không đáng kể nên việc đầu tư vào chứng khoán của người dân là rât ít. Cũng vì phần dư của thu nhập sau khi chi tiêu còn ít mà hơn nữa đầu tư vào chứng khoán còn có nhiều rủi ro, cộng với kiến thức của người dân về chứng khoán chưa nhiều nên phần lớn tiền của họ gửi vào tiết kiệm. Điều này sẽ làm giảm sự phát triển của thị trường chứng khoán
Khó khăn thứ hai đối với thị trường chứng khoán đó là không có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn trong dự thảo
Khó khăn thứ ba cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là mới thành lập được khoảng 7 năm, đây là một quãng thời gian tương đối dài nhưng những nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán còn nhiều người chưa có đầy đủ kiến thức về chứng khoán, do đó mà dẫn đến một quá trình đầu tư theo phong trào. Điều đó dẫn đến việc thị trường không thật sự phản ánh đúng chất lượng của mỗi loại cổ phiếu và trái phiếu
Có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều nhiều khó khăn bên cạnh những thuận lợi khách quan. Do đó chúng ta cần chuẩn bị và tạo ra mọi đIều kiện để thị trường chứng khoán cỏ thể phát triển lành mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước
Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán Việt Nam
Hầu hết các nhà đầu tư nhận định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay qua ít hàng hoá và bị khống chế bởi sự quản lý hành chính của nhà nước, nên chăng giảm nhẹ những chỉ tiêu và điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, có như vậy thị mới tạo ra được nhiều hàng hoá cho thị trường, từ đó tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư lựa chọn hàng hoá tốt nhất cho mình và phân tán rủi ro
Nhận định thứ hai khá phổ biến đó là tiến trình xây dựng các sở giao dịch ở các địa phương còn quá chậm. Hiện nay mới chỉ có trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, do vậy làm hạn chế những nhà đầu tư ở các địa phương khác muốn tham khảo các tàI liệu, bản cáo bạch và mua cổ phiếu của các công ty hiện đang niêm yết và trong tương lai sẽ niêm yết trên sàn. Tuy nhiên các nhà đầu tư cũng nhận định rằng việc phát triển thị trường chứng khoán ở hai trung tâm giao dịch trên là hợp lí và cũng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tê. Trung tâm giao dịch đầu tiên được thành lập trong thành phố Hồ Chí Minh nơi có nền kinh tế phát triển năng động nhất Việt Nam, đây sẽ là nơI thích hợp cho sự phát triển thử nghiệm với thị trường chứng khoán vì thị trường tàI chính ở đây khá phát triển. Sau đấy là tới trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập và năm ngoài. Đó cũng là bước đi quan trọng và hợp lí cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì đây là trung tâm kinh tế thứ hai của đất nước. Có chằng là khoảng thời gian để thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cách qua xa thời gian thành lập trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, có cần một khoảng thời gian thử nghiệm dài như vậy để thành lập một trung tâm giao dịch thứ hai không?
Một vấn đề thứ ba trên thị trường chứng khoán đó là các thông tin trên thị trường đã thật sự phản ánh đúng tình hình phát triển của thị trường chưa. Đầu năm 2006 chỉ số VN index đã lên một mức rất cao hơn 500 điểm, thị trường rất sôi động nhưng tại sao lại như vậy? Phải chăng các công ty đang trên đà phát triển? Nhưng tại sao chỉ ngay sau đó khoảng 2 tháng chỉ số lại tụt rất nhanh, điều này cho thấy sự phát triển của thị trường không lành mạnh. theo các nhà đầu tư thì tình trạng sôi động cuả thị trường là ảo, chỉ số VN index trong thời gian đó không phản ánh đúng sự phát triển của thị trường. Sự sôi động đó là do cầu về chứng khoán vượt quá cung làm giá các chứng khoán tăng cao nên dẫn đến chỉ số VN index tăng rất nhanh. Điều này rất có thể làm cho thị trường chứng khoán sụp đổ.
