Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới việc mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã ký kết và tham gia
nhiều điều ước, trong đó có các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý được ký kết
giữa Nhà nước ta với các nước khác. Các hiệp định này được ký kết đã đánh dấu
những bước phát triển mới trong quan hệ pháp lý quốc tế giữa nước ta với các nước có
liên quan trong nhiều lĩnh vực tư pháp và pháp lý, góp phần mở rộng quan hệ pháp lý
quốc tế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của công dân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc
hợp tác giải quyết nhiều vấn đề pháp lý đa dạng và phức tạp về hình sự, dân sự, hôn
nhân-gia đình giữa Nhà nước, công dân Việt Nam với các Nhà nước và công dân của
các nước hữu quan. Điều này đã góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện chính
sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta và chính sách hợp tác, tương trợ về tư pháp và
pháp lý giữa nước ta với các quốc gia khác, trên cơ sở độc lập, chủ quyền, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa-xã hội của cả nước. Trong thời gian
qua việc mở rộng mối quan hệ giao lưu về các lĩnh vực chính trị, văn hóa xã hội, kinh
tế, pháp luật đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Về lĩnh
vực pháp luật nói riêng, những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thực
hiện tốt hợp tác quốc tế với Tòa án nước ngoài trong việc ủy thác tư pháp quốc tế,
cùng nhau hợp tác giải quyết nhiều vấn đề về hình sự, dân sự, hôn nhân-gia đình,
kinh tế, lao động.
I. CÁC HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP.
Hiệp định tương trợ tư pháp là Điều ước quốc tế quan trọng, được ký kết với danh
nghĩa Nhà nước, nhằm điều chỉnh quan hệ giữa nước ta và nước ngoài về tương trợ tư
pháp như: lập, tống đạt giấy tờ, điều tra thu thập chứng cứ, công nhận và thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án về các vấn đề dân sự, tiến hành khám xét, thu giữ,
chuyển giao vật chứng, tiến hành giám định, lấy lời khai của các bên, người làm
chứng, bị cáo và những người khác là đối tượng của các vụ điều tra hình sự, dẫn độ để
truy tố hình sự hoặc để thi hành bản án.
Cho đến nay, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ký kết hợp định tương trợ tư pháp và
pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự với nhiều nước (Cộng hòa
Séc và Slovakia, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Cuba, CHND Hunggari, CHND
Bungari, CH Ba Lan, CHDCND Lào, Liên bang Nga, CHND Trung Hoa, CH Pháp,
Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút). Để áp dụng thống nhất các quy định trong Hiệp định, Nhà
nước ta cũng đã ban hành 2 văn bản hướng dẫn quan trọng:
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2934 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu thập chứng cứ ở nước ngoài và ủy thác quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THU THẬP CHỨNG CỨ Ở NƯỚC NGOÀI VÀ ỦY THÁC QUỐC TẾ
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới việc mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã ký kết và tham gia
nhiều điều ước, trong đó có các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý được ký kết
giữa Nhà nước ta với các nước khác. Các hiệp định này được ký kết đã đánh dấu
những bước phát triển mới trong quan hệ pháp lý quốc tế giữa nước ta với các nước có
liên quan trong nhiều lĩnh vực tư pháp và pháp lý, góp phần mở rộng quan hệ pháp lý
quốc tế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của công dân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc
hợp tác giải quyết nhiều vấn đề pháp lý đa dạng và phức tạp về hình sự, dân sự, hôn
nhân-gia đình giữa Nhà nước, công dân Việt Nam với các Nhà nước và công dân của
các nước hữu quan. Điều này đã góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện chính
sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta và chính sách hợp tác, tương trợ về tư pháp và
pháp lý giữa nước ta với các quốc gia khác, trên cơ sở độc lập, chủ quyền, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa-xã hội của cả nước. Trong thời gian
qua việc mở rộng mối quan hệ giao lưu về các lĩnh vực chính trị, văn hóa xã hội, kinh
tế, pháp luật đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Về lĩnh
vực pháp luật nói riêng, những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thực
hiện tốt hợp tác quốc tế với Tòa án nước ngoài trong việc ủy thác tư pháp quốc tế,
cùng nhau hợp tác giải quyết nhiều vấn đề về hình sự, dân sự, hôn nhân-gia đình,
kinh tế, lao động.
