Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của Trung Quốc trong ngành may mặc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành may mặc, Việt Nam mới chỉ tha m gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, khâu được đánh giá là tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong toàn chuỗi giá trị. Khoảng 90% doanh nghiệp Dệt May của Việt Nam tham gia vào khâu này của chuỗi giá trị dưới hình thức gia công theo tiêu chuẩn khách hàng (OEM). Tuy nhiên, trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn OEM vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng hơn nữa so với các nước Đông Á. Mặt khác, muốn thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sản xuất dưới dạng sản xuất thiết kế gốc (ODM - Original Design Manufacture) hay là sản xuất nhãn hiệu gốc (OBM -Own Brand Manufacture).

pdf90 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3626 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của Trung Quốc trong ngành may mặc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới vẫn giữ xu thế tăng nhưng lượng giá trị gia tăng tạo ra của Việt Nam vẫn còn rất thấp. Trong giá trị của sản phẩm tạo ra ở Việt Nam thì có đến trên 50% là giá trị những nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu, chưa kể đến các nguyên liệu nhập khẩu để phục vụ cho công đoạn dệt. Kim ngạch hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam năm 2006 là 5,65 tỷ USD cho thấy lượng giá trị gia tăng được tạo ra ở Việt Nam vô cùng thấp. [26]. Hiện nay, chúng ta chủ yếu là nhập các nguyên liệu hoàn chỉnh về, kết hợp chúng với các phụ liệu hoàn chỉnh, tiến hành may gia công theo những kiểu mẫu và quy cách chất lượng có sẵn rồi giao hàng. Với hình thức này, người được lợi là những nước nhận đơn hàng vì họ có đuợc những sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng tốt mà giá lại rẻ, làm tăng mức lợi nhuận của doanh nghiệp lên rất cao. Một ví dụ để thấy rằng chúng ta đã rất thiệt thòi khi Việt Nam nhận rất nhiều đơn hàng theo hình thức gia công. Theo mặt bằng giá hiện nay, với một chiếc áo sơmi người lớn thông thường, các doanh nghiệp gia công Việt Nam giao thành phẩm hoàn chỉnh cho đối tác nước ngoài với mức giá 5 USD. Trong đó thông thường giá nguyên phụ liệu chiếm khoảng 70%, còn lại các chi phí khác chiếm 30%. Trong tình hình hiện nay khi mà các nguồn nguyên vật liệu hầu hết phải nhập khẩu, các doanh nghiệp gia công Việt Nam chỉ có thể kiếm lời từ các khoản phí gia công, thông thường khoảng 1USD đến 1.3 USD. Trong khi với chiếc áo sơ mi đó, sau khi được tổ chức phân phối, marketing và bán hàng, các doanh nghiệp nước ngoài có thể bán được với giá là 20 USD. [22]. Như vậy nếu trừ đi các chi phí đó, mỗi chiếc áo sơmi có thể 58 đem về cho doanh nghiệp này từ 7 đến 10 USD/1chiếc. So sánh với lượng phí 1 USD mà doanh nghiệp gia công Việt Nam tạo ra, có thể thấy sự khác biệt trong hàm lượng chất xám dẫn tới sự chênh lệch trong thu nhập đến mức nào. Hơn nữa mẫu mã của những mặt hàng do ta sản xuất vẫn còn nghèo nàn về kiểu dáng, đơn điệu về màu sắc, không đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp có thu nhập cao tại thị trường nhập khẩu. Giá của những mặt hàng này vì thế cũng thấp. Do vậy trong chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam chỉ tham gia với tư cách một quốc gia cung cấp sức lao động chứ chưa đóng góp được một lượng chất xám nào. Lợi thế duy nhất của Việt Nam hiện nay khi tham gia chuỗi may mặc chỉ là nguồn nhân công khéo tay với giá rẻ mạt. Một khi lợi thế này mất đi cùng với sự thay thế sức lao động bằng máy móc hoặc những biến động về giá trên thị trường, Việt Nam sẽ không còn chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu về ngành may mặc. - Xây dựng và phát triển thương hiệu ngành may mặc: Để nâng cao vị trí của ngành may mặc Việt Nam trong chuỗi giá trị may mặc toàn cầu thì việc đầu tư xây dựng thương hiệu cho riêng mình cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Hiện nay mới chỉ có khoảng trên 35% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam được nhiều nhà nhập khẩu biết đến thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng. Và cũng chỉ biết đến một số ít các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dưới tên CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, công ty may Phương Đông xuất khẩu sản phẩm dưới tên FHOUSE… còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều xuất khẩu dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngoài. [26]. Như vậy, trong hiện tại ngay cả việc xây dựng và xuất khẩu thương hiệu của mình các doanh nghiệp Việt Nam còn khá chật vật thì việc xây dựng được những thương hiệu đủ lớn thâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu có lẽ cần một khoảng thời gian rất dài và những có gắng rất lớn từ nhiều phía. 59 Nhìn một cách tổng quát cả ngành dệt may của Việt Nam có lẽ thể thấy chúng ta đang yếu kém về mọi khâu, từ khâu thiết kế đến khâu phân phối, từ nguyên liệu đầu vào đến thị trường đầu ra. Chỉ với lợi thế lao động có tay nghề, chắc chắn ngành may mặc Việt Nam không thể trụ vững lâu hơn nữa trong bối cảnh ngành may mặc của Ấn Độ, Trung Quốc đang có những thành tích ấn tượng như hiện nay. Ngành may mặc Việt Nam muốn không thua kém phải nhanh chóng phối hợp với ngành sản xuất nguyên phụ liệu tìm cách phát huy tối đa nội lực theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu nhằm tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho các sản phẩm may mặc Việt Nam. 3.1.3. Các thị trường tiêu thụ 3.1.3.1. Thị trường tiêu thụ nội địa Với 87 triệu dân hiện nay thì Việt Nam là thị trường tiêu thụ nội địa rất lớn. Năm 2006, tổng tiêu thụ nội địa ước đạt 1,8 tỷ USD, trong khi đó, xuất khẩu dệt may đạt gần 6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ hàng nội địa đạt khoảng 15%/năm, nhưng thực tế chỉ chiếm 1/4 năng lực sản xuất. Năm 2008, tổng tiêu thụ nội địa là 2,45 tỷ USD, chỉ chiếm 21% tổng giá trị xuất khẩu. [3]. Như vậy, có thể nói rằng phần lớn doanh nghiệp dệt may trong nước chỉ chú trọng đầu tư để xuất khẩu là chính, chưa quan tâm nhiều cho phát triển xây dựng thương hiệu tại thị trường nội địa. Đến năm 2009 tiêu thụ hàng may mặc trong nước tăng 23% so với năm 2008 là dấu hiệu tích cực trong tiêu thụ hàng thời trang trong nước. [35]. Tại thị trường nội địa, hàng thời trang trong nước đang từng bước khẳng định chỗ đứng trong người tiêu dùng. Hiện nhiều doanh nghiệp dệt may đã đẩy mạnh, phát triển thị phần tiêu thụ tại thị trường nội địa được đánh giá rất tiềm năng này. Các doanh nghiệp xác định, dùng thị trường nội địa làm căn bản, thị trường xuất khẩu là động lực phát triển của ngành dệt may. Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có thêm 60 nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu và đón nhận đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may. Tuy nhiên, thị trường nội địa cũng sẽ đối mặt với nhiều cạnh tranh mới về giá cả, nhất là đối với hàng thời trang Trung Quốc. Hiện thuế nhập khẩu hàng Trung Quốc đi qua đường chính ngạch vào Việt Nam chỉ còn 10%, thay vì 40%-50% như trước đây. [31]. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu tiếp diễn khiến ngành dệt khiến Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn do nhu cầu người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu nên đơn đặt hàng sụt giảm. Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường bán lẻ cho các tập đoàn lớn trên thế giới theo lộ trình cam kết với WTO cũng tạo nên sức ép lớn với các doanh nghiệp ngay tại thị trường nội địa. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, khó khăn lớn nhất rơi vào những doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Mỹ (chiếm khoảng 55% thị phần của hàng dệt may xuất khẩu trong năm 2008). Nhiều nhãn hiệu lớn, nhiều khách hàng truyền thống đã giảm đến 50% đơn hàng. Kế đến là thị trường EU. Do đồng EURO mất giá nên xuất khẩu vào thị trường này cũng bị ép giá. [38]. Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp dệt may cần tập trung phát triển thị trường trong nước, đây được coi là chiến lược phát triển dài hạn của toàn ngành dệt may trong tình hình xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp may mặc Việt Nam đã rất chú trọng đến thị trường tiêu thụ nội địa. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đang chiếm ưu thế hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì trước đây họ chỉ tập trung hết cho xuất khẩu theo đơn hàng của công ty mẹ. Tính đến hết năm 2009 hệ thống siêu thị của Vinatex Mart đã phát triển tới 22 tỉnh, thành phố, với tổng số 55 siêu thị. Ngoài ra, Vinatex còn mở hơn 20 cửa hàng thời trang và tận dụng các hệ thống phân phối đang có, 61 nhất là hệ thống siêu thị Vinatex, các cửa hàng của các doanh nghiệp lớn đã đầu tư từ nhiều năm. [24]. Bên cạnh Vinatex thì các công ty lớn của ngành dệt may cũng bắt đầu cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa như: Việt Tiến, May 10, Nhà Bè... nhiều năm qua đã thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa, hiện cũng đang có nhiều chương trình xúc tiến tiêu thụ tại "sân nhà". Việt Tiến đang thực hiện chiến lược phát triển thị trường trong nước với mức tăng trưởng lên 40%, đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, nhất là các mặt hàng thời trang cao cấp như Viettien, Vee Sendy, T-Tup, Sciaro, Manhattan, hàng may sẵn cho học sinh, công nhân nhãn hiệu Vie-Laross. Ngoài 17 cửa hàng và gần 600 đại lý bán sản phẩm của Việt Tiến, doanh nghiệp đang tiếp tục mở rộng, phát triển kênh phân phối, đưa sản phẩm vào 48 trung tâm thương mại. May 10, cũng là doanh nghiệp tiêu thụ mạnh tại thị trường nội địa. Năm 2009 doanh nghiệp này đã tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa lên 30% so với năm 2008, bằng việc khai trương chuỗi sáu cửa hàng lớn tại Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long và Thái Bình. Đồng thời, công ty này cũng đầu tư ba xưởng sản xuất Veston cao cấp với dây chuyền thiết bị hiện đại được nhập từ Nhật Bản, Italia. Tổng công ty cổ phần May Nhà Bè có kế hoạch tăng trưởng thị trường nội địa cho năm nay dự kiến là 200%. Đây là một tỷ lệ ấn tượng trong bối cảnh sức mua của nhiều mặt hàng đều suy giảm. Bên cạnh đó, Công ty cổ phần May Đức Giang cũng xác định tăng thị phần trong nước trong năm 2009 từ 20-25%. [24]. Để khai thác thành công thị trường trong nước, đem lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm của nhiều doanh nghiệp dệt may chính là các doanh nghiệp cần quan tâm, củng cố đội ngũ các nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp để có thể đưa ra thị trường những sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu mọi đối 62 tượng tiêu dùng từ thành thị đến nông thôn. Về lâu dài, doanh nghiệp phải đưa ra những dòng sản phẩm dệt may tốt hấp dẫn người người tiêu dùng trong nước hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình trên thị trường nội địa. Hãy so sánh giá trị thu được của 3 loại sản phẩm sau đây: một sản phẩm thời trang cấp thấp có giá bán lẻ 60.000 đồng, giá bán buôn 50.000 đồng thì so với giá thành khoảng 45.000 đồng (bao gồm sản xuất, phân phối), lợi nhuận đạt được chỉ 5.000 đồng/sản phẩm. Trong khi tỉ lệ này ở sản phẩm thời trang trung bình là 150.000 đồng - 115.000 đồng - 85.000 đồng (bao gồm thiết kế, nguyên phụ liệu, sản xuất, phân phối), lợi nhuận là 30.000 đồng/sản phẩm (gấp 6 lần so với sản phẩm cấp thấp). Tỉ lệ ở sản phẩm thời trang cao cấp là 1.000.000 đồng - 800.000 đồng - 550.000 đồng (bao gồm thương hiệu, thiết kế, nguyên phụ liệu, sản xuất, phân phối), lợi nhuận là 250.000 đồng/sản phẩm (gấp 50 lần so với sản phẩm cấp thấp). Điều này chứng minh thương hiệu luôn tạo giá trị gia tăng của sản phẩm và nhiệm vụ sống còn hiện nay của các doanh nghiệp là cần xây dựng thương hiệu cho thị trường nội địa. Không những thế, để khẳng định vị thế trên sân nhà, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn phải vượt qua những yếu kém nội tại. Mặc dù trên thương trường quốc tế, dệt may Việt Nam luôn khẳng định thế mạnh nhưng thực chất chúng ta mới chỉ dừng ở khâu gia công. Trong khi công nghệ thời trang là chuỗi liên kết 5 yếu tố: thương hiệu - nguyên vật liệu - thiết kế - sản xuất - phân phối. Tuy nhiên, rất hiếm doanh nghiệp chú trọng phát triển đồng đều cả 5 yếu tố trên. Thiết kế ít nhiều được chú trọng, sản xuất dựa theo công nghệ hiện đại trong việc sản xuất xuất khẩu; còn nguyên vật liệu, bán hàng, xây dựng thương