1. Tính cấp thiết của luận văn
Thị trường TPCP là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính. Nó có chức năng thu hút, di chuyển các nguồn vốn từ nơi có khả năng sinh lợi thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn và từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn; đáp ứng các yêu cầu về vốn để phát triển kinh tế và là công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua hàng chục năm hình thành và phát triển, thị trường TPCP ở Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong việc huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển; ổn định nền tài chính quốc gia; kiểm soát được lạm phát; thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường tài chính. Với sự có mặt của TTCK nói chung và thị trường TPCP nói riêng, đã góp phần khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính, tạo cơ hội cho việc luân chuyển vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu về vốn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở Việt Nam, để thực hiện thành công mục tiêu nâng thu nhập quốc dân năm 2010 tăng gấp đôi năm 2000; duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 7%- 8%; phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá và đẩy nhanh tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đầu tư một lượng vốn khá lớn để phát triển kinh tế - xã hội. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, trong giai đoạn 2001-2010 tổng nhu cầu vốn đầu tư của toàn xã hội khoảng 155-165 tỷ USD (trong đó vốn trong nước chiếm khoảng 65%). Trước mắt giai đoạn 2006-2010 nhu cầu vay trong nước thông qua thị trường TPCP ước tính khoảng 100.190 tỷ đồng. Huy động vốn thông qua thị trường TPCP thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan, là kênh huy động vốn quan trọng cho NSNN và cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường TPCP ở Việt Nam còn bộc lộ không ít nhược điểm, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng của nền kinh tế; thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Để khai thác có hiệu quả các nguồn vốn thông qua thị trường TPCP, đáp ứng nhu cầu về vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, đòi hỏi thị trường TPCP phải ngày càng được củng cố, phát triển và hoàn thiện hơn nữa.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài luận văn: “Thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trình bầy lý luận cơ bản, tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ; làm sáng tỏ sự tồn tại tất yếu khách quan, chức năng và vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế. Tham khảo kinh nghiệm thị trường TPCP của một số nước phát triển trên thế giới, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động thị trường TPCP của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 - 2005; đánh giá những kết quả đã đạt được, những điểm hạn chế, tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của thị trường TPCP ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, nêu ra quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp, lộ trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thị trường TPCP ở Việt Nam, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào trái phiếu Chính phủ và thị trường TPCP, tham khảo kinh nghiệm phát triển thị trường TPCP của một số quốc gia trên thế giới; thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã áp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, lịch sử, phát triển, so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Các phương pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5. Những đóng góp của luận văn
- Trên phương diện lý luận: Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận cơ bản về trái phiếu Chính phủ và thị trường TPCP. Phân tích và đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam.
- Trên phương diện thực tiễn: Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục các bảng và đồ thị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ
Chương 2 : Thực trạng thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam
Chương 3 : Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Thị trường trái phiếu Chính phủ là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính quốc gia. Việc hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ là một đòi hỏi cấp bách và mang tính tất yếu khách quan; nó có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của thị trường tài chính - nơi huy động vốn cho nhu cầu phát triển của bất cứ quốc gia nào. Hiện nay các nước có nền kinh tế thị trường đều chú trọng việc phát triển thị trường TPCP. Kể từ khi TTCK của Việt Nam mở cửa hoạt động đã từng bước tạo điều kiện cho thị trường TPCP phát triển. Huy động vốn qua thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian qua không những đã đáp ứng được yêu cầu về vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, mà còn là công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình thực thi các chính sách vĩ mô. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường TPCP vẫn còn một số tồn tại nhất định cả ở thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Để phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam, phải có những giải pháp cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Là một người đang công tác trong lĩnh vực tài chính có liên quan trực tiếp đến hoạt động phát hành, giao dịch TPCP, tác giả đã chọn đề tài luận văn “Thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” tác giả đã đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành được các mục đích, nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, đã hệ thống hoá và trình bầy tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường TPCP; chức năng, vai trò và sự tồn tại tất yếu khách quan của thị trường TPCP trong nền kinh tế, nghiên cứu kinh nghiệm hình thành và phát triển thị trường TPCP ở một số nước trên thế giới, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
- Thứ hai, trình bầy và đánh giá thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990- 2004, qua đó đã nêu lên được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thị trường TPCP của Việt Nam.
- Thứ ba, trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu về TPCP và thị trường TPCP, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, lộ trình nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới góp phần huy động vốn cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu và đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những giải pháp mà luận văn đề xuất là có tính đồng bộ và khả thi trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam là một lĩnh vực rộng lớn và còn mới mẻ. Do đó, dù cố gắng đến mấy, chắc chắn luận văn vẫn không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Kính mong hội đồng cho ý kiến phê bình góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3876 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m vi toàn xã hội, đồng thời có thể khai thác các nguồn lực, tiềm năng phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
3.1.3. Khối lượng trái phiếu Chính phủ huy động phải nằm trong giới hạn nợ cho phép
Phải xác định rõ tỷ lệ vay cho phù hợp với khả năng của nền kinh tế, trong đó số dư nợ nước ngoài không được vượt quá 50% GDP và không cao hơn 150% kim ngạch xuất khẩu. Vay nợ phải được sử dụng để chi cho đầu tư phát triển, tuyệt đối không sử dụng cho nhu cầu chi tiêu dùng và không để lại gánh nặng nợ cho các thế hệ mai sau. Khi vay nợ dưới hình thức phát hành TPCP thì sẽ làm cho chi tiêu của Chính phủ tăng lên, GNP cũng tăng, vay nợ thông qua phát hành TPCP có tác động mạnh đến cung cầu tiền tệ, lạm phát và lãi suất thị trường vốn. Do vậy, việc xác định được mức độ vay nợ hợp lý là rất qua trọng, nó quyết định đến khối lượng vay nợ và khả năng trả nợ trong tương lai. Chính vì vậy, vay nợ cần phải có giới hạn so với GDP, thông thường giới hạn nợ được xác định như sau:
(3.1)
Trong đó: - N là giới hạn nợ so với GDP
g là tốc độ tăng trưởng kinh tế
z là tỷ lệ bội chi NSNN
r là lãi suất thực
Ngoài ra, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô mà Chính phủ Việt Nam cam kết phấn đấu là duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2010 là 7,5%/ năm, kiểm soát lạm phát ở mức dưới 5% và mức độ thâm hụt NSNN dưới 5% GDP. Chính phủ Việt Nam đã cam kết với IMF và WB duy trì tỷ lệ bội chi NSNN giai đoạn 2001-2005 (theo cách tính của quốc tế) là dưới 3,6% GDP, và lãi suất thực dự tính 2%, như vậy giới hạn nợ Chính phủ (tính theo tiêu chuẩn quốc tế) là 65% GDP. Khi đã xác định được giới hạn nợ Chính phủ cần xác định được tỷ trọng và khối lượng từng loại TPCP phát hành cho phù hợp và hiệu quả nhất.
