Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản -Thực trạng và tiềm năng Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản -thực trạng và tiềm năng

Có điều kiện sống thích hợp tại các vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển cân đối đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước nên cây chè có một ý nghĩa rất to lớn cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Về mặt kinh tế nó đóng góp rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, là một trong tám mặt hàng chủ lực của xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ về cho đất nước.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2523 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản -Thực trạng và tiềm năng Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản -thực trạng và tiềm năng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại trừ chè Shan. * Quy trình thâm canh: Đầu tư cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, đầu tư cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu đồng/ ha đạt 80%. Ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có vườn chè nhiều năm không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón như vậy không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, giảm hương thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón phân cân đối đã tạo nên chất lượng chè rất đặc trưng như Mộc Châu, Thanh Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lượng, chủng loại và quy trình. Hậu quả là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vượt quá mức cho phép; qua kiểm tra NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có dư lượng thuốc trừ sâu cao. * Thu hái: Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tươi sẽ được dùng làm nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lượng, việc hái chè phải tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tươi không theo tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nước, điển hình là ở những vùng buôn bán chè sôi động như Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. Ở những vùng này, vào thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua được chè B, thậm chí cả chè C nếu xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già ( 5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng hư hỏng và tất cả dẫn đến chất lượng thấp, hàng kém sức cạnh tranh. * Vận chuyển: Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến cũng đã được bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính vì vậy, vận chuyển chè búp tươi có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhược điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thường chỉ 2 lần/ ngày ( so với Ấn Độ là 4 - 6 lần/ ngày ), nên chè thường bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát. 3. Môi trường chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nước. Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A bên được thưc hiện. Chính vì vậy, trước khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các quy định của chính phủ các nước liên quan, tập quán và luật pháp quốc tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn thị trường xuất khẩu. Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một nước nào đó thì chúng ta cần hiểu con người và luật pháp ở nước đó, cũng phải tìm hiểu xem tình hình chính trị ở nước đó như thế nào có ổn định hay không, người dân ở đó có hay uống chè hay không. Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nước ta sau đại hội Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đã chủ chương thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các ngành các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn nhận một cách khách quan rằng những chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. Nhiều mặt hàng không cần phải xuất khẩu qua đầu mối những vẫn phải qua đầu mối, vừa không những không phát huy được thế mạnh của các doanh nghiệp vừa không phù hợp với cam kết quốc tế mà nước ta đã ký trong thời gian qua. Doanh nghiệp chưa thực sự làm chủ khi xuất khẩu. Các chính sách của nhà nước về xuất khẩu như thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu. -Thuế quan: thực chất là dùng thuế này để đánh vào các mặt hàng xuất khẩu, nhưng hiện nay nhà nước đã quy định một số mặt hàng khi xuất khẩu không phải chịu thuế trong đó có mặt hàng chè và điều này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tham gia vào việc xuất khẩu. -Hạn ngạch xuất khẩu: quy định của nhà nước về hạn chế xuất khẩu số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là một năm ). Như vậy, rõ ràng nếu doanh nghiệp xuất khẩu một hay nhiều sản phẩm nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì tất NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A yếu hạn ngạch được cấp nhiều hay ít sẽ kéo theo quy mô kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp tăng hay giảm. Và nếu chúng ta nhìn vào ngành chè thì việc hạn ngạch này hầu như không áp dụng đối với xuất khẩu chè. -Giấy phép xuất khẩu: Một số mặt hàng nhà nước quy định trước khi xuất khẩu thì phải xin giấy phép xuất khẩu, việc này chỉ áp dụng đối với những mặt hàng mà nhà nước quy định, và những mặt hàng này nhà nước không khuyến khích xuất khẩu, hay liên quan đến việc an ninh quốc phòng của một đất nước. Còn đối với việc xuất khẩu chè thì chúng ta không phải xin giấy phép xuất khẩu vì chè nằm trong những mặt hàng được nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Việc này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tiến hành xuất khẩu và ở nước ta việc xuất khẩu chè thường do Tổng công ty chè đảm nhiện. 