LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG CHÍNH
1. Khái quát chung
1.1 Khái niệm bạo lực gia đình
1.2 Khái niệm bạo lực gia đình đối với trẻ em
1.3 Các quy định pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em
2. Thực trạng nạn bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay
2.1 Những con số và trường hợp cụ thể
2.2 Những nguyên nhân cụ thể
2.3 Những hậu quả xảy ra
3. Các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình
3.1 Các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình đối với trẻ em
3.2 Các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình
3.3 Các biện pháp xử lý người gây bạo lực gia đình đối với trẻ em
4. Một số kiến nghị và đề xuât
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6150 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Xã hội ngày càng phát triển và kéo theo đó là rất nhiều những vấn đề xã hội nóng bỏng nảy sinh khiến dư luận quan tâm. Hàng ngày, hàng giờ chúng ta phải trải qua những vấn đề như dân số, gia đình, môi trường, việc làm, tài nguyên, nguy cơ chiến tranh,… Vậy nhưng nhiều khi những vấn đề ngay chính trong gia đình mỗi cá nhân thì không phải ai cũng nhận thức được.
Một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay đó chính là nạn bạo lực gia đình đang nảy sinh và diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là khi đối tượng của nó lại chính là trẻ em – mầm non, tương lai của xã hội. Trong gia đình thời hiện đại vẫn không thiếu những hình ảnh bố mẹ đánh đập con cái dã man, ông bà hay người lớn lăng mạ, làm nhục trẻ em, hình ảnh đứa trẻ mới lên ba lên bốn ra đường ăn xin và đem tiền về cho những người cha người mẹ vô lương tâm,… Đây quả là một hiện thực đau xót đối với nhà nước, xã hội và bản thân mỗi chúng ta.
Nhận thức được điều này, bài tiểu luận của em sau đi xin đi sâu nghiên cứu và phân tích về đề tài:
“Thực trạng và các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình”.
NỘI DUNG CHÍNH.
1. Khái quát chung.
1.1 Khái niệm bạo lực gia đình.
Vấn đề bạo lực gia đình đang là một vấn nạn mà không chỉ riêng Việt Nam mà bất cứ quốc gia nào trên thế giới đang đều phải đối mặt. Tuy nhiên, khi nói đến bạo lực gia đình thì không phải ai cũng có nhận thức đầy đủ về nó.
Bạo lực trong gia đình là một khái niệm mới được dùng ở Việt Nam để chỉ bất kỳ một hành động bạo lực nào của thành viên trong gia đình gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho thành viên khác trong gia đình về thân thể, tình dục hay tâm lý. Hình thức bạo lực trong gia đình khá đa dạng như bố mẹ, con cái, anh chị em trong nhà đánh đập, giết hại lẫn nhau, trong đó phổ biến nhất là bạo lực từ phía các ông chồng đối với vợ như: đánh đập, chửi mắng, cấm đoán, cưỡng ép quan hệ tình dục, cưỡng ép đẻ thêm con ...
Từ đó, có thể hiểu bạo lực gia đình là hành vi lạm dụng quyền lực (có hoặc không sử dụng vũ lực) nhằm hăm doạ hay đánh đập một người thân trong gia đình để điều khiển, kiểm soát người đó. Những hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn trái với đạo đức xã hội, bị cộng đồng và cả thế giới lên án.
Bạo lực gia đình không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khoẻ và thể chất đối với nạn nhân, gây tác hại đến sự phát triển nhân cách của trẻ em, mà còn có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, dẫn đến những thiệt hại lớn về kinh tế, lao động, sức khoẻ của gia đình và cộng đồng. Tùy theo quan điểm và phương pháp tiếp cận, hiện có nhiều cách phân loại các hình thức bạo lực gia đình, nhưng thường tập trung ở ba loại cơ bản: bạo lực thân thể (bạo lực thể chất); bạo lực về tinh thần, tình cảm; bạo lực về kinh tế và quan hệ xã hội.
Bạo lực về thân thể (còn gọi là bạo lực về thể chất), gồm: xâm hại thân thể, đối xử tồi tệ về thể chất, bạo lực hoặc lạm dụng tình dục, gây hư hại tài sản gia đình. Bạo lực về tinh thần và tình cảm: Là những hành vi nhằm hành hạ tâm lý bằng những lời đe doạ, sỉ nhục, chửi mắng, lăng mạ, hạ thấp nhân phẩm, bỏ rơi, lãng quên, không quan tâm… Hình thức bạo lực này gây hậu quả rất nghiêm trọng so với các dạng bạo lực khác nhưng khó phát hiện để can thiệp bằng luật pháp vì sự “vô hình” và thiếu chứng cứ. Bạo lực thể chất có thể dễ dàng nhận diện qua những thương tổn hiện trên thân thể, và cùng với thời gian vết thương ấy sẽ liền da, nhưng bạo lực tinh thần thì hậu quả của nó tiềm ẩn bên trong, kéo dài dai dẳng với nỗi đau dằng xé và hậu quả của nó thì không thể định lượng được, đó là vết thương lòng với những cảm xúc của sự vô vọng, không ai giúp đỡ. Bạo lực về kinh tế và quan hệ xã hội gồm: thâu tóm về tài sản, cô lập và khống chế quan hệ xã hội, quan hệ gia đình của các thành viên trong gia đình,…
Tóm lại, bạo lực gia đình nói chung gây ra hậu quả rất to lớn cho gia đình và toàn xã hội, cần phải được ngăn chặn và loại bỏ.
