LỜI MỞ ĐẦU
Dù trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng hay phát triển thì mọi nỗ lực
thúc đẩy tăng trưởng đều đáng ghi nhận. Với kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế
mà kinh doanh nhỏ lẻ là đặc trưng thì đóng góp vào con số tăng trưởng ấy, hoạt
động bán hàng rong đã góp phần không nhỏ. Thực tế, trải qua quá trình phát
triển lâu dài, hoạt động bán hàng rong đã có tác động tới mọi mặt: kinh tế, văn
hóa, xã hội của nước ta. Một mặt nó giúp tăng trưởng kinh tế, nuôi sống một bộ
phận không nhỏ người dân, đồng thời theo một khía cạnh nào đó, hàng rong
cũng được đánh giá là một nét văn hóa đặc trưng. Mặt khác hoạt động bán hàng
rong vẫn tồn tại một số hạn chế như gây ô nhiếm môi trường, mất trật tự xã
hội Nghị định số 39/2007/NĐ-CP và Quyết định số 46/2009/QĐ-UBND được
ban hành và đã có hiệu lực nhằm điều chỉnh hoạt động bán hàng rong, tuy nhiên
đến nay vẫn chưa đem lại nhiều hiệu quả. Hàng rong tại Hà Nội vẫn nằm tromg
tình trạng quản lý thiếu hệ thống, nhiều tiêu cực như tham ô, hối lộ, tạo ra lỗ
hổng trong nền kinh tế.
Mâu thuẫn giữa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn
bản sắc dân tộc, không gây ảnh hưởng lớn tới đời sống người dân luôn là bài
toán khó cho công tác phát triển đô thị. Hà Nội, thủ đô, trung tâm kinh tế, văn
hóa, chính trị của cả nước cũng phải đối mặt với bài toán hướng đi cho hoạt
động bán hàng rong. Năm 2010 đánh dấu đại lễ chào mừng 1000 năm Thăng
Long Hà Nội, việc nghiên cứu vấn đề xã hôi này càng có ý nghĩa hơn. Bởi lẽ
nhiệm vụ đặt ra không chỉ là giải quyết vấn đề hàng rong một cách hợp tình hợp
lý mà còn phải tạo dựng bộ mặt văn minh cho thủ đô.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội hiện nay”. Từ
những phân tích về vai trò, tác động, thực trạng hoạt động bán hàng rong,
chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển đô thị thủ đô.
Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
1.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bán hàng rong tại Hà
Nội trong thời gian gần đây. Đề tài tập trung vào hai mục tiêu chính: Thứ
nhất là phân tích, đánh giá tác động của hoạt động bán hàng rong tới các
mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, thứ hai là tìm ra các giải pháp và hướng đi
cho hoạt động bán hảng rong.
Phương pháp nghiên cứu
2.
Đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng giả quyết các vấn đề kinh tế
xã hội, vì vậy, để đạt được hiệu quả cao và tận dụng được tính ưu việt của
các phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, cụ thể: Phương pháp chủ yếu là điều tra, quan sát,
phỏng vấn, thống kê để thu thập thông tin liên quan đến hoạt động bán
hàng rong tại Hà Nội. Sau đó áp dụng phương pháp phân tích, đánh giá
nhằm tìm hiểu tác động của hoạt động bán hàng rong tới kinh tế, văn hóa,
xã hội.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
3.
Đề tài tập trung nghiên cứu các khu vực trọng điểm về bán hàng
rong tại các trung tâm văn hóa, di tích lịch sử, các trường đại học, cơ quan
lớn trên địa bàn trung tâm Hà Nội.
Ý nghĩa, ứng dụng và hướng phát triển của đề tài
Đề tài mang ý nghĩa cao về mặt thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp
cái nhìn tổng quan về hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội trong thời gian gần
đây, đồng thời tổng hợp tác động của hoạt động bán hàng rong tới kinh tế, văn
hóa, xã hội. Bên cạnh đó, chúng tôi phân tích bài học kinh nghiệm từ các quốc
gia khác về vấn đề hàng rong và đưa ra định hướng, giải pháp cho hoạt động
này, qua đó các nhà quản lý có thể sử dụng kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra các
chính sách phù hợp nhất cho giai đọan hiện nay
5.
Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đưa ra những giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội, đảm bảo
mục tiêu phát triển đô thị và quyền lợi của người dân.
Kết cấu của để tài
6.
Chương I. Cơ sở lý luận của hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam
1.
Các khái niệm
Phân loại hoạt động bán hàng rong
2.
Bài học kinh nghiệm từ các nước khác
3.
Chương II. Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
Nguồn pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam
1.
Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội từ 1989 đến nay
2.
Tác động của hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
3.
Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
4.
Chương III. Giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
Định hướng tổ chức, quản lý hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
79 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13197 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại hà nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắn với đời sống của những ngƣời nghèo, kể
cả của ngƣời bán, cũng nhƣ của ngƣời mua. Đối với ngƣời bán, đó là nguồn thu
nhập chính hàng ngày để trang trải cuộc sống. Với số vốn trung bình khoảng
200.000 - 300.000 đồng, họ có thể kiếm đƣợc khoảng 50.000 đồng mỗi ngày.
Nguồn thu này không lớn, nhƣng nó đang bảo đảm tiền ăn, tiền học, tiền khám
chữa bệnh cho hàng vạn ngƣời dân. Số tiền ấy nhân với số ngƣời tham gia vào
công việc này lên tới hàng vạn ngƣời thì con số đóng góp vào GDP cũng không
hề nhỏ.
Trong nền kinh tế ạo việc làm với chi phí đầu tƣ rất thấp hiệu
quả sử dụng vốn cao và đáp ứng nhu cầu hàng hóa nhỏ lẻ, phân tán… Số tiền lãi
mà những ngƣời bán hàng tạo ra cũng không biến mất mà lập tức đƣợc quay
vòng vào thị trƣờng. Đội ngũ bán hàng này cũng là những ngƣời vô cùng có
kinh nghiệm trong việc phân phối hàng hóa đến tận tay ngƣời tiêu dùng. Một
đồng vốn không có giá trị lớn nhƣng khi quay vòng 365 lần một năm sẽ cho hiệu
quả không hề nhỏ.
Đối với ngƣời mua, hàng rong là nguồn hàng hoá, thực phẩm giá rẻ.
Nguồn hàng hoá, thực phẩm này có thể không có chất lƣợng bằng các nguồn ở
các cửa hàng và siêu thị. Thế nhƣng, chúng hợp với túi tiền của những ngƣời
nghèo. Thiếu chúng, nhiều ngƣời nghèo sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng, sẽ không
thể tìm cách giật gấu, vá vai đƣợc nữa.
Một mặt, hiện Hà Nội có một số trục đƣờng tƣơng đối lớn, nhƣng đa số
các ngõ phố đều chật hẹp. Hàng rong vì vậy là cách cung ứng dịch vụ bán hàng
41
rất hiệu quả và thiết thực. Với hệ thống giao thông công cộng chƣa thật
phát triển hiện nay, nhiều ngƣời dân, đặc biệt là những ngƣời nội trợ, sẽ
gặp nhiều khó khăn nếu ngày nào cũng cần phải đến các trung tâm mua
sắm. Nếu tất cả mọi ngƣời dân đều đổ về các trung tâm mua bán tập
trung, trong điều kiện số lƣợng các trung tâm còn hạn chế nhƣ hiện nay
thì các chi phí thực tế sẽ tốn kém hơn và từ đó giảm hiệu quả của nền kinh
tế.
Một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội
Những gánh hàng rong là một phần của mạng lƣới phân phối hết
sức hiệu quả của ngƣời Việt từ trƣớc đến nay. Ngƣời bán rong là gạch nối
trực tiếp giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu thụ, họ linh hoạt đáp ứng nhu
cầu thị trƣờng, thị hiếu khách hàng, cũng có góp phần làm cho hàng hóa
lƣu chuyển nhanh hơn. Những gánh hàng rong là một phần của mạng lƣới
phân phối hết sức hiệu quả mà không dễ gì một Nhà nƣớc có thể tổ chức
trên quy mô và hiệu quả nhƣ thế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối
cảnh kinh tế khó khăn.
i, nền sản xuất và các chợ
đầu mối chắc chắn sẽ ngƣng trệ, nền nông nghiệp thậm chí nền tiểu thủ
công nghiệp theo mô hình hộ gia đình nhỏ lẻ sẽ gặp khó khăn. Do vậy
hàng rong phát triển đóng góp rất lớn vào việc tạo việc làm cho xã hội và
hàng rong cũng là một chuỗi quan hệ sản xuất Sản xuất - Lƣu thông -
Phân phối. Khi hệ thống phân phối hiện đại đƣợc phát triển rộng khắp,
nhƣng với những ƣu thế riêng, các gánh hàng rong vẫn tiếp tục phát triển
42
nhƣ một lực lƣợng không thể thay thế đặc biệt trong bối cảnh kinh tế suy thoái.
