MỤC LỤC
Chuyên đề 1: “VỀ THỰC TẾ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC CÔNG NHẬN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở & HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT” – Thẩm phán Phan Thanh Tùng – TAND Tp.HCM .
Chuyên đề 2: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT VÀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005” CÒN ĐÓ NHIỀU QUY ĐỊNH CHƯA ĐẦY ĐỦ - ThS. LS. Trương Thị Hoà – Đoàn LS Tp. HCM .
Chuyên đề 3: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG VÀ VIỆC CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG” – LS. Huỳnh Văn Nông - Đoàn LS Tp. HCM .
Chuyên đề 4: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO CÓ ĐIỀU KIỆN THEO ĐIỀU 470 BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005" – CCV Phan Văn Cheo – Phòng Công chứng Sài Gòn
Chuyên đề 5: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN” – TS. Dương Anh Sơn – Khoa Kinh tế, ĐHQG Tp. HCM
Chuyên đề 6: “THỜI ĐIỂM GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG THỜI GIAN”- TS. Đỗ Văn Đại – ĐHL Tp. HCM
Chuyên đề 7: “THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN” – NCS Lê Minh Hùng - ĐHL Tp. HCM
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7654 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật và định hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nhượng bất động sản hình thành trong tương lai.
Theo Thông tư 161/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính (hướng dẫn Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007),
cá nhân góp vốn với các tổ chức, cá nhân xây dựng nhà để hưởng quyền mua căn hộ, nền nhà nhưng trong quá
trình thực hiện hợp đồng lại chuyển nhượng cho người khác phần vốn và quyền mua nền, căn hộ đó thì phải nộp
thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản.
70
điều kiện. Điều kiện ở đây là bên được tặng cho phải làm một số công việc, như nuôi
dưỡng người tặng cho khi còn sống, mai táng và cúng giỗ người tặng cho sau khi qua
đời. Nội dung, hình thức của hợp đồng tặng cho và điều kiện tặng cho là hợp pháp.
Thời điểm tặng cho trước 01/7/1980. Quyền sở hữu nhà được chuyển từ cụ Tặng sang
cho bị đơn hoàn tất vào 1994.
Nhận xét:
(1) Vấn đề cần phải được xem xét là hợp đồng tặng cho này đã có hiệu lực hay
chưa, có hiệu lực từ khi nào, và nguyên đơn có thể đòi lại nhà đã được tặng cho hay
không. Cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng hợp đồng này đã có hiệu lực,
nên nguyên đơn không thể đòi lại nhà. Cấp giám đốc thẩm cho rằng hợp đồng này
chưa có hiệu lực và đáng lý phải bị hủy bỏ. Tuy không công nhận hợp đồng đã có hiệu
lực, vì “đây là hợp đồng tặng cho nhà có điều kiện và những điều kiện được đặt ra
mới chỉ thực hiện được một phần”, nhưng cấp giám đốc thẩm lại cho rằng, do “ông Ý
đã nhận nhà đất, đã làm lại toàn bộ và thực hiện việc chăm sóc vợ chồng cụ Tặng trên
một thời gian dài…” “nên cần chấp nhận cho ông Ý được sở hữu, sử dụng ½ nhà đất
của cụ Tặng và xem xét việc thanh toán nghĩa vụ, thanh toán chênh lệch tài sản thỏa
đáng”. Như vậy, cả ba cấp tòa vẫn chưa có sự thống nhất với nhau về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng này.
(2) Theo cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm nhận định vụ việc theo hướng bên được
tặng cho đã hoàn thành phần lớn công việc, nên công nhận hợp đồng tặng cho là có
hiệu lực, nhưng phần nghĩa vụ còn lại chưa thực hiện xong thì thay thế bằng một nghĩa
vụ khác là buộc người có nghĩa vụ phải trả một khoản tiền để nguyên đơn thực hiện
thay nghĩa vụ nuôi dưỡng. Trái lại, cấp giám đốc thẩm cho rằng “nguyên đơn xin hủy
hợp đồng là có căn cứ” vì những điều kiện đặt ra “mới được bị đơn thực hiện một
phần”, có nghĩa theo cấp đốc thẩm, công việc phải được thực hiện hoàn tất thì hợp
đồng mới có hiệu lực. Nhưng cấp giám đốc thẩm cũng thừa nhận là bên được tặng cho
đã thực hiện phần lớn nghĩa vụ, nên vẫn công nhận hợp đồng có hiệu lực một phần.
Bởi vì nội dung của các qui định liên quan chưa bao quát hết các trường hợp
thực tế, nên việc áp dụng pháp luật của tòa án cần phải linh hoạt để phù hợp với yêu
cầu của thực tế và nguyên tắc công bằng. Cách giải quyết của tòa các cấp về vụ án này
tuy có thể xem là khá công bằng và có tình, nhưng lại không hoàn toàn đúng luật.
Đáng lý phải cho phép bên tặng cho hủy hợp đồng và đòi lại tài sản tặng cho mới
đúng. Qua thực tiễn giải quyết vụ này, nếu thừa nhận tính công bằng của hoạt động
thực tiễn xét xử, thì cũng có nghĩa là thừa nhận qui định của pháp luật về vấn đề liên
quan là còn nhiều bất cập và chưa bao quát hết thực tiễn phổ biến của đời sống. Từ đó,
đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung qui định của pháp luật hiện hành về nội dung này.
71
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
4.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005 về thời điểm giao kết hợp
đồng
Như đã phân tích, nội dung Điều 404 là chưa chặt chẽ do qui định này chỉ dựa
trên hình thức giao kết mà không dựa trên phương thức giao kết và hình thức trả lời
chấp nhận. Bố cục các khoản trong điều luật này cũng chưa lô gích, vì việc qui định
không theo trình tự đi từ nguyên tắc chung đến các trường hợp cụ thể. Các tình huống
dự liệu trong điều luật là chưa đầy đủ, và có phần chưa phù hợp với thực tế đời sống.
Để giải quyết những bất cập này, cần phải sửa đổi toàn diện nội dung điều luật và bổ
sung những qui định còn thiếu. Từ thực trạng đó, tôi kiến nghị một số giải pháp sau:
4.1.1. Cần xác định đúng nguyên tắc chung của thời điểm giao kết hợp đồng, và
thiết kế nội dung này thành khoản 1 Điều 404
Khoản 1 Điều 404 BLDS 2005 hiện hành qui định về trường hợp giao kết với
người vắng mặt. Để Điều 404 trở nên hợp lý và lô gích, trước hết, cần sửa đổi kết cấu
điều luật theo hướng nguyên tắc chung mang tính phổ biến được qui định trước, và các
trường hợp cụ thể, ngoại lệ được qui định sau. Lẽ tất nhiên, trường hợp giao kết trực
tiếp, bằng lời là trường hợp phổ biến nhất của thực tiễn đời sống, cần được xem là
nguyên tắc chung, thì được qui định trước. Các trường hợp giao kết gián tiếp, hoặc
việc trả lời giao kết bằng văn bản, bằng hành vi, hay bằng sự im lặng là những trường
hợp ngoại lệ, ít phổ biến hơn và được qui định sau, theo thứ tự giảm dần.
Cụ thể, khoản 1 Điều 404 nên sửa đổi, bổ sung và nên qui định lại như sau: “1.
Hợp đồng được giao kết tại thời điểm các bên đã thỏa thuận xong nội dung của hợp
đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phải được giao kết theo hình
thức, thủ tục xác định thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hoàn tất hình thức,
thủ tục đó.”