I. CÁC HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP.
Hiệp định tương trợ tư pháp là Điều ước quốc tế quan trọng, được ký kết với danh
nghĩa Nhà nước, nhằm điều chỉnh quan hệ giữa nước ta và nước ngoài về tương trợ tư
pháp như: lập, tống đạt giấy tờ, điều tra thu thập chứng cứ, công nhận và thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án về các vấn đề dân sự, tiến hành khám xét, thu giữ,
chuyển giao vật chứng, tiến hành giám định, lấy lời khai của các bên, người làm
chứng, bị cáo và những người khác là đối tượng của các vụ điều tra hình sự, dẫn độ để
truy tố hình sự hoặc để thi hành bản án.
Cho đến nay, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ký kết hợp định tương trợ tư pháp và
pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự với nhiều nước (Cộng hòa
Séc và Slovakia, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Cuba, CHND Hunggari, CHND
Bungari, CH Ba Lan, CHDCND Lào, Liên bang Nga, CHND Trung Hoa, CH Pháp,
Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút). Để áp dụng thống nhất các quy định trong Hiệp định, Nhà
nước ta cũng đã ban hành 2 văn bản hướng dẫn quan trọng:
Thông tư liên bộ số 139/TT-LB ngày 12/3/1984 của Bộ Tư pháp-Viện kiểm sát nhân
dân tối cao-Tòa án nhân dân tối cao-Bộ Nội vụ-Bộ Ngoại giao về việc thi hành Hiệp
định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự đã ký
giữa nước ta với Liên Xô và các nước XHCN.
Thông tư số 163/HTQT ngày 25/3/1993 của Bộ Tư pháp về việc thực hiện ủy thác tư
pháp của Tòa án nước ngoài.
Trong bài tham luận này, tôi chỉ trình bày về một số tình hình thực tiễn thu thập
chứng cứ ở nước ngoài và ủy thác tư pháp quốc tế về các vụ án dân sự, hôn nhân-gia
đình. Hiện nay việc tiến hành thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế của Tòa án căn cứ vào
Thông tư số 163/HTQT của Bộ Tư pháp hướng dẫn về tống đạt giấy tờ và lấy lời khai
trong các vụ dân sự do Tòa án nước ngoài thụ lý.
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC ỦY THÁC TƯ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.
1. Việc nhận ủy thác hồ sơ
Theo số liệu thống kê trong 02 năm gần đây (năm 2004 và 5 tháng đầu năm 2005),
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý và giải quyết:
Năm 2004: đã giải quyết 21 hồ sơ đạt tỉ lệ 100%. Cụ thể là:
o Cộng hòa Liên bang Đức (06 hồ sơ): Tòa án sơ thẩm Erfurt, sơ thẩm Freising, sơ
thẩm Kothen, sơ thẩm Gorlar, Magdeburg và Tòa án trung thẩm Gera.
o Cộng hòa Séc (05 hồ sơ): Tòa án Trida, Tòa án huyện tại Ceské, huyện Cheb,
Tòa án sơ thẩm Jesenik và sơ thẩm Praha.
o Cộng hòa Ba Lan (04 hồ sơ): Tòa án khu vực Vacsava, khu vực Zielona Gora,
khu vực Praga và khu vực Lublin.
o Cộng hòa Liên bang Nga (02 hồ sơ): Tòa án Trọng tài thành phố Matxcơva.
o Cộng hòa Pháp (02 hồ sơ): Tòa án phúc thẩm Cộng hòa Pháp.
o CHND Trung Hoa (01 hồ sơ): Tòa án nhân dân Trung Hoa.
o Hunggary (01 hồ sơ): Tòa án sơ thẩm Bộ nội vụ.
5 tháng đầu năm 2005: thụ lý 14 hồ sơ và hiện giải quyết được 09 hồ sơ đạt tỉ lệ
64,29%.
Nơi ủy thác
Thụ lý
Giải quyết
CH Ba Lan
(04 hồ sơ)
-TA khu vực thành phố Tychy.
-TA khu vực Warszawa-Praga.
-Tòa án khu vực Lodz.
-Tòa án tỉnh tại 'Swidnica
(03 hồ sơ)
- TA khu vực Warszawa-Praga
-Tòa án khu vực Lodz.
-Tòa án tỉnh tại 'Swidnica.
