Chuyên mục: Luật dân sựTrường: ĐH Luật Hồ Chí MinhLoại: Đề tài tốt nghiệpFile: docTrình độ: Đại họcSố trang: 108
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội phát sinh từ lâu ở nhiều nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Theo pháp luật của Việt Nam hiện nay thì:
Nuôi con nuôi được coi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của pháp luật [34].
Vấn đề cho và nhận con nuôi ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng và nó không chỉ nằm trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam, mà còn vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ Quốc gia. Ở Việt Nam, chế định nuôi con nuôi bao gồm chế định nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở trong nước (hay còn gọi là nuôi con nuôi trong nước) và chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Ngoài ra, việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau mà bên được nhận làm con nuôi là trẻ em không quốc tịch thường trú tại Việt Nam cũng được hiểu là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài).
Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn ngày 20 tháng 02 năm 1990 có ghi :
Các quốc gia thành viên mà công nhận hoặc cho phép chế độ nhận làm con nuôi phải bảo đảm rằng những lợi ích tốt nhất của trẻ em là mối quan tâm cao nhất và các quốc gia phải:
công nhận rằng việc cho trẻ em ra nước ngoài làm con nuôi có thể được coi như một biện pháp thay thế của việc chăm sóc trẻ em, nếu như trẻ em đó không thể gửi được cho một gia đình chăm nom hay nhận nuôi, hoặc không thể nào được chăm sóc một cách thích hợp bất kỳ nào ở ngay tại nước nguyên quán của trẻ em [11]
Một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nuôi con nuôi là ưu tiên, chú trọng việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước, trên cơ sở kết hợp các hình thức nuôi dưỡng thích hợp ngay tại cộng đồng; chỉ coi việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể thu xếp được gia đình nuôi ở trong nước, bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em; tiến tới hạn chế và dần dần chấm dứt việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài khi các điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam đủ để bảo đảm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em ở trong nước. Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường thì “Vấn đề nuôi con nuôi được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước”.
Cho đến nay chưa có một công trình chuyên sâu nào khảo cứu về lịch sử phát triển của chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam, nên thật khó để khẳng định chế định này xuất hiện lần đầu tiên trong cổ luật Việt Nam từ khi nào. “Nhưng trong Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê - đạo luật thành văn cổ xưa nhất mà chúng ta còn lưu giữ được và trong tập luật lệ mang tên Hồng Đức thiện chính thư, cũng được ban hành dưới triều Lê thì chế định con nuôi đã được quy định” [50, tr.110], và kể từ đó thì các chế định nuôi con nuôi trong nước đã ngày càng được hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội từng thời kỳ.
Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước còn tồn tại nhiều hạn chế như: Nuôi con nuôi không đăng ký, có nghĩa là sự kiện pháp lý này chưa được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục do pháp luật quy định, vì vậy chưa có hiệu lực pháp lý, quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi này không được pháp luật bảo vệ như quyền hưởng di sản thừa kế ; Lợi dụng quy định về nuôi nuôi con nuôi để thực hiện những hành vi bắt cóc, mua bán trẻ em hoặc nhằm mục đích trục lợi khác, không phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi (cho con nuôi để được xuất cảnh ra nước ngoài, cho làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi ngộ của nhà nước đối với những người này, cho con nuôi để sinh con thứ ba mà không bị xử lý vi phạm nghĩa vụ kế hoạch hoá gia đình .; Việc tìm cho trẻ một gia đình thích hợp ở trong nước chưa được chú trọng, thậm trí ở một số nơi còn khó khăn. Có cơ sở nuôi dưỡng còn giữ trẻ lại để giới thiệu cho người nước ngoài làm con nuôi, mà không giới thiệu cho người Việt Nam trong nước nhận các em làm con nuôi khi họ có nguyện vọng
Căn nguyên của những tồn tại trên là việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi đã bị tác động bởi nhiều yếu tố như thể chế, năng lực cán bộ Tư pháp hộ tịch, ý thức pháp luật của người dân, do tác động của phong tục tập quán .
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa làm rõ những ưu điểm, hạn chế, vừa đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, đảm bảo việc cam kết của Việt Nam khi gia nhập Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng như việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về việc thực hiện nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước. Do đó, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sĩ sẽ đáp ứng được phần nào những đòi hỏi cấp bách nói trên cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, việc thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và pháp luật, là biện pháp cơ bản để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố trật tự pháp luật. Vấn đề thực hiện pháp luật đã được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện pháp luật và vấn đề nuôi con nuôi đã được công bố như:
- Đề tài “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay - Thực trạng và các phương hướng, giải pháp”, luận văn thạc sĩ của Lê Thanh Bình, Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Đề tài “Thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái”, luận văn thạc sĩ của Hà Thành Đê, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- Đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Lan, Đại học luật Hà Nội, 2000;
- Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học pháp lý và Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp, 2003;
- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Phương Lan, Đại học luật Hà Nội, 2007.
Nhìn chung các công trình, xuất bản phẩm trên đây đã được các tác giả nghiên cứu nghiêm túc, đóng góp được rất nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật nói chung và những vấn đề liên quan đến lĩnh vực nuôi con nuôi dưới góc độ là một chế định của Ngành luật dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống về thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Vì vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sĩ là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, phân tích làm rõ cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
+ Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước trong thời gian qua.
+ Đưa ra những giải pháp để thực hiện có hiệu quả pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước từ năm 2001 đến năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật; thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước nói riêng.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của khoa học thống kê, phân tích tài liệu thứ cấp.
6. Đóng góp khoa học mới của luận văn:
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, toàn diện về thực hiện pháp luật nuôi con nuôi trong nước, vì vậy có những đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích các khái niệm, nội dung việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
- Đánh giá thực trạng và những yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
7. Ý nghĩa của luận văn:
- Về lý luận: Góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ, sinh viên trong các trường đào tạo luật chuyên ngành; góp phần làm cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương, 9 tiết.