Không có một hệ thống phân phối hiệu quả và phù hợp (theo kiểu bán
hàng rong), nền sản xuất chắc chắn sẽ bị ngƣng trệ. Mà nhƣ vậy thì mất việc làm
sẽ không chỉ là những ngƣời bán hàng rong, mà cả những ngƣời sản xuất nhỏ lẻ
nữa.
3.2. Tác động tiêu cực
Không thể phủ nhận những mặt tích cực, những đóng góp không nhỏ của
hàng rong đối với kinh tế, văn hoá và xã hội của chúng ta. Nhƣng những hạn chế
trong hàng rong lại đang trở thành vấn đề nhức nhối và thu hút sự quan tâm lớn
của cộng đồng.
3.2.1. Văn hóa
Nếu nhƣ hàng rong xƣa là một nét văn hóa đặc sắc của Hà Thành thì hàng
rong ngày nay đang dần biến đổi nét văn hóa đó. Hà Nộ ủ đô của đất nƣớc,
là nơi đƣợc nhắc đến với nếp sống văn minh và vẻ đẹp thanh lịch của nó. Nhƣng
không phải ai ai cũng có đƣợc ý thức nhƣ vậy. Hiện nay những gánh hàng rong
đang ảnh hƣởng trực tiếp đến sự đời sống văn minh ấy. Trên một con phố tấp
nập ngƣời qua lại, cứ vài mét lại có một gánh hàng ăn đƣợc quây kín bởi những
ngƣời ngồi ăn xung quanh tạo ra một quang cảnh không đẹp mắt. Ngƣời phụ nữ
quảy quang gánh đi ngang, thản nhiên vứt vào bồn hoa ven đƣờ
chứa đầy rác hay những đống rác còn lại sau khi ngƣời bán hàng rong kết thúc
một ngày dài buôn bán là những hình ảnh mà chúng ta thƣờng xuyên chứng
kiến.
Bên cạnh đó là những hành động chèo kéo khách hàng của ngƣời bán
hàng gây khó chịu cho mọi ngƣời, đặc biệt là khách du lịch nƣớc ngoài. Mặc
43
cho khách hàng từ chối họ vẫn lôi vẫn kéo và vẫn mời chào với hy vọng
khách hàng đổi ý. Thực trạng này đang làm mất dần hình ảnh đẹp đẽ của
Hà Nội, để lại những ấn tƣợng không tốt đối với du khách nhất là du
khách nƣớc ngoài. Và đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều
du khách quốc tế sau khi đến Việt Nam đã không còn muốn quay trở lại.
, những gì đã
đáng quý
nhƣ
– -
bị
lấy danh nghĩa
để tiếp cận khách hàng.
Nhƣng rất tiếc lại cung cấp những thông tin sai lệch.
44
n
3.2.2. Xã hội
chính bản thân nó
cũng có những vấn đề này
đang rất khó khăn để có thể đồng thời giải quyết
Ảnh hưởng tới an ninh trật tự xã hội
..
-
dừng trƣớc các quán cà phê lớn ở khu trung tâm, mời chào dùng thử miễn phí.
Việc tiếp thị và bán hàng lƣu động nhƣ trên đƣợc một số ngƣời đánh giá
là nhạy bén và thu hút khách. Thậm chí một cán bộ quản lý về đô thị cũng ch
cản trở
45
Vỉa hè vốn dành cho ngƣời đi bộ biến thành nơi kinh doanh, tấp
nập ngƣời mua, kẻ bán với mật độ quá liên tục. Thi thoảng lại nháo nhác
cảnh ngƣời dân bê hàng chạy trốn lực lƣợng dân phòng, công an làm ảnh
hƣởng tới những ngƣời xung quanh, thậm chí gây ra những tai nạn đáng
tiếc. Ngay tại cổng Bệnh viện một chiếc xe cấp cứu hú còi inh ỏi, đã phải
dừng lại, bởi có rất nhiều ngƣời đang vây quanh một hàng cơm di động
đứng ngay sát cổng bệnh viện, chiếm hết lối ra vào. Phải loay hoay khá
lâu, xe cấp cứu mới vào đƣợc phía trong. Mặc dù tại đây có đặt tấm biển
ghi rất rõ "Cấm đỗ xe và bán hàng rong", song nhiều ngƣời vẫn bày bán
hàng nƣớc, hoa quả ngay sát cổng. Tình hình hàng rong lẫn những hàng
quán lấn chiếm lòng lề đƣờng đang tạo nên hiện trạng rất phức tạ
Trƣớc cổng trƣờng, cổng cơ quan, từng gánh hàng rong vẫn hiên
ngang ngồi đó mặc cho ngƣời đi bộ phải đi xuống lòng đƣờng bởi vỉa hè
đã bị chiếm dụng. Do xe bán hàng rong chiếm hết lề đƣờng tại cổng
trƣờng đại học nên sinh viên phải đứng dƣới lòng đƣờng để đón xe buýt
tại trạm sát bên. Mỗi khi xe buýt ghé trạm, cảnh chen lấn lại diễn ra làm
mất an ninh trật tự, ảnh hƣởng đến ngƣời đi đƣờng, gây ùn tác giao thông,
chƣa kể đến việc sinh viên xúm lại xem và mua hàng, cổng trƣờng Đại
học lúc này không khác gì một cái chợ. Nhất là vào giờ cao điểm, chỉ cần
một xe đẩy hàng bất chợt đứng lại để bán hàng thì ngay lập tức cả tuyến
phố đó sẽ bị ùn tắc nghiêm trọng. Hay những hàng quà sáng tập trung, vô
tình tạo nút thắt cổ chai, còn ngƣời đi đƣờng thì đi chầm chậm để quan sát
xem mình nên ăn gì cũng là nguyên nhân dẫn tới ách tắc. Thực trạng đó
46
diễn đi diễn lại từ ngày này qua ngày khác gây không ít khó chịu cho ngƣời dân.
ất trật tự khu vực trƣờng họ
nhƣ th
truy
Hàng hóa không đảm bảo chất lượng và nguồn gốc xuất xứ
Trong thƣ
K hàng rong, hẩu hết
vệ sinh
đã
47
vệ sinh không đảm bảo, gây ô nhiễm môi trƣờng
ợc xác định là thủ phạm phát sinh nhiều dịch bệnh
nguy hiểm nhƣ: ngộ độc thực phẩm, dịch tả, ung thƣ… nhƣng trƣớc các
cổng trƣờng học vẫn tràn lan, nhất là các trƣờng học ở khu vực thành phố.
Theo ghi nhận trong thời gian gần đây cho thấy, rất nhiều hàng rong, quán
cóc bao vây trƣờng học và học sinh rất hào hứng với những món ăn không
đảm bảo vệ sinh, nhất là các món ăn nhanh nhƣ: bánh tráng trộn, chè,
nƣớc giải khát phẩm màu…
Ngƣời tiêu dùng có quyền đặt câu hỏi cho những gánh hàng rong
rằng liệu hàng hoá của họ có đƣợc đảm bảo chất lƣợng hay không. Nguồn
gốc xuất xứ từ đâu và ai kiểm định. Đã có không ít đợt dịch bệnh mà
nguyên nhân là từ những quán ăn bán rong, bởi chất lƣợng thực phẩm
không đƣợc đảm bảo. Với một gánh hàng nho nhỏ, họ không có đủ điều
kiện để tuân thủ theo những qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồ ăn
không đƣợc bảo quản đúng cách và không phải ngƣời bán hàng nào cũng
có ý thức vệ sinh sạch sẽ đồ dùng, với số vốn ít ỏi họ sẵn sàng mua
nguyên liệu rẻ mà không quá quan tâm tới chất lƣợng của nó. Thời gian
gần đây báo chí lên tiếng cảnh báo khá nhiều về tình trạng thực phẩm kém
chất lƣợng nhƣ : mỡ đƣợc đun trong những thùng phi lớn và bẩn thỉu, đá
làm từ nƣớc bẩn hay mứt, sợi mì sợi bún đƣợc phơi trên đƣờng nơi có
đông phƣơng tiện đi lại, bụi phủ mù trên từng miếng mứ
… Ngồi vào một
48
quán ăn rong có thể dể dàng nhận thấy từ nguyên vật liệu cho đến bát đũa mọi
thứ nhếch nhác, ruồi nhặng bu quanh, chƣa kể đến việc ngƣời chủ quán dùng tay
trần để chế biến món ăn cho khách, hay bà chủ quán trà đá dùng tay để nhặt vài
viên đá thả vào cốc nƣớc cho khách. Tất cả những việc đó đã tạo điều khiện
thuận lợi cho vi khuẩn sinh sôi tồn tại và phát triển, chúng tạo nên những đợt
dịch bệnh mà chính chúng ta phải gánh chịu. Tuy không có số liệu chính thức về
những trƣờng hợp phải nhập viện vì bị ngộ độc thực phẩm do ăn ở những hàng
quán không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm xong ảnh hƣởng của nó chắc
chắn là không nhỏ.