4. Hệ thống tài chính của nhà nước Có thể nói hệ thống tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu nói chung và xuất khẩu chè nói riêng, nó thể hiện ở các mặt sau: - Các chính sách tài chính mà thông thoáng thì việc vay tiền hỗ trợ cho việc sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sẽ trở nên dễ dàng và ngược lại nếu hệ thống tài chính qua phức tạp thì việc vay vốn của các công ty rất khó vì vậy nó ảnh hưởng đến việc sản xuất và xuất khẩu của các công ty. Như chúng ta đã biết cây chè thì chủ yếu do các nông trường và người dân trồng. Nếu là những người dân thì việc có thể vay được vốn của các ngân hàng mà đầu tư để phát triển cây chè thì đó là một điều đáng mừng vì hầu hết các người dân không có vốn chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Nhưng thực tế hiện nay khâu nay vẫn có nhiều vấn đề nay sinh và chưa đáp ứng được những nhu câù của nhân dân thủ tục vay vốn quá phức tạp. Mặc dù hiện nay chúng ta đã có quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng tác dụng của quỹ này chưa cao đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến xuất khẩu như: về con người, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, công nghệ chế biến và đặc biệt trong ngành chè thì công nghệ chế biến có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè xuất khẩu. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM I.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM 1.Kết quả sản xuất và chế biến chè *Về sản xuất chè: Việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2002 gặp phải những khó khăn ngay từ ban đầu bởi hạn hán ở nhiều địa phương có diện tích chè lớn, làm cho khả năng sinh trưởng và khả năng cho búp kém hơn so với thời kỳ của các năm trước. Song thực thế sức hút thị trường và sự chủ động của các đơn vị, cây chè đã được chủ động chăm sóc thâm canh cho sản lượng 6 tháng đầu năm tương đương so với cùng kỳ năm 2001. Giá thu mua chè nguyên liệu bình quân đạt cao, từ 1950 – 2100đ/kg, có nơi giá cao hơn như ở: Thái Nguyên, Lâm Đồng từ 2300 – 2500đ/kg. Đây là điều đáng phấn khởi cho người sản xuất nông nghiệp và đảm bảo được nghị quyết và các cam kết của người sản xuất chè tại Đại hội và các hội nghị toàn thể Hiệp hội chè khoá 2, 6 tháng đầu năm nay sản lượng sản xuất ra tăng cao so với cùng kỳ. Nguyên liệu búp tươi tăng so với cùng kỳ 24%. Sản lượng tăng so với cùng kỳ 25%, trong đó, xuất khẩu tăng 32%, kim ngạch xuất khẩu tăng 27%. Xuất khẩu 6 tháng đầu năm chủ yếu là chè cấp thấp. Giá chè trong nước vẫn giữ mức như trước: chè Sen 1700000 đ/kg; chè nhài 150.000đ/kg; chè đặc sản 100.000 - 150.000đ/kg; chè xanh ngon 50.000 - 70.000đ/kg; chè thường 13.000 -14.000 đ/kg. Đời sống người sản xuất chè được nâng cao, tạo ra không khí phấn khởi trong ngành chè. Bên cạnh sự sôi động tích cực, còn nhiều điều nảy sinh chưa tốt trong sản xuất nông nghiệp. Với sự bùng nổ ra đời nhiều doanh nghiệp và hộ chế biến chè trong 3 năm gần đây phân bố không tương xứng với quy mô sản xuất nông nghiệp gây ra sự cạnh tranh mua bán nguyên liệu. Qua báo cáo hoạt động năm 2001 của Tổng công ty chè Việt Nam và hơn 31 đơn vị khác cho thấy: tỷ lệ nguyên liệu chủ động tự sản xuất rất thấp. Tổng công ty chè có sản lượng tự sản xuất chiếm 49,7%, mua ngoài chiếm 50,3%. Các đơn vị ngoài chỉ có 37,2% sản lượng nguyên liệu tự sản xuất còn 62,85 sản lượng thu mua NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A nguyên liệu trôi nổi trên thị trường, lại chưa ký hợp đồng giữa người sản xuất với người chế biến nên luôn luôn bị động. Sản xuất nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2002 cung vẫn trong tình trạng ấy, giá thu mua nguyên liệu không phản ánh đúng chất lượng, thường lẫn loại vượt từ 1- 2 cấp, với tỷ lệ giá bánh tẻ trong nguyên liệu phổ biến 50 – 55% thậm chí có nơi chiếm 65- 70% giá bánh tẻ. Chỉ có ít các đơn vị như Mộc Châu, Long Phú, Lương Sơn có nguyên liệu sản xuất đảm bảo. Hơn thế ở không ít vùng miền, việc đầu tư chăm sóc chưa thật đầy đủ chỉ đảm bảo 50 - 60% mức quy trình thâm canh cần thiết. Trồng chè hạt vẫn chiếm 30- 40% diện tích. Phân bón vào đồi chè mất cân đối các yếu tố dinh dưỡng: thuốc trừ sâu phun không đúng chủng loại quy định, hiện trạng thu hái chỉ sau phun thuốc khoảng 3- 4 ngày vẫn còn. Thu hái chè thậm chí không cần biết đến loại phẩm cấp nguyên liệu, mua bán theo giá cả thoả thuận trực tiếp. Gần đây một số đơn vị sản xuất lớn như Mộc Châu, Trần Phú, Phú Đa, Phù Bền.. đã chú trọng việc đầu tư phân tổng hợp đa yếu tố khoáng cân đối cùng việc đưa phân hữu cơ cho đồi chè là một hướng đi đúng đắn nhằm tổ chức sản xuất lâu bền, chất lượng và an toàn thực phẩm dần được cải thiện. * Về chế biến chè: đến nay cả nước đã có khoảng hơn 250 doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ, khoảng 1 vạn hộ sản xuất chế biến hộ gia đình, trong đó có hơn 40 doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương. Nhiều đơn vị thuộc tổng công ty đã có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, quản lý nên đảm bảo thực việc thực hiện quy trình có tiến độ hơn trước, chất lượng sản phẩn được chú trọng hơn, khắc phục được 60 – 70% các khuyết tật trong công nghệ như chế biến vận chuyển chè bằng bao tải, dải chè trên nền đất, bớt được chè cao lửa, giảm nhiều mùi than ướt qua các tiến độ về sấy, tạo được mặt hàng tốt hơn bằng phương pháp áp dụng cắt nhẹ. Một số nhà máy như Mộc Châu, Sông Cầu, Nghệ An, Phú Đa.. đã xác định rõ trách nhiệm từng công đoạn, từng ca sản xuất xúc tiến xây dưng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. Công tác vệ sinh công nghiệp đã được nhiều nhà máy lớn, các cán bộ công nhân có ý thức trách nhiệm tốt hơn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A cổ phần, công ty TNHH vì giá trị và danh tiếng sản phẩm của mình cũng đã rất chú trọng đến chất lượng, thương hiệu mặt hàng như Xí nghiệp chế biến Cầu Tre, công ty chè Bảo Lộc, công ty cổ phần Mỹ Lâm. Sự phát triển các doanh nghiệp sản xuất chế biến chè với tốc độ cao, trong thời gian ngắn cũng bộc lộ nhiều điểm vướng mắc cần được hạn chế. Trên cùng một địa bàn nhiều doanh nghiệp chế biến không có vùng cung cấp nguyên liệu riêng nên thiếu chủ động, việc xác định phẩm chất và trả giá không thể thống nhất được, mà phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ đứng ngoài hiệp hội nên càng không thể có tiếng nói chung. Đó là một trong những nguyên nhân mà việc cạnh tranh nguyên liệu chưa được khắc phục. Hơn nữa, kéo theo đó nhiều nhà máy không đủ nguyên liệu để sản xuất theo công suất thiết kế gây rất nhiều lãng phí về năng lực sản xuất và tiền bạc. Hàng loạt các doanh nghiệp được hình thành với nhiều loại quy mô, nhiều doanh nghiệp có quy mô khá nhưng thiết bị được đầu tư ở mức thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu mẫu sao chép nhưng