107 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4372 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết tại trụ sở trong thời hạn 30 ngày để tìm gia đình thay thế cho trẻ em ngay sau khi thực hiện thủ tục thông báo mà không tìm thấy thân nhân cho trẻ em theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Thủ tục này được thực hiện ngay sau khi Uỷ ban nhân dân cấp xã hoàn tất thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi tại địa phương. Quy định này nhằm bảo đảm trẻ em có cơ hội được đoàn tụ với cha mẹ đẻ hoặc người thân. Nếu sau khi hết thời hạn thông báo tìm thân nhân của trẻ em theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch mà không có thân nhân của trẻ em đến nhận thì Uỷ ban nhân dân cấp xã mới tiến hành tìm gia đình thay thế trong nước.
Đối với cơ sở nuôi dưỡng trẻ em: Đối với những trẻ em được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng, Sở Lao động Thương binh và Xã hội hoặc cơ quan chủ quản có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh, trong thời hạn 30 ngày. Khi hết thời hạn này mà không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm lập danh sách trẻ em, kèm theo hồ sơ, gửi Sở Tư pháp thẩm tra, trước khi chuyển cho Bộ Tư pháp.
Đối với trẻ em bị bỏ rơi tại cơ sở y tế phải được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng để chăm sóc, nuôi dưỡng và tìm gia đình thay thế theo trình tự nêu trên.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo trên Cổng thông tin điện tử trong thời hạn 30 ngày tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em. Đây sẽ là biện pháp tạo điều kiện cho trẻ em có khả năng tìm được gia đình thay thế trên phạm vi toàn quốc.
Cùng với đó, Luật cần quy định việc công dân Việt Nam và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện theo quy định của Luật này muốn nhận trẻ em làm con nuôi mà chưa xác định được trẻ em cần xin con nuôi, thì nộp đơn theo mẫu quy định để đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp, nơi thường trú hoặc với Bộ Tư pháp. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho người có nguyện vọng xin nhận nuôi con nuôi trong nước nhưng chưa xác định được trẻ em cần xin làm con nuôi, thì có thể đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú hoặc Bộ Tư pháp. Sẽ có ý kiến cho rằng, việc đăng ký nhu cầu xin con nuôi nên thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, vì Uỷ ban nhân dân cấp xã là nơi có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc đăng ký nhu cầu tại Uỷ ban nhân dân cấp xã là không khả thi vì, thực tế cho thấy, người xin nhận con nuôi nhất là con nuôi trọn vẹn thường có tâm lý muốn giữ bí mật việc nhận trẻ em làm con nuôi, hoặc do tâm lý e ngại đứa trẻ sẽ nhanh biết về nguồn gốc nếu nhận trẻ em cùng địa phương làm con nuôi, như thế sẽ khó hoà nhập. Vì vậy, họ thường muốn nhận trẻ em từ các địa phương khác, tỉnh khác làm con nuôi. Do đó, nếu quy định người nhận con nuôi đăng ký nhu cầu tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, thì rất khó khả thi. Mặt khác, trong địa bàn xã, số trẻ em cần cho làm con nuôi chắc chắn không nhiều và xã cũng không quản lý cơ sở nuôi dưỡng trẻ em. Vì vậy, quy định người có nhu cầu xin trẻ em làm con nuôi mà không xác định được trẻ em, thì đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú hoặc với Bộ Tư pháp là hợp lý. Vì Sở Tư pháp hoặc Bộ Tư pháp là nơi tổng hợp danh sách trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi do cơ sở nuôi dưỡng trẻ em gửi đến, nên sẽ là nơi giới thiệu trẻ em để làm con nuôi trong nước.
+ Về việc cho phép đăng ký đối với nuôi con nuôi thực tế
Một bất cập lớn trong giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước là mặc dù đã có đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc đăng ký nuôi con nuôi như đã nêu ở trên, nhưng trên thực tế, rất nhiều quan hệ nuôi con nuôi được xác lập, nhưng lại không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tình trạng nuôi con nuôi không đăng ký không chỉ phổ biến trong bà con các dân tộc thiểu số ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, mà còn ở cả vùng nông thôn, thậm chí ngay cả ở thành phố. Mặt tích cực của việc nhận con nuôi theo kiểu tự phát (nhận nuôi con nuôi mà không đăng ký) cũng đã phản ánh truyền thống lá lành đùm lá rách, nhân đạo, nghĩa tình trong đời sống nhân dân. Trong một giai đoạn nhất định của lịch sử dân tộc, nó là hiện tượng cần được khuyến khích. Nhưng xét trên khía cạnh pháp lý, thì việc nuôi con nuôi như vậy đã để lại những hệ quả pháp lý khá phức tạp, đặc biệt là khi phát sinh những tranh chấp liên quan đến tài sản trong quan hệ thừa kế.
Với những trường hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi nhưng không đăng ký, đến một thời điểm nào đó cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi mong muốn được pháp luật thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi của họ, thì nhiều trường hợp, yêu cầu đăng ký việc nuôi con nuôi của họ lại không được giải quyết vì người con nuôi đã trên 15 tuổi, quá tuổi mà pháp luật quy định được đăng ký làm con nuôi.
Cho đến nay, mới chỉ có duy nhất một văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ nuôi con nuôi thực tế, đó là Nghị định số 32/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ quy định đối với các trường hợp nhận nuôi con nuôi của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001 nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Những trường hợp nhận nuôi con nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001, ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực pháp luật, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi. Nếu có tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do Toà án giải quyết.