CHLB Đức
(03 hồ sơ)
-Tòa án sơ thẩm Kothen.
-Tòa án sơ thẩm Hof.
-Tòa án trung thẩm Berlin
(02 hồ sơ)
-Tòa án sơ thẩm Hof.
-Tòa án trung thẩm Berlin.
Cộng hòa
Pháp
(02 hồ sơ)
-Tòa án phúc thẩm CH Pháp.
(02 hồ sơ)
-Tòa án phúc thẩm CH Pháp.
Cộng hòa
Séc
(02 hồ sơ)
-Tòa án phúc thẩm Jesenik
-Tòa án huyện Ceské.
CHND
Trung Hoa
(01 hồ sơ)
-Tòa án Guangzhau (Quảng Châu).
CH Slovakia
(01 hồ sơ)
-Tòa án quận Tranva.
(01 hồ sơ)
-Tòa án quận Tranva
Hunggary
(01 hồ sơ)
-Tòa án quận IV và XV Budapest
(01 hồ sơ)
-Tòa án quận IV và XV Budapest
Việc thực hiện ủy thác tư pháp các hồ sơ này chủ yếu về tống đạt hồ sơ cho các đương
sự (về các vụ việc ly hôn, tranh chấp tài sản…). Thẩm phán của Tòa án được phân
công giải quyết hồ sơ sẽ gửi giấy báo theo địa chỉ có trong hồ sơ triệu tập người cần
được tống đạt đến Tòa án để thực hiện việc việc tống đạt giấy tờ. Việc tống đạt giấy tờ
được thực hiện chủ yếu tại trụ sở của Tòa án thành phố Hà Nội (trường hợp có lý do
chính đáng theo luật định thì việc tống đạt sẽ được tiến hành tại nơi đương sự cư trú
hoặc nơi làm việc).
Giao cho người cần tống đạt các giấy tờ cần tống đạt gồm 01 bản gốc và 01
bản dịch.
Lập biên bản tống đạt hồ sơ, có chữ ký của Thẩm phán, của cán bộ thư ký, của
người nhận tống đạt và đóng dấu của Tòa án.
Photo Chứng minh thư nhân dân của đương sự cần tống đạt (để xác nhận Tòa
án đã tống đạt các giấy tờ đến đúng đương sự mà Tòa án nước ngoài yêu cầu tống
đạt).
Về thủ tục liên hệ với Tòa án ủy thác và gửi hồ sơ: Tòa án thành phố Hà Nội làm công
văn (kèm Biên bản tống đạt hồ sơ có ký nhận của đương sự + Bản photo Chứng minh
thư nhân dân của đương sự) trả lời về việc đã thực hiện việc tống đạt hồ sơ cho đương
sự và xin gửi kết quả của việc ủy thác cho Tòa án nước ngoài để giải quyết tiếp theo
thẩm quyền. (Phụ lục1-tr.10)
Tuy nhiên, cũng có trường hợp Tòa án Hà Nội gửi lại toàn bộ hồ sơ ủy thác tư pháp
quốc tế cho Tòa án ủy thác thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam do địa chỉ của đương sự
trong hồ sơ ủy thác cung cấp không đầy đủ, rõ ràng và chính xác.Tòa án đã gửi giấy
báo nhiều lần và tiến hành xác minh nhưng không có đương sự cần tống đạt ở địa chỉ
đó hoặc đương sự đã quay trở lại nước sở tại không còn ở tại Việt Nam (VD: Hồ sơ ủy
thác TPQT của Tòa án sơ thẩm Praha - Cộng hòa Séc; Tòa án khu vực Vacsava - Cộng
hòa Ba Lan) hoặc trong hồ sơ chỉ có bản gốc mà không có bản dịch (VD: Hồ sơ ủy thác
TPQT của Tòa án khu vực Zielona Gora - Cộng hòa Ba Lan).
Đối với những trường hợp này thì Tòa án thành phố Hà Nội làm công văn trả lời về việc
đã thực hiện việc tống đạt hồ sơ cho đương sự nhưng không thực hiện được vì lý do
trên và xin gửi lại toàn bộ hồ sơ cho Bộ Tư pháp Việt Nam để giải quyết theo thẩm
quyền (kèm theo công văn có Biên bản xác minh + Hồ sơ ủy thác quốc tế + Công văn
về việc chuyển ủy thác tư pháp quốc tế).
