Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam

Đề tài: Trình bày thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam. Mục lục I- Những vấn đề cơ bản CTCK tại Việt Nam .1 1. Văn bản pháp luật điều tiết hoạt động CTCK .1 2. Cơ quan quản lý trực tiếp 1 3. Tổng quan về CTCK tại Việt Nam 4. Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK tại VN 5 II-Thực trạng .5 1.Giai đoạn 2000 – 2005 5 1.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán 5 1.2.Chất lượng hoạt động .7 2.Giai đoạn 2006 – 2007 8 2.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán 8 2.2.Về hoạt động của các công ty chứng khoán .9 a.Về hoạt động môi giới 10 b.Về hoạt động tự doanh 11 c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành 12 d.Hoạt động tư vấn .12 3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến 9 tháng đầu năm 2009 15 3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch .15 3.2.Kết quả của hoạt động kinh doanh 16 3.3.Hạn chế về hoạt động của các công ty chứng khoán 18 4. Giai đoạn 3 tháng cuối năm 2009 cho đến nay 19 4.1. Tình hình hoạt động tổng quan .19 4.2 Bất cập .26 1. Thao túng giá . 2.Bán khống cổ phiếu . 3.Tính minh bạch III-Giải pháp cho các công ty chứng khoán 28 I- Những vấn đề cơ bản CTCK tại Việt Nam 1. Văn bản pháp luật điều tiết hoạt động CTCK ã Luật doanh nghiệp ã Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật hướng dẫn ã Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK 2. Cơ quan quản lý trực tiếp ã Uỷ ban chứng khoán nhà nước ã Các trung tâm giao dịch và trung tâm lưu ký mà công ty chứng khoán là thành viên

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2866 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CtyCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao. Đối với khối CtyCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CtyCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CtyCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CtyCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng).   c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây). Công ty Khối lượng bảo lãnh Giá bảo lãnh (đồng) Vốn chủ sở hữu của CtyCK (tỷ đồng) Hình thức bảo lãnh Số hợp đồng bảo lãnh Giá trị bảo lãnh (triệu đồng) BVSC 5.314 33.500 150 Chắc chắn 1 178 ACBS 880.000 67.000 250 Chắc chắn 1 58.960 Cty CK Thăng Long 108.758 451.000 120 Chắc chắn 2 49.050 Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này. d.Hoạt động tư vấn - Tư vấn đầu tư chứng khoán Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CtyCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CtyCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CtyCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CtyCK An Bình hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng). - Tư vấn niêm yết Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CtyCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Những CtyCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CtyCK Sài Gòn (30 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á. - Tư vấn khác Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng  này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng). Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CtyCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt. Hạn chế và nguyên nhân: 1.Tại thời điểm hiện nay, cơ sở hạ tầng của TTCK nói chung và các CTCK nói riêng còn khá lạc hậu, thiếu đồng bộ và có thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào về giải pháp kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh hưởng đến việc quản lý giao dịch tại các CTCK. Nếu đầu tư công nghệ không được xây dựng một cách đồng bộ thì khả năng tích hợp giữa các CTCK với Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. 2. Nhân sự đang là bài toán khó đối với các CTCK. Cả nước hiện chỉ có khoảng 300 nhà môi giới trong các CTCK nhưng phải phụ trách một số lượng vốn rất lớn. Bình quân mỗi nhà môi giới phụ trách đến 500 tỉ đồng và số lượng vốn đang không ngừng tăng lên nên họ làm không xuể. Không chỉ thiếu về số lượng, nghiệp vụ tư vấn còn rất hạn chế khiến cho hoạt động này hiện nay là không đáng kể. Một chuyên gia trong ngành cho biết một số CTCK liên tục bị mất người do các nhân viên có tay nghề bỏ đi đầu quân nơi khác có thu nhập cao hơn. Nếu trước đây các CTCK khi tuyển chuyên viên phân tích tài chính luôn đòi hỏi ứng viên phải có khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp tốt và có kinh nghiệm tối thiểu một năm, thì nay những yêu cầu không còn khắc nghiệt như trước, thậm chí phải chấp nhận tuyển người vừa học vừa làm. Kiểm tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước gần đây cho thấy tại CTCK Ngân hàng Ngoại thương có 13 trong tổng số 22 nhân viên kinh doanh chứng khoán chưa được cấp chứng chỉ hành nghề. Tình hình cũng tương tự tại CTCK Sài Gòn. 3. Hoạt động sôi nổi của TTCK khoảng một năm trở lại đây cho thấy các