1.2 Khái niệm bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Thông thường, nạn nhân của bạo lực gia đình là bất cứ thành viên nào trong gia đình. Tuy nhiên, trong số đó thì phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng dễ trở thành nạn nhân nhất, dễ bị tổn thương cũng như gành chịu những hậu quả nặng nề nhất từ nạn bạo lực gia đình. Trên cở sở những nhận thức ấy, có thể khái quát bạo lực gia đình đối với nạn nhân là trẻ em như sau: là những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội một cách cố ý trong gia đình, do một số thành viên trong gia đình thực hiện, dùng sức mạnh gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình cảm cũng như kinh tế đối với trẻ em.
1.3 Các quy định pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em.
1.3.1 Pháp luật bảo về các quyền lợi chính trị, xã hội của trẻ em.
Pháp luật đã quy định rõ trách nhiệm của nhà nước, xã hội và gia đình trong việc bảo đảm sự bình đẳng cũng như chăm lo, giáo dục trẻ em, cụ thể theo Điều 64 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.” Đặc biệt, Hiến pháp 1992 đã dành hẳn Điều 65 để bảo vệ trẻ em: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.” Thêm vào đó, nhà nước còn ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, với 5 chương, 60 điều ghi nhận các quyền lợi chính trị, xã hội của trẻ em như quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao,… Luật còn quy định không được phân biệt đối xử giữa nam và nữ, thành phần xuất thân, con ngoài giá thú, con trong giá thú, con đẻ và con nuôi, con riêng và con chung, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,… Tất cả trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục theo quy định pháp luật (Điều 4). Mặt khác, để bảo vệ các quyền lợi chính trị, xã hội, nước ta đã tham gia Công ước về quyền trẻ em ngày 20/2/1990 cũng như công nhận hàng loạt các quy định quốc tế được nêu ra.
Chính các quy định như đã đề cập trên đây đã nâng cao được vị thế và tầm quan trọng của trẻ em – những mầm non của đất nước. Điều này đã có tác dụng hết sức to lớn trong việc phòng và ngăn chặn bạo lực gia đình đối với trẻ em ở nước ta hiện nay.
1.3.2 Pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Trẻ em cũng là một công dân, và Điều 71 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm … Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Từ đó, có thể thấy, bất cứ hành vi đánh đập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm tới tính mạng mang tính bạo lực gia đình của các thành viên gia đình nói chung và cha mẹ nói riêng đối với trẻ em đều là vi phạm pháp luật. Đây cũng là một nội dung được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “…Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (khoản 2, Điều 34).
Đặc biệt, để thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe và trừng trị đối với những hành vi bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự 1999 (BLHS) đã đưa ra rất nhiều các quy định cụ thể. Ví dụ, với Tội hành hạ người khác (Điều 110), nếu như hành vi đối xử tàn ác, hành hạ người khác lệ thuộc mình song lại là trẻ em thì đây là tình tiết tăng nặng và sẽ chuyển khung hình phạt từ 3 tháng tù giam đến 2 năm lên thành 1 năm đến 3 năm. Hoặc như Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), nếu xét thấy có tính chất loạn luân hay làm cho nạn nhân có thai thì đây là tình tiết tăng nặng và chuyển khung hình phạt từ khung 1 lên khung 2 với thời gian là 12 năm đến 20 năm tù.
1.3.4 Pháp luật ghi nhận và bảo vệ tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em.
Tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em là cơ sở, nền tảng để họ chống lại bạo lực gia đình. Khi không phụ thuộc vào kinh tế hoặc ít nhất có sự bảm đảo về kinh tế nhất định và không quá lệ thuộc thì trẻ em còn có thể đứng lên chống lại bạo lực gia đình. Quyền sở hữu tài sản được Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi rõ: “Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật” (Điều 19). Cha mẹ, người giám hộ hay các cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em một cách tốt nhất, pháp luật nước ta còn đưa ra các văn bản quy định các biện pháp xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình nói chung ấy trên cở sở ban hành các văn bản như Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007, Nghị định của Chính phủ số 110 NĐ – CP ngày 10/12/2009 về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và một số các văn bản khác. Các quy định này cũng đã góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em một cách hiệu quả
Chính những quy định pháp luật trên đây đã trở thành cơ sở để nhà nước ta áp dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.
2. Thực trạng nạn bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.
2.1 Những con số và trường hợp cụ thể.
Bạo lực gia đình để lại hậu quả không chỉ cho nạn nhân mà cho các thành viên khác trong gia đình, nhất là trẻ em. Nói cách khác, bạo lực gia đình có tác động rất xấu tới sự phát triển cả về thể chất, tinh thần, đạo đức và trí tuệ của trẻ em. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, bạo lực gia đình khiến trẻ em khủng hoảng, sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng, rối nhiễu tâm lý, trầm cảm,... Bên cạnh đó, bạo lực gia đình cũng ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập, kỹ năng sống, sự hòa nhập xã hội, năng lực giải quyết vấn đề đời sống,... của trẻ em và nó để lại những di chứng hết sức nặng nề cho trẻ em.