Ô nhiễm môi trường
Cái nắng, nóng, sự khắc nghiệt của thời tiết trong những tháng hè của
những năm gần đây để lại cho mỗi ngƣời không chỉ cảm giác khó chịu mà bên
cạnh đó còn là một dấu hỏi lớn về vấn đề môi trƣờng. Nhiệt độ của trái đất
không ngừng tăng lên, bụi khói và môi trƣờng ô nhiễm đang ảnh hƣởng trực tiếp
tới tầng Ozon cũng nhƣ cuộc sống của chúng ta. Góp một phần không nhỏ trong
vấn đề đó chính là hàng rong, bởi lƣợng chất thải thải ra hàng ngày là không ít.
Không ai có thể phủ nhận điều đó khi hàng ngày chúng ta chứng kiến cảnh sau
mỗ ững ổ rác và túi
nilon không phân huỷ đƣợc, để lại hình ảnh không đẹp và thêm vào đó là mùi
hôi thối gây khó chịu. Một xe bán hoa quả dừng lại bán hàng và gọt cho khách,
họ thản nhiên thả đống vỏ vừa gọt xuống đƣờng, nhận tiền để vào túi rồi lại tiếp
tục đi. Hay hàng ăn rong tụ tập trƣớc cổng trƣờng, cổng cơ quan, khi giờ ăn qua
đi thì không thể tƣởng tƣợng đƣợc quang cảnh lúc đ. Chuyện hàng rong bao vây
trƣờng học, quán ăn nhanh trƣớc khu công nghiệp hoặc nơi công cộng, mất vệ
sinh không còn là chuyện mới xong để giải quyết nó lại không hề đơn giản bởi
49
nó phụ thuộc vào ý thức của ngƣời bán hàng cũng nhƣ những tác động của cộng
đồng và cơ quan quản lý.
ng khu dân cƣ, .
Tạo điều kiện hối lộ, tham ô trong bộ máy quản lý
- – –
Một trong những biện pháp nhằm quản lý hàng rong của nhà nƣớc
là áp dụng thuế đối với hàng rong. Song mặt trái của vấn đề này lại đang
tiếp tay cho những cán bộ không gƣơng mẫu. Để có đựơc một chỗ ngồi
đẹ ể đƣợc lơ đi mỗi khi
lực lƣợng dân phòng đi kiểm tra thì ngƣời bán hàng phải đƣa hối lộ cho
các cán bộ công an lớn ,
giả sử họ .
50
Thực trạng
đó tạo ra nghịch cảnh là tại những khu vực cấm thì hàng rong vẫn ngang nhiên
vì đã hối lộ, còn tại những tuyến phố không cấm thì hàng rong vẫn bị xua đuổi
bởi chƣa “lót tay” cho các cơ quan quản lý.
Kẽ hở cho vi phạm nhân quyền
ừ.
không c
họ.
n
- -
51
“ ”
trái pháp luật
3.2.3.
bộ phận
Gây thất thoát về thuế, phí
52
– –
tăng cƣờng
ban hành và
pháp luật
góp phần làm
c một cách
Giảm thu nhập của các ngành kinh tế liên quan
loại loại là hàng đƣợc bán trực tiếp cho
thụ
53
theo. ể có 1 cửa hàng
nhỏ trong siêu thị hay ải trả h
ỉ riêng tiền thuê chỗ mà chƣa tính thuế. Các chủ cửa hàng tỏ ra rất
bức xúc vì công việc kinh doanh hợp pháp của họ đang bị cạnh tranh
quyết liệt bởi độ
không phải
chất lƣợng
hàng
4. Nguyên nhân những tồn tại trong hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
Hoạt động bán hàn rong đã và đang chứng tỏ đƣợc vai trò quan trọng của
mình trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tuy nhiên cũng bộc lộ những mặt
tiêu cực khi chƣa nhận đƣợc sự quản lý hợp lý. Thực trạng này đƣợc giải thích
bởi một số nguyên nhân:
54
4.1. Chính sách trợ cấp và phúc lợi xã hội chưa thỏa đáng
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đƣợc đánh giá là có nhiều nỗ
lực và thành tựu trong phát triển kinh tế và giảm đói nghèo, cải thiện đời sống
ngƣời dân. Đƣợc tài trợ nhiều từ các tổ chức Chính Phủ và phi Chính phủ, tuy
nhiên, hệ thống phúc lợi xã hội nhìn chung cả Việt Nam còn nhiều yếu cần đƣợc
khắc phục ngay nhƣ sự thi hành chính sách thiếu cân bằng giữa trung ƣơng và
các cấp, vấn đề giải ngân các khoản hỗ trợ, dẫn đến các đối tƣợng nghèo và các
nhóm dễ bị tổn thƣơng khác không đƣợc hỗ trợ.
Phần lớn thành phần của những ngƣời bán hang rong là ngƣời là ngƣời
lao động ở nông thôn hoặc những ngƣời lao động mất việc làm. Do không có
công việc đem lại thu nhập ổn định để trang trải cho cuộc sống và gia đình,
những ngƣời này tìm đến công việc bán hang rong nhƣ một hành động tự phát
và là nơi cứu cánh gần nhƣ duy nhất. Hàng năm có một lƣợng lớn lực lƣợng lao
động thất nghiệp, theo kết quả điều tra của bộ Lao Động-Thƣơng Binh-Xã Hội,
tỷ lệ lao động thất nghiệp cả nƣớc hiện nay chiếm gần 5,6% trên tổng số lao
động. Chỉ riêng khu vực thành thị, số ngƣời thất nghiệp thƣờng xuyên là hơn
567.000 ngƣời, đóng góp không nhỏ vào đội ngũ bán hang rong, gây không ít
khó khăn cho các nhà quản lý.
Tuy nhiên, chính sách đƣa ra vẫn còn nhiều hạn chế, thực tế ngƣời lao
động đƣợc hƣởng trợ cấp thất nghiệp hay không còn phụ thuộc vào việc năm
2009 ngƣời lao động và doanh nghiệp có đóng bảo hiểm hay không. Không nhƣ
các chính sách khác cứ đến kỳ đến hạn là thực hiện. Việc này ràng buộc bởi 3
điều kiện: Ngƣời lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong
vòng 24 tháng trƣớc khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ; đã đăng ký với
55
cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động; chƣa
tìm đƣợc việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động.
Rõ ràng thủ tục rƣờm rà và ràng buộc nhiều bởi các yếu tố bên ngoài đã
gây khó khăn cho ngƣời lao động thực hiện quyền lợi của mình.
Bên cạnh đó, đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp thất nhiệp chỉ giới hạn
ở ngƣời lao động làm việc theo hợp đồng lao động mà không áp dụng cho
nững ngƣời thất nghiệp do đến độ tuổi lao động mà chƣa tìm đƣợc việc
làm. Một chính sách trợ cấp đƣa ra nhƣng chƣa đƣợc thực thi hiệu quả và
phạm vi còn hạn chế cũng góp phần làm cho hoạt động bán hàng rong
đứng trƣớc gánh nặng một mặt bị thu hẹp phạm vi hoạt động, một mặt có
nhiều ngƣời gia nhập.
4.2. Những bất cập trong văn bản luật và thực thi văn bản luật
Hiện nay, không khó gì khi bắt gặp một số hàng rong xuất hiện trên
các tuyến phố cấm, thậm chí ngay sát cạnh các biển báo cấm bán hàng
rong. Hoạt động bán hàng rong với nhiều biến tƣớng khác nhau nhƣ chỉ
mang một vài phong kẹo cao su hay một hai quyển sách bên mình và rao
bán, đựng các đồ bán rong trong các túi xách nhỏ nhƣ cặp sách và hỏi nhỏ
khách mua chứ không rao to, nếu có lực lƣợng trật tự đi qua, chỉ cần xách
lên tay giống nhƣ ngƣời đi mua đồ chứ không phải mất thời gian gồng
gánh … Hoạt động bán hàng rong hiện nay không lộ liễu nhƣ trƣớc nhƣng
vẫn diễn ra tấp nập, nhƣ một hoạt động chìm trong xã hội. Chỉ khi có cơ
quan chức năng đi kiểm tra, các hoạt động bán hàng rong mới đƣợc dẹp
bỏ nhƣng sau đó lại tái diễn. Rõ ràng với nhu cầu mƣu sinh, những ngƣời
bán hàng rong đang cố gắng thích nghi và luồn lách theo những kẽ hở của
56
pháp luật, điều này chứng tỏ các văn bản pháp quy đƣa ra một măt chƣa “hợp
lòng dân”, một mặt vẫn còn tồn tại nhiều kẽ hở có thế lợi dụng.