hiệu vẫn là điểm yếu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 63 Với sự nỗ lực tự thân và những hỗ trợ đã được hoạch định như giải pháp đẩy mạnh công nghệ hỗ trợ với chi phí khoảng 2,6 tỉ đồng, phối kết hợp đào tạo với các trung tâm thời trang thế giới… của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, hy vọng dệt may sẽ có một sức cạnh tranh tốt trong việc chinh phục thị trường nội địa. [25] 3.1.3.2. Thị trường xuất khẩu Cũng giống như nhiều nước đang phát triển trong khu vực, ngành may mặc được coi như là một ngành mũi nhọn trong sự nghiệp phát triển kinh tế bởi sức đóng góp vào GDP và khả năng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của ngành chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu là một lựa chọn đúng đắn nhằm tìm kiếm một thị trường rộng lớn hơn, đòi hỏi khắt khe hơn. Trong những năm gần đây Mỹ, EU, và Nhật Bản vẫn luôn là thị trường trọng điểm mà Việt Nam hướng tới, tuy cơ cấu tỷ trọng có thể thay đổi qua các thời kỳ tương ứng với những sự kiện kinh tế chính trị có liên quan đến ngành may mặc. Năm 2009, xuất khẩu hàng dệt may là khoảng 9,1 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ chiếm 58% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vượt xa EU (19%) và Nhật Bản (9%). [2]. - Thị trường Mỹ Có thể thấy hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ từ Việt Nam tăng đáng kể trong 5 năm qua. Mặc dù chính sách thương mại của Mỹ đối với Việt Nam có nhiều thay đổi, kể cả việc Mỹ ban hành quy chế thương mại bình thường hóa quan hệ thương mại vĩnh viễn đối với Việt Nam của Mỹ tháng 12 năm 2001. Việc áp dụng quota nhập khẩu lên một số mặt hàng may mặc và việc tuân thủ cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, xuất khẩu hàng may mặc của Việt 64 Nam sang Mỹ vẫn tiếp tục tăng đều, cùng với nó, thị phần chung của Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng tăng. Tỷ trọng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ từ Việt Nam tăng từ 0,1% năm 2001 lên 4,3% năm 2006. Cũng trong năm này, xuất khẩu sang Mỹ của Việt Nam đạt 3,044 tỷ USD, chiếm 55% lượng xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cụ thể sang thị trường Mỹ tăng mạnh nhưng ngay sau đó đã có sự sụt giảm đáng kể. Xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ tháng 5 năm 2009 tăng 10,68% so với tháng 4 nâng tổng kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường này đạt 1,8 tỷ USD, giảm 5,47% so với cùng kỳ năm 2008. Tuy nhiên kể cả trên những mảng thị trường mà Việt Nam là một trong 3 nhà cung cấp hàng đầu của Mỹ, trừ một số ngoại lệ thì tỷ lệ cung cấp nhập khẩu của Việt Nam vẫn ở dưới mức 10%. Trong năm 2008 và 2009 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đã vượt qua kim ngạch xuất khẩu của Mêhicô và Ấn độ, Việt Nam đã trở thành nước cung cấp lớn thứ 2 trên thị trường Mỹ sau Trung quốc, trong khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc lại chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường EU. [15]. - Thị trường EU Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam với EU được ký kết ngày 15/12/1992 và bắt đầu thực hiện từ năm 1993 làm tốc đọ tăng trưởng bình quân đạt trên 23%/năm trong 5 năm từ năm 1993 đến 1997. Tuy nhiên thâm hụt thương mại của EU lại tiếp tục xu hướng giảm trong năm 2007. Sản lượng dệt may của EU giảm, nhập khẩu hàng dệt may tăng, chi tiêu của người tiêu dùng và xuất khẩu tăng cao hơn. Thâm hụt thương mại dệt may của EU tiếp tục gia tăng khi mà nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc, Bangladesh, Ấn độ, Hồng Kông và Indonesia tăng với tốc độ hai con số. [17]. 65 Xuất khẩu dệt may của Châu Âu tăng, các nhà xuất khẩu dệt may EU đã và đang thành công tại các thị trường Đông Âu như Nga, Ukraine, ngoài ra Trung Quốc cũng trở thành thị trường nhập khẩu hàng dệt đứng thứ 10 của Châu Âu kể từ năm 2006. Từ năm 2008, EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc, điều này sẽ đẩy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào khó khăn rất lớn khi phải cạnh tranh gay gắt hơn với ngành dệt may của Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc lại có lợi thế về năng lực sản xuất lớn do chủ động được nguồn nguyên phụ liệu sản xuất và có khả năng cung cấp nhiều phẩm cấp hàng hóa. Số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 đã tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1tỷ USD (đạt 1,244 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,49 tỷ USD , tăng 19,74% so với năm 2006. [25]. Trong bối cảnh nhu cầu nhập khẩu của thị trường này liên tục tăng lên, đồng thời các sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn đang có được lợi thế cạnh tranh về giá so với các sản phẩm của Trung Quốc, dự báo xuất khẩu dệt may Việt Nam tới thị trường này có thể duy trì ở được tốc độ tăng trưởng 20% mỗi năm và đạt kim ngạch xuất khẩu 1,8 tỷ USD trong năm 2008. [17]. - Thị trường Nhật Bản Thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Năm 1995 là năm đầu tiên Việt Nam lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Từ đó đến nay, Việt Nam luôn duy trì tốc độ tăng trưởng và thị phần xuất khẩu tại thị trường Nhật Bản. Năm 2006, tại Nhật Bản, nhu cầu nhập khẩu tăng nhẹ 5,9% do kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc, Mỹ, Eu và Việt Nam ngày một tăng cao hơn. Riêng Trung Quốc đã cung cấp 83,4% hàng dệt may nhập khẩu 66 vào thị trường Nhật Bản. Hiện nay, sau nước trong khu vực Đông nam á gồm Singapore, Malaysia, Philipines, Indonesia, Brunei và Thái Lan đã hạ được mức thuế quan xuống còn 0% khi xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản. [8]. Trong khi đó, hàng dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường này vẫn đang phải chịu mức thuế khoảng 10%, điều này sẽ tiếp tục đẩy các doanh nghiệp trong nước vào thế cạnh tranh khá căng thẳng với các nước trong khu vực khi xuất hàng sang thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu dệt của Việt Nam tới thị trường Nhật Bản đã đạt 703,85 triệu USD trong năm 2007, tăng 12,1% so với năm 2006. Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiểm 9% giá trị xuất khẩu. [17]. 