Như vậy, nội dung điều luật đã định ra nguyên tắc chung của thời điểm giao
kết hợp đồng là hợp đồng được giao kết khi các bên thỏa thuận xong nội dung của hợp
đồng. Bên cạnh đó, qui định này cũng được trình bày theo hướng mở, làm cơ sở để
thiết kế những khoản tiếp theo của điều luật trong việc điều chỉnh những trường hợp
ngoại lệ. Ví dụ: khi các bên đã thỏa thuận xong nội dung hợp đồng, nhưng lại thỏa
thuận riêng điều khoản giao kết hợp đồng phụ thuộc vào một thủ tục nhất định, như
hợp đồng phải được lập bằng văn bản, hoặc phải được sự phê chuẩn của người có thẩm
quyền của bên tham gia đàm phán, thì hợp đồng chỉ được giao kết khi văn bản đó đã
được lập đúng thể thức, hoặc khi người có thẩm quyền được xác định đã phê chuẩn.
72
4.1.2. Sửa đổi, bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng khi hợp đồng được
giao kết gián tiếp hoặc khi các bên dành thời gian chờ bên được đề nghị trả lời
Qui định thời điểm giao kết hợp đồng gián tiếp qua các phương tiện thông tin,
liên lạc được đưa lên khoản 1 Điều 404, như qui định hiện hành là chưa lô gích. Nội
dung của qui định này cũng chưa chặt chẽ. Để khắc phục những bất cập này, cần sửa
đổi theo hướng xác định rõ, đây là ngoại lệ của qui định về thời điểm giao kết hợp
đồng, và cần bổ sung thêm trường hợp “dành thời hạn để chờ bên được đề nghị trả
lời”, đồng thời thiết kế qui định này thành khoản 2 của Điều 404. Về giải pháp, việc
giao kết hợp đồng bằng phương thức gián tiếp thường được pháp luật các nước xây
dựng trên các học thuyết khác nhau, như thuyết “tống phát”, “tiếp nhận”, “thông
đạt”.88 Tôi đề xuất qui định này vẫn chọn nguyên tắc “tiếp nhận”, tức là xác định thời
điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận. Từ lập
luận đó, kiến nghị nội dung khoản 2 nên được viết lại như sau:
“2. Khi hợp đồng được giao kết gián tiếp thông qua thư tín hoặc các phương
tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc tuy được giao kết trực tiếp nhưng một hoặc các bên
dành một thời hạn để chờ bên được đề nghị trả lời, thì thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.”
Qui định như vậy tuy khác với quan điểm của Nhật và một số nước theo hệ
thống Common Law, do các nước này theo nguyên tắc “tống phát” (hay ‘bày tỏ’) - tức
“Postal rule” (hay ‘Mailbox rule’): hợp đồng được giao kết lúc thư trả lời được gửi đi,
nhưng quan điểm này lại phù hợp với quan điểm của nhiều quốc gia khác theo hệ
thống Châu Âu lục địa, Luật Hợp đồng Trung Quốc, và các tập quán thương mại quốc
tế.89 Cách qui định này cũng phù hợp với bản chất của hợp đồng, vì hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên. Hợp đồng chỉ được xác lập khi có sự ưng thuận, tức phải có
sự tuyên bố ý chí và có sự gặp gỡ ý chí giữa các bên. Hơn nữa, theo nguyên tắc công
bằng, bên được đề nghị là bên “lựa chọn phương thức truyền đạt thông tin và biết rõ
phương thức mình chọn có thể có những rủi ro hoặc chậm trễ”, và cũng là bên “có khả
năng hơn trong việc thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm chấp nhận đến nơi
nhận”,90 nên bên được đề nghị phải là bên phải chịu rủi ro về việc truyền đạt thông tin.
Do đó, nếu việc chuyển thư trả lời chấp nhận không đến được với bên đề nghị thì việc
trả lời đó coi như chưa có hiệu lực.
88
Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo, Sđd, tr. 99 – 100.
89
Điều 16 Luật hợp đồng CHND Trung Hoa 1999; Điều 18 Công ước Viên 1980; Điều 2.1.6. (2) Bộ Nguyên tắc
của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế; Điều 2: 205 (1) Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Âu.
90
Bộ Nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế, Tlđd, tr.94.
73
4.1.3. Sửa đổi, bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng khi các bên giao kết
hợp đồng bằng văn bản, hoặc khi bên được đề nghị trả lời bằng văn bản
Việc giao kết hợp đồng bằng văn bản trên thực tế là rất phong phú. Thực tiễn
pháp lý ở Việt Nam cũng từng có quan niệm cho rằng, văn bản không có nghĩa chỉ là
văn bản truyền thống, mà còn bao gồm cả những “tài liệu giao dịch: công văn, điện
báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng”,91 thậm chí khái niệm văn bản ngày nay còn bao
gồm cả các văn kiện dưới dạng “điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật”.92 Bởi vậy, Điều khoản này cần phân hóa cụ
thể, theo hướng xác định các trường hợp giao kết bằng văn bản khác nhau thì thời
điểm giao kết hợp đồng có thể không giống nhau, chứ không nên chỉ dự liệu bằng cách
“bên sau cùng ký vào văn bản”, như khoản 4 Điều 404 BLDS hiện hành. Thiết nghĩ,
qui định này nên dự liệu thời điểm giao kết cả trong các trường hợp giao kết gián tiếp,
trên cùng một văn bản; giao kết bằng nhiều văn bản có nội dung giống nhau được mỗi
bên lập ra để giao cho bên kia; và trường hợp chỉ có bên được đề nghị trả lời chấp
nhận bằng hình thức văn bản dựa trên đề nghị của bên kia (không phân biệt đề nghị có
được làm bằng văn bản hay không).
Mặt khác, để tránh sự tranh cãi không cần thiết, qui định này cũng cần giải
thích về văn bản có chữ ký hợp lệ của các bên là đủ, mà không cần phải được đóng
dấu, cũng như bất kỳ một thủ tục nào khác, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng
ngược lại, theo qui định của pháp luật hoặc thỏa thuận của các bên. Ngoài ra, các hình
thức trả lời bằng thông điệp dữ liệu sẽ được qui định trong luật chuyên ngành. Tất cả
các nội dung này được thiết kế thành khoản 3 Điều 404, cụ thể như sau:
“3. Trong trường hợp việc giao kết hợp đồng được các bên xác lập trực tiếp,
trên cùng một văn bản, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản; nếu hợp đồng được lập thành nhiều văn bản có nội dung giống nhau, thì
hợp đồng được giao kết tại thời điểm mỗi bên đã ký vào văn bản của bên kia. Văn bản
được lập chỉ cần các bên hoặc người đại diện hợp pháp của các bên ký tên và ghi rõ
họ tên là đủ mà không cần phải có thêm thủ tục nào khác, kể cả việc phải đóng dấu
của các bên, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định điều này.
Nếu các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản được gửi qua bưu điện, hoặc
phương tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc nếu chỉ có trả lời chấp nhận là được làm
bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được văn
bản trả lời chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
qui định khác.
91
Đoạn 1 Điều 11 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989.
92
Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005.
74
Thời điểm nhận được thông điệp dữ liệu được áp dụng theo qui định của Luật
Giao dịch điện tử.”