3.1.4. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước
Quán triệt quan điểm “huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng...”, bên cạnh đó phải đảm bảo an ninh tài chính của quốc gia. Muốn thu hút được đầu tư phải quy hoạch hợp lý các vùng, lãnh thổ; cải tạo, mở rộng nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng có trọng điểm. Trên cơ sở đó xây dựng chiến lược và giải pháp cụ thể để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước, gắn với kế hoạch và tiến độ phát triển dài hạn của nền kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010, nguồn vốn đầu tư từ NSNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, để đáp ứng được yêu cầu này chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu chi NSNN gắn liền với quá trình xã hội hoá công tác đầu tư; cần cải tiến và hoàn thiện chính sách và cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển theo hướng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn tạo điều kiện cho NSNN huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển.
3.1.5. Gắn chặt hiệu quả huy động vốn với sử dụng vốn vay
Hoàn thiện các quy phạm pháp luật trong quá trình quản lý, giám sát việc sử dụng TPCP để huy động vốn. Cần xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng ngành, cấp trong xây dựng kế hoạch phát hành TPCP, thực hiện việc phát hành TPCP và sử dụng nguồn vốn huy động từ TPCP. Gắn chặt việc huy động vốn với sử dụng vốn vay trên cơ sở đầu tư có chọn lọc và đảm bảo khả năng trả nợ. Nguyên tắc huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành TPCP phải đảm bảo tính hiệu quả, có kế hoạch, mục đích và đảm bảo được khả năng trả nợ đúng hạn; để sử dụng hiệu quả nguồn vốn cho đầu tư phát triển cần chú ý những vấn đề sau:
- Thực hiện kế hoạch hoá công tác phát hành TPCP, xác định rõ khối lượng huy động qua từng kênh, đối tượng đầu tư; tuỳ theo từng vùng mà xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, kế hoạch phát triển ngành, vùng kinh tế trọng điểm để từ đó xác định được khối lượng vốn, thời điểm huy động và thời hạn sử dụng vốn một cách hiệu quả.
- Việc sử dụng nguồn vốn TPCP phải tuân thủ theo đúng quy định nguồn vốn vay từ TPCP chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho tiêu dùng; tuân thủ nguyên tắc chỉ phát hành TPCP khi có nhu cầu, giảm chi phí phát hành tới mức tối đa; nguồn vốn TPCP phải được quản lý, sử dụng có hiệu quả và đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn.
- Đảm bảo nguồn vốn trả nợ khi TPCP đến hạn; tránh tình trạng các khoản nợ đến hạn tạo sức ép về gánh nặng trả nợ cho NSNN. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa vay mới và trả nợ cũ. Đổi mới phương thức thu hồi vốn các công trình hoàn thành để tập trung vốn nhanh cho đầu tư phát triển. Đối với những công trình được đầu tư bằng vốn NSNN sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng, phương thức thu hồi chủ yếu vẫn là các khoản thu dưới dạng thuế hoặc lệ phí, việc thu hồi vốn theo phương thức nói trên cũng chỉ thu được một phần vốn của NSNN đã bỏ ra và phải thực hiện trong một thời gian dài, đặc biệt là đối với những công trình thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng; không có tác dụng hỗ trợ đáng kể nguồn vốn để tái đầu tư. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu các giải pháp để huy động nguồn vốn trong nước nên tiến hành cùng với việc đổi mới phương thức khai thác và thu hồi vốn các công trình hoàn thành đã đưa vào sử dụng, nhằm giải phóng nhanh một bộ phận vốn đầu tư của NSNN, bổ sung nguồn vốn tái đầu tư, góp phần tăng nhanh tốc độ chuyển vốn của nền kinh tế, để thực hiện được các giải pháp này cần quan tâm đến các vấn đề sau: Thứ nhất, để thu hồi vốn nhanh đối với các công trình do Nhà nước đầu tư nên tiến hành cho thuê hoặc bán có thời hạn; tuỳ thuộc vào khả năng thu hồi của từng công trình để xác định được thời hạn hoàn vốn, qua đó xây dựng cơ chế cho thuê hoặc bán một cách hợp lý. Thứ hai, lựa chọn các nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính, uy tín, khả năng quản lý, khai thác các công trình trong phạm vi thời gian cho phép; việc lựa chọn các nhà đầu tư có thể theo nguyên tắc đấu thầu hoặc chỉ định phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm công trình và số lượng các nhà đầu tư tham gia. Thứ ba, Nhà nước cần xây dựng một cơ chế quản lý và khai thác công trình, trong đó quy định các vấn đề cụ thể như giá phí sử dụng công trình; thời gian thuê hoặc bán công trình có thời hạn. Thực hiện tốt các vấn đề trên chúng ta có thể tập trung được một nguồn vốn đầu tư đáng kể để đầu tư và tái đầu tư cho các công trình của đất nước ngày càng to lớn và hiện đại.
3.1.6. Huy động vốn phải gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính trong nước và hướng tới hội nhập với thị trường tài chính quốc tế
Thị trường tài chính là nơi thu hút, luân chuyển các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển; việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính mà trọng tâm là thị trường vốn trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khối lượng trái phiếu đưa vào thị trường ngày càng tăng là dấu hiệu tốt để phát triển thị trường vốn và TPCP trở thành hành hóa quan trọng trên thị trường tài chính. Hoạt động của thị trường tài chính dài hạn trong những năm tới phải thực hiện được yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khơi thông được các luồng vốn trong xã hội. Để thị trường tài chính sôi động thì vấn đề cốt yếu là cung cấp cho thị trường những hàng hoá đủ tiêu chuẩn để giao dịch với chủng loại phong phú; bên cạnh đó thủ tục, kỹ thuật phát hành các loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp ngày càng phải được cải tiến và hoàn thiện. Đối với thị trường thứ cấp, phải có chính sách và giải pháp tích cực để mở rộng thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung. Phát triển thị trường TPCP đồng nghĩa với việc thúc đẩy phát triển hệ thống các tổ chức tài chính trung gian; các ngân hàng đầu tư, các công ty chứng khoán ngoài việc tham gia vào thị trường với tư cách là nhà đầu tư, họ còn tham gia bảo lãnh phát hành và thực thi các chức năng của nhà tạo lập thị trường. Như vậy, sẽ làm đa dạng hoá các hoạt động, dịch vụ tài chính trên thị trường.
Trên phương diện quốc tế, phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam cũng góp phần quan trọng trong tiến trình tiếp cận và hội nhập giữa thị trường tài chính của Việt Nam với thị trường tài chính quốc tế. Việc phát hành TPCP ra thị trường quốc tế sẽ giúp Chính phủ có được khối lượng vốn lớn, thời hạn vay nợ dài; ngoài ra, còn nâng cao vị thế và định mức tín nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế, qua đó giúp các doanh nghiệp trong nước có được cơ hội tiếp cận với nguồn vốn bên ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra thị trường quốc tế. Mở cửa và hội nhập thị trường tài chính trong nước với thị trường tài chính quốc tế, sẽ tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính của Việt Nam thông qua việc mua, bán các loại chứng khoán trong đó có TPCP và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Trước mắt, để đảm bảo tiến trình hội nhập thị trường vốn của các nước ASEAN theo tuyên bố chung tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính các nước ASEAN cộng ba được tổ chức tại Malina- Philippines vào tháng 8/2003, Chính phủ Việt Nam cần chủ động phát triển thị trường vốn, trong đó có thị trường TPCP và từng bước đáp ứng được các tiêu chuẩn chung của thị trường vốn trong khu vực và quốc tế.