Theo quy định của Nghị định này, thì để pháp luật công nhận một quan hệ nuôi con nuôi thực tế, phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
4Quan hệ nuôi con nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
4Có đủ điều kiện theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000;
4Trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Phân tích kỹ về câu chữ, thì thấy rằng người dân chẳng được hưởng lợi gì từ quy định này. Với yêu cầu vào thời điểm công nhận nuôi con nuôi thực tế phải có đủ điều kiện theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng nghĩa với việc con nuôi phải từ 15 tuổi trở xuống. Như phần trên đã trình bày, vướng mắc lớn nhất khi công nhận quan hệ nuôi con nuôi thực tế là đến khi người dân có yêu cầu đăng ký, thì con nuôi đã quá 15 tuổi; do vậy quy định về công nhận quan hệ nuôi con nuôi thực tế theo quy định tại Nghị định số 32/2002/NĐ-CP không có gì mới so với quy định về đăng ký nuôi con nuôi theo thủ tục thông thường; do đó, vướng mắc này cho đến nay vẫn không được tháo gỡ. Có chăng, ở điều khoản này chỉ mở ra trong trường hợp: Nếu có tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do Toà án giải quyết. Từ quy định này, vô hình chung cũng đã công nhận quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế (nhưng phải phát sinh tranh chấp), qua đó mà Toà án nhân dân sẽ giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
Để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, nhất là quyền lợi của trẻ em, cần phải có quy định việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền trước ngày Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, nhưng quan hệ giữa cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đã phát sinh trên thực tế, được cộng đồng dân cư chấp nhận, thì được khuyến khích đăng ký trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Cần phải có quy định về thủ tục đăng ký đối với việc nuôi con nuôi này, bảo đảm thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của người dân ở các vùng, miền. Đây chỉ là giải pháp quá độ, kể từ khi Luật mới có hiệu lực, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân để nâng cao nhận thức của người dân trong việc đăng ký nuôi con nuôi; việc nuôi con nuôi không đăng ký sau ngày Luật mới này có hiệu lực sẽ không được công nhận.
+ Bổ sung quy định về giám sát việc nuôi con nuôi
Cần có quy định về việc giao cho cơ quan, tổ chức giám sát, theo dõi cha, mẹ nuôi trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi để bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ. Quy định này sẽ hạn chế được tình trạng hành hạ, ngược đãi con nuôi như đã xảy ra trong thời gian vừa qua.
- Sửa đổi một số quy định hiện hành về nuôi con nuôi để đưa vào Luật nuôi con nuôi
Trong quá trình áp dụng những quy định hiện hành của pháp luật về nuôi con nuôi trong nước đã phát sinh không ít những bất cập cần được kịp thời tháo gỡ. Những quy định này cần phải được nghiên cứu sửa đổi để đưa vào Luật Nuôi con nuôi. Cụ thể:
+ Về người ký Giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi
Theo quy định tại Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000, thì việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ.
Theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 01/2008/TT-BTP, thì Giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi bắt buộc phải có chữ ký của cha, mẹ đẻ (trong trường hợp trẻ được cho làm con nuôi có cha mẹ đẻ), kể cả trong trường hợp cha, mẹ đẻ đã ly hôn; chỉ trong 2 trường hợp sau đây thì người nhận nuôi con nuôi tự khai vào Tờ khai đăng ký việc nhận nuôi con nuôi để thay cho Giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi:
4Trẻ được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi, không tìm được cha, mẹ đẻ mà chưa được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng;
4Cả cha và mẹ đẻ của trẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người hoặc tổ chức giám hộ.
Quy định này xuất phát từ việc bảo đảm chặt chẽ trong quy trình cho và nhận con nuôi. Tuy nhiên, thực tế giải quyết đăng ký việc nuôi con nuôi đã cho thấy việc bắt buộc phải có ý kiến của cha mẹ đẻ trong một số trường hợp là không khả thi (do không thể liên lạc được với cha, mẹ đẻ). Ví dụ:
4Cha, mẹ đã ly hôn, đứa trẻ ở với cha hoặc mẹ, người còn lại bỏ đi nơi khác làm ăn;
4Người mẹ sinh con xong để lại con cho người cha nuôi, đi nơi khác làm ăn;
4Trẻ sinh ngoài giá thú, người mẹ để con cho ông, bà hoặc người thân khác rồi đi nơi khác làm ăn.
Không lấy được ý kiến của cha, mẹ đẻ đồng nghĩa với việc không làm được thủ tục đăng ký nuôi con nuôi. Cũng chính vì vướng mắc này mà trên thực tế đã có không ít những đứa trẻ không được đi làm con nuôi, mặc dù cuộc sống hiện tại của chúng rất khó khăn, bản thân người hiện đang nuôi dưỡng không thể có điều kiện để tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục đứa trẻ. Để bảo đảm quyền lợi cho những đứa trẻ thiệt thòi, một số địa phương sau khi xác minh thấy không thể tìm được người cha hoặc người mẹ để lấy ý kiến, thì đã giải quyết cho đăng ký việc nuôi con nuôi. Sự “phá rào” này chính là xuất phát từ quyền lợi của những đứa trẻ; bởi cứ cứng nhắc thực hiện theo quy định, thì những đứa trẻ đã sớm phải chịu thiệt thòi sẽ lại tiếp tục phải sống tiếp một cuộc sống thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất.
Cần bổ sung người được quyền ký giấy thoả thuận cho con nuôi:
Theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP thì trong trường hợp cha hoặc mẹ đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì khi cho làm con nuôi chỉ cần ý kiến của người còn lại. Ông bà nội, ngoại hoặc cô, dì, chú, bác của đứa trẻ không hề biết cháu mình đã được cho đi làm con nuôi. Như vậy, đứa trẻ không có cơ hội được sống trong gia đình ruột thịt của mình. Vì vậy, cần quy định trong những trường hợp như trên, thì khi cho trẻ đi làm con nuôi cần có sự đồng ý của ông, bà, cô, dì, chú, bác…
+ Về mục đích xin nhận con nuôi
Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Như phần trên đã đề cập đến một thực trạng là trong một vài năm trở lại đây, ở các địa phương xuất hiện một số trường hợp lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước. Những trường hợp này chỉ làm thủ tục đăng ký việc nhận nuôi con nuôi danh nghĩa, mà không thực sự có quan hệ nuôi dưỡng (con nuôi không về chung sống với cha mẹ nuôi). Có ý kiến cho rằng, việc nuôi con nuôi này đương nhiên bị nghiêm cấm, vì việc nhận nuôi con nuôi là nhằm mục đích trục lợi; nhưng cũng có ý kiến cho rằng sau khi đứa trẻ được nhận làm con nuôi sẽ được hưởng trợ cấp (theo tiêu chuẩn của bố mẹ nuôi), thì cũng đã đạt mục đích là hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ [12]. Để thống nhất về vấn đề này cũng như làm rõ việc cho hay không cho phép công nhận quan hệ nuôi con nuôi này, thì pháp luật cũng cần hướng dẫn cụ thể hơn về cụm từ “mục đích trục lợi”. Cũng có quan điểm cho rằng nuôi con nuôi phải là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi, những trường hợp nuôi con nuôi vì mục đích trục lợi thì không giải quyết. Quan điểm này được phần lớn những người trong giới chuyên môn đồng tình, ủng hộ.