4.1.4. Bổ sung qui định thời điểm giao kết hợp đồng khi bên được đề nghị trả lời
chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể
Luật hiện hành không dự liệu việc giao kết hợp đồng và trả lời chấp nhận giao
kết bằng hành vi cụ thể, mặc dù đây là hình thức giao dịch khá phổ biến trong đời
sống. Cách giải quyết vấn đề này có thể bằng nhiều giải pháp khác nhau, với những hệ
quả pháp lý khác nhau cần phải được cân nhắc thận trọng. Tôi cho rằng, việc trả lời
chấp nhận giao kết bằng hành vi có ba khả năng: bên được đề nghị trả lời ngay bằng
hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời gian xác định và có thông báo về
việc thực hiện hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời hạn xác định
nhưng không thông báo. Về nguyên tắc, việc giao kết là sự gặp gỡ ý chí giữa các bên,
nên khi các bên không trao đổi bằng lời nói hay văn bản, mà được thực hiện bằng hành
vi cụ thể, thì sự chấp nhận đó phải được thông tin cho bên đề nghị biết, trừ trường hợp
bên kia có thể biết được điều này do tập quán thương mại, hoặc do thói quen giao dịch
giữa các bên. Việc xác định thời điểm giao kết cũng có hai giải pháp có thể lựa chọn:
khi bên được đề nghị đã thực hiện hoàn thành hành vi, hoặc khi bắt đầu thực hiện
hành vi. Thiết nghĩ, cần phân biệt các trường hợp khác nhau như sau:
(i) Trả lời ngay: nếu việc trả lời được thực hiện ngay, bằng hành vi cụ thể thì
thời điểm giao kết là thời điểm bắt đầu hành vi cụ thể. Ví dụ: khách hàng vào quán gọi
thức ăn, tuy không trả lời nhưng chủ quán vẫn vào quán chuẩn bị thức ăn để mang ra
cho khách đúng như yêu cầu; hoặc khách hàng lên xe taxi và thông báo địa chỉ để tài
xế điều khiển xe đến vị trí xác định…, thì thời điểm giao kết là thời điểm bắt đầu thực
hiện hành vi cụ thể đó: chủ quán cho chuẩn bị món ăn, hoặc tài xế cho xe khởi hành.
Nhưng cũng không ít các trường hợp mà do qui ước, hoặc do có thỏa thuận trước, bên
được đề nghị phải thực hiện xong những hành vi cụ thể thì hợp đồng mới được giao
kết. Ví dụ: bên được hứa thưởng phải đạt được kết quả và bàn giao kết quả đó cho bên
hứa thưởng, thì sẽ được trả thưởng: “Trong trường hợp một công việc được hứa
thưởng do một người thực hiện thì không công việc hoàn thành, người thực hiện công
việc đó được nhận thưởng” (khoản 1 Điều 592 BLDS 2005). Bởi vậy, trong trường
hợp này cần phải qui định theo hướng: nguyên tắc chung là giao kết tại thời điểm bắt
đầu thực hiện công việc, trừ những ngoại lệ do pháp luật qui định, hoặc các bên có
thỏa thuận khác.
(ii) Trả lời sau một thời hạn: Trong hoàn cảnh bình thường thì hợp đồng giao
kết tại thời điểm bên được đề nghị đã bắt đầu thực hiện công việc và bên đề nghị đã
nhận được thông báo về thời điểm bắt đầu công việc. Nhưng nếu bên thực hiện công
75
việc không chịu thông báo về việc bắt đầu thực hiện công việc, thì thời điểm giao kết
hợp đồng là thời điểm công việc được thực hiện hoàn thành.
(iii) Nếu do ấn định trước trong đề nghị, hoặc do thói quen được xác lập giữa
các bên, hoặc do tập quán mà việc chấp nhận bằng hành vi cụ thể không cần phải
thông báo, thì hợp đồng giao kết lúc bắt đầu công việc.
Như vậy, nội dung này được thiết kế thành khoản 4 Điều 404, cụ thể như sau:
“4. Trong trường hợp bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
bằng một hành vi cụ thể, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên được đề nghị
bắt đầu thực hiện hành vi đó, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp, hoặc tuy giao kết trực tiếp mà một hoặc
các bên dành một thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời, thì hợp đồng được giao kết
tại thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo của bên được đề nghị về việc bắt đầu
thực hiện hành vi cụ thể đó. Nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng việc thực
hiện một công việc cụ thể nhưng không thông báo về việc này cho bên đề nghị biết, thì
hợp đồng giao kết vào thời điểm hoàn thành công việc.
Nhưng nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, hoặc theo thói quen đã được xác
lập giữa các bên, hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị
bằng một hành vi cụ thể mà không cần phải thông báo cho bên đề nghị, thì hợp đồng
được giao kết khi bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi này.”
4.1.5. Bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng bằng sự im lặng
Im lặng tự nó không phải là sự trả lời chấp nhận. Nhưng có thể do các bên thỏa
thuận trước (qui ước trước), do pháp luật qui định, hoặc do thói quen giữa các bên đã
được xác lập với nhau, thì im lặng cũng được xem như trả lời chấp nhận, với điều
kiện: (i) trong đề nghị của hợp đồng có ấn định thời hạn trả lời, (ii) hết thời hạn ấn
định mà bên được đề nghị đã không trả lời, và cũng không hành động gì (không phản
đối), thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm đó. Trong qui định này, không nên đưa
tập quán vào làm căn cứ để xác định im lặng là giao kết hợp đồng, vì xác định tập
quán trong trường hợp này khá phức tạp. Hơn nữa, đã có qui định chung về việc áp
dụng tập quán trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự tại Điều 3 BLDS 2005.
Để tránh sự lạm dụng của các thương gia, hạn chế việc xâm phạm tới quyền lợi
người tiêu dùng và bảo vệ quyền tự do kết ước, qui định này cần được loại trừ áp dụng
đối với việc quảng cáo hàng hóa, hoặc đề nghị giao kết bằng cách gửi hàng hóa trực
tiếp đến người tiêu dùng. Như vậy, qui định tại khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 nên
được sửa đổi, bổ sung và thiết kế thành khoản 5 Điều 404 (mới), với nội dung như sau:
76
“5. Theo thỏa thuận, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc
pháp luật có qui định im lặng là sự trả lời, và đề nghị giao kết hợp đồng có ấn định
thời hạn trả lời, thì hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
bên được đề nghị vẫn im lặng. Qui định này không áp dụng đối với việc doanh nghiệp
bán hàng có gửi các thông tin quảng cáo hoặc gửi hàng đến địa chỉ giao dịch của
người tiêu dùng.”
4.2. Sửa đổi, bổ sung Điều 405 Bộ luật Dân sự 2005 về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng
Cần bổ sung qui định về thời điểm có hợp đồng lực của hợp đồng do các bên
thỏa thuận. Nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các bên tự do thỏa thuận nội dung
của hợp đồng, nhưng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội [BLDS 2005, Điều 128, và khoản 1 Điều 389]. Điều 405 BLDS 2005 cũng qui
định các bên có quyền thỏa thuận khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy
vậy, việc thỏa thuận này cụ thể như thế nào thì lại có nhiều ý kiến tranh cãi. Thực tiễn
xét xử về vấn đề này cũng chưa có sự nhất quán. Để có sự thống nhất trong nhận thức
và áp dụng qui định này, thiết nghĩ cần làm rõ các vấn đề: các bên có thể thỏa thuận
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm do pháp luật qui định hay
không, và nếu có thì giới hạn này là tới đâu (?). Tôi cho rằng, nên qui định các bên có
quyền thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo nguyên tắc tự do hợp đồng,
nhưng cần phân biệt sự khác nhau giữa các trường hợp sau:
- Thứ nhất, thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng muộn hơn thời điểm
giao kết, hoặc muộn hơn thời điểm có hiệu lực do pháp luật qui định: trường hợp này
về nguyên tắc là được, vì pháp luật không cấm. Thực tiễn pháp lý cho thấy, các bên có
thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng lùi về sau thời điểm hợp đồng được
giao kết hoặc sau thời điểm có hiệu do pháp luật qui định với loại hợp đồng đó. Thời
điểm này có thể được cách xác định bằng một mốc thời gian, hoặc bằng một sự kiện
pháp lý có thể xảy ra trong tương lai, hoặc bằng một điều kiện nhất định, trừ trường
hợp vi phạm điều cấm của pháp luật.