Một nhân định khác về phía các nhà đầu tư là họ đầu tư nhiều lúc là theo phong trào, không có sự phân tích về chứng khoán do đó cũng dẫn đến tình trạng giá của một loại chứng khoán nào đó lên cao mà không phản ánh đúng tình trạng kinh doanh của công ty phát hành
Hay tình trạng các quan chức tài chính còn can thiệp qua sâu và thị trường. Lấy một trường hợp ví dụ như sau khi ông phó chủ tịch ủy ban chứng khoán nhà nước tuyên bố kể từ nay thị họ sẽ không can thiệp biện pháp hành chính vào thị trường chứng khoán nữa nhưng ngay sau đó chính phủ phát hành công trái giáo dục kèm theo văn bản quyết định :” cấm mọi tổ chức, cá nhân mua lại công trái giáo dục này dưới 90% mệnh giá sau 1 năm, 100% sau 2 năm do ông bộ trưởng tài chính ký”. Giá cả trên thị trường chứng khoán là “thuận mua vừa bán” chứ đâu phải “cấm” hay “không cấm”
Có thể thấy theo nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khuyết tật cần khắc phục bên cạnh những thành công đã đạt được. Do đó cần có những biện pháp cần thiết từ phía chính phủ và các bên tham gia thị trường chứng khoán cho sự phát triển của thị trường để thật sự đây là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Cổ phần hoá doanh nghiệp
Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp quan trọng để tăng tính tự chủ của doanh nghiệp đồng thời đây là đIều kiện để phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán cuả Việt Nam đang trong thời gian phát triển, hàng hoá trên thị trường không nhiều, chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư của nhà đầu tư. Với việc cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều doanh nghiệp cổ phần và các doanh nghiệp này se niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ làm cho hàng hoá trên thị trường chứng khoán đa dạng hơn và hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Như vậy nó sẽ tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán để đây là một kênh huy động vốn hiệu quả và tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vì giờ đây các doanh nghiệp đã tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tàI sản của chủ doanh nghiệp là mục tiêu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Điều đó sẽ tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, là một thi trường tài chính phát triển cao nhất của nền kinh tế. Và thực tế thì cổ phần hoá đã được nhà nước ta thực hiện từ năm 1992 với một số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện cổ phần hoá để thực hiện thí điểm. Và trong năm 2004 nhà nước ta đã đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để có thể đáp ứng các điều kiện của một nền kinh tế thị trường.Trong thời gian gần đây khi mà chúng ta đã gia nhập WTO thì cổ phần hoá lại càng là một yêu cầu cần thiết để phát triển doanh nghiệp noi chung cũng như thị trường chứng khoán nói riêng.
Cụ thể một số biện pháp cổ phần hoá
1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm.
- Nhóm DN làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm DN có khó khăn về tài chính.
- Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo tôi là hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kinh doanh, cho thuê vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu các biện pháp khoán kinh doanh cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH.
Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này.
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính.
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN.
- Vốn trợ cấp từ NSNN.
- Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi).
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong DNNN khi tiến hành CPH.
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN.
- Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay.
Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho DN, từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều DN.
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ chức nhân sự.
1.2 Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa DN với người lao động.
Về các giải pháp cụ thể
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu ( người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu)có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại ( chiếm đa số), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động:Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc ( khoảng từ 6 tháng đến một năm).
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế SXKD.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang tính chiến lược. Thực tế CPH trong những năm qua đã cho thấy nhiều DN CPH sau khi đi vào SXKD ổn định thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e rằng tình trạng" thừa việc ,thiếu người" trong nhiều DN, nhất là các DN có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm.
1.3 Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp
Nghị định 44/CP ra đời với những qui định cụ thể, rõ ràng hơn đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề rất nan giải trong quá trình xác định giá trị DN trước đây. Ví dụ như việc các tài sản DN không có nhu vầu sử dụng bao gồm tài sản không cần dùng và tài sản không có khả năng phục hồi cho quá trình SXKD đã được loại trừ ra khỏi giá trị DN khi tiến hành CPH. Các tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng cũng không được tính vào giá trị DN và được bàn giao riêng cho CPH tiếp tục quản lý sử dụng. Hay như vấn đề công nợ khó đòi cũng được qui định rất rõ ràng. Với các khoản công nợ khó đòi nếu có chứng cứ hợp lệ cũng không tính vào giá trị DN CPH.
Những quy định mới này đã góp phần đẩy mạnh công tác CPH trong suốt giai đoạn từ nửa cuối năm 1998 đến nửa đầu năm 1999.
Tuy nhiên xung quanh vấn đề xác định giá trị DN vẫn còn một số tồn tại.
Thứ nhất: Việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc chồng chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ ràng, đã làm chậm quá trình này.
Để giải quyết tình trạng trên thì phân cấp trách nhiệm là rất cần thiết. Theo đó, chỉ có DN TW mới do Bộ Tài Chính thẩm định giá trị và Bộ tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn, còn địa phương thì giao cho Cục Quản lý vốn.
Trong quá trình thẩm định, nếu giá trị tài sản cao hơn so với sổ sách 30% thì vẫn cho phép cấp dưới tiến hành mà không phải gửi lên trên.
Thứ hai: Trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với máy móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa giá trị ghi trong số sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước đây đã mua về các thiết bị đã lỗi thời, hỏng hóc nhưng được tân trang, làm mới với giá gốc khi mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do đó, nên chăng để tạo điều kiện tốt hơn cho DN, Ban thẩm định nên đánh giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế còn lại theo giá thị trường hiện tại. Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của tài sản.