Pháp luật hiện hành chỉ quy định người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự. Trong thực tế cũng có trường hợp người trên 15 tuổi muốn được làm con nuôi người mất năng lực hành vi dân sự để được nuôi dưỡng, chăm sóc người này nhưng không có căn cứ pháp lý để giải quyết. Trong trường hợp này, mục đích của việc nuôi con nuôi không nhằm đến quyền lợi của con nuôi mà nhằm đến quyền lợi của người nhận con nuôi. Vì vậy, quy định về mục đích của việc nuôi con nuôi có cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hay không?
+ Về việc xác định lại dân tộc cho con nuôi
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 BLDS năm 2005, thì người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
4Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
4Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai.
Như vậy, nguyên tắc xác định lại dân tộc trong BLDS năm 2005 là chỉ được xác định lại dân tộc từ dân tộc của cha, mẹ nuôi thành dân tộc của cha, mẹ đẻ mà không được xác định lại dân tộc từ dân tộc của cha, mẹ đẻ thành dân tộc của cha, mẹ nuôi. Trong khi đó, theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và hướng dẫn tại Thông tư số 01/2008/TT-BTP, thì phần khai về cha mẹ từ cha, mẹ đẻ có thể được thay đổi sang khai về cha, mẹ nuôi. Bất cập ở đây là mặc dù đã có sự thay đổi phần khai về cha, mẹ, nhưng phần dân tộc của người con vẫn phải giữ theo dân tộc của cha, mẹ đẻ. Với những trường hợp cha mẹ, đẻ và cha, mẹ nuôi không cùng dân tộc sẽ dẫn đến dân tộc của người con trong Giấy khai sinh sẽ khác với dân tộc của cha, mẹ. Trong trường hợp này, mục đích cho cha, mẹ nuôi được đứng tên với tư cách là cha, mẹ đẻ trong Giấy khai sinh của con nuôi để tránh mặc cảm cho con nuôi đã không đạt được. Bộ Tư pháp đã nhận được không ít ý kiến đề nghị cần xem xét lại quy định này. Lý do đưa ra “dân tộc là vấn đề huyết thống, do đó không được thay đổi” cũng không đủ sức thuyết phục, đặc biệt là với những tỉnh miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Có đồng chí Trưởng Phòng Tư pháp của một huyện miền núi đã khẳng định rằng, chính vì đứa trẻ không được xác định lại dân tộc theo dân tộc của cha mẹ nuôi đã dẫn đến quan hệ nuôi con nuôi vẫn được xác lập, nhưng cha mẹ nuôi không làm thủ tục đăng ký, thậm chí có trường hợp vì lý do này mà nhiều người không muốn nhận con nuôi.
+ Về việc thay đổi họ cho con nuôi
Khác với quy định chặt chẽ trong việc xác định lại dân tộc cho con nuôi (chỉ được xác định lại dân tộc từ dân tộc của cha, mẹ nuôi thành dân tộc của cha, mẹ đẻ mà không được xác định lại dân tộc từ dân tộc của cha, mẹ đẻ thành dân tộc của cha, mẹ nuôi), BLDS năm 2005 quy định về việc thay đổi họ cho con nuôi lại thông thoáng hơn (có thể thay đổi họ từ họ của cha, mẹ đẻ sang họ của cha, mẹ nuôi và ngược lại). Mặc dù quy định thông thoáng như vậy, nhưng trong thực tế, cơ quan đăng ký hộ tịch vẫn vướng mắc khi giải quyết một số trường hợp cụ thể, ví dụ: Chị N nhận một trẻ sơ sinh bị bỏ rơi làm con nuôi từ khi chưa đăng ký kết hôn với anh T và đã làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, đứa trẻ được đăng ký khai sinh theo họ của mẹ nuôi. Khi đứa trẻ trưởng thành, nhận thức được việc mình khác họ với hai đứa em là điều không ổn, người con nuôi đã có đơn đề nghị được thay đổi họ từ họ của chị N sang họ của anh T (chị N và anh T cũng nhất trí với đề nghị của con nuôi). Đây thực sự là khoảng trống mà pháp luật chưa điều chỉnh tới (vì đứa trẻ không đương nhiên trở thành con nuôi của anh T), do vậy, Sở Tư pháp địa phương đã phải làm công văn đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn. Mặc dù phần lớn vướng mắc trong đăng ký hộ tịch cũng được hướng dẫn giải quyết trên tinh thần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mỗi cá nhân, song để các địa phương dễ dàng thực hiện, thì cần phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh chung.
+ Về việc thay đổi phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã đưa ra quy định cho thay đổi phần khai về cha mẹ (từ cha, mẹ đẻ thành cha, mẹ nuôi trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi). Đây là một quy định khá thông thoáng, nhằm bảo vệ lợi ích của cha, mẹ nuôi cũng như con nuôi (tránh sự mặc cảm cho con nuôi sau này). Tuy nhiên, quy định này vẫn còn quá chặt chẽ ở chỗ phải có sự đồng ý của cha, mẹ đẻ; do đó trong trường hợp cha mẹ đẻ không đồng ý, thì Giấy khai sinh của đứa trẻ vẫn phải giữ nguyên tên của cha mẹ đẻ. Tác giả cho rằng, khi xây dựng Luật Nuôi con nuôi cần hướng tới lợi ích của con nuôi và cha mẹ nuôi, hay nói cách khác là cần tôn trọng nguyện vọng của cha, mẹ nuôi.