- Thứ hai, thỏa thuận lùi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về trước, sớm hơn
thời điểm giao kết. Ví dụ: hợp đồng được giao kết thực tế vào ngày 10/10/2008, nhưng
các bên thỏa thuận trong hợp đồng ngày 10/10/2007 là ngày bắt đầu có hiệu lực của
hợp đồng. Trường hợp này là không thể chấp nhận vì ba lý do sau: (i) Điều này mâu
thuẫn với bản chất pháp lý của hợp đồng vì hợp đồng chỉ được xác lập khi các bên
thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng, và vì quan hệ hợp đồng giữa các bên chỉ tồn
tại khi hợp đồng đã được giao kết; (ii) Việc cho phép các bên tham gia thỏa thuận thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng lùi lại trước ngày giao kết hợp đồng có thể phát sinh
77
nhiều hậu quả pháp lý phức tạp, như tạo kẻ hở cho các bên “lẩn tránh” pháp luật (trốn
thuế, hợp thức hóa tài sản có nguồn gốc phạm pháp, hợp pháp hóa chứng từ, hóa đơn,
rút ngắn thời hiệu khởi kiện, lẩn tránh áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành…), xâm
phạm tới quyền lợi hợp pháp của người thứ ba (gây thiệt hại cho người thứ ba ngay
tình), trục lợi bất chính từ hợp đồng (ví dụ: trục lợi từ bảo hiểm); (iii) Thực tiễn pháp
luật của các nước theo hệ thống Anh - Mỹ cũng không chấp nhận các hợp đồng có
thỏa thuận về các nghĩa vụ đối ứng thuộc về quá khứ, mà thực chất là sự thỏa thuận
giao kết hợp đồng nhằm tái xác nhận về công việc đã xảy ra trước đó. Ví dụ: A đã rửa
xe cho B. Sau đó, B đưa ra cam kết nếu A rửa xe cho B thì B sẽ trả cho A 10 USD.
Trường hợp này, B không phải trả cho A 10 USD như đã hứa vì trên thực tế, A đã rửa
xe cho B trước khi B hứa trả tiền. Đây là nghĩa vụ đối ứng đã qua (past consideration)
nên không có hiệu lực ràng buộc đối với các bên.93 Đây là một trong những kinh
nghiệm rất đáng quan tâm khi xem xét sửa đổi các qui định liên quan nói trên.
Cần phân biệt thỏa thuận dời ngày có hiệu lực của hợp đồng về trước với việc
ghi lùi ngày ký hợp đồng. Ví dụ: A thỏa thuận cho B thuê nhà bằng miệng và giao nhà
cho B sử dụng ngày 01/01/2008. Đến 30/10/2008, các bên mới làm hợp đồng thuê nhà
bằng văn bản, và các bên đã ghi lùi ngày ký hợp đồng về trước đúng thời điểm giao
nhà trên thực tế. Mục đích của việc ghi lùi ngày có thể chỉ nhằm xác nhận những giao
dịch thực tế đã xảy ra hoặc đang được thực hiện, hoặc để hợp thức hóa hồ sơ, thủ tục,
giấy tờ trong việc thực hiện hợp đồng. Nếu các bên không tranh chấp và không xâm
phạm quyền lợi hợp pháp của người thứ ba, thì thực tế này có thể được chấp nhận, và
pháp luật cũng không cần phải điều chỉnh. Nhưng nếu việc ghi lùi ngày ký hợp đồng
sớm hơn về trước ngày thực tế ký hợp đồng nhằm để giả tạo, “lẩn tránh” pháp luật,
hoặc vi phạm điều cấm của pháp luật mà các bên có tranh chấp, thì hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu theo qui định chung.94
- Thứ ba, việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời
điểm do pháp luật ấn định: đây là vấn đề pháp lý phức tạp và hiện có nhiều ý kiến
khác nhau. Thiết nghĩ nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng là nguyên tắc tự do
hợp đồng. Nhưng cho dù pháp luật có thừa nhận quyền tự do thỏa thuận thì các bên
cũng không được đưa ra những thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội, hoặc xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Hơn nữa, đối với các cơ quan có thẩm quyền công
chứng, chứng thực hợp đồng, thì việc kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng có thỏa
thuận lùi ngày phát sinh hiệu lực trở về trước thời điểm công chứng, chứng thực là
93
Xem thêm: C.A. MacMillan & R. Stone, Elements of the law of contract, University of London Press, UK,
2004, p.46; Robert D. Brain, Contract – Quick Review, 6th Edition, West Group, US, 1999, p.8.
94
Giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, hoặc vô hiệu do giả tạo (Điều 128, 129 BLDS 2005).
78
vượt quá khả năng nghiệp vụ, cũng như làm tăng nặng trách nhiệm nghề nghiệp của
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công chứng, chứng thực và gây ra các hậu quả
pháp lý phức tạp, khó lường. Bởi vậy, luật có thể để các bên tự do thỏa thuận về nội
dung hợp đồng, nhưng không nên cho phép thỏa thuận lùi thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng về sớm hơn thời điểm mà pháp luật đã ấn định cho loại hợp đồng đó. Ví dụ:
hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với nhau được công chứng vào ngày 10/8/2008,
thì không thể thỏa thuận lùi ngày có hiệu lực là 01/01/2008 vì đây là yêu cầu pháp lý
tối thiểu để hợp đồng tặng cho nhà có hiệu lực; hoặc hợp đồng cầm cố tài sản được xác
lập vào ngày 01/01/2009 (ngày giao tài sản cầm cố), thì không thể thỏa thuận thời
điểm có hiệu lực là ngày 01/10/2008.
Từ nhận thức trên, tôi xin đề xuất bổ sung qui định cho phép các bên được thỏa
thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thiết kế thành khoản 2 (bổ sung) Điều 405,
với nội dung cụ thể như sau:
“2. Các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời
điểm xác định, nhưng không được sớm hơn thời điểm giao kết hợp đồng theo qui định
tại Điều 404 của Bộ luật này. Nếu pháp luật có qui định hợp đồng có hiệu lực tại một
thời điểm xác định, thì các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng sớm hơn thời điểm đó. ”
Như vậy, qui định này cũng cho phép các bên được thỏa thuận thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm có hiệu lực mà pháp luật đã ấn định cho loại
hợp đồng đó, nhưng không được thỏa thuận hiệu lực hồi tố của hợp đồng về sớm hơn
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật qui định.
Ngoài ra, trong các phân tích về thực trạng pháp luật ở mục 2, tôi còn nêu một
số bất cập khác liên quan đến việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong
trường hợp hợp đồng bị vô hiệu tương đối và có tranh chấp, nhưng vẫn được tòa án
công nhận, thì hợp đồng có hiệu lực từ khi nào (?), hoặc đối với hợp đồng có điều kiện
thì hợp đồng phát sinh hiệu lực khi nào (?). Do dung lượng đề tài không cho phép, nên
những vấn đề này sẽ được tiếp tục làm rõ trong các đề tài khác khi điều kiện cho phép.