3.2. NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN QUA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
Trong Nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn 2001 đến 2010 là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Muốn đạt được các mục tiêu chiến lược nói trên, một trong những nhân tố có tính quyết định là phải có vốn để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, trong đó vốn trong nước đóng vai trò chủ đạo, nguồn vốn vay nước ngoài cũng rất quan trọng. Theo quyết sách chỉ đạo của các kỳ đại hội Đảng gần đây cho thấy một trong những tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải tạo ra được nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra cần phải có những giải pháp tích cực để huy động tối đa các nguồn lực tài chính trong nước và ngoài nước đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đưa tổng GDP tăng gấp đôi năm 2000, đạt khoảng 930 nghìn tỷ đồng vào năm 2010. Trong giai đoạn 2001-2010, theo nhận định và đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hệ số ICOR (hệ số giữa tốc độ gia tăng vốn đầu tư với tốc độ gia tăng GDP) của nước ta là 4 - 4,2, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn này vào khoảng 155-165 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 65% (100-105 tỷ USD); nguồn vốn nước ngoài khoảng 35% (55- 60 tỷ USD) tốc độ đầu tư tăng bình quân hàng năm từ 10 - 12% nâng tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 30- 32% GDP. Theo tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, nhu cầu huy động vốn cho các chương trình phát triển kinh tế giai đoạn 2001- 2005 Việt Nam cần khoảng 850 - 980 nghìn tỷ đồng. Nhu cầu đầu tư trên được đáp ứng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quan trọng. Tổng vốn đầu tư xã hội và tỷ trọng vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 như sau:
Tư nhân và dân cư
Vốn huy động khác
Tín dụng NN
DNNN
NSNN
FDI
Nguồn: Bộ Tài chính
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, khả năng thu NSNN giai đoạn 2001-2005 là 21.25% GDP, chi NSNN đạt 26,25% GDP, như vậy bội chi NSNN vào khoảng 5% GDP. Trên thực tế thì nhu cầu huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào mức độ thâm hụt NSNN và nhu cầu đầu tư phát triển trong từng thời kỳ. Theo dự báo của Bộ Tài chính giai đoạn 2006 - 2010 tỷ lệ động viên vào NSNN phấn đấu đạt 21,1% GDP, trong đó chi NSNN là 26,1 % GDP bội chi NSNN khống chế ở mức 5% GDP; theo cách tính này thì nhu cầu vay trong nước là khoảng 4% GDP vay nước ngoài khoảng 1% GDP, như vậy nhu cầu vay trong nước thông qua phát hành TPCP giai đoạn 2006 - 2010 ước tính vào khoảng 100.190 tỷ đồng. Nguồn vốn huy động từ phát hành TPCP sẽ hướng vào hai nhóm đối tượng chủ yếu là các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp; trong năm 2004-2005 chủ yếu phát hành TPCP trung hạn, từ 2006 trở đi khi thị trường chứng khoán tập trung hoạt động ổn định tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, cùng với việc dần hình thành thị trường OTC ở một số thành phố lớn khác, Bộ Tài chính sẽ phát hành nhiều loại TPCP, trong đó TPCP dài hạn sẽ chiếm tỷ trọng cao.
Xuất phát từ khuôn khổ, định hướng phát triển thị trường TPCP, nhu cầu và khả năng huy động vốn để phát triển kinh tế qua thị trường TPCP; ở Việt Nam trong thời gian tới, để phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM
3.3.1. Tạo lập một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là yêu cầu cấp thiết khách quan để phát triển thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng. Khi kinh tế vĩ mô ổn định, thu nhập và tiết kiệm của người dân sẽ tăng lên dẫn đến tăng lượng cầu TPCP. Một quốc gia có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế đều đặn, lãi suất trên thị trường vốn, tỷ giá hối đoái và lạm phát được kiểm soát chặt là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và là điều kiện lý tưởng để huy động vốn thông qua việc phát hành TPCP; phải kiểm soát tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý vì tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm tăng cầu các tài sản như vàng, bất động sản và giảm mức cầu về trái phiếu, nếu lạm phát cao trái phiếu sẽ kém hẫp dẫn đối với nhà đầu tư vì lãi suất thực bị giảm xuống và rủi ro sẽ tăng lên; phải duy trì một mặt bằng lãi suất ổn định vì nếu lãi suất trái phiếu quá cao hoặc quá thấp gây trở ngại cho việc phát triển thị trường trái phiếu, khi lãi suất đầu tư tăng lên thì nhà đầu tư sẽ điều chỉnh các danh mục đầu tư của họ thiên về hướng các tài sản tạo ra mức sinh lợi cao và rủi ro thấp dẫn đến cầu trái phiếu giảm xuống, mặt khác khi lãi suất trái phiếu thấp thì khả năng thu hút các nhà đầu tư sẽ không cao. Ở Việt Nam, để phát triển thị trường TPCP, Nhà nước cần quan tâm ổn định các thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản…đây là những thị trường có quan hệ hữu cơ với nhau, hoạt động với cơ chế bình thông nhau và có tác động không nhỏ đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Để tạo lập một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, cần có chính sách kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước và xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ đảm bảo thống nhất việc quản lý TPCP và thị trường TPCP cụ thể:
- Thứ nhất, xây dựng một hệ thống pháp lý đồng bộ, hữu hiệu, phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế, đủ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho NSNN trong việc huy động vốn và cho các tổ chức tài chính trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh chứng khoán. TPCP phải trở thành công cụ hàng đầu để quản lý nợ của Nhà nước, điều tiết các nguồn tài chính thúc đẩy hoạt động có hiệu quả của thị trường tiền tệ, thị thị trường chứng khoán.
- Thứ hai, phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế phải có nghĩa vụ với Nhà nước và được đối xử bình đẳng. Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác giữ vai trò quan trọng. Cải tiến cơ chế cấp phát tài chính bằng cách hạn chế, tiến tới loại bỏ sự bao cấp, hỗ trợ về vốn dưới mọi hình thức đối với các doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các tổng công ty lớn; ngoài việc cấp phát trực tiếp một phần, phần còn lại nên thông qua hình thức phát hành trái phiếu đầu tư có lãi suất hợp lý để các chủ đầu tư tính toán sử dụng vốn tiết kiệm và hoàn trả lợi nhuận khi công trình hoàn thành đưa vào khai thác. Quan tâm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế cùng phát triển; khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế, tiếp tục cải cách, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp. Quán triệt quan điểm phát triển bền vững trên các lĩnh vực của nền kinh tế, hạn chế thấp nhất những biến đổi bất lợi trong quá trình phát triển kinh tế.
- Thứ ba, duy trì và thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ một cách hiệu quả. Nhà nước cần có những can thiệp kịp thời và phù hợp với những thay đổi thường xuyên của nền kinh tế; phát triển nền kinh tế đi theo đúng định hướng qua đó góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội, kiểm soát được lạm phát.
- Thứ tư, quán triệt quan điểm cải cách hành chính Nhà nước, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của nền kinh tế. Xác định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các Bộ, Ngành, các cấp chính quyền từ TW đến địa phương. Đào tạo mới, hoàn thiện và nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ Lãnh đạo và cán bộ làm công tác quản lý.