kém chất lượng không được kiểm nghiệm đầu tư theo hướng giá rẻ, khấu hao nhanh. Tình trạng này phổ biến ở nhiều vùng, miền sản xuất chè đặc biệt như ở Thái Nguyên năm 2000 mới chỉ có 7 doanh nghiệp, đến năm 2001 đã có 20 và đến đầu năm 2002 đã có 29 doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè năm trong khu vực đã nêu trên. Thêm vào đó, nhân lực của các doanh nghiệp cũng như người công nhân, nông dân trồng chè phần nhiều thiếu hiểu biết, không được đào tạo, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thế hệ trước truyền lại, mai một nhiều, lại rất thiếu thông tin. Những tình trạng trên đây rất phổ biến ở các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân trực tiếp gây ra cách sản xuất phi quy trình, không đảm bảo kỹ thuật cần thiết nên chất lượng chè xấu. 2. Kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩm: Trong kế hoạch 5 năm từ 1995-1999, Tổng công ty và Hiệp hội chè đã từng bước tự khẳng định mình trên thị trường với các loại chè xuất khẩu sau: NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A Biểu 2: Cơ cấu và chủng loại chè xuất khẩu năm 1996 - 1999. Năm Sản phẩm 1996 1997 1998 1999 Chè đen 72,5% 74% 73% 75% Chè xanh 11,65% 10,11% 9,13% 6,2% Chè ctc 1,98% 2,29% 4,30% 4% Chè thành phẩm 6,155% 5,42% 7,11% 3,1% Chè sơ chế 0,22% 2,52% 0,76% 3,42% Các loại chè 7,5% 5,64% 5,74% 8,2% Tổng 100% 100% 100% 100% Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam Chú thích: - Chè CTC là chè chất lượng cao, được sản xuất theo dây chuyền công nghệ của Ấn Độ. - Chè “thành phẩm” là loại chè đã được sản xuất và chế biến hoàn chỉnh có đủ hương vị, bao gói để bán cho người tiêu dùng cuối cùng như chè túi, chè hộp, chè nhúng có ướp hương hoa như các loại chè hộp Đông Đô, chè hộp Phú Quốc, chè gói Thanh Tâm... Trong cơ cấu chè xuất khẩu của Vina Tea qua các năm, chè đen đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, tuy cũng có nhiều biến động. Điều này chứng tỏ chè đen là mặt hàng chủ lực của Tổng công ty. Chè xanh đứng thứ hai nhưng có xu hướng giảm dần và giảm mạnh vào năm 1999. Chè CTC có biến động mạnh: Năm 1996 có giảm so với năm 1995 nhưng không đáng kể, và từ năm 1997 trở lại đây, chè CTC lại tăng nhanh. Điều đó cho thấy rằng thế giới ngày càng tiêu dùng nhiều loại chè có chất lượng cao. Tỷ lệ xuất khẩu chè sơ chế qua các năm rất bấp bênh. Năm 1995 chỉ chiếm 0,3% nhưng đến năm 1997 lại chiếm 2,54% và đến năm 1998 chỉ chiếm 0,76%. Sang đến năm 1999 lại tăng cao chiếm khoảng 3,42% trong tổng số hàng xuất khẩu trong năm. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A Chè “thành phẩm” trong suốt những năm 1996 - 1999 tỷ trọng xuất khẩu tăng lên rất cao so với các loại chè khác. Nhưng đến năm 1999 lại giảm xuống chỉ còn 3,10% tỷ trọng xuất khẩu. Các loại chè khác cũng chiếm một lượng không nhỏ trong các loại chè xuất khẩu, chỉ đứng sau chè đen và chè xanh. Tuy chủng loại chè xuất khẩu của các doanh nghiệp và của Tông công ty chè Việt Nam có đa dạng hơn trước nhưng vẫn còn có những hạn chế về chất lượng và mẫu mã, các loại chè cấp thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể. Do đó chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng các loại chè cao cấp tăng lên trên thị trường thế giới. Xu hướng tăng tỷ trọng chè “thành phẩm” là rất tốt, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng. Trước đây, sản phẩm chè xuất khẩu của Tổng công ty chè và các doanh nghiệp chỉ được đóng thùng gỗ dán hoặc bao tải là chủ yếu, thời gian vận chuyển thì dài nên không bảo đảm chất lượng. Nhưng những năm gần đây đã được đóng vào các thùng cáctông, nilông với trọng lượng chè thành phẩm các loại, kích cỡ bao bì từ 20g, 50g,...1000g. Việc đầu tư cải tiến bao bì tuy phức tạp nhưng giá bán cao hơn, lợi nhuận cũng tăng cao. Tóm lại, cơ cấu và chủng loại chè của Tổng công ty chè Việt Nam và các doanh nghiệp nằm ngoài liên tục thay đổi qua các năm, xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng lớn vẫn là chè đen. Những năm gần đây, Tổng công ty tiến hành nhiều hình thức như: cổ phần hoá, liên doanh với các nước như Bỉ, Đài Loan... bao tiêu sản phẩm. Đối với mặt hàng chè xanh CTC đã và đang được tiến hành song song xuất khẩu với mở rộng thị trường trong nước, định hướng người tiêu dùng trong nước sử dụng các loại chè truyền thống như: chè xanh Thái nguyên, chè Tùng hạc, chè Thanh long, chè Tân cương... với mẫu mã và chất lượng phù hợp với người tiêu dùng, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện và đưa ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng cao để cạnh tranh trong chính thị trường trong nước như các loại chè hoà tan, chè đen, chè nhúng có ướp hương của các hãng như Lipton, Dilmah.. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A Vì vậy, Tổng công ty và các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh đa dạng hoá sản phẩm hơn nữa, không chỉ dừng lại ở con số 6 chủng loại chè xuất khẩu và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu nhằm đưa lại giá trị xuất khẩu cao đúng với vị thế kinh doanh trên thị trường của Tổng công ty chè Việt Nam 3. Kết quả xuất khẩu chè theo thị trường: Trong những năm qua, Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ, tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế quốc tế nên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đa dạng hơn. Trước kia, hàng hoá của Việt Nam chủ yếu xuất sang Liên xô và các nước XHCN. Nhưng từ những năm 90 trở lại đây do sự sụp đổ của hệ thống này, hàng hoá của ta xuất sang những thị trường mới ở nhiều châu lục khác nhau. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng như vậy là nhờ vào chính sách đa dạng hoá mặt hàng và đa phương hoá các quan hệ kinh tế thương mại. Mỗi mặt hàng khác nhau đã xuất đi nhiều nơi trên thế giới để vùa khai thác được lợi thế của thị trường vừa phân tán được rủi ro. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 120 nước và vùng lãnh thổ. Hàng năm, doanh số xuất khẩu chè chiếm trên 90% trong tổng số doanh thu của Tổng công ty cho nên vấn đề chính là thị trường nước ngoài. Đây là triển vọng để Tổng công ty có thể mở rộng thị trường, khuếch trương uy tín của Tổng công ty trên thị trường thế giới. Để thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề cốt yếu đầu tiên phải giải quyết là thị trường tiêu thụ, vì đó là mục tiêu lớn nhất để cho một ngành hàng kinh tế kỹ thuật phát triển, nó quyết định toàn bộ quá trình kinh doanh và sự phát triển trong tương lai. Để giữ vững được thị trường đã có và ngày càng mở rộng nhiều hơn điều quan trọng là phải tạo ra được sản phẩm chè có chất lượng cao, bao bì đẹp thu hút được người tiêu dùng, giá thành hợp lý, sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường mà trong đó chất lượng là nhân tố quyết định hàng đầu. (Xem biểu3) NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A Biểu3: Doanh thu xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam. Đơn vị tính: USD/Năm Năm Nước 1996 1997 1998 1999 2000 Nga 173.165 226.437 1.017.450 800.258 1008.000 Singapor 106.372 584.473 149.492 198.000 Đài Loan 675.702 670.499 419.426 378.502 141.480 Nhật 1.033.076 1.318.539 957.520 1.382.500 Nguồn: Tổng công ty chè Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể song thị trường xuất khẩu chè của chúng ta còn nhiều yếu kém, chưa thâm nhập được vào các thị trường lớn nhiều tiềm năng, đặc biệt khi gặp các đối thủ “nặng ký” Tổng công ty trở nên quá “nhỏ bé” và chịu nhiều thua thiệt. Vì vậy, trước mắt chúng ta đặc biệt là Tổng công ty chè cần chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm và khai thác thị trường mới, duy trì và củng cố những thị trường truyền thống với sự hỗ trợ của nhà nước trong việc khai thác các mối quan hệ kinh tế - chính trị, ký kết các hiệp định thương mại hoặc các văn bản thoả thuận hợp tác với các nước. Nhìn chung, vấn đề thị trường vẫn là vấn đề lớn còn nhiều bức xúc đòi hỏi nhiều nỗ lực không chỉ về phía doanh nghiệp mà còn từ phía Nhà nước II. ĐÁNH GIÁ CHUNG 1. Những mặt tích cực Trước hết ta phải thấy rằng trong cả nước có rất nhiều các doanh nghiệp cũng như các đơn vị sản xuất và chế biến chè với vai trò quan trọng của Tổng công ty chè Việt Nam. Tổng công ty đã tạo được mối liên kết chặt chẽ với các đơn vị thành viên, mở rộng ra cả các vùng chè của người dân. Tuy có số lượng đơn vị khá lớn ở nhiều vùng khác nhau nhưng Tổng công ty đã thống nhất được sự quản lý từ trên xuống dưới thể hiện ở chỗ: các thành viên tuân thủ nghiêm ngặt kế hoạch và nhiệm vụ được giao, khi có khó khăn về nguồn hàng Tổng công ty vẫn có thể đảm bảo được lượng hàng xuất khẩu bằng cách yêu cầu các NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A đơn vị dừng việc bán hàng ra ngoài để tập trung toàn bộ lượng hàng giao cho Tổng công ty. Ở đây không xảy ra tình trạng "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" như vẫn thường thấy ở một số Tổng công ty Việt Nam hiện nay. Sở dĩ tạo ra được mối liên hệ này là nhờ Tổng công ty đã gắn được lợi ích của mình với lợi ích của các thành viên. Và thực tế đã chứng minh không có mối quan hệ kinh tế nào bền chặt bằng mối quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi. Do làm tốt công tác này mà tránh được tình trang trạng mua tranh tranh bán ở nhiều nơi, làm thiệt hại cho các công ty và bà con trồng chè, xuất khẩu chè đã làm cho mức sống ở các vùng trồng chè được cải thiện đáng kể, môi trường cũng phần nào được cải thiện vì hiện nay diện tích trồng chè của chúng ta đã tăng lên gấp nhiều lần làm đã phủ xanh đất trống đòi núi trọc, khi xuất khẩu chè thì hiện nay chúng ta đã xâm nhập được vào các thị trường mới đầy tiềm năng như: Nhật Bản, Mỹ không còn phụ thuộc vào thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu như trước kia, và hiện nay chúng ta có rất nhiều mối quan hệ với các nước bạn hàng. Điều này làm cho các doanh nghiệp của nước ta học hỏi được rất nhiều điều và nắm bắt được những thông tin quan trọng, làm cho các doanh nghiệp chủ động trước những sự biến động của thị trường, chúng ta đã tạo ra nhiều giống tốt để phục vụ cho qúa trình xuất khẩu trình độ quản lý cũng được cải thiện, trình độ thâm canh cây chè cũng được từng bước nâng cao 2. Những hạn chế còn tồn tại *Trong sản xuất nguyên liệu: Năng suất bình quân thấp do tổ chức sản xuất sai lầm trong nhiều năm. - Một thời gian dài trước đây, chè được phát triển tràn lan theo kiểu rải mành mành, tập trung vào quảng canh. - Bộ giống chè nghèo, không có giống tốt, giống đặc sản. - Việc quản lý chăm sóc kém, quy trình kỹ thuật chưa được tuân thủ một cách nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Cộng với việc khai thác quá mạnh làm cây chè chóng cạn kiệt, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, sớm phải thanh lý. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A - Dùng nhiều phân vô cơ làm đất bị nghèo dinh dưỡng, độ pH tăng cao. - Vườn chè thiếu hay không có cây bóng mát do nhận thức sai lầm rằng đây là nơi trú ngụ của sâu bệnh nên đã cho chặt. Thiếu cây bóng mát làm cho đất bị xói mòn, mực nước ngầm xuống thấp, chè bị héo vào những tháng nóng. - Vườn chè không được quan tâm đồng đều. Thậm chí ngay trong một xí nghiệp có vườn chè tốt có vườn lại rất xấu. Có vườn được đầu tư đúng mức, canh tác đúng quy trình có thể đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha. Có vườn bị buông lỏng, khoán trắng chỉ khai thác, không đầu tư làm năng suất chỉ còn 1,6 tấn/ha. Đặc biệt, nhiều vườn chè dân xung quanh cơ sở chế biến chưa được quan tâm một cách đầy đủ, có trợ giá nhưng nông dân vẫn không đủ vốn đầu tư. - Chè trồng trên dốc nhiều, lại không có hệ thống tưới nước đầy đủ. *Chất lượng sản phẩm kém: Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta chỉ đạt mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh tranh, kéo giá chè XK xuống thấp hơn hẳn giá chè thế giới. Trong các yếu tố ảnh hưởng xấu tới chất lượng, nổi lên những yếu tố sau: - Công nghệ: Chỉ một số ít nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công nghệ của Ấn Độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công nghệ Liên Xô (cũ) đến nay đã xuống cấp hay nâng cấp chắp vá bằng các phụ tùng trong nước nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất chè đen theo tiêu chuẩn. Một số đơn vị đã đầu tư bổ sung thêm máy héo, máy vò, máy sấy để nâng công suất nhà máy nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng lên men, phòng sàng chưa được nâng cấp tương xứng nên công suất các