2. Việc gửi ủy thác hồ sư: Theo số liệu thống kê:
Năm 2004: Tổng số là 85 hồ sơ
Năm 2005: Tổng số là 21 hồ sơ ủy thác (tống đạt bản án, quyết định, điều tra…)
Các vấn đề
ủy thác
Quốc gia
Năm 2004
Năm 2005
Ủy thác tống
đạt bản án ly
hôn sơ thẩm
CHLB Đức
11
03
CHLB Nga
05
01
Mỹ
03
CH Ba Lan
02
CH Séc
02
Canada
01
CHDC ND Lào
01
Vương quốc Anh
01
Hàn Quốc
01
Thụy Sĩ
01
Tổng: 28 vụ
4 vụ
Ủy thác tống
đạt quyết
định ly hôn
sơ thẩm
Canada
02
CHLB Đức
02
Italia
01
Tổng: 05 vụ
0 vụ
Ủy thác tống
đạt bản án
dân sự sơ
thẩm
CHLB Đức
01
Malaixia
01
Ucraina
01
CHND Trung Hoa
01
Tổng: 04 vụ
0 vụ
Ủy thác tống
đạt thông báo kết quả xét xử và
thông báo kháng cáo
CHLB Đức
01
01
CH Séc
01
Tổng: 01 vụ
02 vụ
Ủy thác tống
đạt QĐĐC vụ
án ly hôn
Angôla
01
CHLB Đức
01
02
CHLB Nga
01
CH Pháp
01
CH Séc
01
Tổng: 04 vụ
03 vụ
Ủy thác tống
đạt quyết
định đình chỉ
vụ án dân sự
CH Áo
01
CH Ba Lan
01
CHLB Đức
01
01
CHLB Nga
01
Tổng: 03 vụ
02 vụ
Ủy thác điều tra vụ án ly hôn: về các
vấn đề ly hôn, chia tài sản sau ly
hôn, quyền nuôi con và đóng góp phí
tổn nuôi con, thay đổi quyền nuôi
con….
CH Ba Lan
01
CHLB Đức
09
01
CHLB Nga
07
01
Cộng hòa Séc
05
01
Canada
02
Đài Loan
01
Hàn Quốc
02
Anggôla
01
Australia
01
CH Pháp
01
02
Mỹ
01
01
Tổng: 29 vụ
08 vụ
Ủy thác điều tra vụ án dân sự: chủ yếu
lấy lời khai của đương sự, người có
quyền lợi và nghĩa vụ lien quan
CHLB Đức
03 vụ
CH Áo
02 vụ
CH Ba Lan
01 vụ
CHLB Nga
01 vụ
CH Séc
01 vụ
Canada
01
Hàn Quốc
01
Nhật Bản
01
Tổng: 09 vụ
02 vụ
Ủy thác điều
tra vụ án
kinh tế
Hàn Quốc
01 vụ
Thái Lan
01 vụ
Tổng: 02 vụ
0 vụ
Tuy nhiên, cũng còn có những trường hợp Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã có
công văn về việc uỷ thác điều tra vụ án dân sự nhưng vẫn chưa nhận được công văn
trả lời. Do vậy mà Tòa án gửi tiếp công văn ủy thác tư pháp lần thứ hai đề nghị Đại sứ
quán Việt Nam ở các nước sở tại có công dân Việt Nam cư trú (là đương sự hoặc là
người liên quan đến vụ việc Tòa án nhân dân Hà Nội đang giải quyết) để thực hiện ủy
thác tư pháp theo đúng quy định Điều 30 Pháp lệnh lãnh sự quán công bố ngày
24/11/1990. Tòa án thành phố Hà Nội cần lấy lời khai của đương sự, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan về các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án. VD:
trong vụ kiện xin ly hôn, bị đơn đang ở nước ngoài thì cần lấy lời khai về các điểm sau:
Ngày, tháng, năm kết hôn? Có đăng ký kết hôn không, có tự nguyện kết hôn
không?
Cuộc sống chung của vợ chồng đến thời gian nào thì phát sinh mâu thuẫn,
nguyên nhân gì? Nay có đơn xin ly hôn thì có ý kiến, nguyện vọng gì không? Đề
nghị Tòa án xử vắng mặt hay có mặt?