3.3.2. Đa dạng và tiêu chuẩn hoá trái phiếu Chính phủ
3.3.2.1. Đa dạng hoá trái phiếu Chính phủ
Tăng cường phát hành các loại trái phiếu trung hạn và dài hạn, đa dạng hoá các loại kỳ hạn sẽ làm tăng khả năng huy động vốn và tiến tới là việc xây dựng một đường cong lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ khác tham chiếu. Việc đa dạng hoá kỳ hạn TPCP phải căn cứ trên nhu cầu về vốn và khả năng huy động vốn trong xã hội; tuỳ theo mục đích, thời hạn sử dụng vốn để đầu tư mà phát hành TPCP có kỳ hạn phù hợp với vòng đời của dự án và công trình. Ở Việt Nam, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là khá lớn, thời hạn vay vốn đầu tư thường dài; do vậy, trước mắt giai đoạn 2005-2010 cần tập trung phát hành các loại TPCP có kỳ hạn từ 3 năm - 10 năm, và trên 10 năm đồng thời phát hành TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau tạo nguồn hàng hoá để thu hút các nhà đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng cũng như tạo lợi thế để thị trường luôn tồn tại mức lãi suất chuẩn.
Khuyến khích phát hành trái phiếu chính quyền địa phương (trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình địa phương) thay việc cấp phát nguồn vốn NSNN cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương, Chính phủ nên khuyến khích các địa phương có đủ điều kiện chủ động phát hành trái phiếu đô thị để huy động vốn. Chính quyền địa phương quyết định lãi suất trái phiếu đô thị căn cứ vào hiệu quả đầu tư và thường có mức khuyến khích nhất định nên mức lãi suất trái phiếu này trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư; ngoài ra việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương góp phần đa dạng hoá các loại trái phiếu trên thị trường.
TPCP có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có mục đích sử dụng riêng; ngoài việc phát hành tín phiếu kho bạc để huy động vốn cho NSNN và để làm công cụ của thị trường mở, đa dạng hoá các loại TPCP để huy động vốn cho đầu tư phát triển cần tập trung vào các trái phiếu kho bạc trung hạn, trái phiếu công trình đồng thời cần quan tâm phát triển các loại trái phiếu huy động vốn cho các chương trình mục tiêu quan trọng của đất nước. Bên cạnh việc phát hành TPCP ở thị trường trong nước, cần chuẩn bị xúc tiến việc phát hành TPCP ra thị trường quốc tế;phát hành TPCP ra thị trường quốc tế có những thuận lợi là vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng cao rõ dệt, lãi suất thị trường vốn đang ở mức thích hợp. Mặc dù, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế định mức tín nhiệm của Việt Nam hiện nay ở mức BB là chưa đạt điểm đầu tư; do vậy, trong thời gian tới cần nâng cao định mức tín nhiệm quốc gia đạt mức quy định chung, qua đó có đủ điều kiện để đưa TPCP ra giao dịch trên thị trường quốc tế.
3.3.2.2. Tiêu chuẩn hoá trái phiếu Chính phủ
Để trái phiếu Chính phủ được giao dịch thuận lợi, đảm bảo cho thị trường thứ cấp hoạt động có hiệu quả, trái phiếu Chính phủ cần được tiêu chuẩn hoá, đáp ứng các điều kiện cơ bản sau:
- Thứ nhất, trái phiếu cần được phát hành theo từng đợt riêng biệt với khối lượng đủ lớn (khoảng 100 tỷ đồng/đợt trở lên).
- Thứ hai, trái phiếu của một đợt phát hành phải thống nhất ngày phát hành, ngày thanh toán và cùng một mức lãi suất để tạo ra chuẩn mực cho thị trường khi thực hiện các nghiệp vụ mua bán, chiết khấu trái phiếu Chính phủ.
- Thứ ba, trái phiếu phải được phát hành dưới hình thức ghi sổ hoặc chứng chỉ không ghi tên để việc chuyển nhượng quyền sở hữu được dễ dàng; để giảm chi phí phát hành cần khuyến khích phát hành TPCP dưới hình thức ghi sổ.
- Thứ tư, có lịch biểu phát hành trái phiếu cụ thể (theo tháng, quý, hoặc từng đợt phát hành) để thông báo trước cho các nhà đầu tư chủ động tham gia thị trường. Dựa trên nhu cầu vốn của Chính phủ, Bộ Tài chính thông báo kế hoạch phát hành các khoản nợ dài hạn hàng năm và thực hiện phát hành đều đặn các công cụ nợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Các đợt phát hành phải tương đối thường xuyên, đều đặn nhằm cung cấp hàng hoá và chuẩn mực lãi suất cho thị trường.
- Thứ năm, lãi suất trái phiếu Chính phủ phải phải xác định hợp lý. Về lý thuyết, khi đã xây dựng được một đường cong lãi suất, thì lãi suất TPCP được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường; thực chất việc xác định lãi suất phát hành đồng nghĩa với việc xác định giá của trái phiếu. Ở Việt Nam nên xác định lãi suất trái phiếu theo hướng sau:
+ Bỏ cơ chế lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu tín phiếu kho bạc qua Sở giao dịch NHNN; bởi vì, lãi suất ở đây được hình thành theo kết quả đấu thầu, do quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường quyết định.
+ Ứng với mỗi loại kỳ hạn có một mức lãi suất khác nhau, nhưng cần đảm bảo nguyên tắc trái phiếu dài hạn có lãi suất cao hơn trái phiếu ngắn hạn. Trái phiếu có cùng kỳ hạn thì trái phiếu bán lẻ có lãi suất cao hơn trái phiếu bán buôn, mức chênh lệch này là phí phân phối trái phiếu trên thị trường phát hành lần đầu.
+ Nghiên cứu áp dụng cơ chế lãi suất thả nổi và có quy định linh hoạt trong cơ chế thanh toán như lãi trả trước, lãi nhập gốc đối với phát hành theo phương thức đấu thầu qua TTGDCK, qua NHNN để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu.
+ Trong xây dựng chính sách lãi suất cần chú ý đảm bảo nguyên tắc trái phiếu kho bạc có lãi suất thấp hơn trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành bởi lẽ giữa các loại trái phiếu này có mức độ rủi ro khác nhau.
3.3.3. Củng cố, phát triển và hoàn thiện thị trường sơ cấp
3.3.3.1. Đối với hình thức đại lý phát hành
Dành ưu tiên phát hành các loại TPCP trung hạn và dài hạn huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm. Hạn chế việc phát hành trái phiếu để bù đắp thiếu hụt NSNN; tiếp tục cải tiến phương thức bán lẻ trái phiếu kho bạc đảm bảo trái phiếu phát hành cùng một đợt có cùng ngày phát hành, cùng thời gian đáo hạn để được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Cải tiến quy trình phát hành, thanh toán trái phiếu đảm bảo thuận tiện cho các nhà đầu tư trong việc thực hiện các quyền liên quan như chi trả lãi, thanh toán gốc khi đáo hạn, mua bán, chuyển nhượng, cầm cố trái phiếu. Tiếp tục mở rộng địa bàn bán trái phiếu chiết khấu tại các trung tâm kinh tế lớn.