công đoạn mất cân đối, chè bị ùn tắc cục bộ dẫn đến chè bị ôi ngay trước khi đưa vào máy héo hoặc chua thiu trong quá trình lên men. Sự không đồng bộ của dây chuyền dễ dẫn đến cắt xén quy trình từng công đoạn trong quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm cũng giảm theo. - Con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt, NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A nhiều đơn vị chè lớn không có kỹ sư chế biến, thậm chí thiếu cả cán bộ chế biến có trình độ trung cấp. Công nhân lành nghề được đào tạo những năm 60 - 70 nay dần đã về hưu, thay thế là thế hệ công nhân trẻ thiếu kinh nghiệm và tay nghề thấp. Do thiếu cán bộ có trình độ đại học nên việc bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho công nhân cũng hạn chế. - Quản lý: Vẫn còn nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng cốt hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không quan tâm duy trì và cải tiên, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng chung của Tổng công ty. Đây là hậu quả của cơ chế cũ. Ngành chè ra đời và phát triển trong thời kỳ hệ thống XHCN còn vững mạnh. Ta đã nhận được thiết bị chế biến qua con đường viện trợ không hoàn lại hay trên cơ sở hợp tác ưu đãi. Phần lớn chè được xuất dưới dạng bán thành phẩm. Sản phẩm sản xuất ra dù có chất lượng hay không đều có thị trường tiêu thụ ổn định. Sản xuất đến đâu bán hết đến đó do được bao cấp cả đầu ra. Chính cơ chế này đã gây ra sự trì trệ và thói quen coi thường chất lượng ở một số cán bộ. Điều này đã thực sự làm cho tiêu thụ chè nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung bị "sốc" khi khối XHCN sụp đổ, thị trường cũ đột ngột co hẹp, buộc phải vươn ra các thị trường mới mà chất lượng mới chính là yếu tố cạnh tranh để sống còn. *Tuy Tổng công ty đã mở rộng nhiều thị trường mới nhưng chưa có bạn hàng thực sự lâu dài: thậm chí còn bị mất thị trường chè vàng ở Hồng Kông. Nguyên nhân là do: - Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì, ta chủ yếu xuất chè có kích thước và kiểu dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt người tiêu dùng ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép tiết kiệm thời gian. - Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Ngay cả ở các thị trường truyền thống, các thị trường lớn như Nga, I rắc... cũng vẫn phải bán qua các nhà nhập khẩu của họ. XK phải qua nhiều khâu trung gian vòng vèo.Với vai trò nhỏ bé trên thị trường thế giới và tình hình chất lượng như hiện NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A nay, chúng ta chưa có khả năng áp dụng nhiều chính sách giá như giá tấn công, giá hớt váng, chiến tranh giá cả... XK vẫn kiểu cầm chừng, gặp khách thoả thuận được giá bán, nên yêu cầu chủ yếu với giá xuất khẩu là đủ bù đắp chi phí và có lãi chứ chưa sử dụng được giá như một công cụ cạnh tranh. - Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình thức quảng cáo còn nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam. Công tác tiếp thị yếu, chưa có một đội ngũ tiếp thị chuyên môn. Vẫn theo quan điểm marketing truyền thống, coi trọng khâu tiêu thụ. Đã có các dây chuyền công nghệ như vậy, đã sản xuất ra các sản phẩm như vậy, vấn đề phải quan tâm là tìm đầu ra. Chính vì vậy chưa thực sự có được vị trí trên thị trường thế giới. *Tất cả những hạn chế trên còn có chung một nguyên nhân là tổ chức quản lý của ngành chè chưa được hợp lý. Các đơn vị sản xuất chè còn manh mún, phân tán, còn phân biệt năng nề giữa trung ương và địa phương. Tổng công ty mới được thành lập trong thời gian ngắn nhưng đang có sự xáo trộn do việc chuyển đổi một số đơn vị từ Trung ương sang địa phương. Nhìn chung, các nhà sản xuất và kinh doanh chè trong cả nước chưa tập trung về một mối để tạo nên sức mạnh tổng hợp, để cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I.PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Về sản xuất chè. Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lài Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến chất lượng chè xuất khẩu. Tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao trong cơ cấu nguyên liệu. Cải tạo đất bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đưa công cụ vào canh tác nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi phổ biến rộng ra. Trong 2 năm 1999 - 2000 đầu tư 34,41 tỷ đồng tưới cho các vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước ở 9 tỉnh. Biểu 4: Các chỉ tiêu phát triển chè cả nước. Năm Diện tích 1999 2000 2005 2010 Diện tích chè cả nước (ha) 77.142 81.692 104.000 104.000 Diện tích chè kinh doanh (ha) 70.192 70.192 92.500 104.000 Diện tích chè trồng mới( ha) 4.350 4.550 2.800 - NS bình quân (tấn tươi/ha) 3,82 4,23 6,1 7,5 Sản lượng búp tươi (tấn) 268.200 297.600 490.000 665.000 Sản lượng chè khô (tấn) 59.600 66.000 108.000 147.000 Sản lượng XK (tấn) 37.000 42.000 78.000 110.000 Kim ngạch XK (triệu USD) 50 60 120 200 Nguồn: Kế hoạch sản xuất chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè đến 2005 - 2010 (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn). NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 2. Về chế biến chè. Đầu tư cải tạo nâng cấp 30% số cơ sở chế biến công nghiệp trong năm 2003 - 2004. Xây dựng thêm 180 nhà máy chế biến công suất 12 tấn/ngày. Đầu tư xây dựng nhà máy cơ khí chè công suất 350 - 500 tấn/năm để chế tạo phụ tùng và thiết bị lẻ phục vụ cho sửa chữa, nâng cấp các nhà máy cũ. 3. Về xuất khẩu. Tiếp tục giữ vững thị trường XK hiện có, mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Đa dạng hoá sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác triệt để các sản phẩm từ đất chè. 4. Về lao động. Nhu cầu đến năm 2010 là 1000 kỹ sư nông nghiệp và 9000 kỹ sư chế biến. Vì vậy phải đào tạo bổ sung 360 người, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho 216 người, tập huấn khuyến nông cho 200.000 người. II.NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI 1.Quy hoạch lại vùng chè, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. a. Quy hoạch những vùng nguyên liệu chính và ổn định theo hướng tập trung chuyên canh thâm canh. Căn cứ vào đặc điểm địa hình có thể chia làm 3 loại chè: vùng có độ cao dưới 100m so với mặt nước biển