Quá trình chung sống có mấy con chung? Họ, tên, tuổi các con? Nếu Tòa án giải
quyết cho ly hôn thì ai nuôi con, phí tổn đóng góp nuôi như thế nào?
Về tài sản: Tài sản chung có những gì (cần khai rõ)? Đề xuất chia như thế nào và
ủy quyền cho ai giải quyết vấn đề này?
Về nhà ở: có nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay không? Nguyện vọng
của bản thân về vấn đề nhà ở như thế nào?
Ngoài ra nếu bị đơn muốn khai thêm thì ghi thêm vào biên bản.
Dưới đây là số vụ Tòa án Hà Nội gửi công văn uỷ thác điều tra vụ án lần thứ 2:
Tổng số vụ ủy thác điều tra lần thứ 2 là:
12 vụ- năm 2004
05 vụ- 5 tháng đầu năm 2005
Ủy thác
điều tra vụ
án dân sự
Nơi nhận
ủy thác
Năm 2004
Năm 2005
Về ly hôn
Angôla
O1
Australia
01
CHLB Đức
02
CHLB Nga
01
01
Canada
01
CH Séc
01
CH Pháp
01
Đài Loan
01
Mỹ
01
Về dân sự
Áo
01 vụ (về việc tranh chấp hợpđồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất)
CHLB Nga
02 vụ (phụ lục 9-tr.25 v/v hủy hợp đồng mua bán nhà), về đòi quyền sử dụng đất đai)
CH Séc
01 vụ (kiện chia thừa kế)
Hàn Quốc
01 vụ (về tranh
chấp hợp đồng muan bán)
Nhật Bản
01 (việc kiện đòi bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng - phụ lục 6-tr.19)
Tổng số vụ
- Ly hôn: 07 vụ
- Dân sự 05 vụ
- Ly hôn: 04 vụ
- Dân sự: 01 vụ
Trong 17 vụ đã uỷ thác điều tra thì Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội chỉ nhận được
kết quả trả lời 03 vụ.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý.
Các hiệp định tương trợ tư pháp ký kết giữa Việt Nam và nước ngoài cơ bản thống
nhất với nhau về nội dung, nguyên tắc và thể thức giải quyết các vấn đề tư pháp quốc
tế phát sinh giữa các nước kết ước tạo ra một hệ thống các biện pháp tương trợ tư
pháp giữa Việt Nam và các nước hữu quan. Điều này giúp cho khi tiến hành thực hiện
trao đổi các ủy thác tư pháp điều tra xác minh về dân sự, hôn nhân-gia đình, kinh tế
lao động được thuận lợi hơn.
Trong thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về cơ
bản cũng đã có nhiều cố gắng thực hiện đầy đủ việc ủy thác tống đạt hồ sơ, lấy lời
khai đương sự mà Tòa án nước ngoài yêu cầu. Hồ sơ ủy thác của Tòa án nước ngoài
được Thẩm phán nghiên cứu kỹ để xác định đúng và đầy đủ nội dung, yêu cầu được ủy
thác. Tiến độ thực hiện ủy thác đúng thời gian quy định trong công văn của Bộ Tư
pháp. Việc tống đạt giấy tờ cho người cần được tống đạt được thực hiện đúng theo quy
định trong Hiệp định tương trợ tư pháp và đảm bảo đúng thủ tục tố tụng theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp Tòa án nhân dân Hà Nội không thực hiện được
ủy thác. Những trường hợp này rất ít mà nguyên nhân là do địa chỉ của đương sự cần
tống đạt trong hồ sơ ủy thác nhiều khi thiếu chính xác, không rõ ràng và cụ thể, mặt
khác do có sự thay đổi lại số nhà, tên đường phố hay đương sự đã đổi chỗ ở (VD: Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội đã nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp quốc tế số
416/LSQH ngày 21/3/2005 của Đại sứ quán Cộng hòa Slovaki tại Bangkok về việc
tống đạt hồ sơ vụ án xác định cha cho con chưa thành niên cho ông Nguyễn Thân
Giang sinh ngày 21/3/1969, địa chỉ Hồ Trưng Vương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tòa án
nhân dân Hà Nội đã gửi giấy báo nhiều lần và tiến hành xác minh nhưng không có địa
chỉ như hồ sơ đã ghi, quận Hoàn Kiếm không có phố Hồ Trưng Vương). Ngoài ra có
những hồ sơ ủy thác còn thiếu tài liệu ủy thác (như thiếu bản dịch hay trong hồ sơ ủy
thác chỉ có bản để lưu mà thiếu bản tống đạt cho đương sự).