Theo UNICEF, hiện có khoảng 275 triệu trẻ em đang sống trong cảnh bạo lực gia đình, phải chịu đựng sự bóc lột về thể chất, tinh thần và cả tình dục của cha mẹ cũng như người giám hộ. Hình thức bạo lực mà trẻ em gái phải gánh chịu cũng rất đa dạng, trong đó bao gồm cả bạo lực tình dục. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có đến 40 - 60% các vụ xâm hại tình dục diễn ra trong gia đình nhằm vào nạn nhân là các trẻ em gái dưới 15 tuổi. Một nghiên cứu ở Hà Lan gần đây thậm chí cho biết có đến 45% nạn nhân của bạo lực tình dục trong gia đình là trẻ em dưới 18 tuổi, trong số đó trẻ em gái chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với trẻ em trai. Đây là một thực tế hết sức đáng buồn mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang sống chung với nó mà dường như không hề nhận thức được.
Bạo lực gia đình ở Việt Nam cũng tăng nhanh, làm gia tăng số trẻ em vi phạm pháp luật. Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 2008 cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đúng mức. Nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2209 học viên các trường giáo dưỡng, có tới 49,81% các em trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh) còn bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm tới 20,3%. Trong những năm qua đã xảy ra rất nhiều vụ bạo hành thương tâm trong gia đình đã gây nhức nhối trong dư luận. Cụ thể: Tối ngày 31/8/2009, Tạ Văn Thành (Tân Bình, TP.HCM) đã dùng gậy có đóng đinh nhọn ở đầu đánh cháu Thảo, con gái ruột của Thành. Sau đó, Thành kéo con vào bếp, nắm chân cháu Thảo cho vào ngọn lửa để đốt trên bếp gas. Trước đó, Thành từng đánh cháu Thảo đến gãy tay và bị công an phường xử phạt hành chính 350.000 đồng. Hoặc trường hợp cháu Nguyễn Phương Ninh trú ở 39B, lô 2 Quán Nam, phường Kênh Dương, quận Lê Chân, Hải Phòng, thường xuyên bị mẹ đẻ và cha dượng là Vũ Văn Phủ hành hạ, ngược đãi. Ngày 30/12/2009, sau khi bị bỏ đói và trói hơn một ngày trong nhà tắm, cháu Ninh đã qua đời. (theo Báo pháp luật tp.Hồ Chí Minh ngày 21/1/2010).
Một số liệu khác của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy, trong giai đoạn 2005 – 2008, có tới 97 vụ án đã xét xử với 177 bị cáo phạm tội có hành vi bạo lực với phụ nữ và trẻ em, trong đó có rất nhiều trường hợp bạo hành dã man với chính trẻ em trong gia đình. Trong đó, bạo lực với trẻ em chiếm 42 vụ, xét xử 66 bị cáo.
Gần đây, một nghiên cứu mới nhất do Viện nghiên cứu thanh thiếu niên đã tiến hành tại 6 tỉnh miền bắc và miền trung với 1240 em học sinh tại các trường tiểu học, trung học cơ sở. Nghiên cứu đã đưa ra nhiều kết luận đáng lo ngại trong tâm lý của các em học sinh nhi đồng cũng như các em trong độ tuổi vị thành niên như sau: 46% các em cho biết thường xuyên bị bố mẹ phạt bằng cách này hay cách khác nếu chúng có lỗi, 50% là thỉnh thoảng bị phạt, 26% bị phạt bằng hình thức đánh, 65% các em thường bị mắng chửi, 10% phạt bằng các hình thức khác. Điều này thường dẫn đến tâm lý tiêu cực trong các em: 45% các em cho rằng mình bị phạt bất công, hình phạt đau đớn, 72% tỏ ra buồn chán vì bị phạt, 28% rất giận bố mẹ.
Cũng theo dữ liệu điều tra của Trung tâm thám tử tư Sài Gòn và số liệu của Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong năm vừa qua có 1826 vụ bạo hành trẻ em cùng với 2291 trẻ bị xâm hại, tăng 13,9% so với năm trước. Ngoài ra, các kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 8 – 22% trẻ em có vấn đề về sức khỏe tâm thần do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân lớn là bạo lực gia đình và các cách giáo dục con cái sai trái. Theo các đề tài nghiên cứu của các nhà xã hội học công tác tại trung tâm thám tử tư Sài Gòn, nhiều trẻ em Việt Nam hiện nay cũng được đánh giá là có thể trạng thấp còi so với các nước trong khu vực vì thiếu sự chăm sóc hợp lý và dinh dưỡng cần thiết.