Hiện nay pháp luật chưa quy định cho phép trường hợp cha dượng có nguyện vọng được ghi tên vào phần khai về cha còn bỏ trống trong Giấy khai sinh của người con riêng chưa thành niên của vợ (con ngoài giá thú) nhằm thắt chặt tình cảm giữa cha dượng với con riêng của vợ. Pháp luật cần sửa đổi theo hướng sau khi cha dượng đăng ký việc nuôi con nuôi đối với con riêng của vợ thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền ghi tên mình vào phần khai về cha trong Giấy khai sinh của con nuôi nếu có sự đồng ý của người mẹ và con nuôi đủ 9 tuổi trở lên, sau này nếu có cha ruột nhận con thì sẽ làm thủ tục thay đổi hộ tịch.
+ Về chấm dứt việc nuôi con nuôi
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định cụ thể các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi:
4Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên, tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi;
4Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi;
4Cha mẹ nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Cha mẹ nuôi là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Nhìn nhận một cách đơn giản vào quy định trên, thì thấy có rất nhiều lý do sẽ dẫn đến chấm dứt việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, cũng chính vì sự liệt kê quá cụ thể, quá chi tiết và không có một quy định mở kèm theo đã dẫn đến một thực tế vô lý, đó là khi cha mẹ nuôi gặp khó khăn trong cuộc sống, không còn khả năng về kinh tế để nuôi dưỡng con nuôi, nhưng vẫn bị bắt buộc phải tiếp tục thực hiện trách nhiệm nuôi dưỡng con nuôi mà không được chấm dứt để đứa trẻ được đi làm con nuôi của người khác (vì không thuộc trường hợp nào trong số các trường hợp được chấm dứt đã nêu ở trên). Vì vậy, cần bổ sung căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp vì lý do kinh tế, việc chấm dứt này cũng không nằm ngoài mục đích nhằm tìm cho trẻ em một gia đình mới, mà ở đó chúng có điều kiện để chăm sóc giáo dục tốt nhất.
+ Cần hướng dẫn cụ thể tiêu chí xác định người nhận con nuôi là người già yếu cô đơn, tàn tật
Trường hợp làm con nuôi người già yếu cô đơn, tàn tật thì chưa có hướng dẫn cụ thể tiêu chí xác định nên mỗi địa phương sẽ vận dụng khác nhau.
+ Cần bổ sung quy định về chồng được nhận con nuôi của vợ hoặc vợ được nhận con nuôi của chồng làm con nuôi
Hiện nay, pháp luật chỉ mới quy định cha dượng, mẹ kế có quyền nhận con riêng của vợ, chồng làm con nuôi, nhưng chưa có quy định chồng được nhận con nuôi của vợ làm con nuôi hoặc vợ được nhận con nuôi của chồng làm con nuôi. Thực tế, khi người phụ nữ hoặc người đàn ông đơn thân nhận nuôi con nuôi (có thể là trẻ em có cha mẹ, trẻ em là con ngoài giá thú hoặc trẻ bị bỏ rơi) và đã được ghi tên mình vào Giấy khai sinh của con nuôi với tư cách là mẹ đẻ, cha đẻ, thì họ của con nuôi được xác định theo họ của mẹ nuôi, cha nuôi. Khi người phụ nữ hoặc người đàn ông đơn thân này kết hôn, thì đứa con nuôi này đương nhiên không phải là con nuôi của cả hai vợ chồng. Nếu người chồng hoặc người vợ có yêu cầu nhận đứa trẻ này làm con nuôi của mình, thì có được áp dụng nguyên tắc tương tự như cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi không?
+ Cần bổ sung việc đăng ký nuôi con nuôi vắng mặt bên cho con nuôi trong một số trường hợp nhất định
Ví dụ: Trong trường hợp bên cho con nuôi không thể đến Uỷ ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi do đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn nhưng ý chí của họ đồng ý việc cho con nuôi thì có thể cho họ làm văn bản xin vắng mặt khi đăng ký việc nuôi con nuôi có xác nhận của thủ trưởng đơn vị nơi họ chấp hành hình phạt tù để xuất trình tại nơi đăng ký.
Nuôi con nuôi trong nước là lĩnh vực luôn nảy sinh những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn mà những nhà làm luật không thể dự liệu hết được. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi trong nước cần phải thường xuyên tiến hành tổng kết, đánh giá pháp luật và việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, từ đó rút ra những bài học trong việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi trong nước để kịp thời có hướng dẫn cơ quan áp dụng pháp luật, đáp ứng yêu cầu về đăng ký nuôi con nuôi trong nước cho người dân.
3.1.2. Kết hợp tuyên truyền pháp luật với phong tục tập quán tốt đẹp về nuôi con nuôi trong nước
Song song với việc hoàn thiện văn bản pháp luật, thì việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người dân luôn luôn phải được đặt ra.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là sự tác động chủ động, tích cực của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích cung cấp, trang bị kiến thức pháp luật hình thành tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp luật, tạo thói quen tuân thủ pháp luật. Mục tiêu cơ bản của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trước hết bao gồm sự hình thành ở mỗi thành viên xã hội ý thức pháp luật.
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với người dân đã được quan tâm và đầu tư một cách tích cực. Tuy nhiên, cách thức tuyên truyền ở mỗi địa phương là khác nhau, có nơi làm tích cực, nhưng cũng có nơi còn làm qua loa, chiếu lệ. Trong khi đó, vấn đề tuyên truyền, giáo dục lại có ý nghĩa và vai trò rất to lớn không chỉ trước mắt mà cả lâu dài. Vấn đề nuôi con nuôi thực tế cho đến nay vẫn còn tồn tại cũng đã phản ánh việc tuyên truyền pháp luật chưa thực sự đến với người dân. Để vấn đề tuyên truyền thực sự có hiệu quả, thì cần có sự chỉ đạo từ Trung ương về biện pháp, cách thức cũng như nội dung tuyên truyền; công tác tuyên truyền, giáo dục ở các địa phương phải được sự chỉ đạo thống nhất của cấp uỷ với sự tham gia đông đảo của các tổ chức, đoàn thể, cũng như các cơ quan truyền thông, báo chí...
Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước chịu tác động sâu sắc của yếu tố phong tục tập quán, vì vậy, vấn đề tuyên truyền, giáo dục pháp luật về nuôi con nuôi trong nước phải có nội dung, hình thức tuyên truyền thích hợp, phải kết hợp giữa tuyên truyền pháp luật với việc khuyến khích phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp cũng như loại bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu về nuôi con nuôi trong nước.