Mặc dù là một trong những hoạt động kinh doanh phổ biến và chủ yếu
của một bộ phận không nhỏ ngƣời dân, hoạt động bán hàng rong vẫn chƣa đƣợc
điều chỉnh cụ thể trong Luật thƣơng mại Việt Nam 2005. Hiện nay, hoạt động
bán hàng rong đƣợc điều chỉnh bởi Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày
16/3/2007 của Chính phủ về cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập,
thƣờng xuyên không phải đăng ký kinh doanh và Quyết định số 46/2009/QĐ-
UBND thay thế Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND ngày 09/01/2008 Quy định
về quản lý hoạt động bán hàng rong trên địa bàn Thành phố Hà Nội . Các văn
bản trên vẫn còn tồn tại một số bất cập nhƣ mặc dù trong nghị định Nghị định
39/2007/NĐ-CP có quy định rõ trách nhiệm của các bên bao gồm các cá nhân
hoạt động kinh doanh cũng nhƣ các cơ quan quản lý các cấp, cách thức thực
hiện quy định của các cơ quan này vẫn bị dƣ luận lên tiếng. Một trong những bất
cập dễ dàng nhận thấy nhƣng đƣợc cả những cá nhân kinh doanh, chính quyền,
ngƣời tiêu dung chấp nhận là sự buông lỏng quản lý một cách cố ý. Việc cố tình
làm lơ cho phép bán hàng rong tại các tuyến phố cấm sau khi đã nộp “phí” đƣợc
thực hiện bài bản từ cấp trên xuống các cấp trực tiếp giám sát. Hiện tƣợng này
không phải là khó bắt gặp tai các tuyến phố nhƣ Tràng Thi,Tràng Tiền, Cát
Linh, Tây Sơn, Đê La Thành, Láng..
Ngoài ra, mặc dù đã có các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động bán
hàng rong những vẫn chƣa có những chế tài tài chính cụ thể để xử phạt hay các
quy định áp dụng để xử lý với những hàng rong bị tịch thu, xử lý. Điều này một
mặt cũng sẽ gây tiêu cực trong bộ máy quản lý và thái độ chống đối của ngƣời
kinh doanh hàng rong.
57
4.3. Ý thức của người bán hàng rong
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những bộc lộ tiêu cực
của hoạt động bán hàng rong từ trƣớc đến nay là ý thức giữ gìn an toàn
vệ sinh thực phẩm và vệ sinh chung còn thấp. Một đặc điểm của loại hình
kinh doanh này là không bán hàng ở một địa điểm cố định. Vì nay ngồi
chỗ này, mai ngồi chỗ kia nên nếu có bán sản phẩm không bảo đảm thì
cũng không sợ bị ai kêu, ai phạt, ngƣời bán chƣa có ý thức về vệ sinh an
toàn thực phẩm. Kết quả kiểm tra của các đoàn thanh tra liên ngành của
Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) cho thấy, 54% điểm bán hàng
gần cống rãnh mất vệ sinh; 97% thực phẩm trong quá trình chế biến bị
nhiễm bụi, ruồi; nƣớc đá sử dụng cho các dịch vụ thức ăn đƣờng phố có tỷ
lệ nhiễm E.Coli (vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy) là 35,6% ở các cơ sở nội
thành và 64,7% tại các cơ sở ngoại thành, thị trấn. Hàng rong theo cách
này vô hình chung đã tự gắn mình với mất vệ sinh an toàn thực phẩm, là
một trong những con đƣờng nhanh nhất để lây truyền bệnh dịch liên quan
đến thực phẩm, do vậy, dẫn đến sự nhiều hạn chế của cơ quan quản lý đối
với hoạt động kinh doanh này.
Ý thức của ngƣời bán hàng rong còn chƣa đƣợc đánh giá cao do
một bộ phận ngƣời bán hàng do quá đề cao lợi nhuận mà mua bán hàng
giá rẻ, hàng nhái, kém chất lƣợng, lƣu hành văn hóa phẩm đồ trụy…Bên
cạnh đó, nhằm bán đƣợc hàng hóa với giá cao, những ngƣời bán hàng
rong đăc biệt là một số ngƣời bán hàng văn hóa phẩm hay đồ lƣu niệm
cho du khách nƣớc ngoài tại các trung tâm lớn nhƣ hồ Gƣơm, hồ Tây, khu
phố cổ chèo kéo, bám đuôi khách. Điều này gây nhiều khó chịu cho nhiều
58
khách du lịch, gây mất an ninh trật tự, đồng thời mang lại ấn tƣợng không đẹp
cho du khách về một Hà Nội văn hóa.
4.4. Ý thức của người mua hàng
Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho những ngƣời bán hàng rong hay các cơ
quan quản lý về những khía cạnh tiêu cực của hoạt động bán hàng rong kinh tế,
văn hóa, xã hội, vì có cầu thì ắt có cung, ngƣời tiêu dùng rõ ràng cũng phải phần
nào chịu trách nhiệm.
Dễ dàng nhận thấy ngƣời tiêu dùng tìm đến hàng rong nhằm thỏa mãn
nhu cầu mua hàng nhanh chóng tiện lợi và giá cả phải chăng tuy nhiên, một số
ngƣời tiêu dùng vẫn chấp nhận mua hàng đặc biệt là ăn uống tại những nơi
không đảm bảo đƣợc về chất lƣợng vệ sinh an toàn thực phẩm. Thái độ thờ ơ,
dung túng trƣớc các hàng quán kinh doanh không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, thờ ơ trƣớc nguy cơ ảnh hƣởng sức khỏe của chính bản thân mình càng
làm cho bộ phận những ngƣời bán hàng rong này thoải mái buôn bán và làm tồi
tệ hơn bối cảnh không mấy sáng sủa của hoạt động bán hàng rong, bên cạnh đó,
ngƣời tiêu dùng hàng rong cũng sẵn sàng ghé, đỗ vào các hàng quán, dễ gây cản
trở giao thông.
59
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG RONG
TẠI HÀ NỘI
1. Định hƣớng tổ chức, quản lý hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
Thực tế đã chứng tỏ việc cấm hàng rong là điều không thể thực
hiện nhƣng cũng không thể để những bất cập tiếp tục kéo dài. Vậy phải
làm sao để cấm hàng rong nhƣng vẫn để lại lối thoát cho ngƣời trong
cuộc? 9Cố nhà văn Nguyễn Khải từng cảm khái: “Không đòn gánh trên
vai buôn đầu chợ bán cuối chợ thì họ làm gì, chả lẽ ngồi nhà; ngồi nhà lấy
gì mà ăn, lấy gì mà tiêu?”. Còn nhà văn đƣờng phố Võ Phi Hùng thì mâu
thuẫn: “Trật tự dẹp hàng rong là phải, hàng rong chật vật để mƣu sinh
cũng không sai. Trật tự có nhiệm vụ phải giữ gìn trật tự, nhƣng nỗi đau
vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau”. Nỗi đau ấy là nỗi đau của những
ngƣời bán hàng rong bị trật tự dẹp mất gánh cơm hàng ngày. Nhà văn,
nhà báo Băng Sơn đặt vấn đề, cấm hay không cấm bán hàng rong là vấn
đề mang tính nhân văn và xã hội. “6 vạn ngƣời nghèo, chúng ta đẩy họ đi
đâu?” Ông cũng cho rằng, hàng rong không phải là vấn đề lớn của giao
thông mà vấn đề thuộc về cơ sở hạ tầng và ý thức giao thông. Ông khẳng
khái cho rằng, chủ trƣơng này không hợp lòng dân.
9
b - “Tôi đã mất ngủ cả đêm trước khi nói về hàng rong”
60
Vấn đề hiện nay còn là quy định của Chính phủ đƣợc đƣa ra quá gấp gáp.
Trong khi ở các quốc gia phát triển, hàng rong vẫn tồn tại và đƣợc nhà nƣớc đầu
tƣ thì ở một nƣớc đang phát triển nhƣ nƣớc ta, việc đổi mới không nên quá gấp
gáp để trở thành nỗi lo lắng. Trƣớc hết, phải đảm bảo đời sống cho dân, còn mục
tiêu đô thị văn minh thì hiện tại chỉ nên điều chỉnh, sửa đổi từ từ.
Quy định mới sẽ là rất hợp lý nếu chỉ xét theo khía cạnh văn minh đô thị
đô thị thuần túy, nhƣng có thể sẽ để lại hậu quả không nhỏ về mặt xã hội cho
cho hàng vạn ngƣời dân Thủ đô. Rõ ràng, thiếu những chính sách thiên vị ngƣời
nghèo, sự bất bình đẳng xã hội chắc chắn chỉ ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
10Nếu vỉa hè thuộc quyền sử dụng của những ngƣời đi bộ, thì những ngƣời đi
bộ nào sau đây cần phải đƣợc ƣu tiên: Ngƣời đi bộ hai tay đút túi quần? Ngƣời
đi bộ tay bê mẹt hàng? Ngƣời đi bộ vai gánh hàng? Ngƣời đi bộ đẩy xe đạp chở
hàng?
1.1. Đưa hoạt động bán hàng rong vào hệ thống và có tổ chức
Sau khi có quyết định 46/2009/QĐ-UBND, kế hoạch để các ngành, các
huyện thực hiện đã đƣợc xây dựng và cơ bản đã hoàn thành. Theo kế hoạch, Hà
Nội sẽ thực hiện tuyên tuyền, thông báo công khai các tuyến đƣờng, khu vực
cấm bán và những khu vực đƣợc bán tạm thời; tổ chức cắm biển cấm tại những
nơi qui định... Cùng đó, lập sổ theo dõi ngƣời bán hàng rong. Lập danh sách
những ngƣời mƣợn bán hàng rong để ăn xin và trả về các địa phƣơng.