Không chỉ dừng lại ở tình trạng bạo lực thân thể như đánh đập, hành hạ, bạo lực gia đình dưới hình thức xâm hại tình dục ngày càng gia tăng. Đây là một thực tế hết sức đáng buồn. Báo cáo của Bộ Công an cho thấy bình quân một năm xảy ra trên 100 vụ giết trẻ em, 800 vụ xâm hại tình dục với khoảng 900 em. Năm 2009, số vụ hiếp dâm trẻ em tăng 1,6%, giao cấu với trẻ em tăng 34,2%, dâm ô với trẻ tăng 16,7% so với năm trước. Nhiều câu chuyện đau lòng về xâm hại tình dục trẻ em mặc nhiên đã thành lời cảnh báo kinh hoàng về sự suy đồi đạo đức ở không ít gia đình, khi đối tượng phạm tội phần lớn có quan hệ rất gần gũi với nạn nhân (chiếm 56,1%). Bố đẻ xâm hại tình dục con gái (0,6%), bố dượng xâm hại tình dục con riêng (1%), thậm chí mẹ đẻ đồng lõa để bố dượng thực hiện hành vi hiếp dâm con không còn là chuyện lạ. Theo ông Nguyễn Hải Hữu, Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em – Bộ Lao động, thương binh và xã hội, năm 2008 số trẻ bị xâm hại tình dục là 1427 em, năm 2009 là 833 em. Ông Hữu thừa nhận số vụ trẻ em bị xâm hại tình dục trên thực tế sẽ còn cao hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do công tác quản lý còn nhiều bất cập, nhiều gia đình mặc cảm, che giấu sự vụ do lo sợ ảnh hưởng đến tương lai của trẻ sau này.
Từ những số liệu trên đây, có thể rút ra kết luận, càng ngày bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình với trẻ em nói riêng càng trở thành một vấn nạn, một khối u nhức nhối trong xã hội không chỉ ở riêng nước ta mà còn trên toàn thế giới. Hầu như các trường hợp bạo hành với trẻ em trong gia đình được gây ra bởi cha mẹ, anh chị,… hay những người giám hộ trong gia đình. Hình thức bạo hành cũng rất dã man, thương tâm mà chủ yếu là các hành vi bạo lực thân thể như đánh đạp, tra tấn hành hạ, cố ý gây thương tích,… Thêm vào đó là thực tế bạo hành tình dục cũng đang diễn ra ngày một nhiều như cưỡng dâm, hiếp dâm, giao cấu với trẻ em, lạm dụng tình dục… mà đáng buồn lại chính là những người thân nhất của các em như cha mẹ, bố dượng, dì ghẻ,… Ngoài ra cũng không thiếu những hình thức bạo lực khác như mằng chửi, đe dọa làm tổn thương tinh thần trẻ em hoặc bắt các em lệ thuộc kinh tế, tước đoạt tài sản của mình bởi những kẻ bạo hành. Thực tế trên đây đòi hỏi mỗi chúng ta cần tìm ra những nguyên nhân tại sao lại xảy ra những sự việc đau thương này.
2.2 Những nguyên nhân cụ thể.
- Những nguyên nhân gián tiếp:
Có thể nói, những nguyên nhân gián tiếp gây ra hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em là xuất phát từ kinh tế khó khăn trong gia đình, tình trạng thất nghiệp của vợ chồng hay các tệ nạn xã hội thâm nhập vào các gia đình. Lý giải cho điều này, rõ ràng kinh tế khó khăn sẽ gây ra tâm lý mặc cảm, chán nản trong gia đình nhất là đối với những người đàn ông trong gia đình bởi lẽ họ là người mang trong trách nuôi sống gia đình. Một người chồng không làm ra tiền, không chu cấp được gia đình thường trút bực tức, mặc cảm lên đầu vợ con họ và tất yếu những hành vi bạo hành đối với trẻ em có thể phát sinh. Tất nhiên không thể nói đàn ông là thủ phạm duy nhất song họ được coi là người dễ có hành vi bạo hành nhất. Tình trạng thất nghiệp cũng vậy, nếu trong gia đình mà các thành viên không có việc làm, sẽ dẫn đến hệ quả “nhàn cư vi bất thiện”. Người đàn ông hay thậm chí những người đàn bà có thể tìm đến bia rượu, các chất kích thích hoặc sa ngã vào tệ nạn xã hội như nghiện ngập, rượu chè, cờ bạc, lối sống trụy lạc,…. Trong tình trạng không làm chủ bản thân vì chất kích thích hay những tệ nạn làm suy đồi đạo đức thì rất dễ dẫn đến tình trạng bạo hành với trẻ em trong gia đình, kể cả hành hạ về thể xác lẫn lạm dụng tình dục. Những vấn đề này hiện hữu rất rõ trong đời sống hành ngày ở Việt Nam bởi nước ta vẫn là nước đang phát triển, nhiều nơi, nhiều vùng kinh tế còn khó khăn, dân số đông, tình trạng thất nghiệp tràn lan và tệ nạn còn tồn tại rất nhiều.
- Những nguyên nhân trực tiếp:
Rõ ràng, trẻ em là đối tượng yếu đuối về mặt thể chất (do thể chất chưa phát triển hoàn thiện) nên không thể chống cự lại được hành vi bạo lực gia đình. Ở đây, sự yếu đuối về thể chất còn đi kèm theo việc không có khả năng nhận thức cũng như sử dụng các hình thức tự vệ. Thêm vào đó, bản chất của bạo lực gia đình là ở chỗ những hành vi ấy được thực hiện bởi chính những thành viên trong gia đình. Trẻ em là đối tượng chưa có sức lao động cho nên tất yếu phải lệ thuộc về kinh tế vào các thành viên trong gia đình mà trước tiên là cha mẹ, ông bà, anh chị. Chính vì sự lệ thuộc này mà đã làm phát sinh tâm lý e dè, không dám lên tiếng hoặc phản ứng lại các hành vi bạo hành.