3.3.3.2. Đối với hình thức đấu thầu
- Thứ nhất, tín phiếu kho bạc đấu thầu qua Sở giao dịch NHNN: Để đáp ứng yêu cầu huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN và tăng khối lượng giao dịch trên thị trường tiền tệ, trước mắt tăng tần suất đấu thầu lên 2 phiên/tuần với các kỳ hạn khác nhau, tạo điều kiện cho các thành viên có tiềm lực vốn thuộc loại vừa và nhỏ đều có thể cùng tham gia. Nếu cần thiết có thể tổ chức thành hai sân chơi riêng căn cứ vào tiềm lực vốn của các thành viên qua đó hạn chế yếu tố lợi thế về vốn trong cạnh tranh. Bộ Tài chính cần đưa ra lịch trình đấu thầu theo kế hoạch huy động vốn để xây dựng được đường cong lợi tức và đảm bảo là không tập trung phát hành các loại trái phiếu vào cùng một thời điểm. Kết hợp phương thức đấu thầu Hà Lan và đấu thầu kiểu Mỹ; trước mắt vẫn tiếp tục áp dụng phương thức đấu thầu kiểu Hà Lan, khi thị trường phát triển có thể áp dụng đấu thầu theo kiểu Mỹ để tăng khả năng cạnh tranh. Mở rộng đối tượng tham gia đấu thầu TPCP, theo đó là mức vốn cần thiết để các nhà đầu tư cá nhân có thể tham gia đặt thầu trực tiếp; đối với tín phiếu kho bạc áp dụng cơ chế đấu thầu 1 cấp với các thành viên là các định chế tài chính trung gian.
- Thứ hai, trái phiếu Chính phủ đấu thầu qua TTGDCK, xuất phát từ đặc điểm -là độ tín nhiệm và nhu cầu vốn của các thành viên là khác nhau, vì vậy cần tổ chức các phiên đấu thầu riêng biệt với các điều kiện và điều khoản (đơn đặt hàng) khác nhau. Tuỳ theo tình hình của thị trường, nhu cầu vốn của nhà phát hành mà có thể thay đổi hình thức đấu thầu hoặc là cạnh tranh về lãi suất nhưng phải mua trái phiếu theo mệnh giá; hoặc là chấp nhận mức lãi suất thanh toán cố định của nhà phát hành (lãi suất Coupon) nhưng được mua trái phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá.
Triển khai phương thức đấu thầu trái phiếu theo lãi suất điều chỉnh khi điều kiện cho phép; điểm khác biệt của phương thức đấu thầu này là cơ chế xác định lãi suất và giá bán trái phiếu rất linh hoạt. Bộ Tài chính sẽ công bố trước lãi suất định kỳ (lãi suất coupon). Thông qua đấu thầu sẽ hình thành lãi suất thực tế trúng thầu, có thể cao hoặc thấp hơn lãi suất Coupon của Bộ Tài chính, tuỳ theo tình hình cung cầu vốn trên thị trường. Chênh lệch giữa lãi suất thực tế và lãi suất coupon dẫn đến sự tăng giảm giá bán trái phiếu, cụ thể:
+ Nếu cung vốn lớn hơn cầu vốn, lãi suất trúng thầu sẽ thấp hơn lãi suất coupon; để bớt thiệt hại cho NSNN vì phải thanh toán lãi suất cao hơn lãi suất trúng thầu thực tế, các đơn vị trúng thầu phải thanh toán tiền mua trái phiếu cao hơn mệnh giá.
+ Nếu cung vốn nhỏ hơn cầu vốn, lãi suất trúng thầu sẽ cao hơn lãi suất coupon; để người sở hữu trái phiếu đỡ bị thiệt hại vì được thanh toán lãi suất thấp hơn lãi suất trúng thầu thực tế, các đơn vị trúng thầu sẽ được thanh toán tiền mua trái phiếu thấp hơn mệnh giá.
Như vậy, lãi suất trúng thầu có thể cao hoặc thấp hơn lãi suất coupon, nhưng Bộ Tài chính vẫn thanh toán theo lãi suất coupon; còn giá bán trái phiếu thì có thể thấp hoặc cao hơn mệnh giá. Việc áp dụng phương thức này có ưu điểm là lãi suất trúng thầu phản ảnh sát tình hình thị trường. Các nhà đầu tư không phải chịu sức ép về việc áp đặt lãi suất trần của Bộ Tài chính, đảm bảo bình đẳng quyền lợi kinh tế giữa người đi vay và người cho vay; hạn chế tình trạng có đơn vị đặt thầu nhưng kết quả đấu thầu thấp hoặc không có đơn vị trúng thầu, ảnh hưởng đến kế hoạch huy động vốn. Để phương thức này có hiệu quả đòi hỏi phải có nhiều thành viên thường xuyên tham gia đấu thầu, kết quả trúng thầu lúc đó mới phản ảnh đúng lãi suất thị trường thông qua cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công khai.
3.3.3.3. Đối với hình thức bảo lãnh phát hành
Trong các phiên bảo lãnh phát hành các nhà đầu tư và chủ thể phát hành được đàm phán, thoả thuận công khai về các điều khoản của trái phiếu. Vấn đề cần quan tâm hiện nay chính là phải mở rộng các nhà đầu tư thuộc hiệp hội bảo lãnh phát hành trái phiếu ở thị trường thứ cấp. Ngoài ra khuôn khổ pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức bảo lãnh trong việc phân phối trái phiếu ra công chúng. Xác định rõ điều kiện để các định chế tài chính được tham gia bảo lãnh phát hành TPCP. Đối với Việt Nam, do các công ty chứng khoán đều mới được thành lập, quy mô vốn còn nhỏ; do đó, tổ chức bảo lãnh phát hành TPCP nên tập trung vào các NHTM, bởi vì chỉ có các NHTM mới đáp ứng đủ các yêu cầu về vốn và công nghệ. Cần xây dựng cơ chế ràng buộc với các tổ chức bảo lãnh chào bán trái phiếu ra công chúng, quy định rõ tỷ lệ nắm giữ trái phiếu đối với các tổ chức bảo lãnh phát hành nhằm hạn chế tình trạng găm giữ TPCP. Áp dụng hình thức thích hợp để lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành TPCP cụ thể: Đấu thầu để chọn nhà bảo lãnh, nhà bảo lãnh nào đưa ra giá cao nhất thì được chọn, lựa chọn nhà bảo lãnh phát hành căn cứ vào uy tín và khả năng phân phối trái phiếu ra công chúng. Bộ Tài chính phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc định giá trái phiếu và mức chi phí cho việc phân phối trái phiếu ra công chúng
+ Ngoài ra, cần đa dạng hoá thị trường phát hành TPCP bên cạnh việc phát hành TPCP ở thị trường trong nước cần phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Theo đánh giá của Moody’s và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm OECD thì định mức tín nhiệm của Việt Nam hiện nay ở mức BB, song để phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế đạt kết quả tốt vấn đề cơ bản và lâu dài đối với Việt Nam là phải tiếp tục nâng cao định mức tín nhiệm lên. Phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế là một hình thức vay thương mại của Chính phủ Việt Nam, để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả và đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn cần phải xác định rõ mục đích, đối tượng sử dụng vốn vay. Ngoài ra, nếu nguồn vốn ODA phần nào đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong nước, thì việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế cũng cần phải có giới hạn, ODA là vốn tài trợ và vay ưu đãi còn phát hành TPCP ra thị trường quốc tế là một hình thức vay thương mại nó phải tuân thủ theo các điều kiện tín dụng trong môi trường cạnh tranh cao.