Cũng phải khẳng định rằng đội ngũ bán hàng rong nhiều khi làm ảnh
hƣởng tới trật tự giao thông, mỹ quan đô thị nhƣng ta nên nghĩ một cách khác
10
TS Nguyễn Sĩ Dũng - Triết lý kinh tế của hàng rong
61
hay hơn là cấm triệt để. Nếu nƣớc ta muốn học hỏi cách làm của các nƣớc
đã thành công thì phải có các biện pháp để quản lý hữu hiệu. Đó là vấn đề
từ phía các nhà quản lý. Bên cạnh việc quy định địa bàn cũng phải có
thêm các quy định khác về hàng rong nhƣ: Ngƣời bán, hàng bán phải đảm
bảo vệ sinh, nói năng lịch sự, bậy biện đẹp mắt, thậm chí cấm quang gánh
cồng kềnh, vƣớng víu mà dùng xe đẩy, xe đạp…
1.2. Liên hệ chặt chẽ giữa chính quyền, người bán hàng và người tiêu dùng
Nếu một chính sách đụng chạm đến lợi ích của một đối tƣợng dân
cƣ nào đó, thì đối tƣợng ấy cần phải đƣợc tham khảo ý kiến. Công bằng
mà nói, tham khảo ý kiến của những ngƣời bán hàng rong để có đƣợc sự
đồng ý của họ là khó khăn. Thế nhƣng, ý kiến của họ sẽ giúp cho chính
quyền hoàn thiện chính sách của mình, làm cho chính sách đó trở nên phù
hợp và khả thi.
Giải quyết việc làm cho những ngƣời bán hàng rong nhƣ thế nào
phải đƣợc xem là một phần cấu thành của chính sách cấm bán hàng rong.
Tuy nhiên, nếu không tham khảo ý kiến của những ngƣời bán hàng rong
lại không thể thiết kế đƣợc phần cấu thành này của chính sách.11Hiện nay
việc cấm bán hàng rong đang ở dạng ''treo'', rõ ràng đó là sự bất cập trong
khâu tổ chức, do nóng vội, mang tính chất phong trào, nói mà chƣa tìm ra
cách thực hiện triệt để.
11
TS Nguyễn Minh Phong, Trƣởng phòng nghiên cứu kinh tế, Viện nghiên cứu phát triển kinh
tế xã hội trong cuộc trao đổi với PV VTC News
62
1.3. Nâng cao dân trí cộng đồng và người bán rong
Hình ảnh ngƣời bán hàng rong rất quen thuộc nhƣng dƣờng nhƣ không
đƣợc để tâm nhiều trong đời sống, cộng đồng. Thậm chí, hình ảnh ấy đang dần
nhạt nhòa đi cùng sự phát triển của đô thị. 10/10/2008, bảo tàng Phụ nữ Việt
Nam đã khai mạc triển lãm Gánh Hàng Rong. Bảo tàng xác định "Gánh hàng
rong" là một hoạt động xã hội, là tiếng nói, diễn đàn của những ngƣời bán hàng
rong, những ngƣời mua hàng, những ngƣời quản lý… Ngoài ra, đây cũng là một
cầu nối để ngƣời xem có thể hiểu hơn về cuộc sống của những ngƣời phụ nữ bán
hàng rong, để cảm thông và trân trọng hơn những ngƣời bán hàng rong lặng lẽ
mà bền bỉ.
Dự kiến trong thời gian tới, bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam sẽ phối hợp với
một số trƣờng đại học ở Hà Nội tổ chức những hoạt động có ý nghĩa nhƣ: Giúp
những ngƣời bán hàng rong nâng cao nhận thức để ứng xử với môi trƣờng và
văn minh đô thị, toạ đàm, đối thoại cho sinh viên về gánh hàng rong; quay phim,
chụp ảnh về cuộc sống của ngƣời bán hàng rong theo cảm nhận riêng của mỗi
ngƣời... từ đó sẽ nâng cao nhận thức cộng đồng về ngƣời bán hàng rong. Từ
nhận thức ấy, mỗi ngƣời sẽ hàng động tốt hơn trƣớc những vấn đề liên quan.
2. Giải pháp
Hoạt động bán hàng rong đã và đang ảnh hƣởng không nhỏ tới đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội của Hà Nội, tuy nhiên quản lý hoạt động bán hàng rong
vẫn là một bài toán khó, cần thiết phải có những giải pháp hợp lý, kết hợp các
bên cùng phối hợp thực hiện.
63
2.1. Từ phía Chính quyền và các cơ quan chức năng
Rõ ràng, hoạt động bán hàng rong không chỉ là một nét văn hoá rất
đặc trƣng của Việt Nam mà còn là nguồn thu nhập chính đáng của không
ít ngƣời nghèo. Cấm hoàn toàn hàng rong đồng nghĩa với dồn nhóm
ngƣời nghèo này vào khốn khố, từ đó có thể nảy sinh nhiều vấn nạn xã
hội khác khó lƣờng trƣớc. Do vậy, trái với cách làm “ không quản lý đƣợc
thì cấm” vốn đã đƣợc biết tới của các nhà quản lý Việt Nam, nên thiết lập
những chế tài cụ thể và quy hoạch quản lý dành riêng cho loại hình kinh
doanh này. Luật chƣa ban thì cần thiết phải ban hành, luật ban hành không
đi vào thực tiễn thì phải sửa đổi cho phù hợp.
2.1.1. Hoàn thiện văn bản luật
Đây là một trong những đòi hỏi trƣớc nhất trong mọi cách thức
quản lý, vì để quản lý một hoạt động, cần thiết phải dựa trên những quy
chuẩn nhất định để đảm bảo tính công bằng và đồng nhất.
Mặc dù là một trong những hoạt động kinh doanh phức tạp và khó
quản lý nhất, hiên nay, hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội đƣợc điều
chỉnh trực tiếp bởi hai văn bản luật là Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày
16/3/2007 của Chính phủ về cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc
lập, thƣờng xuyên không phải đăng ký kinh doanh và Quyết định số
46/2009/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND ngày
09/01/2008 Quy định về quản lý hoạt động bán hàng rong trên địa bàn
Thành phố Hà Nội. Mặc dù đã nêu rõ trách nhiệm của các bên nhƣng, các
quy định của pháp luật còn mang tính khái quát, chƣa mang tính quy
phạm cụ thể nên hiệu quả áp dụng chƣa cao. Điển hình nhƣ các văn bản
64
luật trên chỉ tập trung vào quản lý cấm bán hàng rong tại một số khu vực, triển
khai cắm biến cấm bán hàng rong, tổ chức tuyên truyền giáo dục, xử lý vi phạm
theo thẩm quyền mà không xác định rõ thẩm quyền của các cấp là gì cũng nhƣ
hình thức và chế tài xử phạt ra sao. Một sự thật đã từng xảy ra gây cho nhóm
nghiên cứu nhiều thắc mắc, đó là những ngƣời bán hàng rong không đúng quy
định sẽ bị xử phạt. Đội tuần tra đia phƣơng, đại diện cho các cấp quản lý tịch thu
hàng bán rong, tuy nhiên, những hàng bán rong đó đƣợc xử lý ra sao và chế tài
cho những ngƣời bán hàng rong là gì? Hệ quả là thực tế, ngƣời bán hàng rong vì
tiếc gánh hàng nuôi sống cả gia đình đến cơ quan nộp phạt, tuy nhiên, khi đến
hỏi thì đƣợc cho biết dù có nộp phạt thì cũng chẳng đƣợc nhận lại gánh hàng
rong về. Rõ ràng, việc xử lý hàng rong không theo một quy chuẩn nào đã gây
khó khăn, một mặt không xử lý triệt để cũng nhƣ giáo dục ý thức cho ngƣời bán
hàng rong, trái lại gây nhiều nghi vấn, bức xúc cũng nhƣ thái độ chống đối cho
nhóm ngƣời này.
Quyết định số 46/2009/QĐ-UBND đƣa ra nhằm làm rõ thêm Nghị định số
39/2007/NĐ-CP trong vấn đề bán hàng rong tại thành phố Hà Nội. Tuy nhiên
việc cụ thể hóa hay tính minh bạch vẫn chƣa đƣợc đƣa ra. Mặc dù hàng rong đã
bị cấm, nhƣng vẫn không cải thiện đƣợc tình hình. Bán hàng rong vẫn diến ra
tại các khu phố cấm nhƣ một hoạt động ngầm, ngay trƣớc mắt các cơ quan quản
lý. Điều này đặt ra câu hỏi phải chăng văn bản luật đang có nhiều kẽ hở, đi
không theo lòng dân. Rõ ràng cần có một số văn bản pháp quy nữa đƣợc đƣa ra
để điều chỉnh hoạt động kinh doanh này, tuy nhiên, để làm đƣợc điều này, cần
thiết phải thực hiện các cuộc điều tra, lấy ý kiến của ngƣời bán hàng rong, ngƣời
tiêu dùng cũng nhƣ các bên liên quan, để tránh tình trạng, lãng phí nhiều tiền
65
bạc và công sức đƣa ra một văn bản luật thiếu tính thực tế và phi cụ thể
nhƣ các văn bản luật trƣớc đây.