Trong những trường hợp này, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã gửi công văn về
Bộ Tư pháp thông báo rõ và chuyển lại toàn bộ hồ sơ ủy thác tư pháp quốc tế để Bộ
tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền.
Có thể nói Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quan tâm đúng mức đến việc thực
hiện ủy thác tư pháp của Tòa án nước ngoài, chất lượng và số lượng thực hiện ủy thác
về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của Tòa án nước ngoài. Hầu như trong các năm
gần đây đã giải quyết 100% số hồ sơ đã thụ lý. Những trường hợp gửi trả lại toàn bộ
hồ sơ ủy thác về Bộ là do những nguyên nhân khách quan.
Đối với việc uỷ thác tư pháp của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội đối với Toà án
nước ngoài:
Trong những năm qua, những phúc đáp về uỷ thác tư pháp của Toà án nhân dân
Thành phố Hà Nội chỉ đạt kết quả 30% trong tổng số đã uỷ thác.
Theo quy định của pháp luật, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội khi giải quyết về dân
sự, hôn nhân-gia đình, kinh tế, lao động có nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài (nếu họ chưa có lời khai tại Tòa án) đều
phải tiến hành ủy thác điều tra để lấy lời khai của họ, đảm bảo đúng thủ tục tố tụng,
để làm tài liệu xét xử vụ án. Tòa án gửi công văn ủy thác điều tra đến Đại sứ quán
Việt Nam tại nước sở tại, đề nghị Đại sứ quán báo gọi đương sự đến để thông báo và
lấy lời khai về các vấn đề có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên việc ủy thác điều tra
nhiều khi không đạt kết quả cao, có nhiều vụ Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
không nhận được công văn trả lời. Để đảm bảo thủ tục tố tụng, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự theo quy định của pháp luật, nên Tòa án tiếp tục gửi công
văn ủy thác điều tra vụ án lần thứ 2. Chính việc trả lời chậm trễ này đã gây rất nhiều
khó khăn cho Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ việc, thời gian kéo dài, tốn công tốn
sức ảnh hưởng đến cuộc sống của những người tham gia vụ kiện. Đối với những
trường hợp 02 lần uỷ thác không nhận được kết quả dẫn đến việc đã hết thời hạn
chuẩn bị xét xử mà Pháp luật quy định, phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì vụ
án lại chưa được kết thúc, gây khó khăn cho các đương sự. Do vậy, đối với những vụ
án Dân sự, Hôn nhân và gia đình, sau khi Toà án xét xử sơ thẩm vắng mặt những
người tham gia tố tụng do họ đang định cư hoặc lằm ăn sinh sống ở nước ngoài, Toà
án gửi bản án, quyết định qua Bộ Tư Pháp và Đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài để
tống đạt cũng chậm nhận được kết quả (nếu 03 tháng kể từ ngày giao hồ sơ uỷ thác
tống đạt mà không có kết quả trả lời thì bản án sơ thẩm đã xét xử vắng mặt đương sự
mặc nhiên có hiệu lực pháp luật) thì đối với việc uỷ thác tống đạt quyết định, bản án
của Toà án cho đương sự là người nước ngoài ở nước ngoài lại càng vô cùng khó khăn,
hâu như Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội chưa bao giờ nhận được kết quả tống đạt.
Trường hợp đương sự không còn ở địa chỉ cũ do đã chuyển đi nơi khác không rõ địa chỉ
mới mà không thực hiện được việc ủy thác điều tra hoặc đương sự cố tình không chịu
khai báo thì cơ quan được ủy thác cũng nên sớm thông báo bằng văn bản cho Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội biết để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có hiệu lực
pháp luật ngày 01 tháng 01 năm 2005, là một trong những điều kiện quan trọng
trong việc thống nhất áp dụng và thực hiện chính xác các quy định trong lĩnh vực
tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự ( quy định tại chương XXXVI ), tạo điều kiện
để chúng ta thực hiện tốt hơn công việc ủy thác tư pháp quốc tế, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của mọi công dân khi tham gia tố tụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thu thập chứng cứ ở nước ngoài và ủy thác quốc tế.doc