3.3.4. Củng cố, phát triển và hoàn thiện thị trường thứ cấp
Để huy động vốn cho đầu tư có hiệu quả, khơi thông được các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, luân chuyển các luồng vốn từ nơi có khả năng sinh lợi thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn; TPCP phải được giao dịch trên một thị trường có tổ chức và thực sự thanh khoản. Hoạt động của thị trường thứ cấp có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn trên thị trường sơ cấp, từ thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam đã trình bầy trong chương II, chúng ta nhận thấy tính thanh khoản thấp của TPCP là trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường TPCP. Thị trường sơ cấp chỉ có thể phát triển được nếu thị trường thứ cấp hoạt động trôi chảy, sôi động và tạo ra tính thanh khoản cho trái phiếu. Để có cú “Huých” đối với thị trường thứ cấp TPCP cần quan tâm đến các vấn đề sau:
- Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần nghiên cứu triển khai thị trường phi tập trung (OTC), xây dựng khuôn khổ pháp lý và cơ chế hoạt động cho thị trường này, TPCP đáp ứng đủ các yêu cầu kỹ thuật ngoài việc được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK còn được giao dịch trên thị trường OTC, giá cả và khối lượng của các món giao dịch đều được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa các tổ chức kinh doanh trái phiếu. Đối với các loại TPCP chưa đáp ứng được các điều kiện để được niêm yết giao dịch trên TTGDCK sẽ được giao dịch trên thị trường phi tập trung, ở đây TPCP được mua bán trực tiếp giữa các Công ty Chứng khoán, nhà đầu tư và chủ sở hữu trái phiếu. Như vậy việc thành lập các công ty chứng khoán và thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) trở thành một yêu cầu bức xúc hiện nay. Đa dạng hoá các loại TPCP được giao dịch trên thị trường mở và được phép cầm cố và chiết khấu trong việc cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các NHTM. Có cơ chế để các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm được sử dụng vốn linh hoạt trong việc đầu tư chứng khoán; bên cạnh đó phải có chính sách ưu đãi nhất định đối với các nhà tạo lập thị trường thông qua chính sách thuế.
- Thứ hai, xúc tiến việc thành lập các công ty chứng khoán, các tổ chức chuyên môn hoá nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, kinh doanh chứng khoán… đây chính là các tác nhân quan trọng trong quá trình kết nối cung và cầu chứng khoán, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phân phối và lưu thông chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Theo kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, muốn phát triển mạnh mẽ thị trường TPCP, điều đặc biệt quan trọng là phải phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, bao gồm các công ty Chứng khoán, NHTM, công ty Bảo hiểm, Quỹ đầu tư… đối với các nhà đầu tư cá nhân, việc mua TPCP nhằm mục đích chủ yếu là hưởng lãi suất ổn định, nhu cầu mua đi, bán lại không đáng kể. Đối với các nhà đầu tư có tổ chức việc mua bán trái phiếu còn có mục đích tăng khối lượng quản lý tài chính hoặc tài sản trong danh mục đầu tư được tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán, được hưởng các quyền lợi từ Bộ Tài chính và NHNN. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, tiềm lực vốn của các nhà đầu tư nói chung còn nhỏ bé, vì vậy cần có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo cho họ một sân chơi bình đẳng phù hợp với thông lệ quốc tế và chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Cần nhanh chóng thành lập hiệp hội chứng khoán và sớm ban hành cơ chế quản lý, giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán, khuyến khích mở rộng quan hệ hợp tác, phối hợp hoạt động, cung cấp thông tin, đảm bảo kinh doanh trung thực, lành mạnh.
- Thứ ba, cải tiến hoàn thiện cơ chế giao dịch TPCP trên thị trường thứ cấp, đây là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm tạo điều kiện cho TPCP được giao dịch thông thoáng và tăng dần độ hẫp dẫn trên thị trường thứ cấp. Trong điều kiện hiện nay, khi thị trường chứng khoán chưa phát triển, ngoài quy định hiện hành tại Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán để mở rộng phạm vi giao dịch và tăng tính thanh khoản của TPCP, cần chú ý giải quyết một số vấn đề sau:
+ Tăng khối lượng phát hành các loại TPCP đủ tiêu chuẩn niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán, TPCP muốn niêm yết được và giao dịch thuận lợi phải đảm bảo 3 điều kiện (trái phiếu không được ghi tên; khối lượng phát hành lớn và trái phiếu có mệnh giá nhỏ để dễ thực hiện việc mua bán, giao dịch theo lô; chỉ được lưu ký trái phiếu trung hạn và dài hạn), mọi TPCP đáp ứng đủ các điều kiện trên, đều được đăng ký niêm yết, giao dịch tại TTGDCK.
+ Thực hiện các thoả thuận mua lại (REPO) đối với các TPCP trung hạn và dài hạn. Trong trường hợp cần thiết, người mua và người bán có thể thoả thuận mua bán lại trái phiếu, theo đó nhà phát hành đồng ý mua lại số trái phiếu đã qua giao dịch với mức giá đã được thoả thuận trước. REPO được phổ biến rộng rãi trên các thị trường vốn phát triển, mục đích là tạo ra tính thanh khoản cao cho TPCP, thông qua đó các nhà đầu tư sử dụng linh hoạt các nguồn vốn ngắn hạn, góp phần ổn định và phát triển thị trường TPCP. Về cơ chế thanh toán bù trừ và lưu ký TPCP, nhằm tạo điều kiện cho công tác huy động vốn cũng như các hoạt động giao dịch trên thị trường thứ cấp được thuận tiện và nhanh tróng, cần thành lập công ty lưu ký và thanh toán bù trừ độc lập, trên cơ sở tách nghiệp vụ lưu ký và thanh toán bù trừ ra khỏi TTGDCK.
- Thứ tư, hoàn chỉnh hoặc ban hành mới quy phạm pháp luật đối với giao dịch TPCP trên thị trường thứ cấp. Cho phép mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền mua trái phiếu Chính phủ; tháo gỡ quy định khống chế tỷ lệ mua trái phiếu của người đầu tư nước ngoài, cho phép trái phiếu Chính phủ (kể cả TP ngắn hạn và TP dài hạn) được sử dụng để chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước, vừa qua Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó có điều chỉnh quy định nói trên. Tuy nhiên để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp lý, cần tiếp tục sửa đổi Luật Các Tổ chức Tín dụng cho phép các tổ chức tín dụng được sử dụng trái phiếu Chính phủ để chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước.
Miễn giảm, ưu đãi thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán; hiện nay chỉ có các đối tượng là cá nhân mới được miễn thuế thu nhập đối với các khoản lãi trái phiếu Chính phủ. Để phát triển thị trường thứ cấp trong giai đoạn còn sơ khai, Nhà nước cần áp dụng chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập cho mọi đối tượng đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, kể cả nhà đầu tư tư nhân và các nhà đầu tư có tổ chức. Việc miễn thuế phải được thực hiện đến khi thị trường tương đối phát triển.