2.1.2. Tạo công ăn việc làm cho người dân chuyển đổi nghề nghiệp
Một trong những bất cập khi đƣa ra các văn bản luật điều chỉnh
hoạt động bán hàng rong là quá khẩn trƣơng áp dụng, trong khi một mặt
cấm bán hàng rong, mặt khác lại chƣa tạo ra công ăn việc làm hợp lý để
chuyên đổi nghề nghiệp cho bộ phận những ngƣời kinh doanh theo hình
thức kinh doanh này.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng trong số ngƣời
bán hàng rong nhỏ lẻ là tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng, không có
công ăn việc làm đem lại thu nhập ổn định để nuôi sống bản thân cũng
nhƣ gia đình. Phỏng vấn một số ngƣời bán hàng rong trên địa bàn Hà Nội,
những ngƣời này cho biết sẵn sàng chuyển đổi nghề nghiệp nếu có công
việc hợp lý. Rõ ràng chẳng ai muốn ngày nào cũng phải lóc cóc hàng chục
cây số vừa bán hàng vừa nơm nớp công an quản lý. Hàng rong hiện nay bị
cấm tại một số khu vực tuy nhiên, không phải tất cả những ngƣời bán
hàng rong tại những khu vực này không còn tiếp tục bán hàng rong. Một
số ngƣời tiếp tục bán hàng rong tại địa điểm cũ nhƣng dƣới các hình thức
trá hành tinh vi hơn, một số khác di chuyển dần về các khu vực chƣa cấm
hoàn toàn hàng rong, một số khác may mắn hơn tìm đƣợc một công việc
khác để làm, nhƣng con số này rất nhỏ vì hầu hết họ là những ngƣời dân
nông thôn, trình độ học vấn không cao.
Việc tạo công ăn việc làm không phải là dễ dàng trong bối cảnh
hiện nay, khi mà thị trƣờng lao động có trình độ cạnh tranh khốc liệt chƣa
66
chƣa nói đến những ngƣời bán hàng rong trình độ kém. Các doanh nghiệp kinh
doanh dựa trên mục tiêu lợi nhuận, khó có thể chấp nhận đào tạo ngƣời ngƣời
lao động từ các bƣớc đầu tiên, do vậy, đây là khi Chính phủ và các cơ quan quản
lý phải vào cuộc. Một giải pháp có thể áp dụng là hình thành nên các Hiệp hội
những ngƣời bán hàng rong, hoạt động phi lợi nhuận, mục tiêu của tổ chức này
là một mặt liên hệ với các doanh nghiệp, tao công ăn việc làm cho ngƣời bán
hàng rong, mặt khác xây dựng nên những trung tâm đào tạo việc làm nhƣ thủ
công mỹ nghê cho phụ nữ, cơ khí chế tạo cho nam giới… vừa đào tạo, vừa giúp
đỡ tiêu thụ sản phẩm của họ dƣới sự bảo trợ của Nhà nƣớc.
Có thế có nhiều giải pháp khác đƣợc đƣa ra, tuy nhiên để quản lý triệt để
hoạt động bán hàng rong cần thiết phải tạo công ăn việc làm cho nhóm ngƣời
này trong trƣờng hợp cấm bán. Chi phí đầu tƣ ban đầu có thể lớn tuy nhƣng thực
tế lại không nhiều bằng chi phí để quản lý hoạt động bán hàng rong trong tình
trạng hiện nay, hơn nữa, tạo công ăn việc làm là giải pháp có tầm nhìn lâu dài và
đem lại nhiều lợi ích về sau.
2.1.3. Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
Hoạt động bán hàng rong hiện nay cần nhận đƣợc sự quản lý sâu xát từ
Chính phủ và các cơ quan địa phƣơng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng không mấy khả quan của hoạt động bán hàng rong hiện nay là sự
buông lỏng quản lý và tiêu cực từ một bộ phận không nhỏ các cán bộ địa
phƣơng.
Cho dù không phải tất cả đều đƣợc chứng minh, vẫn có nhiều trƣờng hợp
cán bộ ăn hối lộ, hoặc thậm chí chủ động “làm luật”, làm lơ cho phép hoạt động
bán hàng rong diễn ra. Khi có cơ quan quản lý cấp trên đến kiểm tra thì nhóm
67
ngƣời bán hàng rong đƣợc báo trƣớc để có thời gian chuẩn bị, kịp trốn
vào một góc khác. Sau khi các lực lƣợng quản lý đi qua thì mọi thứ lại trở
về nhƣ cũ. Thực trạng này góp phần làm cho hàng rong trở nên dai dẳng,
chỉ đƣợc quản lý bề ngoài. Do vậy, nâng cao chất lƣợng cán bộ quản lý,
bằng cách đƣa ra các chế tài nghiêm khắc, cụ thể để xử lý vi phạm, khiếu
nại và tổ cáo liên quan đến bộ phận quản lý trong các văn bản pháp quy,
kết hợp với thanh tra giám sát đột xuất là những gải pháp cần thiết đƣợc
Chính phủ và các cấp quản lý tôn trọng thực hiện.
2.1.4. Hình thành những khu phố bán hàng rong tập trung, khu phố du lịch
kết hợp xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng, nguồn gốc chất lượng hàng
hóa bán rong
Lợi ích của hàng rong mang là lại nguồn thu nhập đáng kể cho
ngƣời nghèo, trong khi nhƣợc điểm chính của hàng rong là thiếu điều kiện
để bán, môi trƣờng xử lý chất thải chƣa tốt, khó kiểm soát và quản lý vệ
sinh an toàn thực phẩm...
Để giải quyết bài toán khó này, một trong những giải pháp đã từng đƣợc
đƣa ra là cấp và kiểm tra giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên,
biện pháp này cho đến nay vẫn chƣa chứng minh đƣợc tính khả thi. Nguyên
nhân là do ngƣời bán hàng ăn rong phần lớn là dân ngoại tỉnh, tối về ở trọ một
nơi, ngày lại quẩy gánh đi khắp các tuyến phố. Cán bộ thanh tra có đến kiểm tra
chất lƣợng cũng không thể gặp chứ đừng nói đến chuyện kiểm soát chất lƣợng
thực phẩm do họ bán ra.
Liên quan đến nâng cao ý thức của ngƣời bán, Trƣớc đây, Tổ chức
Ngƣời tiêu dùng quốc tế khu vực châu Á-Thái Bình Dƣơng và Trung tâm
68
Dinh dƣỡng Tp.HCM tiến hành thực hiện dự án “Xây dựng các quy định chính
sách về việc bán thức ăn đƣờng phố”, nhằm đánh giá thực trạng thức ăn đƣờng
phố tại Việt Nam để tìm biện pháp cải thiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ
sức khỏe ngƣời tiêu dùng. Song, kết quả điều tra cho thấy 63% ngƣời bán không
muốn tham gia lớp tập huấn, đào tạo; 75% ngƣời bán không đƣợc tập huấn kiến
thức; 100% ngƣời bán vi phạm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Cơ quan
quản lý đi kiểm tra cũng không nắm rõ quy định và đối tƣợng kiểm tra, chƣa kể
chỉ kiểm tra đột xuất vào mùa cao điểm.
Do tính phức tạp của hoạt động bán hàng rong, không thể tách rời các
biện pháp mà phải có sự phối kết hợp đồng bộ các biện pháp với nhau. Cụ thể
nhƣ có quy hoạch những khu vực đƣờng phố chuyên tập trung hàng rong và đƣa
vào hoạt động theo giờ quy định. Hàng rong đƣờng phố sẽ đƣợc chia làm 2 loại.
Một loại là hàng văn hóa phẩm có thế đƣợc bày bán không đòi hỏi chất lƣợng vệ
sinh, loại này không đƣợc đề cập trong biện pháp này. Một loại khác là hàng
thực phẩm, buộc phải có cơ sở vật chất nhƣ nƣớc sạch, nơi bán, nơi để rác thải
sẽ đƣợc đƣa vào khu thức ăn tập trung để xử lý rác thải và quản lý. Những khu
vực này phải đảm bảo nguồn nƣớc đầy đủ để ngƣời kinh doanh thực phẩm chín
đảm bảo việc rửa sạch bát, đĩa hoặc thực phẩm trƣớc khi đem chế biến. Khi bán
những mặt hàng này đòi hỏi ngƣời bán hàng phải có giấy tờ chứng nhận vệ sinh
an toàn thực phẩm cũng nhƣ nguồn gốc xuất xứ hàng hóa bán ra. Bên cạnh đó,
các cơ quan quản lý khu vực bán hàng tổ chức các lớp đào tạo ý thức cho ngƣời
bán hàng và những nhà quản lý.
Hàng rong đã từng bị coi là làm xấu đi nét văn hóa của Hà Nội, ảnh
hƣởng không nhỏ tới ngành du lịch. Tuy nhiên, nếu biết khai thác hàng rong nhƣ
không ít các thành phố lớn khác trên thế giới nhƣ Bangkok, Seoul, Paris… thì
69
hàng rong sẽ lại trở thành một nhân tố hiệu quả để thu hút du lịch và
quảng bá nét văn hóa cho Hà Nội và Việt Nam. Bằng cách xây dựng các
khu phố văn hóa truyền thống dành cho ngƣời du khách nƣớc ngoài, kết
hợp các biện pháp quản lý trật tự và vệ sinh an toàn thực phẩm, cho phép
bán một số mặt hàng nhất định, cải thiện cách thức bán hàng nhƣ trang
phục, phụ nữ mặc áo tứ thân, gánh đôi quang gánh… Hà Nội một mặt vừa
giải quyết phần nào tình trạng bán hàng rong thiếu quy củ, một mặt vẫn
giữ đƣợc nét đẹp truyền thống từ ngàn xƣa.