Sâu xa hơn, các hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em còn xuất phát từ tư tưởng, hủ tục trong gia đình ở nước ta. Điều này có thể bắt nguồn từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến việc bạo hành đối với trẻ em nữ trong gia đình. Hoặc tư tưởng “gia trưởng” khiến cho những người đàn ông trong gia đình mặc nhiên cho mình có “quyền đối với vợ con” nên muốn làm gì thì làm. Việc cha mẹ thường xuyên từ phạt con đến đánh đập con cái một cách dã man đôi khi cũng là do hiểu sai đi ý nghĩa câu nói mà cha ông ta đã dạy: “thương cho roi cho vọt”. Đây là một biểu hiện sai lầm trong cách dạy dỗ và giáo dục trẻ em.
Ngoài ra, hầu hết việc bạo hành với trẻ em trong gia đình đến từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật và bạo lực gia đình từ các thành viên trong gia đình. Lấy việc hiểu sai câu nói “thương cho roi cho vọt” là một ví dụ, rõ ràng cha mẹ ở đây đã không nhận thức được quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mình trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái được pháp luật quy định. Họ chỉ biết đánh con khi con phạm lỗi, thậm chí hành hạ con cái một cách vô cớ mà không hiểu được những quyền lợi mà con cái họ được hưởng mà pháp luật nước ta cũng như các điều ước Quốc tế ghi nhận. Hơn nữa, những người có hành vi bạo lực với trẻ em trong gia đình nhiều khi không biết đó là hành vi vi phạm pháp luật. Hoặc đó còn là do tâm lý ngại “vạch áo cho người xem lưng”, coi đó là chuyện nội bộ gia đình để tự giải quyết nên những thành viên chứng kiến các hành vi bạo hành với trẻ em không dám lên tiếng.
Thêm nữa, sự thiếu hiểu biết ở đây còn tồn tại ở cộng đồng dân cư xung quanh. Theo một nghiên cứu về nhận thức và thái độ của cộng đồng với bạo lực gia đình năm 2006 của Trung tâm nghiên cứu về giới, gia đình và môi trường trong quá trình phát triển (CGFED), trong số những người được hỏi “Đã nghe nói về bạo lực gia đình chưa?”, có đến 45,1% trả lời là “chưa!” Kết quả còn cho thấy, mức hiểu biết về bạo lực gia đình tỷ lệ thuận với trình độ học vấn. Số người được hỏi mà không biết về bạo lực gia đình gồm 44,2% dưới trình độ tiểu học, 17,3% trung học cơ sở, 11,7% trung học phổ thông, 1,9% đại hoc, cao đẳng. Từ đó có thể kết luận rằng sự hiểu biết về bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình với trẻ em nói riêng là rất hạn chế. Đó là chưa kể thái độ bàng quan, thiếu quan tâm nên nhiều khi hành vi bạo hành với trẻ em diễn ra ngang nhiên mà không ai lên tiếng.
Cuối cùng, một nguyên nhân khác là các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức xã hội chưa nhận thức và thực hiện tốt chức năng hay thẩm quyền của mình trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình. Đó là sự thiếu chủ động, linh hoạt, khi sự việc đã xảy ra, có hậu quả đáng tiếc thì mới xem xét, giải quyết. Đó cũng là sự thiếu kiên quyết, quyết đoán trong cách giải quyết khi các biên pháp xử lý không đủ răn đe, cưỡng chế nghiêm khắc và để xảy ra tình trạng tái phạm.
2.3 Những hậu quả xảy ra.
Thứ nhất, bạo lực gia đình đối với trẻ em có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau và để lại những tổn thương khác nhau cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Bạo lực về thể chất (hành vi đánh đập, tra tấn, ngược đãi về thể xác) sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí là tước đoạt đi cả tính mạng của các em. Những hành vi này khiến nạn nhân đau đớn, bị thương tật với các mức độ khác nhau. Khả năng có sự trầm cảm cũng cao hơn rất nhiều khi trẻ em và vị thành niên đã từng bị người trong gia đình đánh bị thương. Thêm vào đó, bạo lực về tình dục (cưỡng ép quan hệ, hiếp dâm, giao cấu với trẻ em,…) nếu gây hậu quả nhẹ thì ít nhất cũng là gây bức xúc tâm lý, ảnh hưởng tới cuộc sống tương lai của các em, nếu hậu quả nặng thì gây thương tật ở nhiều mức độ cũng như những tổn thương tâm lý trầm trọng như trầm cảm, lo sợ, tử vong mà thậm chí dấn đến tự tử. Đi kèm với hai hình thức trên, bạo lực về tinh thần (lăng mạ, xúc phạm nhân phẩm, làm nhục, bắt phải làm việc trái đạo đức, pháp luật, và các hình thức gây tổn thương tinh thần khác) sẽ dấn đến các vấn đề tâm lý như sự sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin và thất vọng hay trầm cảm. Riêng bạo lực về kinh tế cũng gây ra những tổn thương về thể chất và tâm lý cho trẻ em như hành vi bóc lột sức lao động trẻ em trong gia đình, cha mẹ bắt con đi ăn xin đem tiền về nộp.