Miễn giảm phí giao dịch, lưu ký chứng khoán qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Mức thu phí với các giao dịch mua bán trái phiếu qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán theo quy định hiện nay 0,075% là quá cao. Trong giai đoạn 2003 - 2005, Chính phủ nên có chính sách miễn các khoản phí giao dịch trên thị trường thứ cấp. Sau giai đoạn này, nếu có thu phí thì cần nghiên cứu mức thu cho phù hợp mới có thể khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường.
3.3.5. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cho thị trường trái phiếu Chính phủ
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong thời đại hiện nay, việc ứng dụng thành tựu của công nghệ tin học vào công tác quản lý trái phiếu Chính phủ là cần thiết và sẽ đạt hiệu quả rất lớn. Công nghệ tin học giúp cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác phục vụ công tác quản lý, đồng thời cung cấp dịch vụ thuận tiện cho người đầu tư. Để áp dụng công nghệ tin học nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
- Xây dựng chương trình quản lý nợ Chính phủ, trong đó có một phần phục vụ công tác quản lý trái phiếu Chính phủ của Bộ Tài chính (Kho bạc Nhà nước) nhằm cung cấp thông tin quản lý về tình hình thị trường trái phiếu Chính phủ, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trái phiếu trên diện rộng, đặc biệt là trái phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
- Ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến vào công tác quản lý hoạt động giao dịch trái phiếu, rút ngắn thời gian của các món giao dịch, tiết kiệm chi phí và hạn chế các sai sót có thể xẩy ra. Việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian tài chính kết nối trực tiếp với Sở GDCK, TTGDCK tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thanh toán chuyển giao trái phiếu và thanh toán chuyển tiền, kết nối với Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ nhằm thực hiện các quyền đối với chủ sở hữu trái phiếu như thanh toán gốc, lãi, cầm cố và chiết khấu trái phiếu trong các quan hệ tín dụng. Xây dựng hệ thống mạng vi tính để phục vụ cho giao dịch mua bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường OTC; cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà đầu tư và nhà phát hành về tình hình thị trường trong và ngoài nước; sự biến động của nền kinh tế và các nhân tố khác có ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu Chính phủ.
3.3.6. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Để thị trường TPCP hoạt động có hiệu quả, trước hết cần có một hệ thống khuôn khổ pháp lý chuẩn, làm hành lang pháp lý cho các hoạt động trên thị trường này; việc xây dựng chính sách, hoạch định các khuôn khổ pháp lý đều do các cán bộ công tác trong lĩnh vực này xây dựng. Nếu có một đội ngũ những nhà hoạch định chính sách giỏi về chuyên môn và am hiểu về lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì rất thuận lợi trong việc xây dựng cơ chế cho hoạt động của thị trường TPCP; do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này có ý nghĩa quan trọng. Do đặc điểm riêng của thị trường TPCP ở Việt Nam mới được hình thành và đi vào hoạt động; do vậy, cần kết hợp mô hình đào tạo tại chỗ với việc cử nguời đi học tập kinh nghiệm tại các nước có TTCK phát triển.
- Thứ nhất, đào tạo trong nước: Gửi cán bộ tham gia các khoá học ngắn hạn tại các Học viện, Trường đại học hoặc các lớp bồi dưỡng kiến thức do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đứng ra tổ chức nhằm bổ sung những kiến thức cơ bản về các lĩnh vực liên quan nghiệp vụ thị trường vốn.
Tổ chức các hội thảo về thị trường tài chính.
Áp dụng mô hình đào tạo từ xa thông qua mạng Internet.
Đào tạo bằng việc cung cấp nội dung bài giảng dưới các hình thức: sách, băng, đĩa... để cán bộ tự nghiên cứu nâng cao trình độ.
- Thứ hai, đào tạo ngoài nước: Nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, ngoài ra còn mang ý nghĩa khuyến khích động viên cán bộ, giúp cán bộ mở mang tầm nhìn, tiếp xúc và cập nhật những kiến thức, công nghệ chứng khoán của các nước có thị trường chứng khoán phát triển, dưới các hình thức sau:
Tham gia các hội thảo chuyên sâu về nghiệp vụ thị trường vốn ở nước ngoài
Tham gia các khoá học chuyên ngành do các Chính phủ, tổ chức quốc tế mở và tài trợ kinh phí học tập.
Khảo sát thị trường vốn một số nước tiên tiến và một số nước có xuất phát điểm gần giống Việt Nam, trên cơ sở đó, rút ra các bài học kinh nghiệm và tìm bước đi phù hợp nhất đối với sự phát triển thị trường vốn, trong đó có thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam.
Cử người đi học tập ở các nước có TTCK phát triển bằng nguồn vốn đào tạo của NSNN.
3.3.7. Đổi mới công tác kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ
Phát hành TPCP theo một lịch trình đã được công bố trước; lập chương trình kế hoạch phát hành TPCP đối với các loại kỳ hạn chủ yếu 1,2,3,5,7, và 10 năm; với kế hoạch được công bố này, các nhà đầu tư luôn có hàng hoá trên thị trường để đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng của mình và thị trường cũng luôn tồn tại mức lãi suất chuẩn để các công cụ đầu tư khác sử dụng tham chiếu. Dựa trên nhu cầu vốn của Chính phủ, Bộ Tài chính thông báo kế hoạch phát hành các khoản nợ dài hạn hàng năm và thực hiện phát hành đều đặn các công cụ nợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Về cơ chế phát hành, tiếp tục cải tiến, hoàn thiện các phương thức phát hành hướng tới nhà đầu tư công chúng, giảm bớt sự găm giữ trái phiếu của các công ty chứng khoán, NHTM, thu hút rộng rãi hơn nữa các nhà đầu tư trên TTCK. Kế hoạch huy động vốn được xây dựng theo từng chủ thể phát hành, bao gồm các bộ phận:
- Kế hoạch huy động vốn theo từng loại kỳ hạn.
- Kế hoạch huy động vốn theo thời gian: Bao gồm kế hoạch ngắn hạn (dưới 1 năm); kế hoạch trung hạn từ 2-5 năm; kế hoạch dài hạn từ 10 năm trở lên.
- Kế hoạch huy động vốn theo phương thức phát hành: Bao gồm kế hoạch huy động vốn trực tiếp qua hệ thống KBNN và huy động vốn dưới hình thức đấu thầu qua NHNN, TTGDCK và đại lý bảo lãnh phát hành.
3.3.8. Tăng cường tuyên truyền về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ
Bên cạnh việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cần chú trọng công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức ra công chúng, thông qua đó các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các nhà đầu tư tư nhân hiểu rõ hơn về TPCP, các quy trình liên quan đến mua, bán, chuyển nhượng, niêm yết, xác định giá trái phiếu giao dịch trên thị trường thứ cấp…. và các quyền lợi họ sẽ nhận được khi tham gia đầu tư vào TPCP. Thông qua tuyên truyền phổ biến kiến thức tạo điều kiện cho công chúng hiểu biết sâu hơn về chứng khoán, giúp họ có thể dễ dàng xác định và phân biệt được các loại lãi suất như: Lãi suất thực, lãi suất hiện hành, lãi suất đáo hạn làm căn cứ để so sánh đối chiếu với các công cụ đầu tư khác. Bên cạnh đó, cần cải thiện tình hình cung cấp thông tin để công chúng đâu tư được thấy rõ mục đích huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn cách thức trả nợ gốc và lãi để có được sự tin tưởng cao hơn vào TPCP, tạo nên tính hẫp dẫn của TPCP đối với công chúng đầu tư. Nếu làm tốt công tác tuyên truyền thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán, các tầng lớp trong xã hội tham gia vào thị trường TPCP, góp phần làm sôi động thị trường, khơi thông được các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, di chuyển vốn từ nơi có khả năng sinh lợi thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn, qua đó mà huy động được nguồn lực tài chính của xã hội để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước.