5. KẾT LUẬN
5.1. Vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được BLDS 2005 qui định khá cụ thể
và tương đối hoàn chỉnh. BLDS 2005 cũng đã đưa ra nguyên tắc xác định thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng: hợp đồng được giao kết hợp pháp thì có hiệu lực đối với các
bên từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, hoặc pháp luật
có qui định khác. Ngoài ra, để xác lập căn cứ pháp lý cho việc xác định thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, BLDS 2005 cũng qui định chi tiết về trình tự giao kết hợp
79
đồng, và đặc biệt là xác định rõ thời điểm giao kết hợp đồng, dựa trên các hình thức
khác nhau của hợp đồng.
5.2. Nghiên cứu thực trạng pháp luật về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng cũng cho thấy, các qui định này vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập
như: việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên yếu tố hình thức của hợp
đồng là chưa khoa học, chưa chặt chẽ; nội dung điều luật chưa dự liệu hết các tình
huống của thực tiễn đời sống và bố cục điều luật cũng chưa hợp lý; qui định về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng theo thỏa thuận của các bên vẫn chưa rõ ràng, cụ thể
nên còn gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.v.v. Thực tiễn xét xử liên quan đến việc xác
định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong một số vụ án vẫn
còn lúng túng và chưa có sự nhất quán giữa các cấp tòa án. Từ đó, đòi hỏi cần phải
xem xét lại một số qui định liên quan đến việc xác định thời điểm giao kết và thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng trong pháp luật hiện hành, nhất là các qui định trực tiếp
trong BLDS 2005, tại các điều 404 và 405 và các qui định khác có liên quan.
5.3. Trên cơ sở nhận thức về một số điểm bất cập như vừa trình bay, trong mục 3 của
chuyên đề, tôi đã nêu ra một số ý kiến đề xuất liên quan tới việc sửa đổi, bổ sung toàn
diện qui định tại Điều 404 BLDS 2005, và sửa đổi, bổ sung một phần qui định tại Điều
405 BLDS 2005, với những gợi ý cụ thể về nội dung của từng điều khoản kèm theo.
Trong đó, có những đề xuất mà tôi tâm đắc như kiến nghị sửa đổi và bổ sung khoản 2
Điều 404 về giao kết hợp đồng trong trường hợp bên được đề nghị im lặng, bổ sung
qui định mới về giao kết hợp đồng thông qua việc bên được đề nghị trả lời bằng hành
vi cụ thể và thiết kế qui định này thành khoản 5 (mới) của Điều 405 BLDS 2005.
5.4. Tôi cũng nhận thức rõ ràng rằng, việc bảo đảm hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
nếu chỉ dựa vào việc qui định chặt chẽ vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là
chưa đủ, mà còn cần phải tăng cường bổ sung các qui định về nghĩa vụ tiền hợp đồng,
như nghĩa vụ bảo mật thông tin và nghĩa vụ giao kết thiện chí. Đây là nội dung chưa
được quan tâm đúng mức trong pháp luật hiện hành, rất cần được tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005.
2. Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995.
3. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, Nxb. Tư pháp, H. 2006.
4. Bộ luật Dân sự CHLB Đức (Bản dịch của Văn phòng Quốc hội, khóa IX, 1994).
5. Bộ luật Dân sự Nhật Bản (Bản dịch của Văn phòng Quốc hội, khóa IX, 1994).
6. Bộ luật Dân sự – Thương mại Thái Lan, Nxb. CTQG, H. 1995.
7. Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005.
8. Bộ luật Lao động 1994, sửa đổi ngày 02/4/2002 và ngày 29/11/2006.
9. Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, Dg: Nguyễn
Minh Hằng, Đào Thu Hiền và các Dgk, Nxb. Tư pháp, H. 2005.
10. Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Công ước
Viên – CISG – 1980, (bản dịch tiếng Việt) in trong phần cuối quyển Kỷ yếu Hội
thảo “Pháp luật về hợp đồng”, do UBPL của Quốc hội và Dự án Star – Việt Nam
(USAID), tổ chức tại Hà Nội, ngày 29/4/2004.
11. Corinne Renault – Branhinsky, Đại cương về Pháp luật hợp đồng, Nxb.Văn hóa -
Thông tin, H. 2002.
12. Ngô Huy Cương, Khái niệm hiệu lực của nghĩa vụ và vấn đề thực hiện nghĩa vụ,
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2008, tr. 37 – 48.
13. Chế Mỹ Phương Đài, Những điểm mới cơ bản của phần thứ III – Nghĩa vụ dân sự
và hợp đồng dân sự - BLDS 2005, Khoa học Pháp lý, số 6/2005, 8 - 13.
14. Đỗ Văn Đại, Vị trí của Bộ luật Dân sự trong lĩnh vực hợp đồng, Nhà nước và Pháp
luật, số 7/2008, 12 -9.
15. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG,
H. 2007.
16. Đỗ Văn Đại, Bàn về sự im lặng trong giao kết hợp đồng, Tạp chí Kiểm sát, số 17,
tháng 9/2006, tr. 26-27 & 47.
17. Lê Hồng Hạnh (Cb), Nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam - Dự án TA 2853 – VIE do Ngân hàng Phát triển Châu Á
tài trợ, Hà Nội, 2002.
18. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, sung bởi Nghị quyết 51/2001/QH10).
81
19. Phạm Công Lạc, Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Số
chuyên đề 01 tháng 11/2004, tr. 15.
20. Phạm Công Lạc, Về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện, Luật học, số 2/1998,
tr. 29-32.
21. Hoàng Thế Liên (Cb), Nguyễn Đức Giao, Nguyễn Xuân Anh và các tgk, Bình luận
khoa học Một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự 1995, Nxb. CTQG, H. 1997.
22. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật 2008.
23. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Dự thảo lần 4), Nguồn: địa chỉ website
24. Luật Công chứng 2006.
25. Luật Doanh nghiệp 2005.
26. Luật Hợp đồng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (bản dịch tiếng Việt) in trong phần
cuối của Kỷ yếu Hội thảo “Pháp luật về hợp đồng”, do UBPL của Quốc hội và Dự
án Star – Việt Nam (USAID), tổ chức tại Hà Nội, ngày 29/4/2004.
27. Luật Nhà ở 2005.
28. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan tới đầu tư xây dựng cơ
bản 2009.
29. Luật Thương mại 2005.
30. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ
bản (số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009).
31. Vũ Văn Mẫu, Pháp luật diễn giảng, quyển thứ nhất, tập 2, Nxb. Luật khoa Đại
học, Sài Gòn, 1975.
32. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật - luợc khảo, Quyển II “Nghĩa vụ và khế ước”,
Phần thứ nhất: Nguồn gốc của nghĩa vụ, Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn 1963.
33. Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận, Nxb. Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn 1958.
34. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP Ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản.
35. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ.
36. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP-TANDTC hướng dẫn
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự và hôn nhân
gia đình.
82
37. Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 14/6/2003 của HĐTP-TANDTC về hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự và hôn nhân gia đình.
38. Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp
luật hợp đồng Việt Nam, Nghiên cứu Lập pháp, số 5, tháng 5/2003, tr.38-46.
39. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989.
40. Nguyễn Như Phát, Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước, trong
quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện
nay”, Nguyễn Như Phát & Lê Thị Thu Thủy (Cb), Nxb. CAND, H. 2003, tr. 5 - 17.
41. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật Dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
42. Schmidt, Johanna, Thư bày tỏ ý định giao kết hợp đồng, trích Kỷ yếu hội thảo Hợp
đồng thương mại quốc tế, nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, tr. 125 –
132.
43. Đinh Văn Thanh, Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự, Tạp chí Luật học, số
4/1999, tr.19 – 20, 23.
44. Đinh Văn Thanh, Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, Luật học, số
Chuyên đề về Bộ luật Dân sự, 1996, tr. 52 – 55.
45. Đinh Văn Thanh & Nguyễn MinhTuấn (Cb), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập
1, Nxb. CAND, H. 2006.
46. Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam,
tập 2, Nxb. CAND, H. 2006.
47. Lê Thị Bích Thọ, Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh
tế vô hiệu, Thông tin Khoa học Pháp lý, số 5/2002.
48. Lê Thị Bích Thọ, Hình thức của hợp đồng kinh tế và điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, Luật học, số 2/2002, tr. 43-47.
49. Phan Hữu Thư (Cb), Kỹ năng hành nghề luật sư, tập 3, Nxb. CAND, H. 2002.
50. Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Cb), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb. CAND, H.2007.
51. Tòa án Nhân dân Tối cao, Các Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao năm 2005, H. 2008.
52. Đinh Trung Tụng (Cb), Bình luận những nội dung mới của BLDS 2005, Nxb. Tư
pháp, H. 2005.
83
53. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, H. 2007.
54. Nguyễn Văn Vân, Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
Khoa học Pháp lý, số 04/2000, tr. 36-40.
55. Vacaxum, Xaca & Tori Aritdumi, Bình Luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản,
Dg: Nguyễn Đức Giao, Lưu Tiến Dũng, Nxb. CTQG, H. 1995.
TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
56. Brain, Robert D., Contract – Quick Review, 6th ed., West Group, CA 1999.
57. Cartwright, John & Martijn Hesselink (Editers), Precontractual Liability in
European Private Law, CUP, Cambridge, 2008.
58. MacMillan C.A. & R. Stone, Elements of the Law of Contract, University of
London, London, 2004.
59. Oughton, David & Martin Davis, Sourcebook on Contract Law, 2nd ed., Cavendish,
London 2000.
60. Stone, Richard, The Modern Law of Contract, 5th ed., Cavendish, London 2002.
61. The Principles of European Contract,
principles.part1.1995/, accessed on 25 Oct. 2007.
PHỤ LỤC CHUYÊN ĐỀ 7
Phụ lục số 01
Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại
Hà Nội về “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”
Nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông với bị
đơn là Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông.
Nội dung tóm tắt: Ngày 20/12/2004, nguyên đơn có ký hợp đồng với bị đơn để
mua bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe máy hiệu STAR. Bị đơn đã cấp cho nguyên đơn
Đơn bảo hiểm hàng hóa vận chuyển số 04/01/KD2/91130/0011. Nội dung: bị đơn đã
đồng ý nhận bảo hiểm cho lô hàng của nguyên đơn vận chuyển là 72 chiếc xe hiệu
STAR nguyên chiếc 100%, với quãng đường vận chuyển từ kho VMEP Đồng Nai đến
kho VMEP Hà Tây. Số tiền được bảo hiểm là 916.363.656 đồng. Điều kiện bảo hiểm
theo quy tắc bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam và không bảo
hiểm cho mọi rủi ro xảy ra trước 11h00 ngày 20/12/2004. Tỷ lệ bảo hiểm là 0,1% đã
84
bao gồm VAT với số tiền phải nộp là 916.000 đồng. Nguyên đơn xác định đơn bảo
hiểm đã được bị đơn chấp nhận trước 11h00’ ngày 20.12.2004.
Phía bị đơn cho rằng: Theo báo cáo của nhân viên công ty, khoảng 11h10’, bị
đơn mới nhận được điện thoại của nguyên đơn xin mua bảo hiểm. Thời gian bị đơn
giao đơn bảo hiểm cho nguyên đơn là khoảng 11h30 phút. Lúc này, lô xe 72 chiếc
STAR đã phát cháy trong Bình Định. Như vậy phía nguyên đơn có dấu hiệu trục lợi
bảo hiểm. Ngoài lời trình bày trên, phía bị đơn cũng xác định không có tài liệu nào
khác để chứng minh về thời điểm các bên giao kết hợp đồng.
Cùng ngày, trên đường vận chuyển đến địa phận xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định, số hàng hóa 72 chiếc xe máy đã bị cháy. Theo các chứng cứ mà
nguyên đơn xuất trình thì sự kiện cháy xe chở hàng và cháy cả 72 chiếc máy nói trên
xảy ra sau 11h cùng ngày 20/12/2004. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường trị giá
lô hàng đã được bảo hiểm là 916.363.656 đồng, nhưng bị đơn không đồng ý, với các lý
do: Đơn bảo hiểm được giao kết vào 11h ngày 20/12/2004. Tại thời điểm này tài sản
được bảo hiểm không còn tồn tại vì đã cháy trước 11h ngày 20/12/2004.
Tại bản án số 21/2007/KDTM-ST ngày 05/3/2007 của TAND Tp. Hà Nội đã
quyết định: Đơn bảo hiểm hàng hóa vận chuyển số 04/01/KD2/91139/0011 ngày
20/12/2004 có hiệu lực; Buộc bị đơn chi trả cho nguyên đơn số tiền bảo hiểm là
916.363.656 đồng và 233.580.000 đồng tiền lãi, vì theo theo nhận định của tòa cấp sơ
thẩm thì Đơn bảo hiểm ngày 20/12/2004 có nội dung thể hiện hợp đồng được giao kết
lúc 11h00: “Theo quy trình nêu trên thì thời điểm bị đơn ký đóng dấu chấp nhận vào
đơn có nội dung yêu cầu của nguyên đơn chính là thời điểm giao kết hợp đồng. Do đó,
thấy cần dựa trên cơ sở điều kiện thời gian bảo hiểm tại đơn yêu cầu để xác định thời
điểm giao kết hợp đồng là 11h00’ ngày 20/12/2004”; còn thời điểm xảy ra vụ cháy là
11h3’ và “có đủ cơ sở để khẳng định 72 chiếc xe máy STAR được vận chuyển trên ô tô
biển kiểm soát 29S-1059 xẩy ra cháy sau 11h00’ ngày 20/1/.2004”. Do đó, bị đơn có
trách nhiệm trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng ngày 20/12/2004.
Tuy nhiên bản án sơ thẩm này đã bị Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xử
hủy vì chưa đủ các chứng cứ cần thiết để có thể đưa ra một phán quyết như vậy. Tuy
không nói rõ là hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hay chưa, nhưng quan điểm của cấp
phúc thẩm dường như cũng công nhận hợp đồng bảo hiểm này là đã có hiệu lực. Bản
án phúc thẩm không đưa ra nào lập luận nào phản bác việc cấp sơ thẩm xác định thời
điểm có hiệu lực của hợp bảo hiểm là 11h ngày 20/12/2004 là đúng hay sai. Tòa cấp
phúc thẩm chỉ băn khoăn về thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm: “Đặc biệt xác định
thời điểm cháy là một chứng cứ quan trọng để quyết định đường lối xét xử vụ kiện. Do
đó cần phải có thực nghiệm điều tra để xác định: từ khi lái xe (ông Nhân) và chủ quán
85
cơm (ông Phương) bắt đầu phát hiện thấy cháy, rồi ông Phương chạy vào nơi để điện
thoại để báo cháy là thời gian bao lâu ? (theo tài liệu điều tra thì tin ban đầu báo cháy
được gọi lúc 11 giờ 3 phút 6 giây”. Từ đó cấp phúc thẩm yêu cầu cấp sơ thẩm khi xử
lại vụ án cần chứng minh được thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Phụ lục số 02
Quyết định GĐT số 08/KDTM-GĐT ngày 08/12/2005 của HĐTP – TANDTC
về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ bảo trì trạm biến áp”
Nguyên đơn là Công ty TNHH thương mại - xây dựng, bảo trì, dịch vụ kỹ thuật
điện Sài Gòn (sau đây viết tắt là Công ty SEECOM), với bị đơn là Công ty phát triển
khu công nghiệp Long Bình (sau đây viết tắt là Công ty LOTECO).