Thứ hai, những hành vi bạo lực gia đình sẽ kéo theo những hậu quả cũng như những di chứng đáng tiếc về sau cho cuộc sống sau này của các em. Trẻ em sống trong gia đình có bạo lực gia đình có thể ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, kỹ năng giải quyết vấn đề, mức độ thấu cảm kém. Bạo lực gia đình nghiêm trọng và xảy ra thường xuyên có thể dẫn tới các hiện tượng bất ổn tinh thần sau chấn thương như tê liệt cảm giác, hoặc bị ám ảnh bởi những hành vi bạo lực mà trẻ em là nạn nhân hoặc được chứng kiến. Nhiều nghiên cứu cho thấy, có hiện tượng “chuyển giao hành vi bạo lực gia đình cho thế hệ sau”. Theo các chuyên gia tâm lý, những người chứng kiến cảnh bạo lực hoặc chính họ là nạn nhân của bạo lực, sẽ ít nhiều tiếp nhận hành vi bạo lực đó trong tâm trí. Với trẻ em sống trong gia đình có hành vi bạo lực, lớn lên ra ngoài xã hội có thể sẽ rụt rè, sợ hãi người khác, không dám bày tỏ suy nghĩ của mình, nhưng cũng có thể sử dụng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống. Những hình ảnh bạo lực gia đình mà trẻ em phải chứng kiến, cho dù các em không phải là nạn nhân trực tiếp cũng có thể vĩnh viễn in sâu trong tâm trí các em và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong suốt thời thơ ấu cũng như cuộc sống sau này của trẻ em. Ví dụ, các bé trai thường xuyên bị cha mẹ bạo hành dần dần sẽ hình thành nhận thức rằng: làm đàn ông có quyền đánh đập phụ nữ, và rồi khi trở thành chồng thì chàng trai cũng có cách ứng xử như vậy đối với vợ. Và không chỉ có vậy, cậu con trai sẽ quan niệm trong cuộc sống “kẻ nào mạnh thì kẻ đó thắng” và coi đó như một chân lý trong quan hệ xã hội. Ngược lại, với các bé gái trong hoàn cảnh tương tự thì có thể sau này cô gái cũng sẽ cam chịu cảnh bạo lực nếu có, hoặc sẽ có ác cảm với nam giới. Ngoài ra, trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình có khả năng bỏ học, hay đi học nhưng không đến trường, bỏ nhà đi lang thang, sa ngã vào các tệ nạn xã hội rất cao.
Chính vì lẽ đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần đề ra các biện pháp pháp lý hiệu quả và chung tay với cộng đồng thực hiện nhằm loại bỏ và phòng chống vấn nạn này.
3. Các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
3.1 Các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Về vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em, Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 đã đưa ra hai biện pháp chính sau đây:
- Tuyên truyền pháp luật: (quy định tại Điều 8, 9 10 của Luật) ở đây có nghĩa là thông tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình. Có thể hiểu mục đích của biện pháp này là nhằm thông tin, tuyên truyền tới tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng về quyền con người, quyền trẻ em, những hành vi bạo lực gia đình với trẻ em, trách nhiệm của cộng đồng, của các cơ quan, của mỗi cá nhân trước vấn nạn bạo hành gia đình với trẻ em cũng như hậu quả của những hành vi đó, về biện pháp xử lý, hậu quả pháp lý và bài trừ các tư tưởng trái đạo đức, pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi nhiều yêu cầu khác nhau như tính chính xác, kịp thời, ngắn gọn và linh hoạt trong lựa chọn các hình thức tuyên truyền, từ đó tạo cơ sở cho việc nâng cao sự hiểu biết, ý thức pháp luật của người dân trước nạn bạo lực gia đình với trẻ em.
- Tư vấn pháp lý: (quy định tại Điều 16, 17 của Luật) các chuyên gia sẽ tư vấn về phòng ngừa bạo lực gia đình với trẻ em cho các đối tượng có nhu cầu cần tìm hiểu hay những đối tượng có tiềm ẩn nguy cơ gây bạo lực hoặc chính nạn nhân là các trẻ em nói chung. Người có nhu cầu ở đây là những người gặp khó khăn, khúc mắc trong quan hệ gia đình, có khí chất nóng dễ sinh tính vũ phu, người sắp kết hôn hoặc những người đang sống chung với người có hành vi bạo lực gia đình. Từ đó, họ sẽ học hỏi được kinh nghiệm, lường trước hoặc giảm thiểu được hậu quả khi đối mặt với nguy cơ bạo lực gia đình với trẻ em. Bên cạnh đó, đối tượng tiềm ẩn ở đây là những cá nhân đã từng là thủ phạm của hành vi bạo lực gia đình với trẻ em cho nên cần được tư vấn để nâng cao nhận thức, điều chỉnh hành vi và tránh việc tái phạm thêm những lần kế tiếp.
Hiện nay, các biện pháp này đang được tiến hành và có những đóng góp tích cực trong việc phòng ngừa nạn bạo lực gia đình đối với trẻ em. Tuy nhiên, công tác tư vấn, tuyên truyền vẫn còn kém ở những vùng sâu vùng xa, vùng kinh tế khó khăn khiến người dân chưa hiểu rõ về vấn nạn này và nhiều hậu quả đáng tiếc vẫn tiếp tục xảy ra.