- Về nội dung tuyên truyền
+ Tuyên truyền cần tập trung vào những nội dung chủ yếu, thiết thực liên quan đến chủ thể của quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi trong nước nhằm mục đích cho các chủ thể hiểu được những kiến thức cơ bản về mục đích, điều kiện, trình tự, thủ tục đăng ký, hệ quả pháp lý... của việc đăng ký nuôi con nuôi trong nước để xác lập quan hệ nuôi con nuôi trong nước đúng pháp luật.
+ Kết hợp nội dung tuyên truyền giữa pháp luật về nuôi con nuôi trong nước với những phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số. Qua việc kết hợp này giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số vừa chấp hành đúng quy định của pháp luật hiện hành vừa giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
- Về hình thức tuyên truyền
Có nhiều hình thức tuyên truyền như tuyên truyền thông qua tuyên truyền viên, phát thanh...
+ Tuyên truyền thông qua tuyên truyền viên về pháp luật về nuôi con nuôi trong nước là một hình thức tuyên truyền mà báo cáo viên trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước trong đó chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định cụ thể của pháp luật về nuôi con nuôi trong nước nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo chuẩn mực pháp luật. Để công tác tuyên truyền thông qua tuyên truyền viên đạt hiệu quả, cần chú ý những điểm sau:
Một là, tuyên truyền viên phải bồi dưỡng thường xuyên kiến thức pháp luật và nghiệp vụ tuyên truyền.
Hai là, phải trang bị đầy đủ các tài liệu hướng dẫn pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
Ba là, đối với đối tượng được tuyên truyền là người dân tộc thì tuyên truyền viên phải là người biết tiếng dân tộc.
+ Tuyên truyền pháp luật về nuôi con nuôi trong nước thông qua mạng lưới truyền thanh cơ sở
So với hình thức phố biến, giáo dục khác, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh ở cơ sở có lợi thế như:
4Có khả năng truyền tin nhanh, kịp thời;
4Hoàn toàn chủ động về thời gian: Có thể lựa chọn thời gian phát thanh một cách phù hợp với thực tế tập quán sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân từng vùng miền;
4Chủ động trong việc lựa chọn nội dung: Có thể chủ động lựa chọn nội dung cho các buổi phát thanh phù hợp với mong muốn tìm hiểu pháp luật của người dân;
4Có khả năng tác động đến nhiều đối tượng trong cùng một thời gian, phạm vi tác động rộng. Có thể thực hiện được nhiều lần; tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền của vì không tập trung dân tại một điểm để phổ biến pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở các vùng dân tộc là công việc rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ không chỉ có Sở Tư pháp đảm nhận mà phải có sự tham gia, phối hợp các cơ quan, tổ chức đoàn thể ở cơ sở, đặc biệt có người dân cùng tham gia thì công tác tuyên truyền mới đạt hiệu quả.
Để pháp luật về nuôi con nuôi trong nước thực sự đi vào cuộc sống thì Nhà nước cũng cần phải quan tâm đầu tư về điều kiện vật chất nhất định cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chi phí cho cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm trong lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước.
3.1.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước
Việc kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có vai trò rất quan trọng, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, phát hiện, xử lý và chấn chỉnh kịp thời những sai xót, những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. Công tác thanh tra trong lĩnh vực nuôi con nuôi cần được thực hiện một cách thường xuyên nhưng cũng có thể đột xuất, khi có những biểu hiện tiêu cực, có khiếu nại, tố cáo. Việc thanh tra, giám sát không chỉ cần thực hiện khi đăng ký việc nuôi con nuôi, mà còn cần được tiến hành trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi. Song cần chú ý, nuôi con nuôi là một lĩnh vực rất nhạy cảm. Kết quả thanh tra có thể gây ảnh hưởng theo nhiều chiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. Do đó, việc xử lý kết quả thanh tra cần thận trọng, hạn chế thấp nhất hậu quả bất lợi có thể xảy ra đối với trẻ em được nhận làm con nuôi. Vì vậy, các cơ quan chức năng, đặc biệt là cơ quan thanh tra cần chủ động phối hợp để có những biện pháp tích cực ngăn chặn, phòng ngừa từ xa những vi phạm có thể xảy ra.
- Tăng cường xử lý các vi phạm trong việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước
Thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi trong nước những năm qua cho thấy các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đăng ký nuôi con nuôi trong nước ngày càng nhiều. Chủ thể vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi trong nước có cả người nhận con nuôi, người xin con nuôi, cũng có thể là người có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.
Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đăng ký nuôi con nuôi được quy định rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như:
- Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ngược đãi hoặc hành hạ … con…, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 Bộ Luật hình sự.
Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 152 Bộ Luật hình sự.
- Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước được quy định tại Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, nay được thay thế bởi Nghị định số 60/2009/NĐ-CP.
- Việc xử lý kỷ luật đối với người có chức vụ, quyền hạn có hành vi vi phạm chế độ công vụ khi giải quyết đăng ký nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Với các quy định pháp luật nói trên có thể nói về cơ bản pháp luật đã dự liệu những chế tài cần thiết để xử lý đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động đăng ký nuôi con nuôi. Tuy nhiên, Thời điểm áp dụng Nghị định số 76/2006/NĐ-CP chưa có những quy phạm điều chỉnh hành vi lệch chuẩn trong hoạt động đăng ký nuôi con nuôi như: làm giả giấy tờ để được làm thủ tục đăng ký cho, nhận con nuôi; lợi dụng việc cho, nhận con nuôi nhằm mục đích trục lợi. Những hành vi này mới được đưa vào Nghị định số 60/2009/NĐ-CP.
Tuy nhiên vẫn cần nghiên cứu tăng mức phạt để đủ sức răn đe đối với những hành vi sau: Dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc, đe doạ để có được sự đồng ý của người có quyền đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; lợi dụng việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi nhằm mục đích vụ lợi; làm dịch vụ môi giới cho hoặc nhận con nuôi trái pháp luật. Đối với những vi phạm đã được phát hiện cần phải xử lý nghiêm khắc, đúng với mức độ, tính chất của hành vi vi phạm.