Nội dung tóm tắt: Trong vụ án này, các bên tranh chấp về 3 hợp đồng lắp đặt
đường dây tải diện và trạm biến áp và một hợp đồng mua bán 04 đồng hồ đo điện vạn
năng. Ở đây, chúng ta chỉ khảo cứu khía cạnh pháp lý của hợp đồng mua bán 04 đồng
hồ đo điện vạn năng.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ngày 22/4/2003, Công ty SEECOM có
bản fax chào hàng 04 đồng hồ đo điện vạn năng cho Công ty LOTECO, tổng giá trị
theo đơn đặt hàng là 6.006 USD tương đương 92.942.850 VNĐ. Cùng ngày, Tổng
Giám đốc Công ty LOTECO là ông KAZUMASA FUJITA ký chấp nhận trực tiếp vào
“giấy chào hàng” (?) của bên bán (Bản fax của Công ty SEECOM ).
Theo phía SEECOM, hai bên đã giao nhận 04 đồng hồ đo điện vào ngày
22/4/2003. Ngày 26/6/2003 Công ty LOTECO có văn bản gửi Công ty SEECOM về
việc thanh toán nợ tồn đọng của các hợp đồng. Trong đó có nêu việc báo giá đối với
04 đồng hồ đo điện vạn năng của Công ty SEECOM là quá cao so với thị trường và
Công ty LOTECO đã tính lại giá thấp hơn so với giá ban đầu.
Ngoài ra, LOTECO không có khiếu nại gì khác. Do Công ty LOTECO vi phạm
nghĩa vụ thanh toán số tiền còn lại, nên ngày 6/6/2004 Công ty SEECOM có đơn khởi
kiện đến Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu Công ty LOTECO phải
thanh toán khoản tiền mua đồng hồ đo điện vạn năng là: 42.942.850 đồng, và tiền phạt
quá hạn thanh toán cùng các thiệt hại kinh tế khác. Phía LOTECO không thừa nhận
việc tổng giám đốc ký tên vào bản fax là giao kết hợp đồng, mà chỉ thừa nhận đó là đề
nghị giao kết hợp đồng. Việc trả tiền nói trên không phải là thanh toán 50 triệu đồng
cho 04 đồng hồ đo điện vạn năng, mà là thanh toán cho các hợp đồng trước đó, nhưng
phía Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã tự ý hạch toán số tiền 50 triệu đồng trong
100 triệu đồng để chi thanh toán cho 04 đồng hồ, chứ bản chất của khoản tiền nói trên
không phải là thanh toán cho 04 đồng hồ.
86
Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 239/KTST ngày 21/9/2004, TAND thành phố Hồ
Chí Minh đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu của Công ty SEECOM: Công ty phát
triển khu công nghiệp Long Bình (LOTECO) có trách nhiệm thanh toán cho Công ty
TNHH thương mại - xây dựng - vận hành - bảo trì - dịch vụ kỹ thuật điện Sài Gòn
(SEECOM) số tiền còn lại do chưa thanh toán tiền 04 đồng hồ đo điện vạn năng:
42.942.850 đồng.
Ngày 23/9/2004, Công ty LOTECO có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết
định của bản án kinh tế sơ thẩm nêu trên (trừ hợp đồng số 9-2003/SEECOM-HĐKT).
Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 03/KTPT ngày 17/01/2005, Toà phúc thẩm TAND tối
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xác định fax chào hàng của SEECOM có chữ ký chấp
nhận chào hàng của LOTECO không phải là hợp đồng mà chỉ là đề nghị giao kết hợp
đồng, nên đã quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của LOTECO, sửa
bản án kinh tế sơ thẩm như sau: Công ty SEECOM phải nhận lại 04 đồng hồ đo điện
vạn năng (Power -Monitor Unit) như ghi trong biên bản giao nhận hàng hoá ngày
22/4/2003 do LOTECO giao trả và có trách nhiệm hoàn cho LOTECO số tiền
50.000.000 đồng.
Bản án của cấp phúc thẩm đã bị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị
bởi Quyết định kháng nghị số 04/2005/KT-TK ngày 15/8/2005, với lý do Toà án cấp
phúc thẩm đã nhận định không đúng về việc xác lập quan hệ hợp đồng mua bán đối
với 04 đồng hồ đo điện vạn năng qua bản fax và đề nghị HĐTP - TAND tối cao xét xử
giám đốc thẩm theo hướng huỷ một phần bản án kinh tế phúc thẩm nêu trên.
Cấp giám đốc thẩm xác định việc mua bán 04 đồng hồ đo điện vạn năng vào
ngày 22/4/2003 giữa LOTECO với SEECOM có giá trị pháp lý vì việc tổng giám đốc
của LOTECO ký tên vào bản fax của SEECOM đã thể hiện là đã giao kết hợp đồng.
Toà án cấp phúc thẩm nhận định đây không phải hợp đồng viết, chỉ là phiếu đặt mua
hàng và không đóng dấu của Công ty, nên mới chỉ là đề nghị giao kết hợp đồng chứ
chưa phải là hợp đồng, để buộc Công ty SEECOM nhận lại 04 đồng hồ đo điện vạn
năng; trong khi chưa kiểm tra đối chiếu với các quy định tại Điều 11 Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế và Điều 51, Điều 55 Luật thương mại, là chưa đúng pháp luật. Bởi vậy,
HĐTP đã tuyên huỷ bản án kinh tế phúc thẩm số 03/KTPT ngày 17/01/2005 của Toà
phúc thẩm TAND tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và giữ nguyên bản án kinh tế sơ
thẩm số 239/KTST ngày 21/9/2004 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
87
Phụ lục số 03
Quyết định GĐT Số: 23/2008/DS-GĐT ngày 28/8/2008 của HĐTP - TANDTC
Về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, với bị đơn là bà Ngô Thị Thu Hoa.
Nội dung tóm tắt: Đầu tháng 10/1994, nguyên đơn nhận chuyển nhượng lô đất
2000 m2 của Công ty Xây dựng và Phát triển nhà quận 4 (sau đây gọi tắt là Công ty)
với giá 390 lượng vàng (Hợp đồng không ghi ngày tháng, chỉ ghi năm 1994). Nguyên
đơn đã đóng tiền đợt 1 cho công ty là 240 lượng vàng, còn thiếu 150 lượng và nguyên
đơn đã chuyển nhượng lại lô đất này cho bị đơn với giá 540 lượng vàng (chênh lệch
150 lượng so với giá của Công ty).