2.1.5. Thu thuế, phí của những người bán hàng rong
Hiện nay, cho dù chỉ đƣợc bán hàng rong tại những địa điểm giới
hạn theo quy định, tại các tuyến phố chƣa có quy định cấm bán hàng rong,
một số ngƣời bán hàng rong vẫn phải trả những khoản tiền không ít cho
bộ phận các nhà quản lý địa phƣơng để đƣợc thực hiện việc kinh doanh
của mình.
Trong khi đó. hầu hết những ngƣời bán hàng rong này sẵn sàng trả
hàng ngày hoặc hàng tháng các khoản thuế, hoặc phí để đƣợc phép bán
hàng rong tại địa điểm nhất định và đƣợc pháp luật bảo vệ thay vì hàng
tháng đều phải nộp các khoản “tiền đen” cho các các bộ địa phƣơng tiêu
cực mà vẫn nơm nớp lo sợ gánh hàng bị tịch thu. Bằng cách thu thuế, phí
của những ngƣời bán hàng rong để cho phép họ bán hàng rong và bảo vệ
quyền lợi cho những ngƣời này, tiêu cực trong cơ chế quản lý sẽ giảm và
tăng thu ngân sách nhà nƣớc để sử dụng các khoản thu này vào xây dựng
các khu bán hàng tập trung cho ngƣời bán hàng rong. Giải pháp này sẽ
cần một quy mô quản lý rộng hơn nhƣng sẽ rất khả thi khi những ngƣời
70
bán hàng đƣợc đƣa vào quy củ. Lợi ích từ làm đƣợc điều này sẽ không hề nhỏ.
2.1.6. Xây dựng cơ chế thưởng phạt hợp lý kết hợp với tiếng nói người dân
Đây là một trong những biện pháp khuyến khích mang lại nhiều lợi ích,
nâng cao đƣợc tính khách quan cho bộ phận quản lý hoạt động bán hàng rong.
Ngƣời ta vẫn hay nói con hƣ tại mẹ. Hoạt động bán hàng rong phức tạp hay quy
củ là đều phụ thuộc vào cơ quan quản lý. Áp dụng cơ chế xử phạt nghiêm khắc,
mang tính răn đe cao đối với các trƣờng hợp cán bộ quản lý tham ô, nhũng
nhiễu, bao che cho các trƣờng hợp vi phạm đồng thời xây dựng hòm thƣ góp ý
do một cơ quan độc lập chuyên trách giải quyết có thể làm giảm tiêu cực trong
bộ máy quản lý. Tính độc lập của cơ quan tiếp nhận và xử lý ý kiến này phải
đƣợc đề cao nhằm tránh tình trạng thƣ góp ý của ngƣời dân gửi lên rồi lại về tay
ngƣời bị phản ánh, vừa không phát huy đƣợc tác dụng, vừa khiến tình trạng bao
che, tiêu cực tồi tệ hơn. Bên cạnh đó, các hòm thƣ góp ý của ngƣời dân, có thế
vô danh, hoặc nếu có tên, phản ánh đúng ngƣời đúng tội thì cần đƣợc khen
thƣởng đích đáng.
2.2. Giải pháp từ phía người bán
2.2.1. Có ý thức về bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự xã hội
Để khắc phục những tồn tại của hàng rong thì thái độ của bản thân ngƣời
bán mang tính quyết định. Nếu mỗi ngƣời đều có ý thức bảo vệ môi trƣờng, giữ
gìn an ninh trật tự xã hội thì những tồn tại ấy sẽ đƣợc khắc phục đáng kể. Nhƣng
sự thật là khi bản thân ngƣời bán hàng rong xả rác bừa bãi, làm ô nhiễm môi
trƣờng khu vực xung quanh thì chính họ lại là ngƣời phải chịu ảnh hƣởng nhiều
nhất. Tuy vậy, họ không ý thức đƣợc việc phải giữ gìn môi trƣờng đó. Khi các
cơ quan chức năng vào cuộc thì tình trạng đã đƣợc cải biến phần nào. Tuy nhiên,
71
hầu hết các địa điểm bán rong cứ dọn đi là để lại một khu vực bừa bãi, với
túi nilon, giấy ăn, vỏ hoa quả…làm ảnh hƣởng tới vệ sinh môi trƣờng và
mỹ quan đô thị. Đặc biệt là các hàng rong bán đồ ăn nhanh, đồ
uống…Trong khi đó, những địa điểm tập trung của hảng rong lại là những
trƣờng học, bệnh viện, cơ quan…Những nơi đòi hỏi sự văn minh và ý
thức cộng đồng cao hơn cả.
Lý do một phần là những khu vực bán hàng rong thƣờng ít đƣợc
kiểm soát, khách hàng và cả ngƣời bán là những tầng lớp khác nhau trong
xã hội. Với văn hóa và lối sống đa dạng, khu vực bán hàng rong dễ dàng
là nơi tập trung nhiều đối tƣợng xấu trong xã hội. Hàng rong ở Hà Nội lại
chƣa đƣợc quản lý triệt để, chƣa đƣa đƣợc vào quy mô nên vấn đề trật tự
xã hội trong khu vực cũng trở lên gay gắt hơn. Để đảm bảo trật tự xã hội,
những ngƣời bán hàng phải chủ động giữ cho quán hàng của mình là một
môi trƣờng lành mạnh, có văn hóa. Bởi nâng cao ý thức của ngƣời bán
hàng rong về môi trƣờng và trật tự xã hội sẽ có ý nghĩa không nhỏ đối với
cộng đồng nói chung. Vì vậy, mỗi ngƣời bán hàng rong đều phải tự mình
nhận thức đƣợc trách nhiệm của bản thân trƣớc môi trƣờng và xã hội từ
đó có ý thức hành động tích cực hơn trong công việc hàng ngày của mình.
2.2.2. Tạo một mạng lưới phân phối theo mô hình đặt hàng qua điện thoại và
giao hàng tận nhà
Hàng rong đã tồn tại từ lâu trên thế giới và hiện vẫn đƣợc công
nhận, tạo điều kiện phát triển tại rất nhiều nƣớc. Tại Việt Nam, ngày nay
hàng rong cũng đã phát triển rộng hơn, đa dạng hơn về các mặt hàng cũng
72
nhƣ hình thức phục vụ. Lý do cho điều đó là sự phát triển của nền kinh tế, sự mở
rộng của đô thị và cả những tiến bộ công nghệ.
Nƣớc ta tuy chƣa có sự phát triển lớn trong cách thức bán hàng rong
nhƣng chính bản thân những ngƣời bán hàng cũng có thể cải tiến phƣơng thức
bán hàng của mình, xây dựng một mạng lƣới phân phối theo mô hình đặt hàng
qua điện thoại và giao hàng tận nhà. Hoạt động này sẽ giúp mở rộng phạm vi
cung ứng của hàng rong, giảm bớt những tụ điểm quá tập trung và nâng cao chất
lƣợng dịch vụ. Tuy hình thức này không thể áp dụng đƣợc với tất cả các mặt
hàng và không khả thi với tất cả những ngƣời bán rong do điều kiện về vốn, về
quy mô tổ chức… nhƣng phƣơng thức bán hàng này sẽ phù hợp với những
ngƣời bán hàng có địa điểm cố định, chất lƣợng sản phẩm ổn định và cung cấp
đều đặn trong một khu vực thị trƣờng. Trong tƣơng lai, đây có thể là một hình
thức bán rong hiệu quả và tiện lợi nhất.
2.2.3. Xây dựng hình ảnh phục vụ văn minh hơn
Một hình thức bán hàng rong hiện đang khá thành công tại một số nƣớc
đó là hình thành nét đặc trƣng của văn hóa dân tộc cho sản phẩm đem bán. Đó
có thể là một gánh hàng cốm đậy bằng lá sen với ngƣời bán hàng mặc áo tứ
thân, đội khăn mỏ quạ trong khu phố hàng rong. Cũng có thể đó là những xe hoa
nhỏ, với ngƣời bán hàng đội nón lá, mặc áo bà ba trên các phố hoa… Việc đổi
mới hình thức bán hàng, cách thức trƣng bày sản phẩm cũng có thể đem lại
những giá trị vô hình mới cho hàng hóa bán rong.