Thứ ba: Nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở pháp lý về nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán thuế do đó đã làm chậm lại hoạt động của ban thẩm định. Nếu như các DN CPH chuẩn bị tài liệu, hồ sơ đầy đủ thì việc xác định giá trị DN có thể không quá 15 ngày kể từ ngày thành lập Hộ đồng xác định giá trị DN.
Do vậy, Bộ Tài chính nên sớm có hướng dẫn những hồ sơ tài liệu mà DN nhất thiết phải chuẩn bị đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cá nhân đã không hoàn thành công tác này. Về mặt lâu dài thì việc yêu cầu các DN áp dụng nghiêm ngặt chế độ kế toán thống kê, công khai tài chính sẽ là những giải pháp quan trọng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị sổ sách giấy tờ, mặt khác cũng tạo giúp DN chuẩn bị tốt hơn cho quá trình gia nhập TTCK sau này.
Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là một trong những thị trương quan trọng của thị trường chứng khoán. Bên cạnh cổ phiếu thì trái phiếu là một loại hàng hoá quan trong trên thị trường. Phát triển thị trường tráI phiếu sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Nếu như cổ phần hóa doanh nghiệp giống như biện pháp phát triển thị trường cổ phiếu thì đồng thời cũng cần những bịên pháp phát triển thị trường tráI phiếu, sau đây là một số biện phát đẩy mạnh thị trường cổ phiếu
2.1 Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu
Từ trước đến nay, Sở Giao dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đại lý cho Bộ Tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn dưới một năm. Khách hàng thương mại và các công ty bảo hiểm. Ai trong số các khách hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái phiếu mua cao nhất thì sẽ trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu lại có những điểm không hợp lý. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành đáng lẽ phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất. Nhưng đấu thầu đã được làm ngược lại: các khách hàng tuyên bố lãi suất và số lượng trái phiếu họ muốn mua, sau đó Bộ Tài chính mới công bố lãi suất trái phiếu phát hành. Lãi suất của khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài chính thì sẽ trúng thầu.
Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được nguồn vốn với lãi suất thị trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng đã được hạ thấp, nhưng lãi suất trái phiếu kho bạc vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách nhà nước cần tiền gấp để đầu tư cho một công trình, dự án nào đó, phải phát hành trái phiếu, nhưng khách hàng "cấu kết" với nhau, bỏ thầu lãi suất cao, thì các phiên đấu thầu sẽ thất bại. Và trên thực tế đã có những lần đấu thầu mà không có một trái phiếu nào được phát hành.
Tóm lại, ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu : Bộ Tài chính là cơ quan phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng.
2.2 Xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) chuyên biệt
Xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt sẽ giúp huy động được một khối lượng vốn lớn chô đầu tư phát triển mà lãi xuất trúng thầu trái phiếu sẽ ngày càng được điều chỉnh xuống thấp. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều có qua nhiều loại trái phiếu do phát hành quá nhiều đợt và thực hiện phát hành cả qua bảo lãnh cả qua đấu thầu nên khó có thể huy động được một lượng vốn lớn một lúc. Do đó cần phát hành trái phiéu lô lớn tức là phát hành một lô có khối lượng lớn nhưng chia thành nhiều đợt phát hành có cùng ngày đáo hạn để tạo điều kiện cho việc đưa trái phiếu trên thị trường sơ cấp giao dịch trên thị trường thứ cấp. Để có thể phát hành trai phiếu lô lớn thì cần có cơ chế để khuyến khích các tổ chức tài chính lớn tham gia đấu thầu trái phiếu và giảm dần việc phát hành bằng hình thức bảo lãnh từng đợt riêng lẻ với khối lượng nhỏ, để tạo mặt bằng lãi suất mang tính thị trường
Hiện nay thì chúng ta đang tập trung phát triển thị trường cổ phiếu, còn thị trường trái phiếu trên thực tế đang được hình thành theo kiểu tự phát chưa tập trung được toàn bộ tráI phiếu vào trung tâm lưu ký chúng khoán và chưa có một hệ thống gíao dịch riêng cho trái phiếu. Do vậy mà tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường nói chung chưa cao. Theo quyết định số 171/2006/QĐ - TTg về việc phát hành TPCP giai đoạn 2003 – 2010 tổng mức TPCP phát hành giai đọan đó sẽ lên tới 110000 tỷ đồng. Và hiện nay nhà nước đã có kế hoạch cụ thể từ nay đến cuôI năm 2006 và trong năm 2007 sẽ huy động vốn cho ngân sách nhà nước và đầu tư trái phiếu thông qua đấu thầu tại TTGDCK Hà Nội tương ứng với 2000-3000 tỷ đồng trái phiếu và 1200 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm cho năm 2007. Do vậy trong thời gian tới, việc xây dựng hệ thống giao dịch chuyên biệt cho trái phiếu hoạt động có hiệu quả là một vấn đề lớn không những góp phần huy động và huy động với giá rẻ một khối lượng lớn vốn cho ngân sách nhà nước mà còn tạo ra cơ chế để sử dụng thị trường trái phiếu và các mục tiêu quản lý vĩ mô và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Việc phát triển một thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt cúng sẽ tạo điều kiện để phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài.