gồm một số huyện thuộc Hà Giang Tuyên Quang,Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình Bắc Thái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh, khả năng mở rộng diện tích từ 14-15 ngàn ha; vùng có độ cao từ 100 - 1000m gồm Mộc Châu và Cao Nguyên Lâm Đồng, khả năng mở rộng diện tích từ 8 - 10 ngàn ha; vùng có độ cao trên 1 ngàn mét gồm một số huyện thuộc Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu, có khả năng mở rộng diện tích từ 6 - 8 ngàn ha. Để thực hiện, trước mặt là nhằm tạo vùng chè cao sản, đặc sản, ổn định về sản lượng và chất lượng ngay trên những vườn chè tập trung hiện có. Cần thúc đẩy hơn nữa việc gắn lợi ích của kinh doanh chè với lợi ích của người trồng chè. Cụ thể là cải thiện điều kiện làm việc nâng cao đời sống NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A vật chất cho họ, phải có giá thu mua nguyên liệu với mức hợp lý đảm bảo cho người trồng chè có lãi yên tâm gắn bó và đầu tư cho cây chè. Trong những năm qua việc này được thực hiện từng bước tại các doanh nghiệp ngành chè, mức thu nhập bình quân ngày một tăng và hiện nay toàn ngành tiếp tục phấn đấu nâng lên 500 ngàn đồng/tháng. Đây có thể coi là việc doanh nghiệp thực hiện vai trò “Nhà nước nhỏ “ điều chỉnh thị trường, phân phối lại thu nhập, từ đó làm động lực của quá trình quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu. Đây sẽ là những vùng sản xuất chè nguyên liệu ổn định nhất và là nguồn cung cấp sản phẩm thường xuyên cho nội tiêu và xuất khẩu. Việc quy hoạch lại vùng nguyên liệu tạo ra sự ổn định sản xuất sẽ có vai trò định hướng và đòn bẩy nhằm thực hiện mục tiêu phát triển sản xuất tăng sản lượng. b. Nâng cao chất lượng và hạ giá thành của chè Đây là vấn đề quyết định cho việc mở rộng thị trường chè. Tuy nhiên điều đó phụ thuộc nhiều vào công tác đầu tư, mà việc đó bắt đầu từ khâu giống, gieo trồng chăm sóc chế biến ra thành phẩm. *Chọn giống: Bên cạnh việc đưa các giống mới có năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất ( đó là giống Ph1, 1A. 777, BT95, OL93, KX94,DLP1- 2.BT11- 14) cần phải nhập một số giống từ Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Đồng thời bảo đảm đúng quy trình canh tác từ việc xây dụng các đồi nương, chăm sóc, diệt trừ sâu bệnh, đến kỹ thuật hái chè. Nhanh chóng đầu tư các thiết bị mới vào chế biến để tạo ra sản phẩm chè có chất lượng tốt, giá trị cao, tạo được uy tín với khách hàng và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. *Quy trình chăm sóc thâm canh cây chè: Thực hiện sử dụng phân khoảng tương đối, nhiều yếu tố bằng các dạng phân đa yếu tố ( hỗn hợp, phức hợp ) trên nền phân hữu cơ đầy đủ vừa đảm bảo năng suất, chất lượng cao, an toàn thực phẩm và hiệu quả cao trên cơ sở hiệu suất sử dụng phân bón cao. + Hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu, hoá học trên cây chè, đẩy mạnh việc quản lý dịch hại tổng hợp ( IPM ), áp dụng các chế phẩm thảo mộc. Tuyệt đối không được sử dụng các loại thuốc cấm, thuốc có tồn dư lâu ngày, NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A tuân thủ thật tốt thời gian cách ly cần thiết khi thu hái chè. Thuốc trừ sâu sẽ do xí nghiệp cung cấp, dân thực hiện phun khi có sâu. +Xây dựng bổ sung và hoàn thiện các công trình phụ trợ trên đồi chè, đảm bảo các điều kiện sinh thái như bể nước, cây che bóng và tưới tiêu nước trên đồi chè. Riêng thuỷ lợi trên đồi chè rất cần có sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước về các công trình đầu mối và tuyến trục đến đầu mối nương đồi, giúp giảm chi phí trực tiếp trong giá thành sản phẩm chè. *Thu hái và bảo quản: Trước đây khi cần nguyên liệu không có tình trạng nguyên liệu trong cấp nọ lại có tỷ lệ phần trong cấp kia, chẳng hạn trong B có A có C hay trong B có C,D. Chính hàng loạt doanh nghiệp “Phi quy trình kỹ thuật” tranh chấp thu mua nguyên liệu đã làm việc phát sinh dần việc hái lẫn loại, mua giá vựơt cấp, tác động xấu trở lại sản phẩm, thậm chí nhiều vùng dân cư thu hái không cần phẩm chất, chỉ cần thoả thuận theo lô nguyên liệu. Rất cần thiết áp dụng trở lại việc thu hái đúng cấp, đúng trật, đúng số lá chừa, sửa bằng mặt tán để vừa tăng năng suất đồi chè 10 - 15,5 vừa có chất lượng nguyên liệu đúng, đây cũng là cơ sở tiền đề cho chế biến công nghiệp không lẫn loại, tiết kiệm, hiệu quả. Để thực hiện được mục tiêu trên, đầu tư phát triển các vùng chè và đổi mới thiết bị công nghệ các cơ sở chế biến thì nhu cầu về vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp trồng mới, chăm sóc chè (1999- 2000) là 2.107 tỷ đồng. Nhu cầu vốn đầu tư cho công nghiệp gồm thiết bị, nhà xưởng .. là 2.628 tỷ đồng. Đây là số vốn lớn nhất cần tạo ra từ các chính sách thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, trong đó việc huy động vốn trong nước là quan trọng như vốn của dân, vốn từ các chương trình 327, 773. Mặt khác cần có sự hỗ trợ của nhà nước về chế độ chính sách cụ thể như: Về vay vốn trồng mới chè, đề nghị nhà nước cho người làm chè được vay vốn đầu tư trồng mới trong 15 năm, trong đó 7 năm đầu là ân hạn, trả vốn và lãi từ năm thứ 8 lãi suất 0.5%/tháng; về vốn vay xây dựng và cải tạo nhà máy chế biến chè; Nhà nước cho phép các doanh nghiệp chè được vay vốn trong 10 năm, trong đó 3 năm đầu ân hạn, trả NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A vốn và lãi từ năm thứ 4 trở đi, lãi suất 0.81%/tháng; Về sử dung đất: Nhà nước miễn thuế 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và trồng mới trên đất dốc. Thuế với sản phẩn mới đề nghị nhà nước miễn thuế 5 năm, cho chế biến các sản phẩn mới. Về hạ tầng cơ sở: đề nghị nhà nước đầu tư cho hệ thống tưới tiêu, điện, đường giao thông và các cơ sở phục vụ công cộng như: nhà trẻ, trường học, bệnh viện. Cần sớm cho ngành chè được thành lập quỹ bình ổn giá tính trong giá thành sản phẩn sản xuất chè xuất khẩu để bảo trợ cho người làm chè khi gặp rủi ro. Yếu tố con người cũng rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của ngành chè nên cần có sự đào taọ chính quy cơ bản đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Về tổ chức bộ máy xuất khẩu chè: Các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân tham gia hiệp hội chè Việt Nam để có sự thống nhất về thị trường và giá cả