73
2.3.4. Có nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết và chính xác về nguồn gốc và
chất lượng hàng hóa khi được kiểm tra
Bên cạnh đó, mỗi ngƣời bán hàng đều có nghĩa vụ cung cấp thông
tin cần thiết và chính xác về nguồn gốc và chất lƣợng hàng hóa khi đƣợc
kiểm tra. Hiện vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đang đƣợc đặt ra gay gắt,
sức khỏe ngƣời tiêu dùng đang bị ảnh hƣởng rất nhiều bởi thực phẩm
đƣờng phố. Cung cấp thông tin cần thiết về hàng hóa là một cách hiệu quả
giúp các cơ quan quản lý vệ sinh thực phẩm nắm đƣợc tình hình chất
lƣợng hàng hóa và sức khỏe ngƣời tiêu dùng, từ đó đƣa ra các chính sách
hợp lý cho định hƣớng phát triển. Thông qua đó, ngƣời bán hàng cũng có
thể tự đánh giá lại chất lƣợng sản phẩm của mình, từ đó có biện pháp điều
chỉnh trong sản xuất và cung cấp cho phù hợp. Tuy nhiện thực hiện đƣợc
điều này sẽ rất khó khăn bởi những cuộc điều tra của các cơ quan an toàn
vệ sinh thực phẩm thƣờng diễn ra ở các nhà hàng, khu vực buôn bán lớn.
Những điều tra tới các điểm bán rong thƣờng mang tính chất nghiên cứu.
Không có cơ quan cấp phép cho chất lƣợng hàng rong cũng có nghĩa là
không thể có tiêu chuẩn nào bắt buộc họ phải đáp ứng. Chất lƣợng hàng
rong sẽ phụ thuộc tất cả vào ý thức và khả năng của ngƣời cung cấp.
2.2.5. Có nghĩa vụ nộp thuế, phí cho những cơ quan chức năng
Để nâng cao chất lƣợng công tác quản lý cũng nhƣ tính tuân thủ
pháp luật, mỗi ngƣời bán hàng rong đều cần nghiêm túc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế, phí cho những cơ quan chức năng. Đó là quyền và nghĩa vụ
của bản thân họ, nhận thức đƣợc vấn đề này cũng có nghĩa là những quy
định của Nhà Nƣớc đi đƣợc vào thực tế và đƣợc chấp hành nghiêm túc.
74
Trên thực tế, nộp thuế, phí cũng là cách hiệu quả để các cơ quan nắm bắt chính
xác hơn số lƣợng, phạm vi, đặc điểm của tất cả những ngƣời bán hàng rong
trong địa bàn quản lý. Hợp tác với các cơ quan chức năng cũng là việc làm đem
lại quyền lợi và có ý nghĩa lớn với bản thân ngƣời bán rong.
2.3. Giải pháp từ phía người tiêu dùng
Để giải quyết tình trạng bán hàng rong đang gây nhiều bức xúc hiệ
ải vào cuộc. Chính ngƣờ
trong việc tiêu thụ ả
2.3.1. Có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự xã hội
Nâng cao ý thức của bản thân cũng là bảo vệ chính mình trƣớc xã hội. Ý
thức này quan trọng trong mọi vấn đề nói chung, càng quan trọng hơn trong
những vấn đề cần nhiều ý thức tự giác nhƣ buôn bán hàng rong. Trƣớc hết,
ngƣời tiêu dùng phải có ý thức bảo vệ môi trƣờng, ý thức xã hội và cộng đồng
để nhận biết đƣợc những trƣờng hợp nào là vi phạm vệ sinh môi trƣờng, biết
cách xử lý trƣớc các tình huống vi phạm an ninh trật tự xã hội, để bảo vệ chình
mình và ngăn chặn những hành động tái diễn.
Trên thực tế, hàng rong không gây ô nhiễm môi trƣờng mà chính ngƣời
tiêu thụ hàng rong xả rác làm ảnh hƣởng tới khu vực xung quanh. Hàng rong
cũng không tự bản thân nó gây mất trật tự xã hội mà chỉ là một địa điểm, nơi mà
ngƣời tiêu thụ hàng rong tập trung, không có tổ chức rồi nảy sinh những vấn đề,
gây mất ổn định xã hội. Vì vậy, ý thức của cộng đồng là một vấn đề rất quan
trọng để đƣa hàng rong vào những quy phạm nhất định. Mỗi cá nhân trong cộng
75
đồng đều có ý thức thì tình trạng mất vệ sinh môi trƣờng, mất trật tự xã
hội sẽ không tái diễn bởi tất cả đều nằm trong phạm vi hành động và kiểm
soát của họ.
2.3.2. Kịp thời thông báo cho cơ quan chức năng khi bị xâm phạm về quyền
lợi
vấn đề ự tỏ
dân. Sự phân cấp trách nhiệm không rõ ràng giữa các cơ quan tham gia
bảo vệ ẫn đến tình trạng dễ thì làm, khó thì bỏ, đùn đẩy
trách nhiệm lẫ ế mà lúng túng, không
biết tìm cơ quan nào kêu cứu, không biết ai có trách nhiệm để giải quyết
vụ việc của mình. Vì vậ
ột dự luật rất quan
trọng, tác động trực tiếp đến đời sống của mọi ngƣời và vấn đề vi phạm
quyền lợi ngƣời tiêu dùng hiện cũng đang là vấn đề nóng bỏng, gây nhiều
bức xúc trong xã hội. Tuy nhiên, dự ể đi vào
khả thi cũng còn vấp phải nhiều khó khăn.
độ thông qua các hành động của mình. Khi đó, đòi hỏi ban thân họ đều
phải ý thức đƣợc mình cần đòi hỏi những gì, cần từ chối những gì không
đạt tiêu chuẩn mà đáng lẽ mình nhận đƣợc… Trƣớc phản ứng của ngƣời
tiêu dùng, những ngƣời cung cấp hàng rong cũng không thể thờ ở mà sẽ
76
phải thay đổi sao cho đáp ứng yêu cầu của họ. Thông qua đó, chất lƣợng sản
phẩm sẽ dần đƣợc nâng cao.
Ngƣời tiêu dùng phải kịp thời thông báo cho cơ quan chức năng khi bị
xâm phạm về quyền lợi bởi thứ nhất, ngƣời tiêu dùng là ngƣời phản ánh chính
xác nhất về chất lƣợng sản phẩm. Họ có trách nhiệm phải thông báo cho cơ quan
chức năng khi bị xâm phạm về quyền lợi. Đó là khi họ mua phải hàng hóa có
chất lƣợng thấp, hàng giả, hàng lậu… Bởi hơn ai hết, trong những trƣờng hợp
này thì chính ngƣời tiêu dùng phải chịu hậu quả của điều đó. Những thông báo
kịp thời cho cơ quan chức năng sẽ có thể trả lại quyền lợi cho họ, ngăn chặn việc
bán hàng sai phẩm chất tiếp tục tái diễn với những ngƣời tiêu dùng khác, từ đó
bảo vệ quyền lợi chung cho tất cả những ngƣời tiêu dùng.
77
KẾT LUẬN
Hoạt động bán hàng rong đang ngày càng chứng minh đƣơc vị trí
quan trọng trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của Hà Nội trong quá
trình đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có hai mặt của nó.
Với cách thức quản lý hiện tại, có thể thấy bán hàng rong đang trong tình
trạng tiến thoái lƣỡng nan, muốn xóa xổ cũng không đƣợc mà phát triển
cũng không xong, chính sách đƣa ra song do quản lý không sâu xát nên hệ
quả là phát triển không đồng đều, thiếu tổ chức.
Quản lý bán hàng rong do vậy vẫn là một bài toán khó. Rõ ràng,
giải quyết đƣợc vấn đề này không phải chỉ là trách nhiệm của các cơ quan
chức năng mà cần có sự tham gia từ các phía ngƣời bán hàng, ngƣời tiêu
dùng và toàn xã hội. Trong tất cả các biện pháp đƣợc đƣa ra thì nâng cao
ý thức của mỗi cá nhân trong cộng đồng là giải pháp thiết thực hơn cả và
giải quyết triệt để đƣợc vấn đề. Hàng rong là một nét văn hóa hay là một
tồn tại của xã hội, tất cả phụ thuộc vào ý thức của con ngƣời.
Thực tế ở nhiều nƣớc đã cho thấy, hàng rong là một nét đẹp văn
hóa, nếu đƣợc phát triển đúng hƣớng sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho xã
hội. Còn ở nƣớc ta, cụ thể là trong thành phố thủ đô, hàng rong cần một
giải pháp tổ chức đúng hƣớng để duy trì và phát triển chứ không thể bằng
một quy định cấm mà giải quyết đƣợc. Thiết nghĩ trong vấn đề này, các
cơ quan chức năng cần thực sự vào cuộc đề đƣa ra những chính sách phù
hợp nhất.
78
Danh mục tài liệu tham khảo
Các nguồn luật:
Nghị định số 39/2007/NĐ-Cp của Chính phủ
Quy định số 46/2009/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội
Các sách:
Street vendors in Asia: A review Sharit K Bhowmik
International status of street hawkers, Report on Stress Hawkers
Tạp chí:
Sampling Singapore street fare at Whole foods, tác giả Rosemary Black, đăng trên
Daily news
Triết lý kinh tế của hàng rong - TS Nguyễn Sĩ Dũng
Các trang web:
- Saving the street vendors of 'Incredible India'
Ssbn0 - “Tôi đã mất ngủ cả đêm trƣớc khi nói về hàng rong”
aM2G3 - Cấm bán hàng rong: Đem con bỏ chợ!?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại hà nội hiện nay.pdf