3.2. KIỆN TOÀN TỔ CHỨC BỘ MÁY, NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VÀ NHẬN THỨC CỦA CÁN BỘ TƯ PHÁP HỘ TỊCH
3.2.1. Về kiện toàn tổ chức bộ máy
Để việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước đi vào nề nếp, cơ quan quản lý và đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước cần kiện toàn tổ chức theo hướng:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi trong phạm vi cả nước.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan Lao động, Thương binh và Xã hội địa phương trong việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo, hướng dẫn Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định.
Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi; chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi phạm tội và các vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự trong lĩnh vực nuôi con nuôi; hướng dẫn Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác minh nguồn gốc của trẻ em được cho làm con nuôi trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi tại địa phương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân cấp xã theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nuôi con nuôi tại địa phương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Cán bộ Tư pháp hộ tịch cần được kiện toàn theo hướng chuyên môn hoá, được bồi dưỡng thường xuyên cả về chuyên môn, nghiệp vụ lẫn đạo đức nghề nghiệp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, có trách nhiệm giám sát việc thực hiện nuôi con nuôi, tuyên truyền, phổ biến, tư vấn pháp luật về nuôi con nuôi; kịp thời hoà giải mâu thuẫn về nuôi con nuôi trong nhân dân; tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con nuôi.
3.2.2. Nâng cao trình độ, nhận thức của cán bộ Tư pháp hộ tịch
Hiệu quả quản lý hộ tịch phụ thuộc rất lớn vào năng lực hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch, trong đó đặc biệt là hệ thống Uỷ ban nhân dân cấp xã và đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch. Hiện nay, đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch đã chính thức được coi là một trong bốn chức danh chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp xã và đã được kiện toàn một bước. Tuy nhiên, năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch vẫn còn nhiều bất cập, có không ít trường hợp cán bộ Tư pháp hộ tịch ở các xã miền núi không viết được chữ Việt đúng chính tả. Đây chủ yếu là bộ phận cán bộ là đồng bào dân tộc ít người tại các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, việc thay thế những cán bộ không đủ tiêu chuẩn này hoàn toàn không phải là vấn đề dễ giải quyết vì hai lý do: thứ nhất, việc tìm người có đủ tiêu chuẩn tại các xã thuộc địa bàn này rất khó khăn; thứ hai, mặc dù trình độ bất cập nhưng hầu hết những cán bộ này là người dân bản địa, sống gần dân, hiểu được ngôn ngữ, phong tục, lối sống, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, được người dân tín nhiệm. Đó là những tiêu chuẩn quan trọng của việc bố trí cán bộ ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số cư trú.
3.3. KHUYẾN KHÍCH SỰ THAM GIA CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC, NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN
*Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước
Nuôi con nuôi là một trong các hình thức trợ giúp trẻ em tại cộng đồng có hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt việc nuôi con nuôi, cần có sự phối hợp, hỗ trợ nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ để giải quyết những vấn đề phức tạp trong lĩnh vực này.
Công tác quản lý việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước là công việc chuyên môn của ngành Tư pháp, nhưng muốn thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải có sự phối hợp tích cực của nhiều ngành, đoàn thể. Vì vậy, trong quá trình chỉ đạo công tác này, cơ quan Tư pháp cần phải thường xuyên phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trên tinh thần vì quyền lợi của trẻ em.
Cấp uỷ, chính quyền địa phương cần đầu tư cơ sở vật chất, khuyến khích, ủng hộ cá nhân, tổ chức có điều kiện nhận cưu mang, nuôi dưỡng và chăm sóc những trẻ có hoàn cảnh khó khăn như bị bỏ rơi, mồ côi. Hiện nay, nhiều tỉnh chỉ có một Trung tâm bảo trợ xã hội tập trung chủ yếu là người già, người bệnh tâm thần mà không có cơ sở nuôi dưỡng trẻ bỏ rơi, vì vậy, cần khuyến khích việc nuôi dưỡng trẻ bị bỏ rơi đối với những tổ chức, nhất là cơ sở thờ tự, tu hành…
Việc giải quyết cho nhận con nuôi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành như: Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh và các cơ sở xã, phường, thị trấn…
* Nâng cao ý thức pháp luật của người dân
Ý thức pháp luật luôn luôn gắn liền với ý thức chính trị và đạo đức, các vấn đề đó luôn luôn gắn bó, hoà đồng và tác động lẫn nhau trong một chỉnh thể chung để đạt đến sự hoàn thiện về nhận thức con người. Ý thức pháp luật chỉ được hình thành và được đề cao khi mà người ta có đầy đủ ý thức chính trị và đạo đức. Ý thức pháp luật được duy trì thường xuyên và được thể hiện một cách sinh động, linh hoạt mang đậm tính đạo đức trong phép xử thế của đời sống xã hội khi nó được làm giàu bởi ý thức chính trị. Ngược lại, ý thức chính trị, đạo đức của mỗi cá nhân được biểu hiện thông qua sự tôn trọng và chấp hành pháp luật, thông qua ý thức pháp luật. Chỉ trong mối hoà đồng đó mới có sự hoàn chỉnh về ý thức chính trị, đạo đức và pháp luật.
Việc nuôi con nuôi là quan hệ xã hội gắn liền với quyền, lợi ích của trẻ em nên rất nhạy cảm. Chỉ có thể thu hút sự quan tâm, đồng tình ủng hộ đối với việc nuôi con nuôi trong dư luận quần chúng nếu người dân hiểu đúng mục đích nhân đạo, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. Điều đó đòi hỏi phải có sự am hiểu kiến thức pháp luật về nuôi con nuôi trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo ở các cấp chính quyền, các ngành. Kiến thức pháp luật của người dân lại bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng miền. Vì vậy, cần tập trung phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho người dân, tạo tác phong, lối sống tuân thủ pháp luật, tạo cơ sở vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật.