xuất khẩu, tránh tình trạng tranh mua tranh bán. Tổng công ty chè Việt Nam phối hợp cùng với các cơ quan chuyên môn quản lý chặt chẽ chất lượng chè nhằm ngăn chặm kịp thời những hiện tượng sản phẩn xuất khẩu không đạt chất lượng làm giảm uy tín của chè Việt Nam trên thị trường chè thế giới đang cạnh tranh rất khắc nghiệt hiện nay. Cổ phần hoá các doanh chè cũng là một trong những biện pháp nâng cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để thực hiện cổ phần hoá trước tiên cần ứng dung các hình thức quá độ như: khoán hộ, khoán vườn chè, đấu thầu, bán vườn chè. Khi người lao động đã có thu nhập và có cơ sở tăng vốn để đóng góp cổ phần sẽ thực hiện cổ phần hoá. Riêng các cơ sở chế biến chè có thể áp dụng các hình thức khoán sản lượng, chất lượng và đấu thầu thiết bị, hoá giá tài sản, tạo điều kiện cho người lao động đóng góp cỏ phần bằng những hình thức khuyến khích như cho vay dài hạn được nhà nước bảo hộ, áp dụng tỷ lệ lãi suất thấp, mua cổ phiếu và các hình thức tín dụng nhân dân khác. Bên cạnh đó cần nâng cao hơn nữa vai trò của hiệp hội chè Việt Nam làm chỗ dựa cho các hội viên. Cần tổ chức cho các hệ thống thu thập thông tin về thị trường chè, tăng cường tiếp thị, quảng cáo để mở rộng thị trường chè xuất khẩu . Đây sẽ là cơ sở để tạo dựng sự tăng trưởng cao cho ngành chè trong tương lai.. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A 2. Mở rộng thị trường tiêu thụ Thị trường cho sản phẩm chè bao gồm thị trường trong nước và thị trường thế giới. Đối với thị trường nội tiêu, nhu cầu ngày càng ra tăng, đòi hỏi chất lượng chè ngày càng cao hơn và đa dạng về chủng loại, nhất là chè đặc sản như chè Shan tuyết, chè “hữu cơ” chè hương và đặc biệt là chè đen cao cấp túi lọc. Tuy nhiên, nhu cầu về các loại chè xanh truyền thống có tiếng lâu đời trong dân gian vẫn rất lớn. Muốn chiếm được thị trường trong nước, ngành chè cần thay đổi trong nhìn nhận thị trường trong nước, trong sản xuất để chế tạo ra được những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đối với những loại chè đặc sản trồng ở vùng cao, vùng xa, đi đối với chế biến cần phải hình thành tổ chức để cung cấp cho các thị trường lớn ở vùng đồng bằng. Đối với thị trường xuất khẩu chè Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới nhiều thập kỷ và đứng hàng thứ 6 về khối lương xuất khẩu. Trong hơn 30 nước nhập khẩu chè của ta đã có những thị trường trở thành bạn hàng quen thuộc, có những thị trường mới. Do vậy củng cố và tìm kiếm thị trường xuất khẩu chè là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược phát triển ngành chè. Với thị trường quen thuộc như Liên Bang Nga, các nước thuộc khối SNG và các nước Đông Âu cần phải tăng thị phần nhập khẩu của họ đối với sản phẩm chè của Việt Nam và khâu cải tiến về bao bì nhãn mác, đặc biệt chất lượng chè phải được chú trọng. Thị trường Trung Cận Đông tuy mới mở những cũng đã nhập nhiều chè của Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Thị trường Châu Á như Pa-ki-xtan, Nhật Bản, Đài Loan đòi hỏi chất lượng sản phẩn cao cần nâng cao chất lượng chè cũng như cải tiến bao bì nhãn mác. Ngoài ra các thị trường khác như Tây Âu, Bắc Mỹ cũng đã sử dụng sản phẩm chè của Việt Nam, cho nên để tăng cường tiếp thị dưới nhiều hình thức khác nhau để mở rộng thị trường này là rất quan trọng. Đi đôi với việc mở rộng thị trường là việc đa dạng hoá sản phẩm, làm ra nhiều loại chè thích hợp với thị hiếu đa dạng NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A của các nước khác nhau, đồng thời áp dụng sáng tạo các hình thức bán hàng linh hoạt như buôn bán đối lưu, ký hợp đồng đại lý kinh tiêu, đại lý ký gửi bán. 3. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với người trồng chè * Nguồn nguyên liệu chè của nước ta hầu hết tập trung ở các nông trường và hộ gia đình. Và muốn có nguyên liệu tốt và kịp thời gian để chế biến chè thì chúng ta phải có chính sách để giúp đỡ các hộ gia đình trồng chè về vốn, kỹ thuật trồng chè và thu hái chè: Trước hết phải nói đến nguồn vốn cho các hộ gia đình.Vì chung ta đã biết cây chè thường ở vùng núi và trung du, bà con nông dân ở đây thường không có vốn để đầu tư vào để mua giống mới và các phương tiện phục vụ cho cây chè vì vậy chung ta có thể cấp vốn cho họ hay là mua cây giống mới cho họ và có thể cấp phân bón cho vừa đảm bảo chất lượng chè và làm cho người dân có trách nhiệm hơn với chất lượng của chè và tạo động lực cho họ yên tâm trồng chè. Có thể nói kỹ thuật trồng chè có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè mà hầu như người dân trồng chè ở nước ta thường không được học các kỹ thuật để chăm sóc và trồng cây chè, chỉ dựa vào kinh nghiêm từ xa xưa đã mai một dần và đã quá lạc hậu, vì vậy chung ta cần phải đưa các cán bộ kỹ thuật nên phổ biến kỹ thuật cho họ, hay mở các lớp bổ túc kiến thức cho họ Các doanh nghiệp chế biến chè có thể ký hợp đồng thu mua chè cho người dân trước vụ thu hái. Nếu làm tốt điều nay thì cả hai bên đều có lợi, Các doanh nghiệp thì yên tâm về nguồn nguyên liệu được ổn định, còn người trồng chè thì yên tâm đầu ra của mình được ổn định không sợ phải huỷ bỏ đi. 4. Cải cách hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu Thuế : + Miễn thuế sử dụng đất 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và 12 năm cho các diện tích chè trồng mới trên đất dốc từ 7 độ trở lên. + Miễn thu 100% thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc chế biến chè và phụ tùng đặc chủng của các máy móc này trong một số năm ( khoảng 5 năm từ 1999 - 2004) để tạo điều kiện hiện đại hoá ngành chè. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A + Những sản phẩm nhờ kinh doanh đa dạng mà có sẽ được miễn các loại thuế trong 5 năm đầu, kể từ khi được thương mại hoá, để khuyến khích khai thác mặt hàng mới, bổ sung vốn cho kinh doanh chè. + Chỉ thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất chè 15% thay vì 35% như hiện nay. Phần lợi nhuận vượt kế hoạch Nhà nước được giữ lại 100% để bổ sung quỹ khen thưởng phúc lợi và quỹ nghiên cứu phát triển. Trích lập quỹ : Nhà nước cho phép sử dụng các khoản thu từ thanh lý tài sản cố định để bổ sung quỹ phát triển sản xuất và quỹ phát triển ngoại thương. Cho thành lập riêng quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè búp tươi cho nông dân, giữ cho giá này luôn tương đương với giá thóc. Quỹ này còn dùng để dự trữ một lượng chè hợp lý nhằm giữ giá chè xuất khẩu. Để hình thành quỹ, các hộ gia đình và các doanh nghiệp sẽ góp một khoản tương đương 5% giá thành , coi như chi phí và đưa vào giá thành. Nhà nước sẽ hỗ một phần bằng cách chi ngân sách và cho trích lại khoảng 5% trị giá các hợp đồng trả nợ chè của Chính phủ (khi ký được giá XK cao). NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A PHẦN III: KẾT LUẬN Có điều kiện sống thích hợp tại các vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển cân đối đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước nên cây chè có một ý nghĩa rất to lớn cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Về mặt kinh tế nó đóng góp rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, là một trong tám mặt hàng chủ lực của xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ về cho đất nước. Đặc biệt cây chè đã trở thành cây xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta, không ít hộ gia đình đã giàu lên từ việc trồng chè. Còn về mặt xã hội thì cây chè làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động, nhất là lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Mặt khác nó còn góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc, giảm thiểu tác hại của thiên tai ỏ nước ta. Nhưng trong một số năm gần đây xuất khẩu chè ở nước ta cũng gặp một số khó khăn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có như giá chè trên thế giới hiện nay đang giảm, chất lượng chè của chúng ta không cao....Trên thị trường quốc tế, chất lượng và uy tín chè Việt Nam vẫn thuộc “loại II”. Nhằm khắc phục hạn chế này chúng ta phải thực hiện tốt các biện pháp cần thiết để chè trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta và tương xứng với lợi thế của cây chè. Em hy vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ từng bước làm tốt các biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu chè và đạt được mục tiêu của ngành đã đề ra. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Minh đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Quản Trị Doanh Nghiệp Nông Nghiệp. Bộ Môn Quản Trị Doanh Nghiệp Nông Nghiệp 2.Tạp chí NN&PTNT Số: 2,11/2001 3.Tạp chí Thương Mại Số: :12/1999 ; 7/2000,14/2000 ; 5,10,11,22/2001 ; 12,25/2002 ; 13,18,36/2003. 4.Tạp chí Ngoại Thương Số: 15,16/2001 ;. 3+4/2003. 5.Tạp chí Kinh Tế Phát Triển Số: 42/2000 6.Tạp chí Thị Trường Giá Cả Số: 3/2001 7.Tạp chí Con Số Sự Kiện Số: 3/2002 8. Tạp chí Thông Tin Thị Trường Tài chính. Số: 20/1999. 9. Tạp chí Hoạt Động Khoa Học. Số: 7/1999. 10. Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo. Số: 1/2001. 11. Tạp chí Kinh Tế CATBD. Số: 3/2001 12. Tạp chí NN&CNTP. NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A Số: 3/2000 MỤC LỤC PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................... 1 PHẦN II: NỘI DUNG .................................................................................. 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA XUẤT KHẨU CHÈ ..........................2 I. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN ......................2 1. Sự ra đời của ngành chè ................................................................. 2 2. Vị trí của xuất khẩu chè .................................................................. 3 3. Vai trò của xuất khẩu chè ............................................................... 5 II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ ..................................6 1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè ....................................... 6 2. Chất lượng chè ................................................................................ 8 3. Chính sách của nhà nước .............................................................. 10 4. Hệ thống tài chính của nhà nước .................................................. 11 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM .......................13 I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM ....................................................13 1. Phân tích kết quả tổng quát về xuất khẩu chè .............................. 13 2. Phân tích kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩm ......... 15 3. Phân tích kết quả xuất khẩu chè theo thị trường tiêu thụ ............. 18 II. ĐÁNH GIÁ CHUNG ....................................................................................................19. 1. Những mặt tích cực ...................................................................... 19 2. Những mặt còn hạn chế ................................................................ 20 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ...............................................................24 I. PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI ..... 54 1.Về sản xuất chè .............................................................................. 24 2.Về công nghiệp chế biến chè ......................................................... 25 3. Về xuất khẩu chè...........................................................................25 4. Về lao động...................................................................................25 NGUYỄN THU THUỶ - NN 42A II. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI ..........................................................................................25 1. Quy hoạch lại các vùng trồng chè, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm ................................................................................. 25 2. Mở rộng thị trường tiêu thụ .......................................................... 29 3. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với người trồng chè. .................................................................................................... 30 4. Cải thiện hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu ................. 30 PHẦN III: KẾT LUẬN .............................................................................. 32 Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfda050_1386.pdf