3.1.4. Đánh giá vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành may mặc. Ngành dệt may có lịch sử phát triển lâu đời tại Việt Nam, tuy nhiên nó mới chỉ là một ngành sản xuất quan trọng hơn chục năm nay và sự hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới cũng chậm hơn so với các nước trong khu vực khoảng 15 đến 20 năm. Vì vậy vai trò của Việt Nam trong chuỗi giá trị hàng may mặc toàn cầu có thể đánh giá là vẫn còn mờ nhạt và tham gia vào ít công đoạn, chủ yếu là khâu sản xuất theo phương thức OEM. Hiện tại, năng lực sản xuất của ngành công nghiệp phụ trợ may mặc của Việt Nam rất yếu phải nhập khẩu tới 90% bông, gần 100% các loại sợi tơ tổng hợp, hóa chất, thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị và phụ tùng, 70% vải và 50 đến 70% các loại phụ liệu cho may xuất khẩu…[22]. Tuy nhiên mức độ đóng góp vào GDP của ngành lại rất lớn, kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2007 là khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006, năm 2008 xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam chiếm 1,7% so với xuất khẩu thế giới, là đứng thứ 10 trong những nước xuất khẩu may mặc lớn nhất thế giới. Năm 2009 kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 9,1 tỷ USD. Mức đóng góp này có được là nhờ 67 số lượng lớn các doanh nghiệp và công nhân lao động. Tổng cộng có khoảng hơn 2000 doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong ngành dệt may, sử dụng hơn 2,2 triệu lao động. [17]. Như vậy có thể thấy ngành dệt may tuy sử dụng số lượng lao động lớn nhưng khối lượng sản xuất các ngành công nghiệp dệt, phụ trợ… rất ít, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dựa vào hình thức gia công xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài do có lợi thế giá nhân công rẻ. Do chưa tự chủ về nguồn nguyên liệu, đặc biệt là những nguyên liệu chất lượng cao nên trong các hợp đồng gia công, Việt Nam thường phải dựa vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Những nguyên liệu này có thể do bên đặt hàng cung ứng toàn bộ hoặc do ta tự liên hệ với các đối tác HongKong, Đài Loan, Trung Quốc… mua về. Chi phí sản xuất do đó cũng tăng cao do những cho phí phát sinh liên quan đến vận chuyển, giao dịch, lưu kho… Hơn nữa năng lực thiết kế, marketing, phát triển sản phẩm và đặc biệt là khả năng tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động còn rất yếu. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động với tư cách là nhà thầu phụ sản xuất theo hợp đồng gia công cho những nhà sản xuất lớn hơn trong khu vực và nhận phí gia công. Những nhà sản xuất lớn hơn này mới là những nhà cung cấp trực tiếp các sản phẩm may mặc cho các hãng bán lẻ và kinh doanh hàng may mặc toàn cầu. Như vậy hiện tại các doanh nghiệp may mặc Việt Nam mới chỉ tham gia vào một công đoạn rất nhỏ, bắt đầu từ khâu nhập nguyên liệu cùng thiết bị về, trải qua quá trình sản xuất, rồi giao lại thành phẩm cho bên đặt hàng. Đây cũng là khâu tạo ra ít giá trị gia tăng nhất trong toàn chuỗi. Hiện tại chúng ta cũng có những nỗ lực bước đầu trong việc làm gia tăng thêm lượng giá trị tạo ra tại Việt Nam như: đưa thêm những sáng tạo về thiết kế kiểu dáng vào hợp 68 đồng gia công, nhận đảm nhiệm thêm những phần việc đòi hỏi công nghệ như hoàn tất, thiết kế mẫu mã bao bì đẹp cho sản phẩm… Chúng ta đã xây dựng được những thương hiệu riêng phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên những hoạt động trên mới chỉ mang tính nhỏ lẻ và chỉ có ở một vài doanh nghiệp có trình độ và năng lực sản xuất cao. Đại đa số doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa đưa được giá trị chất xám của mình vào sản phẩm. Vì vậy nâng cao vị trí của ngành may mặc Việt Nam về cả hai hướng thượng nguồn và hạ nguồn chính là mục tiêu lâu dài tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu may mặc Việt Nam. 3.2 Triển vọng ngành dệt may Việt Nam 2010 – 2015 3.2.1. Quan điểm và chiến lược phát triển ngành dệt của Nhà nước Với lợi thế của Việt Nam là nguồn nhân lực đông và rẻ rất có lợi cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phát triển. Trong những năm qua Nhà nước đã có quan điểm nhằm phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. Nhà nước chỉ đạo lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. Tuy nhiên, phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Nhà nước chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm. Phát triển nguồn 69 nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. Nhà nước ta tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để các viện nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu. Bên cạnh đó Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu triển khai các tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Nhà nước từng bước xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hoà với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Hỗ trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm Dệt May, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt May trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Cùng với các doanh nghiệp dệt may Nhà nước tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt May trên thị trường quốc tế. NHà nước từng bước cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hoá các thủ tục. Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, ngành Dệt May Việt Nam huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hoá các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị trường 70 chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ. [16]. 3.2.2. Những thách thức ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đã được 3 năm. Dệt may là một trong những ngành được coi là mũi nhọn và chịu nhiều tác động sau sự kiện này. Nếu như trong khoảng thời gian đầu năm 2008, ngành dệt may đã đạt được những bước tăng trưởng khá mạnh thì cuối năm 2008, đầu năm 2009, dệt may Việt Nam đang đứng trước rất nhiều những khó khăn, thách thức mà nếu không có những hướng giải quyết kịp thời thì những hệ lụy của nó là không thể lường trước. Tuy đã hội nhập được gần 2 năm nhưng chúng ta vẫn chưa nhận thức hết những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị, thiếu phương án đối phó khi sản xuất kinh doanh khó khăn do phải cạnh tranh với hàng ngoại và mức thuế nhập khẩu dệt may đã giảm 2/3 xuống còn 20%. Đặc biệt ngày 1.1.2009, Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài thì sức ép cạnh tranh sẽ lớn hơn. [36]. Ở nước ta doanh nghiệp trong ngành là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế. Trong khi đó, ngành phụ trợ lại kém phát triển, 70% nguyên phụ liệu trong ngành phải nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh.[23]. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu, hiệu quả sản xuất thấp. Khó khăn lớn nhất với các doanh nghiệp hiện nay là cơ chế của Hoa Kỳ giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá. Mặc dù Chính phủ, các bộ ngành và Hiệp hội đã kiên quyết đấu tranh chống lại cơ chế này và thường xuyên tiếp xúc, giải thích, vận động để các khách hàng Hoa Kỳ yên tâm đặt 71 hàng tại Việt Nam nhưng Macy, Hagel vẫn rút toàn bộ đơn hàng tại Việt Nam để chuyển sang nước khác. Sức ép này còn làm cho nhiều công ty Việt Nam, công ty nước ngoài không dám đầu tư vào ngành dệt may nữa do sợ rủi ro. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong ngành đã phải bỏ ra nhiều chi phí thuê vận động hành lang, thuê các công ty luật để đối phó với cơ chế chống bán phá giá của Hoa Kỳ. Nên nhớ, hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 57% thị phần xuất khẩu. [11]. Thủ tục hải quan vẫn cần có sự can thiệp từ góc độ nhà nước để tạo thông thoáng cho doanh nghiệp trong vấn đề làm thủ tục hải quan, vấn đề kiểm tra sau thông quan đang là một vấn đề đau đầu với không ít doanh nghiệp dệt may. Câu hỏi được đặt ra là tại sao cơ quan hải quan không kiểm tra cẩn thận ngay từ đầu? Vấn đề về cơ sở hạ tầng cảng biển, bến bãi cũng là một vấn đề được đặt ra, giám đốc một doanh nghiệp tâm sự, giữa năm 2007 nhiều lô hàng về cảng chùa Vẽ, thủ tục hải quan đã xong hết nhưng không thể lấy hàng về được vì chỉ có một chiếc gắp cont (con cẩu) nên không thể làm việc kịp được, có nhiều lô hàng chúng tôi phải để ở cảng hơn nửa tháng mới lấy về được. [32]. Để giải quyết những khó khăn của ngành nói chung cũng như các doanh nghiệp dệt may nói riêng thì: trên góc độ nhà nước nếu trước đây có thể có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp của nhà nước thì khi chúng ta đã vào WTO thì những hỗ trợ đó sẽ không còn nữa. Nhưng bù lại, nhà nước sẽ hỗ trợ theo những chiến lược phát triển ngành dệt may mà cụ thể là Chính phủ đã phê duyệt chiến lược ngành dệt may đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với việc tập trung vào ba lĩnh vực chính: Nguyên phụ liệu, thiết kế và phát triển thị trường. Vấn đề giải quyết trong thời điểm hiện tại là các doanh nghiệp phải tự tranh bị cho mình những kiến thức chống bán phá giá, tìm hiểu kỹ lưỡng luật pháp Hoa Kỳ để tránh được những vụ kiện có thể xảy ra. Được 72 biết, các quy định từ phía Hoa Kỳ hiện nay là quá cao đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nên chăng chúng ta cũng phải nhìn những kinh nghiệm thực tế của 2 ngành có sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ là thủy sản và da giày bị khởi kiện bán phá giá để ngành dệt may có thể tìm hiểu các bài học rút ra. [27]. Để phát triển công nghiệp dệt may chúng ta cần tăng cường hơn nữa đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao về quản lý, kỹ thuật công nghệ, thiết kế thời trang. Bên cạnh đó cần phải xây dựng quan hệ lao động hài hòa giữa người sử dụng lao động với người lao động. Chăm lo cải thiện đời sống cho người lao động. Và cái quan trọng nhất là cần phải hợp tác chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các hiệp hội, các nhà nhập khẩu, bán lẻ, các đối tác Hoa Kỳ kiên quyết đấu tranh chống lại cơ chế giám sát nhập khẩu và chống bán phá giá của Hoa Kỳ hoặc giảm thiểu tác động của cơ chế này đối với ngành. Đồng thời cũng tăng cường vận động để Hoa Kỳ không áp dụng các chính sách gây phương hại đến xuất khẩu dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ. 3.2.3. Kế hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam Nhiều năm qua, hàng dệt may luôn nằm trong nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhưng giá trị gia tăng mang lại chưa cao, chỉ chiếm khoảng 35% so với kim ngạch xuất khẩu. Theo số liệu ước tính, hàng FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 20% - 30%, còn lại là gia công. Hiện ngành Dệt May đang phấn đấu để nâng tỷ lệ xuất khẩu hàng FOB lên khoảng 50% trong năm 2013. [27]. Năm 2010, ngành Dệt May phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 10,5 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2009. Để đạt mức tăng trưởng này, một trong 73 những nhiệm vụ trọng tâm của ngành là quy hoạch, đầu tư có trọng điểm cho sản xuất nguyên phụ liệu nhằm hạn chế nhập khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hóa... Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2020 đã được Chính phủ nhấn mạnh là hướng vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm, thay cho gia tăng số lượng và giá trị xuất khẩu bằng gia công. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015 với mục tiêu đến năm 2015, diện tích cây bông vải đạt 30.000 ha và tiếp tục tăng lên hơn 2,5 lần (76.000 ha) vào năm 2020. Việc triển khai tích cực chương trình này sẽ từng bước giúp các doanh nghiệp dệt - may có thể chủ động nguyên liệu trong nước. Việc đẩy mạnh đầu tư, phát triển nguồn NPL trong nước để phục vụ cho xuất khẩu dệt may đã được Bộ Công Thương đề ra thành Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010 và tính đến năm 2020, với Chương trình sản xuất 1 tỷ mét vải, phát triển cây bông, đào tạo nguồn nhân lực. [16]. Mục tiêu của ngành Dệt May Việt Nam đề ra trong Chiến lược phát triển ngành đến năm 2020 là đạt doanh thu 31 tỉ USD, riêng xuất khẩu dự tính thu được 25 tỉ USD, đồng thời nội địa hóa được NPL đầu vào đến 70%. Tỷ lệ nội địa hoá hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010 dự kiến sẽ đạt trên 50%, so với 44% của năm 2009. Mức tăng này có được là do những dự án đầu tư nhà máy sản xuất sợi, xơ, bông đã đi vào hoạt động. [2]. Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, Vinatex kiến nghị Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn, vì hiện năng lực về vốn của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, trong khi đầu tư phát triển lĩnh vực này thường đòi hỏi vốn lớn. Cùng với đó, các ngành chức năng cần đơn giản 74 hóa thủ tục hải quan, giảm phiền hà cho doanh nghiệp trong việc nhập khẩu NPL phục vụ sản xuất. 3.