3.2 Các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Các biện pháp này cũng được quy đinh rất rõ tại các điều của Mục 1, Chương III trong Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007.
- Buộc người bạo hành với trẻ em chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Đây là một biện pháp mang tính hành chính. Việc chấm dứt này sẽ ngăn chặn và giảm bớt đáng kể những thiệt hại về vật chất và tinh thần do hành vi bạo lực gây ra với trẻ em. Trách nhiệm này thuộc về người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy đa phần các nơi hoạt động này không được chú trọng, thậm chí còn bị làm ngơ vì nhiều lý do, ví dụ như tâm lý e dè, sợ bị trả thù, thể chất yếu đuối, hoặc quan điểm “sống chết mặc bay” của nhiều người dân không hiểu đúng pháp luật. (điểm a, khoản 1, Điều 19)
- Trong trường hợp không thể buộc người bạo hành với trẻ em trong gia đình chấm dứt hành vi, người chứng kiến có thể thực hiện trách nhiệm báo tin cho cơ quan có trách nhiệm xử lý thì hành vi vẫn có thể được ngăn chặn kịp thời. (Điều 18)
- Theo điểm d, khoản 1 Điều 19 Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007, có thể tiến hành cấm người có hành vi trực tiếp tiếp xúc với trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, một mặt để tránh gây hoảng loạn cho trẻ em, mặt khác sẽ phòng ngừa tái bạo lực xảy ra. Biện pháp bao gồm cấm người có hành vi bạo lực tới gần nạn nhân hay sử dụng các phương tiện thông tin để thực hiện hành vi với nạn nhân. Cũng theo các Điều 20, 21 thì chủ tịch UBND cấp xã (trong 12 giờ kể từ khi nhận đơn) và tòa án (trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân và người bạo hành) có quyền ra quyết định cấm tiếp xúc khi có đầy đủ các điều kiện: đơn yêu cầu áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; hành vi bạo lực gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng nạn nhân; người có hành vi bạo lực và nạn nhân có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc. Quyết định có hiệu lực ngay sau khi ký và được gửi cho người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực gia đình, người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình. Riêng quyết định của tòa án phải gửi cho chủ tịch UBND cấp xã nới xảy ra bạo lực. Thời hạn cấm tiếp xúc theo quy định của chủ tịch UBND là không quá 3 ngày và theo quy định của tòa án là không quá 4 tháng. Quyết định cấm tiếp xúc được hủy bỏ theo yêu cầu của nạn nhân hoặc khi thấy biện pháp này không còn cần thiết. Trong trường hợp gia đình có công việc đặc biệt mà người có hành vi bạo lực và trẻ em là nạn nhân phải tiếp xúc thì người có hành vi bạo lực phải báo cáo với người đứng đầu cộng đồng dân cư nói cư trú nạn nhân. Trường hợp này gia đình sẽ là người giám sát. Khi có quyết định tiếp xúc thì người đứng đầu cộng đồng dân cư phối hợp với tổ chức liên quan ở cơ sở để phân công giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc. Người giám sát có nhiệm vụ theo dõi và yêu cầu người có hành vi bạo hành thực hiện nghiêm chỉnh quyết định. Nếu thấy có hành vi cố tình tiếp xúc thì sẽ báo lại cho người đứng đầu cộng đồng dân cư để có biện pháp xử lý. Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm bảo vệ trẻ em là nạn nhân bạo lực gia đình khỏi việc bị bạo hành liên tục và kéo dài cũng như giúp các em lấy lại được thể trạng và tâm sinh lý ổn định. Đi kèm với biện pháp này là hoạt động xây dựng nhà tạm lánh hoặc tạo địa chỉ tin cậy trong cộng đồng cho trẻ em tạm lánh trong một thời gian nhất định.
- Ngoài ra, theo Điều 25, Uỷ ban nhân dân cấp xã chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội khác tại địa phương và các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình thực hiện hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp cần thiết. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm khắc phục những hậu quả mà nạn nhân là trẻ em của bạo lực gia đình phải gánh chịu, thể hiện sự quan tâm của pháp luật và cộng đồng đối với những trẻ em này.
3.3 Các biện pháp xử lý người gây bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Tùy theo mức độ và tính chất của hành vi bạo lực với trẻ em mà áp dụng các biện pháp hành chính hay hình sự, nếu gay thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, người có hành vi bạo lực với trẻ em tuy chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính. Hiện nay, hành vi bạo lực với trẻ em được quy định tại Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007 cũng như Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ra ngày 3/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em từ các Điều 17 đến 21. Hầu hết các biện pháp xử lý trách nhiệm hành chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cấm tiếp xúc, giáo dục tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục,… hoặc phê bình trong tập thể cơ quan, cộng đồng dân cư nơi người đó làm việc hay sinh sống, trong nhiều trường hợp người đó còn bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức nới người đó làm việc để phối hợp giáo dục.
Thứ hai, người có hành vi bạo lực gia đình với trẻ em có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Ví dụ: tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS) nếu thuộc trường hợp loạn luân thì sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Tương tự là tội cướng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS), tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), tội dâm ô với trẻ em (Điều 116),… Các hình phạt trong bộ luật hình sự nêu ra chủ yếu là phạt tù và nghiêm khắc nhất là tử hình.