Và trên thực tế thì ngay 20/10/2006 thì bộ tài chính đã ban hành quyết định 2276/QĐ - BTC chỉ đạo tập trung đấu thầu TPCP tại TTGDCK Hà Nội
Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán
Vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán nhà nước rất quan trọng, nó góp phần điều hành giúp thị trường chứng khoán phát trỉên tốt. Tuy nhiên ở Việt Nam cơ quan quản lý chưa thật sự phát huy hết vai trò của mình. Do đó cơ quan chứng khoán Việt Nam cần tăng cường công tác quản lý đồng thời giúp nhà nươc cụ thể là bộ tài chính ban hành những quyết định, luật giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển lành mạnh. Việc nhà nước thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là một bước đi đúng đắn và để hỗ trợ cho sự hoạt động của uỷ ban chứng khoán thì nhà nước cần có sự tài trợ về ngân sách đồng thời có chế độ đãi ngộ với cán bộ của uỷ ban chứng khoán.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật của thị trường chứng khoán nước ta chưa thật sự hoàn thiện, còn nhiều bất cập chưa đìêu chỉnh vì vậy mà việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là một biện pháp cần thiết đẻ thị trường chứng khoán có đầy đủ cơ sở pháp lý hoạt động. Có như vậy nhà đâu tư khi tham gia vào thị trường mới có đầy đủ cơ sở để đầu tư và tạo cho thị trường khung pháp lý hoàn thiện để ngày càng phát triển. Để có thể thực hiện được điều này uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phối hợp với bộ tài chính và những cơ quan luật cần thiết, thu thập ý kiến của nhà đầu tư, các tổ chức tài chính tham gia thị trường chứngk khoán để có thể ban hành luật về chứng khoán và đầu tư chứng khoán phù hợp, tạo sự minh bạch trên thị trường chứng khoán. Đồng thời trong quá trình phát triển của thị trường cần nghiên cứu và quan sát để có thể bỏ sung những điều luật cần thiết vì một thị trường chứng khoán hoạt động minh bạch và hiều quả
Các tổ chức trung gian
Chúng ta nên cho phép các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư tham gia các loại hình kinh doanh như: bảo lãnh phát hành, môI giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Riêng hình thức quản lý danh mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình thức công ty con nhằm bảo vệ lợi ích của quỹ.
Đồng thời với việc đó là cho các ngân hàng tham gia vào việc tư vấn, bảo lãnh phát hành để tạo điều kiện cho sự phát triển tòan diện của thị trường chứng khoán.
KẾT LUẬN
Trên đây là những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán và một số vấn đề cũng như biện pháp khắc phục những vấn đề của thị trường chứng khoán Việt Nam. Có thể thấy thị trường chứng khoán Việt Nam bên cạnh những thành công bước đầu vẫn còn rất nhiều hạn chế nhược điểm cần khắc phục. Để thị trường thực sự là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp và chính phủ đồng thời cũng là môi trường đầu tư đa dạng và hiệu quả cho những nhà đầu tư thì cần thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp. Có như vậy mới phát huy hết tác dụng để thị trường chứng khoán thật sự là một thị trường tài chính phát triển cao nhất
Trong thời gian qua chúng ta đã là thành viên của WTO do đó thị trường chứng khoán sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn với sự tham gia nhiều hơn của các nhà đầu tư nước ngoài. Với những biện pháp trên em hi vọng có thể đóng góp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Bảng các chữ viết tắt
CPH
Cổ phần hoá
UBCKNN
ủy ban chứng khoán nhà nước
DN
Doanh nghiệp
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DNTW
Doanh nghiệp trung ương
TPCP
Trái phiếu chính phủ
BTC
Bộ tài chính
SXKD
Sản xuất kinh doanh
TTCK
Thị trường chứng khoán
QĐ
Quyết định
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiền tệ ngân hàng và thị truờng tài chính – Frederic S.Mishkin
Giáo trình tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
Báo cáo phát triển Việt Nam 2006
Cẩm nang đầu tư chứng khoán – Phan Lan 2005
Báo đầu tư chứng khoán
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Các trang web:
Website của UBCKNN:
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội:
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM:
Bộ kế hoạch và đầu tư:
Đầu tư chứng khoán:
Báo điện tử:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.docx