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành may mặc. Như ta đã biết ngành may mặc của Việt Nam đang nằm ở khâu dưới cùng tức là khu vực sản xuất ra lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong toàn chuỗi. Để nâng cao khối lượng giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam tức là chúng ta phải thực sự làm chủ từ công đoạn thiết kế mẫu mã sản phẩm, hoặc mở rộng vùng nguyên liệu cung ứng, phát triển nguyên liệu mới, giảm giá thành các yếu tố đầu vào…hoặc là chúng ta phát triển theo hướng marketing, xúc tiến thương mại, bán hàng và quảng bá thương hiệu cần đặt lên hàng đầu. Trong tình hình hiện nay, ngoài các giải pháp cho việc nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu thì qua thực trạng phát triển ngành may mặc của Trung Quốc cũng chính là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành may mặc. 3.3.1. Nâng tỷ lệ nội địa hóa và chủ động nguồn nguyên liệu Trung Quốc là quốc gia sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu ngành công nghiệp dệt may lớn nhất trên thế giới. Năm 2009 tổng sản lượng sản xuất nguyên phụ liệu ước tính chiếm gần 50% sản lượng thế giới. [5]. Vì vậy Trung Quốc đã gần như chủ động được nguồn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng may mặc của mình. Có được thành công như vậy là do sự nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc và đặc biệt là nhận được sự hỗ trợ lớn của Chính phủ Trung Quốc. So với Trung Quốc thì ngành công nghiệp dệt và phụ trợ Việt Nam hiện nay rất yếu, dẫn đến 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh. [22]. Vì vậy vấn đề nhu cầu về cung cấp nguyên 75 liệu bông, xơ trong nước hiện còn nhiều khoảng trống và thiếu ổn định, trong khi đây là những "đầu vào" thiết yếu cho ngành Dệt May trong việc nâng cao giá trị trên thị trường thế giới. Từ những thành công trong việc sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu của ngành dệt may Trung Quốc. Hiện nay Việt Nam cũng đang từng bước triển khai thực hiện các chủ trương, chiến lược phát triển cung ứng nguồn nguyên liệu cho ngành dệt may của mình. Trước mắt nâng cấp những nhà máy hiện tại để xây dựng công nghiệp phụ trợ đáp ứng một phần nhu cầu nguyên vật liệu trong nước nhằm hạn chế sự phụ thuộc bởi nguyên liệu đầu vào của nước ngoài. Đầu tư các khu công nghiệp (KCN) dệt may tập trung, phát triển ngành bông và dệt, nhuộm; thúc đẩy nghiên cứu khoa học; phát triển thương hiệu sản phẩm. Tập đoàn Dệt - May Việt Nam (Vinatex) đang xây dựng 4 KCN dệt nhuộm tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Ðịnh, Long An, Trà Vinh nhằm thúc đẩy các dự án sản xuất vải, nâng năng lực sản xuất của tập đoàn tăng thêm 200 triệu mét vải vào năm 2015. [34]. Bên cạnh đó, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Vinatex cũng đang triển khai xây dựng nhà máy sản xuất sợi tổng hợp ở KCN Ðình Vũ (Hải Phòng). Dự kiến, nhà máy sẽ đi vào sản xuất năm 2012, đáp ứng 100% nhu cầu xơ, sợi tổng hợp cho ngành Dệt. [1]. Ngoài các doanh nghiệp dệt may nhà nước và tư nhân cũng đã hào hứng đầu tư vào chương trình phát triển dệt may. Ngay từ năm 2000, Công ty cổ phần sợi Thế Kỷ (TP.HCM) đã quyết định đầu tư phát triển sản phẩm sợi polyester filament, một trong những nguyên liệu dệt vải có tính bền cao, chống nhăn, đàn hồi. Ðến nay, cả nước đã có 4 doanh nghiệp đầu tư phát triển 76 loại sản phẩm này. Công ty cổ phần sợi Thế Kỷ cho biết, năm 2000, công suất của nhà máy chỉ đạt 4.800 tấn/năm, đến năm 2009, nhà máy đã tăng công suất tới 14.400 tấn/năm, sản phẩm được tiêu thụ hết. Như vậy, việc hình thành và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đã trở thành một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay của ngành dệt may Việt Nam nhằm nâng cao khả năng tự đáp ứng về nguyên liệu, phụ liệu và tỷ lệ nội địa hóa của ngành. 3.3.2. Xây dựng chiến lược hoạt động toàn cầu đặc biệt chú trọng đến thị trường tiêu thụ nội địa Ngoài những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản thì trong vài năm trở lại đây Trung Quốc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may tới các nước Châu Á, Nga, Châu Phi... Nhưng do suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay nên các công ty xuất khẩu Trung Quốc hiện đang tập trung hướng về thị trường nội địa nhằm bán sản phẩm do tình hình kinh tế ảm đạm khiến lượng đơn đặt hàng nước ngoài giảm sút. Mặc dù sản xuất rất nhiều sản phẩm cho các hãng nổi tiếng thế giới, nhiều nhà sản xuất Trung Quốc vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc thâm nhập thị trường nội địa do cạnh tranh khắc nghiệt, thiếu thương hiệu và mạng lưới phân phối. Khi nhu cầu tiêu dùng tại Bắc Mỹ và châu Âu sụt giảm mạnh và cắt các hợp đồng và đơn đặt hàng. Các công ty xuất khẩu Trung Quốc phải tìm kiếm thị trường mới. Mặc dù kinh tế Trung Quốc vẫn phải dựa vào hai trụ cột chính là vốn đầu tư và xuất khẩu, tiêu dùng nội địa vẫn đang dần mở rộng. Doanh số bán lẻ tăng 21,6% trong năm 2008 nhờ thu nhập người dân tăng và các 77 chương trình của chính phủ nhằm khuyến khích tiêu dùng tại các khu vực nông thôn. Mặc dù có những khó khăn, người tiêu dùng Trung Quốc vẫn được hưởng lợi từ việc chuyển hướng này. Với nhiều hàng hóa đáng ra được xuất khẩu sang phương Tây lại được bày bán trong nước, người mua hàng Trung Quốc giờ đây có nhiều lựa chọn sản phẩm chất lượng hơn. [31]. Cũng giống như Trung Quốc, thị trường xuất khẩu may mặc truyền thống của Việt Nam là 3 thị trường chủ yếu Mỹ, EU, Nhật Bản. Từ năm 2007 khi việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt năm 2008 suy thoái kinh tế toàn cầu thì nước ta chú trọng nhiều hơn đến thị trường tiêu thụ nội địa và bước đầu mở rộng thị trường xuất khẩu hàng may mặc sang các nước láng giềng Châu Á, Nga... Trong những năm gần đây, đời sống của nhân dân Việt Nam đã từng bước được cải thiện, kể cả ở nông thôn. Vì vậy, nhu cầu, sức mua của người dân đối với mặt hàng may mặc Việt Nam là rất lớn (chiếm trên 20% tổng nhu cầu hàng dệt may), đặc biệt là các sản phẩm dành cho phụ nữ và trẻ em vì chất lượng sản phẩm tốt