Theo sự tự thỏa thuận của hai bên, ngày 10/10/1994 bị đơn đã giao lại cho bà
240 lượng vàng để thanh toán số vàng mà bà đã giao đợt 1 cho Công ty. Ngày
15/10/1994 nguyên đơn có đơn gửi Công ty xin đổi tên của nguyên đơn trong hợp
đồng chuyển nhượng đất sang tên ông Hồ Văn Thuận (chồng của bị đơn). Cùng ngày,
Công ty đã ký “hợp đồng chuyển nhượng nhà đất” số 180/HĐCN với bên mua đứng
tên ông Hồ Văn Thuận, nội dung tương tự như hợp đồng đã ký với nguyên đơn (bà
Hành); nguyên đơn ký thay ông Thuận ở mục đại diện bên mua. Hợp đồng này có hiệu
lực từ ngày 10/10/1994. Ông Thuận đã được công ty tạm giao đất ngày 29/8/2005. Sau
nhiều lần yêu cầu bị đơn trả số vàng còn thiếu, nhưng bị đơn lẩn tránh, không chịu
thanh toán, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Bản án số 194/2007/DS-ST ngày 30/01/2007, TAND thành phố Hồ Chí Minh
quyết định: hợp đồng giữa ông Thuận giao kết với Công ty ngày 15/10/1994 (có hiệu
lực từ 10/10/1994) là hợp đồng vô hiệu, nguyên đơn trả lại cho bị đơn số vàng đã
nhận; ông Thuận trả lại phần đất đã được Công ty tạm giao để nguyên đơn được tiếp
tục thực hiện hợp đồng với công ty. Bị đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm. Tòa Phúc thẩm
TANDTC tại Tp. Hồ Chí Minh xử phúc thẩm tại Bản án số 122/2007/DSPT ngày
24/4/2007: tuyên hủy hợp đồng số 180/HĐCN giữa ông Thuận (do bà Hạnh ký thay)
với Công ty; hủy tờ Đơn xin đổi tên chuyển nhượng điền ngày 15/10/1994 của bà
Hạnh; các vấn đề khác giải quyết như phán quyết của cấp sơ thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2008/DS-GĐT ngày 28 tháng 8 năm 2008,
HĐTP - TANDTC đã phán xử: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 122/2007/DSPT ngày
24/4/2007 của Toà phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân
sự sơ thẩm số 194/2007/DS-ST ngày 30/01/2007 của TAND Tp. Hồ Chí Minh về vụ
án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là
bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với bị đơn là bà Ngô Thị Thu Hoa.
88
Theo tòa cấp giám đốc thẩm, “Hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa Công ty với
bà Hạnh là hợp pháp, nhưng bà Hạnh đã tự nguyện chấm dứt hợp đồng và được Công
ty đồng ý, nên lô đất 2000m2 vẫn thuộc quyền sử dụng của Công ty”. Về hợp đồng (bà
Hạnh ký thay ông Thuận), cấp giám đốc thẩm cho rằng, “tuy không có văn bản về việc
ông Thuận ủy quyền cho bà Hạnh ký thay tại hợp đồng nêu trên, nhưng bà Hạnh là
người đóng dùm vàng cho Công ty để ông Thuận nhận chuyển nhượng nhà đất, ông
Thuận không phản đối việc bà Hạnh ký thay và vẫn thực hiện hợp đồng sang nhượng
nhà đất với Công ty (ông Thuận được Công ty tạm giao đất vào ngày 29/8/2005), nên
việc bà Hạnh ký thay ông Thuận tại hợp đồng sang nhượng đất với Công ty không vi
phạm Điều 154, Điều 155 Bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01/7/1996”. Về số tiền
chênh lệch, theo cấp giám đốc thẩm nhân định: “bà Hạnh chưa có quyền sử dụng đất,
còn vợ chồng ông Thuận không thực hiện thỏa thuận miệng về việc trả số tiền chênh
lệch cho bà Hạnh; do đó, cả hai bên đều có lỗi, nên số vàng chênh lệch (150 lượng)
phải được chia đôi, mỗi bên chịu 1/2”. Bởi vậy, tòa giám đốc thẩm phán xử: công
nhận hiệu lực của hợp đồng số 180/HĐCN giữa ông Thuận (do bà Hạnh ký thay) với
Công ty; buộc bị đơn tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn khoản chênh lệch là 75 lượng
vàng.
Phụ lục số 04
Bản án số 14/GĐT ngày 26/01/1999 của Tòa Dân sự TANDTC
về “hợp đồng tặng cho nhà đất”
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Dung với bị đơn là ông Nguyễn Đại Ý.
Nội dung tóm tắt: Năm 1979, cụ Tặng có làm văn bản có đầy đủ chữ ký của hai
bên là cụ Tặng và ông Ý với sự chứng kiến của bà Dung (con gái cụ Tặng) để chuyển
nhượng 2 căn nhà 7 gian diện tích 325 m2 cho bị đơn, với điều kiện là bị đơn phải
chăm sóc nuôi dưỡng cụ; khi cụ chết thì mai táng cụ, chăm lo giỗ tết và cúng giỗ cho
cụ và ông bà của cụ. Cụ Tặng đã giao nhà; bị đơn đã nhận và hoàn tất thủ tục quyền sở
hữu nhà vào năm 1994. Sau khi nhận nhà, bị đơn đã sửa chữa, làm lại thành nhà mới
(4 gian lợp ngói và hai chái bếp) và giao nhà cho con tên là Dương ở để chăm sóc vợ
chồng cụ Tặng. Năm 1986, cụ ông chết, Dương lo mai táng, cúng giỗ đầy đủ. Năm
1993, Dương vào Nam sinh sống, không có ai chăm sóc cụ bà. Vì thế, nguyên đơn (bà
Dung là con gái hai cụ) đã đón cụ bà về để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Năm
1995, nguyên đơn khởi kiện đòi lại nhà đất, vì cho rằng bị đơn đã không chăm sóc cụ
bà đầy đủ như cam kết.
Vụ việc được TAND huyện Nam Ninh xét xử sơ thẩm tại Bản án số 60/DSST
ngày 29/3/1996: công nhận hợp đồng tặng cho giữa cụ Tặng với bị đơn có hiệu lực;
89
buộc bị đơn phải thanh toán 7 triệu đồng tiền chi phí để nguyên đơn thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dưỡng cụ bà. Bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Ngày 23/5/1996, TAND
tỉnh Nam Hà (cũ) đã xử phúc thẩm tại Bản án số 39/DSPT, tuyên bác kháng cáo của
nguyên đơn, ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn thanh toán cho nguyên đơn 9 triệu
đồng. Bản án phúc thẩm bị kháng nghị. Tòa Dân sự TANDTC đã xét xử lại theo thủ
tục giám đốc thẩm tại Quyết định số 14/GĐT-DS ngày 26/01/1999, tuyên hủy bản án
phúc thẩm, giao vụ án về TAND tỉnh Nam Định xử lại theo hướng: đáng lý phải hủy
hợp đồng tặng cho nhà giữa cụ Tặng với bị đơn, vì theo cấp Giám đốc thẩm “đây là
hợp đồng tặng cho nhà có điều kiện và những điều kiện được đặt ra mới chỉ thực hiện
được một phần”. Nhưng do “ông Ý đã nhận nhà đất, đã làm lại toàn bộ và thực hiện
việc chăm sóc vợ chồng cụ Tặng trên một thời gian dài…” “nên cần chấp nhận cho
ông Ý được sở hữu, sử dụng ½ nhà đất của cụ Tặng và xem xét việc thanh toán nghĩa
vụ, thanh toán chênh lệch tài sản thỏa đáng”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật và định hướng hoàn thiện.pdf