Ngoài ra, nếu xét thấy trong quá trình thực hiện hành vi bạo lực gia đình với trẻ em, người bạo hành nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo trách nhiệm dân sự.
Các biện pháp kể trên đây nhằm góp phần trừng trị và ngăn chặn những hành vi bạo lực gia đình nói chung và bạo hành đối với trẻ em nói riêng cũng như trả lại sự công bằng cho các em. Từ đó dần dần loại trừ được vấn nạn này khỏi đời sống xã hội kèm theo việc giáo dục và răn đe các công dân nói chung và các bậc cha mẹ nói riêng trước những hành vi bạo lực gia đình, phải có trách nhiệm trong việc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em một cách tốt nhất.
4. Một số kiến nghị đề xuất.
Trong những năm gần đây, việc áp dụng các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình đã mang lại được nhiều nét khả quan. Tuy nhiên một hiện thực rằng bạo lực gia đình nói chung và bạo hành với trẻ em trong gia đình nói riêng vãn còn hiện hữu và có phần gia tăng nhiều hơn đòi hỏi các biện pháp ấy cần có những sự hoàn thiện hơn nữa.
Nhìn chung, cần tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn pháp lý mạnh mẽ tới toàn xã hội, đặc biệt là chú trọng các vùng sâu vùn xa, kinh tế khó khăn, dân trí thấp. Do vậy cần bồi dưỡng thêm cho họ về pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.
Các cấp chính quyền cần thường xuyên gần dân, phát hiện và xử lý kịp thời (thông qua quản lý nhân khẩu, hội phụ nữ, tổ dân phố) để nắm bắt tình hình, kịp thời xử lý những gia đình có người bạo hành với trẻ em. Mặt khác cần tạo dư luận về mặt xã hội để các cơ quan ngôn luận đưa tin vè đối tượng có hành vi bạo lực gia đình.
Trong công tác xét xử, xử lý hành vi bạo lực gia đình đối với trẻ em cần đáp ứng các yêu cầu sau. Đó là cần tăng cường phiên xét xử lưu động nhằm răn đe, giáo dục người dân. Việc đưa ra các quyết định cần nhiêm khắc, đúng người đúng tội trên cơ sở căn cứ vào pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phối hợp với các tổ chức xã hội trong nhân dân. Quốc hội cũng nên cân nhắc đề xuất thành lập Tòa án Gia đình nhằm giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề này.
Cần tổ chức các đợt tập huấn việc áp dụng văn bản pháp luật về xử lý hành chính, hình sự, văn bản của luật hôn nhân và gia đình cho các cấp hội cơ sở, đoàn thể phường xã để khi xảy ra sự việc thì có thể xử lý kịp thời. Thêm vào đó, chính quyền cần xây dựng mạng lưới các cơ quan tổ chức hoạt động vì mục tiêu phòng chống bạo lực gia đình nhất là đối với trẻ em, thiếp lập những đường dây nóng tư vấn giúp đỡ cho những trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Ngoài ra, nhất thiết cần xây dựng và hoàn thiện hơn hệ thống văn bản pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình trong đó có sự tập hợp và hệ thống hóa một cách cụ thể các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em trước nạn bạo lực gia đình, từ đó tiện cho việc áp dụng pháp luật được linh hoạt, nhanh chóng và kịp thời.
KẾT LUẬN.
Những con số tăng nhanh của nạn bạo hành trong gia đình với trẻ em đang rung lên những hồi chuông báo động về một vấn nạn nguy hiểm cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Ở Việt Nam, khi mà đất nước còn đang phát triển, mức sống của người dân còn thấp so với thế giới, dân trí không đồng đều và đang trước ngưỡng cửa hội nhập thì đây chính là điều kiện để nạn bạo hành gia đình với trẻ em bùng phát. Tuy nhiên, thực tại không cho phép chúng ta buông xuôi mà phải chung sức cùng cộng đồng, cùng nhà nước và xã hội đứng lên bảo vệ lấy trẻ em – những mầm non của nhân loại.
Đã đến lúc nhà nước cần có những biện pháp triệt để, kiên quyết và mỗi chúng ta cần nâng cao ý thức pháp luật của mình để phòng chống và đầy lùi vấn nạn trên đây ra khỏi mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư và toàn xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, trường Đại học Luật Hà Nội.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007.
Nghị định của Chính phủ số 110/2009 NĐ – CP ngày 10/12/2009 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình.
Nghị định số 114/2006 NĐ – CP ngày 3/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em.
Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.
Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (6/2010): bài viết Pháp luật về bảo vệ phụ nữ và trẻ em nhằm phòng chống bạo lực gia đình và một số giải pháp hoàn thiện.
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2/2009): bài viết Thực trạng bạo lực với phụ nữ và trẻ em qua hoạt động xét xử của tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Tạp chí Luật học (2/2009):
- bài viết Các biện pháp bảo vệ và trợ giúp nạn nhân và trẻ em bị bạo lực.
- bài viết Tổng quan về bạo lực và phòng chống bạo lực gia đình.
12. Một số trang web:
- www.phapluattp.vn
- vi.wikipedia.org
- www.mvwcs.com
- Một số trang khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.doc