mà giá cả hợp lý, phù hợp với thu nhập của người dân. Doanh thu từ thị trường nội địa của các đơn vị thành viên Tập đoàn Dệt may Việt Nam năm 2009 đã tăng 26% so với năm trước, ví dụ như Việt Tiến đạt trên 600 tỷ đồng, tăng gần 150 tỷ so với năm 2008; Nhà Bè đạt 300 tỷ đồng; May 10 đạt trên 100 tỷ đồng; May Phương Đông đạt gần 100 tỷ đồng…[23] . Thị trường nội địa thực sự là một thị trường tốt đối với hàng Việt Nam mà trước đây chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng. Vì vậy, để đẩy mạnh hơn nữa chương trình này vào năm tới, Hiệp hội Dệt may khuyến cáo các doanh nghiệp trong ngành cần tìm hiểu thị hiếu của từng vùng, lắng nghe ý kiến của người dân để từng bước hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp, 78 phân khúc lại thị trường nhằm mục tiêu kinh doanh lâu dài. Đồng thời, hạ giá bán sản phẩm cho phù hợp với thu nhập của người dân nông thôn để có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Điều quan trọng nhất là phải tổ chức được hệ thống phân phối ổn định tại từng vùng, kết nối với tiểu thương tại chỗ để mở rộng kênh phân phối. Đặc biệt các nhà sản xuất cũng cần lưu ý rằng hiện nay trên thị trường có rất nhiều hàng nhập khẩu siêu rẻ, gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các rào cản kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo vệ lợi ích cho chính doanh nghiệp mình cũng như người tiêu dùng. 3.3.3. Tận dụng lợi thế lao động rẻ ở khu vực nông thôn Năm 1990, gần 90% giá trị xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc là từ ngành công nghiệp dựa vào nông thôn và 15 tập đoàn mạnh nhất cũng là các doanh nghiệp ở nông thôn. Định hướng này thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nông thôn và tận dụng được lợi thế giá lao động rẻ. Kế đến là sự đóng góp của trên 100.000 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nhỏ và vừa với hệ thống sản xuất linh hoạt, có khả năng thay đổi nhanh chóng dòng sản phẩm cho phù hợp với thị trường. [38]. Việt Nam cũng là nước có lực lượng lao động rẻ tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Vì vậy để thu hút và tận dụng được nguồn lao động này các doanh nghiệp đã xây dựng nhà máy ở khu vực đó để đào tạo họ trở thành những công nhân phục vụ cho việc sản xuất hàng dệt may của doanh nghiệp mình. Điển hình như Công ty cổ phần sợi Thế Kỷ (TP.HCM), cuối năm 2009 đã khởi công xây dựng một nhà máy có công suất 25.000 tấn/năm với tổng vốn 550 tỷ đồng đến Bình Dương. Công ty TNHH Liên Anh cũng đã đầu tư một trung tâm NPL dệt may và da giày tại huyện Dĩ An, Bình Dương với quy mô rộng 160.000m2, nằm giữa khu vực trọng điểm kinh tế của Đông Nam 79 Bộ. Vốn đầu tư cho giai đoạn 1 là hơn 12 triệu USD và giai đoạn 2 dự kiến khoảng 10 triệu USD. Những nhà máy này thu hút số lượng lao động đông và tận dụng được nguồn nhân công rẻ sẽ tác động trực tiếp đến cơ cấu sản xuất của cả hai ngành dệt may và da giày, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển từ gia công sang sản xuất. [24]. Ngoài ra, các doanh nghiệp Trung Quốc còn thuê chuyên gia nước ngoài tư vấn về nhân sự, kinh doanh, sản xuất; hợp tác với các công ty tên tuổi; thiết lập nhiều chi nhánh ở nước ngoài và hình thành mạng lưới sản xuất và tiếp thị xuyên lục địa. Trung Quốc còn mạnh dạn thực hiện chính sách tư nhân hóa, cho phá sản các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ mới. Nhờ đó, Trung Quốc tạo ra được hàng hóa giá rẻ làm lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đáp ứng được nhiều loại phẩm cấp hàng hóa cho thị trường EU. Vì thế, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nghiên cứu kỹ tác động của việc Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch dệt may vào thị trường EU để định hướng mặt hàng và quốc gia xuất khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn rõ góc độ “cầu” của thị trường EU về thị hiếu, tính đa dạng của sản phẩm dệt may từ phẩm cấp thấp đến chất lượng cao, sức mua để tìm cách thích ứng, tổ chức lại sản xuất cho hiệu quả hơn, nâng cao lợi thế cho sản phẩm dệt may Việt Nam. [25]. 3.3.4. Từng bước chuyển đổi từ phương thức sản xuất OEM sang phương thức sản xuất ODM Giống như những năm 1980, 1990 của Trung Quốc, hiện nay các doanh nghiệp may mặc Việt Nam chủ yếu sản xuất hàng may mặc theo phương thức gia công (OEM). Phải đến những năm 2000 một số các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc từng bước chuyển từ phương thức sản xuất OEM sang ODM. 80 Việt Nam phát triển ngành ngành công nghiệp dệt may sau 10 – 15 năm so với Trung Quốc. Vì hiện nay ở nước ta khâu thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB còn thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Ý tưởng thiết kế là khâu có tỷ suất lợi nhuận cao trong chuỗi giá trị thì lại là khâu yếu nhất của ngành may mặc Việt Nam. Chỉ khoảng 30% giá trị xuất khẩu của ngành dưới dạng FOB (tức là có tham gia vào khâu ý tưởng và thiết kế) còn lại xuất khẩu dưới hình thức gia công. [23]. Ở khâu sản xuất theo phương thức OEM có tỉ suất lợi nhuận thấp nhất chỉ chiếm 5-10%. Song những năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang tập trung khai thác các lợi thế ở công đoạn này. Đứng trên giác độ của các chuyên gia kinh tế cho thấy, mặc dù tạo giá trị gia tăng không cao nhưng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh hơn bởi các “cường quốc may mặc”, họ cạnh tranh nhau khốc liệt ở giai đoạn thiết kế và phát triển phụ trợ mà tạo ra nhiều thị trường ngách cho các nước trong đó có Việt Nam. Sau hơn 10 năm sản xuất theo phương thức OEM, các doanh nghiệp Việt Nam có đủ kinh nghiệm để chuyển sang tiếp cận với phương thức sản xuất ODM như: Công ty may Việt Tiến, Phương Đông, Viatex. Với việc hội nhập sâu rộng của nước ta hiện đã tạo cho ngành Dệt may Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực để phát triển và khai thác triệt để các lợi thế trong khâu này. [36]. 