3.3.9. Tăng cường hợp tác quốc tế
Thị trường TPCP ở Việt Nam mới đi vào hoạt động được hơn 10 năm. So với thị trường TPCP của các nước trong khu vực và trên thế giới thì khoảng thời gian này là quá ngắn để có thể xây dựng được một thị trường trái phiếu phát triển. Mặt khác, thị trường chứng khoán nói chung và thị trường TPCP nói riêng vẫn là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam. Đứng trên góc độ hợp tác quốc tế, trong thời gian tới để phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
- Thành lập các đoàn đi khảo sát và học tập kinh nghiệm ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển và có xuất phát điểm gần giống Việt Nam. Qua đó, học tập kinh nghiệm và đề ra những bước đi phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính, trong đó có thị trường TPCP.
- Mời hoặc thuê các chuyên gia có bề dầy kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển thị trường chứng khoán - thị trường TPCP trên thế giới làm cố vấn về vấn đề phát triển thị trường TPCP.
- Thường xuyên trao đổi các đoàn với các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển.
- Gửi cán bộ đi học tập kiến thức về lĩnh vực chứng khoán dưới hình thức các lớp học ngắn và trung hạn tại các nước phát triển.
3.4. XÂY DỰNG LỘ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM
3.4.1. Giai đoạn năm 2005 - 2010
Mục tiêu quan trọng trong giai đoạn này là phải nâng cao hơn nữa tính thanh khoản của thị trường, thị trường TPCP phải đóng vai trò chủ đạo và là mốc chuẩn tham chiếu cho các công cụ nợ khác trên thị trường. Việt Nam cần thiết lập một khuôn khổ pháp lý phù hợp với sự phát triển của thị trường TPCP, bên cạnh đó cần tiến hành cải cách hệ thống Thuế và hệ thống kế toán cho phù hợp với sự phát triển của thị trường trái phiếu. Một bước đi quan trọng khác đó là việc chuẩn bị cho ra đời hệ thống thanh toán bù trừ các loại chứng khoán một cách có hiệu quả; điều cần cân nhắc đó việc xem xét và chọn tổ chức nào đứng ra đảm nhiệm, thực hiện chức năng hệ thống thanh toán trái phiếu Chính phủ. Trên thế giới có tồn tại hai cách: Thứ nhất, NHTW thực hiện thanh toán TPCP; thứ hai, các tổ chức thanh toán và bù trừ trung tâm sẽ đứng ra thanh toán tất cả loại công cụ nợ, bao gồm cả TPCP.
Chính phủ Việt Nam (Bộ Tài chính - UBCK Nhà nước) cần đẩy nhanh quá trình chuẩn bị và cho ra đời và đi vào hoạt động của thị trường OTC. Ngoài ra, cần thiết phải xây dựng và cải thiện kỹ năng quản lý rủi ro của các ngân hàng, công ty chứng khoán hoặc các tổ chức kinh tế khác để có thể tham gia vào thị trường OTC và kiểm soát được các rủi ro; cơ chế giám sát cũng cần được thiết lập để chống lại các rủi ro của hệ thống tài chính.
3.4.2. Giai đoạn năm 2010-2015
Sau khi chuẩn bị hết các công việc nêu trên, cùng với việc đi vào hoạt động của thị trường OTC nhất thiết phải hình thành được thị trường mua lại để nâng cao tính thanh khoản của thị trường. Cần quan tâm đến kỹ năng quản lý rủi ro của những thành viên tham gia thị trường và cần được cải thiện một cách đáng kể trong giai đoạn này.
Để thị trường có tính thanh khoản, cần thiết phải có dịch vụ thông tin về giá cả. Việc sử dụng thông tin của các nhà cung cấp như Reuter, Bloomberg có thể còn quá đắt với các tổ chức tài chính của Việt Nam ở giai đoạn đầu. Do đó, sẽ là hữu ích nếu xem xét cân nhắc sử dụng hệ thống thông tin nối mạng như của Thái Lan đang làm, thông qua đó các thành viên tham gia thị trường có thể tiếp cận thông tin với giá không quá đắt. Trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam có thể đa dạng hoá các trái phiếu của mình, qua đó đường cong lợi nhuận của thị trường sẽ được thiết lập trong tương lai dài hạn, hệ thống thanh toán bù trừ cũng cần được nâng cấp.
3.4.3. Giai đoạn năm 2015 trở đi
Ở giai đoạn này có thể xem xét khả năng các tổ chức tài chính đa quốc gia phát hành trái phiếu bằng đồng Việt Nam tại thị trường trong nước. Qua đó, những trái phiếu này sẽ đóng vai trò là trái phiếu chuẩn cùng với TPCP. Việc có được một đường cong lợi nhuận chuẩn và tăng tính thanh khoản của thị trường TPCP sẽ được coi là những điều kiện cơ bản cho việc phát triển thị trường TPCP, thị trường phái sinh hoặc thị trường vốn của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Thị trường trái phiếu Chính phủ là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính quốc gia. Việc hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ là một đòi hỏi cấp bách và mang tính tất yếu khách quan; nó có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của thị trường tài chính - nơi huy động vốn cho nhu cầu phát triển của bất cứ quốc gia nào. Hiện nay các nước có nền kinh tế thị trường đều chú trọng việc phát triển thị trường TPCP. Kể từ khi TTCK của Việt Nam mở cửa hoạt động đã từng bước tạo điều kiện cho thị trường TPCP phát triển. Huy động vốn qua thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian qua không những đã đáp ứng được yêu cầu về vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, mà còn là công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình thực thi các chính sách vĩ mô. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường TPCP vẫn còn một số tồn tại nhất định cả ở thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Để phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam, phải có những giải pháp cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Là một người đang công tác trong lĩnh vực tài chính có liên quan trực tiếp đến hoạt động phát hành, giao dịch TPCP, tác giả đã chọn đề tài luận văn “Thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” tác giả đã đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành được các mục đích, nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, đã hệ thống hoá và trình bầy tổng quan về trái phiếu Chính phủ và thị trường TPCP; chức năng, vai trò và sự tồn tại tất yếu khách quan của thị trường TPCP trong nền kinh tế, nghiên cứu kinh nghiệm hình thành và phát triển thị trường TPCP ở một số nước trên thế giới, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
- Thứ hai, trình bầy và đánh giá thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990- 2004, qua đó đã nêu lên được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thị trường TPCP của Việt Nam.
- Thứ ba, trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu về TPCP và thị trường TPCP, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, lộ trình nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới góp phần huy động vốn cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu và đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những giải pháp mà luận văn đề xuất là có tính đồng bộ và khả thi trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam là một lĩnh vực rộng lớn và còn mới mẻ. Do đó, dù cố gắng đến mấy, chắc chắn luận văn vẫn không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Kính mong hội đồng cho ý kiến phê bình góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.docx