KẾT LUẬN
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Sự quan tâm đến trẻ em được thể hiện rõ hơn sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1990, đó là sự cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đảm bảo cho mọi trẻ em được đối xử bình đẳng, có điều kiện thuận lợi nhất để phát triển thể chất và trí tuệ, bảo đảm được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh. Gia đình, cha mẹ đẻ sẽ là chỗ dựa có ý nghĩa nhất đối với trẻ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau mà nhiều trẻ không còn chỗ dựa đó nữa. Lúc này, gia đình thay thế cho trẻ là rất cần thiết. Việc cho trẻ em làm con nuôi trong nước có tính ổn định lâu dài và khả năng đem lại cho trẻ em môi trường gia đình thay thế tối ưu nhất. “Cơ chế nuôi con nuôi trong nước đem lại những lợi thế về văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo…đối với trẻ em” [19, tr.114]. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nuôi con nuôi trong nước mà nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây dựng những chế định pháp luật về nuôi con nuôi trong nước từ rất lâu. Việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, giúp trẻ em không may mắn tìm được mái ấm gia đình góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Những tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân đòi hỏi cần phải có những giải pháp kịp thời tháo gỡ.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước trong thời gian qua, luận văn đã góp phần làm rõ thêm một số nội dung sau:
1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước bao gồm: Khái niệm thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước; đặc điểm của thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước bao gồm đặc điểm về chủ thể và đặc điểm về hình thức; vai trò và nội dung của việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước; các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
2. Đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước từ năm 2001 đến nay. Qua việc nghiên cứu, tổng hợp, thống kê, tình hình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, làm rõ nguyên nhân của những tồn tại này.
3. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, luận văn đã đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Đó là những giải pháp về việc hoàn thiện pháp luật; kết hợp tuyên truyền pháp luật với phong tục tập quán tốt đẹp về nuôi con nuôi trong nước; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Đó là những giải pháp nhằm đưa pháp luật về nuôi con nuôi trong nước vào cuộc sống. Ngoài ra cần kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao trình độ và nhận thức của cán bộ Tư pháp hộ tịch; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Những giải pháp đưa ra trong luận văn vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài. Các giải pháp này được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn sẽ còn tồn tại, hạn chế nhất định. Vì vậy, tác giả mong nhận được nhiều đóng góp của các nhà khoa học để luận văn được hoàn thiện hơn.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trần Thị Lệ Hoa (2006), Cần sớm có văn bản phù hợp quy định về lệ phí đăng ký hộ tịch, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tr.15-16.
2. Trần Thị Lệ Hoa (2006), Quy định mới về đăng ký nuôi con nuôi - Dự báo những tác động tích cực, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tr.17-18.
3. Trần Thị Lệ Hoa (2007), Thực tiễn về quan hệ nuôi con nuôi trong nước, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về công chứng hộ tịch và quốc tịch, tr.119-123.
4. Trần Thị Lệ Hoa (2009), Ảnh hưởng của phong tục tập quán đối với vấn đề nuôi con nuôi trong nước, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi, tr.146-162.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hồng Bắc (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
2. Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931.
3. Bộ Dân luật Trung năm 1936.
4. Bộ Dân luật giản yếu năm 1883.
5. Bộ Luật Hồng Đức.
6. Chính phủ (2002), Nghị định số 32/2002/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
7. Chính phủ (2004), Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 27/3/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
9. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch.
10. Chính phủ (2006), Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2008 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.
11. Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
12. Cục Con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành pháp luật vê nuôi con nuôi (2003-2008).
13. Phạm Trọng Cường (2005), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình, Nxb Tư pháp.
14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hà Đào (2009), Các biện pháp chăm sóc thay thế đối với trẻ em bị mất môi trường gia đình gốc, Tạp chí dân chủ pháp luật, số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi tr. 111-121.
20. Trần Thị Lệ Hoa (2009), Ảnh hưởng của phong tục tập quán đối với vấn đề nuôi con nuôi trong nước, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi, tr.146-162.
21. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (1999), Trẻ em trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và nhà nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Hồng Đức Thiện Chính Thư (1959), Nam Hà ấn quán, Sài Gòn.
25. Nguyễn Phương Lan (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Lan (2004), Một số vấn đề về chấm dứt việc nuôi con nuôi, Luật học (6), tr.59-63.
27. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
28. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
29. Nguyễn Văn Mạnh (2008), Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Thông tin nhà nước và pháp luật, số chuyên đề về thực hiện pháp luật, tr.14-19.
30. Hồ Chí Minh (1997), Về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Hà Nội.
31. Một số văn kiện Đảng và nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Hà Nội.
32. Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh online, (23/3/2009),“công nhận con nuôi thực tế, sao không?”.
33. Hoàng Thị Kim Quế (2005), Hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em: chặng đường hình thành và phát triển, Nghiên cứu lập pháp (6), tr. 27-33.
34. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
35. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Quy chế Thành lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội ( Ban hành kèm theo Nghị định số 25/2001/NĐ-CP ngày 31/5/2001 của Chính phủ).
38. Quyền của trẻ em được lớn lên trong gia đình (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP ngày 29/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch.
40. Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long (2009), Báo cáo số 38/BC.STP về tình hình con nuôi tại địa phương.
41. Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai (2009), Báo cáo số 64/BC-STP về tổng kết, rà soát, đánh giá tình hình con nuôi trong nước năm 2003-2008.
42. Phạm Tấn (2004), Chấm dứt nuôi con nuôi: Không phải cứ “thôi” là được, Pháp luật, chuyên đề số 2 tháng 10/2004, tr.14-15
43. Thông tư liên tịch số 10/2004/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 28/6/2004 của Bộ Lao động –Thương binh- Xã hội- Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi.
44. Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
45. Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
46. Từ điển luật học (2006), Viện KHPL – BTP - Nxb Từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.
47. Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, (1995), Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
49. Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (2002), Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Thu Vân (2001), Chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tạp chí dân chủ pháp luật 2/2001, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
51. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2002), chuyên đề: Một số vấn đề về sửa đổi và nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
52. Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Hà Nội.
53. Vietbao.vn (22/11/2007), “Lấy búa đập vào đầu con nuôi…để dạy bảo”.
54. VTC.vn (10/11/2008), “Nhận con nuôi mới đẻ để …bán”.
55. Vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp (2007), Một số quy định cơ bản về nuôi con nuôi trong nước, Nxb Tư pháp.
56. Xaluan.com (26/10/2007), “Nhận con nuôi để bán”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay.doc