81 KẾT LUẬN Trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành may mặc, Việt Nam mới chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, khâu được đánh giá là tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong toàn chuỗi giá trị. Khoảng 90% doanh nghiệp Dệt May của Việt Nam tham gia vào khâu này của chuỗi giá trị dưới hình thức gia công theo tiêu chuẩn khách hàng (OEM). Tuy nhiên, trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn OEM vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng hơn nữa so với các nước Đông Á. Mặt khác, muốn thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sản xuất dưới dạng sản xuất thiết kế gốc (ODM - Original Design Manufacture) hay là sản xuất nhãn hiệu gốc (OBM - Own Brand Manufacture). Trong marketing hiện đại, không chỉ các doanh nghiệp cần nỗ lực làm marketing, mà các ngành và Nhà nước cũng cần đổi mới tư duy và làm marketing chuyên nghiệp. Kinh tế học hiện đại cho chúng ta nhận thức về chuỗi giá trị tạo nền tảng cho quá trình làm marketing trong bối cảnh toàn cầu hoá. Thực tiễn cho thấy, nhiều doanh nghiệp và chính phủ Việt Nam đang nỗ lực hướng tới việc nâng cao vị trí của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề là phải xác định thật rõ chuỗi giá trị từ công nghệ đến sản phẩm, từ giá trị sản phẩm đến giá cả và thị trường tiêu thụ. Đó là một hệ thống các hoạt động trao đổi được tổ chức chặt chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, nhằm mục đích tạo ra giá trị và tính cạnh tranh cao hơn. Đặc điểm chính của chuỗi giá trị là tạo ra liên kết doanh nghiệp thông qua việc những bên tham gia vào chuỗi giá trị làm việc cùng nhau, trên cơ sở liên kết công nghiệp - thương mại. Qua thực trạng tham gia của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc vào chuỗi giá trị toàn cầu ngành may mặc đã giúp cho Việt Nam có thêm những 82 bài học kinh nghiệm khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào sân chơi chung của chuỗi giá trị toàn cầu. Sự xâm nhập và làm chủ lẫn nhau giữa các quốc gia trong “luật chơi toàn cầu hóa” sẽ thúc đẩy các quốc gia, đặc biệt là nước đang phát triển như Việt Nam phải biết tối ưu hóa lợi thế cạnh tranh tĩnh, biến lợi thế cạnh tranh tĩnh thành lợi thế cạnh tranh động và khai thác triệt để nó. Do vậy, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam cần nhận thức rõ lợi thế cạnh tranh về lao động để không còn tự đặt mình vào vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may trong tương lai không xa. 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Bình Minh, Thị trường nội cứu dệt may, trang web www.garco10.vn 2. Bộ công thương, Trung tâm thông tin thương mại (2009), Tình hình thị trường thế giới và triển vọng phát triển ngành dệt may Việt Nam. 3. Duy Anh, Hàng dệt may Việt Nam tiêu thụ nội địa chỉ chiếm 1/4 năng lực sản xuất, trang web www.cseif.gov.vn 4. Đỗ Thị Loan (số 39/2009), Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và vị trí dệt may Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 5. Hiệp hội dệt may Trung Quốc (2009), Đánh giá năng lực sản xuất của ngành dệt may Trung Quốc, 6. Hồng Hạnh, Bức tranh xuất khẩu dệt may Trung Quốc, trang web www.vinatex.com 7. Hồng Hạnh, Trung Quốc tiêu thụ hàng dệt may tăng mạnh 2 tháng đầu năm 2010 trang web www.vinatex.com 8. Hương Loan, Đẩy mạnh xuất khẩu dệt may sang Nhật, trang web www.vneconomy.vn 9. InfoTV, Giá hàng may mặc xuất sang EU tăng mạnh, trang web www.vietchinabusiness.vn 10. Lê Thị Hải Quỳnh (2005), Thâm nhập thị trường thế giới thông qua chuỗi giá trị toàn cầu, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương, Hà Nội 11. Michael Martin, Chuyên gia phân tích thương mại và Tài chính Châu Á, Hiệp hội dệt may Việt Nam (27/11/2007), Báo cáo nghiên cứu ngành dệt may Việt Nam của Hoa Kỳ, tr 25-29 12. Minh Anh, Xuất khẩu may mặc phục hồi tại Trung Quốc, Việt Nam, 84 Bangladesh, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ, trang web www.vinatex.com 13. Nguyễn Hoàng Ánh (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu (global value chain – GVC) và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam", Đề tài khoa học và công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 14. Thống kê Thương mại WTO (2006-2009), Tổng quan về ngành dệt may Trung Quốc, 15. Thông tin thương mại, Một số đánh giá về triển vọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ, trang web www.vietnamtextile.org 16. Thủ tướng Chính phủ (10/3/2008), Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. 17. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2005-2009), Tổng quan tình hình hoạt động và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam, 18. Tổng cục Thống kê Trung Quốc (2004-2009), Số liệu tình hình xuất nhập khẩu dệt may Trung Quốc, 19. Tống Duy, Năm 2009 dệt may của Trung Quốc và ngành công nghiệp dệt may bước vào một giai đoạn điều chỉnh chiến lược, trang web www.incra.in.com 20. Trung tâm Thông tin TBS, Năm 2010 ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc thận trọng lạc quan về phía trước, trang web www.tbs- china.com 21. VINATEX, Trung Quốc Diện tích trồng bông trong năm 2010 giảm 5%, trang web www.vietnamtextile.org 22. Vinanet, 70% nguyên liệu của ngành dệt may phải nhập khẩu, trang web www.thietbimaymac.com 23. Vinanet, Những thành tựu của ngành dệt may sau khi Việt Nam gia 85 nhập WTO, trang web www.vietnamtextile.org 24. VnEconomy, Dệt may quay lại "sân nhà", trang web www.thietbimaymac.com 25. Vnexpress.net, Dệt may cuống cuồng tìm thị trường mới trang web www.thietbimaymac.com 26. Vũ Thị Hạnh (2007), Chuỗi giá trị toàn cầu và việc tham gia của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội. 27. Vương Trần, Việt Nam cần điều chỉnh để tăng sức cạnh tranh của ngành dệt may, trang web www.orgvietnamscout.com Tài liệu tiếng Anh 28. Gary Gereffi, Olga Memedovic (2003), The global apparel value chain: What prospects for Upgrading by Developing countries, United Nation Industrial Development Organnization, Vienna, pp 3-4 29. Kogut.B (1985), “Designing global strategies: Comparative and Competitive Value-added chain”, Sloan Management Review, vol. 26, no. 4: 15-28. 30. Raphael Kaplinsky, Mike Moris (2002), A handbook for value chain research, University of Sussex, UK. Các trang web 31. www.infotv.vn 32. www.itpc.hochiminhcity.gov.vn 33. www.ncseif.gov.vn 34. www.saigon3.com.vn/ 35. www.sggp.org.vn 86 36. www.vietnamtextile.org 37. www.vietrade.gov.vn 38. www.vinatex.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3377_3375.pdf
Luận văn liên quan