CTCK trong vai trò trung gian đang chứng tỏ đây là những cỗ máy kiếm tiền hiệu quả nhất trong ngành tài chính mới nổi tại Việt Nam. Bảng công bố nhanh kết quả hoạt động kinh doanh của các CTCK như SSI, ACBS, BSC, VCBS, BVSC... luôn làm giới tài chính giật mình. Cụ thể như qua tổng kết năm 2006, SSI dẫn đầu với doanh thu 378 tỉ đồng (trong đó lợi nhuận sau thuế lên đến 242 tỉ đồng), kế đến là VCBS có doanh thu 234 tỉ đồng (lợi nhuận 108,8 tỉ đồng), BSC với doanh thu 200 tỉ đồng (lợi nhuận trước thuế 65 tỉ đồng) hay ACBS đạt doanh thu 113 tỉ đồng (lợi nhuận trước thuế 84 tỉ đồng)... Một trong những nguồn thu lớn nhất của các CTCK đến từ phí dịch vụ môi giới, hiện đang được tính ở mức 0,2-0,3% tổng giá trị giao dịch của các nhà đầu tư (cá biệt có công ty thu đến 0,5% một lượt giao dịch). Nếu tính trung bình thị trường TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội đạt tổng giá trị giao dịch hơn 1.000 tỉ đồng/phiên thì cứ mỗi phiên số tiền ấy phải lên đến khoảng từ hai đến ba tỉ đồng. Điều này giải thích tại sao số hồ sơ CTCK xin cấp phép ngày càng nhiều tại Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước Một số CTCK cũng đang giàu lên chủ yếu qua mảng tự doanh nhờ lợi thế thường xuyên được tiếp cận với các thông tin “nhạy cảm” từ các quỹ đầu tư nước ngoài cũng như các công ty niêm yết và chuẩn bị niêm yết. Đặc biệt, khi các đơn vị này đặt lệnh mua bán thì chính các CTCK được biết đầu tiên và một số công ty cũng đặt lệnh theo cho mình. Hành vi này được xem là bất hợp pháp nhưng hiện vẫn chưa được kiểm soát trên TTCK Việt Nam. 4. Nhiều công ty chứng khoán liên tục vi phạm các quy định về giao dịch. Cụ thể là cách đây chưa lâu Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã cảnh báo các CTCK Tràng An, Habubank, SBS, ACBS, BVSC và Đệ Nhất vì đại diện giao dịch của các công ty này thực hiện hủy lệnh giao dịch trong cùng đợt khớp lệnh. Do đây là một lỗi khá nghiêm trọng nên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định trong trường hợp tái phạm sẽ đình chỉ tư cách đại diện giao dịch của các nhân viên vi phạm này. 5. Hệ thống công nghệ thông tin của các CTCK đang là một trở ngại lớn đối với sự phát triển của chính họ. Theo tính toán của một chuyên gia trong ngành, để có hệ thống giao dịch đạt chuẩn, một CTCK có quy mô 100 nhân viên phải đầu tư khoảng hai triệu USD vào phần mềm, cộng với một triệu USD cho các khoản đầu tư đồng bộ khác và chừng 500.000 USD cho vốn lưu động. Điều này có nghĩa một CTCK phải có ít nhất trong tay hơn ba triệu USD mới có thể tính đến chuyện làm ăn lớn. Vậy mà hầu hết các CTCK hiện nay chỉ đầu tư chừng vài chục ngàn USD vào hệ thống công nghệ thông tin. Sự bất cập này bộc lộ qua việc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã buộc phải tạm hoãn việc giao dịch khớp lệnh liên tục chỉ vì một số công ty thành viên không đáp ứng được yêu cầu. Rõ ràng, những hạn chế trên đây nếu không được sớm khắc phục thì các CTCK của chúng ta vẫn chỉ là người trung gian kiếm lợi, chưa phát huy vai trò tác nhân giúp TTCK phát triển lành mạnh. 3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến 9 tháng đầu năm 2009 Đây là giai đoạn thị trường chứng khoán có nhiều sự thay đổi. Các công ty chứng khoán cũng chịu ảnh hưởng lớn do sự biến động của thị trường. 3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch Tính đến hết 12-2008, số lượng CTCK là 102 công ty, trong đó có 24 công ty được cấp phép trong năm 2008. Theo số liệu gần đây nhất, tính đến tháng 8/2009 số lượng CTCK là 104. Quy mô giao dịch trên thị trường không ổn định. Từ những tháng cuối năm 2008, khối lượng và giá trị giao dịch giảm dần, đặc biệt giảm mạnh vào đầu năm 2009. Từ tháng 02/2009 khối lượng và giá trị giao dịch đã có dấu hiệu đi lên và dần vào ổn định. Tháng Khớp lệnh Thỏa thuận Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị 9 - 2009 651,765,000 23,795,944,290,000 9,209,915 397,819,880,000 8 - 2009 556,223,600 18,618,609,780,000 8,053,561 305,723,249,900 7 - 2009 369,676,900 11,985,734,540,000 10,175,286 359,035,850,000 6 - 2009 646,825,200 22,671,729,230,000 16,121,778 656,320,553,900 5 - 2009 575,340,200 15,923,114,180,000 7,242,672 219,431,489,900 4 - 2009 379,131,900 9,157,202,910,000 7,822,209 179,945,312,300 3 - 2009 217,688,200 4,110,436,010,000 3,060,497 51,699,166,700 2 - 2009 79,521,800 1,527,630,610,000 2,405,475 54,420,785,000 1 - 2009 54,301,100 1,122,368,900,000 5,270,313 249,524,547,600 12 - 2008 136,874,500 3,067,684,670,000 9,443,200 456,395,499,600 11 - 2008 167,032,300 4,512,373,810,000 6,123,639 208,762,282,700 10 - 2008 189,692,400 5,458,884,590,000 7,075,524 311,184,108,600 Sự bất ổn này là do tác động của nhiều yếu tố. Về việc sụt giảm giá trị giao dịch, trước hết là do ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô như thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt quá mạnh, các biện pháp về tài khoá chống lạm phát làm quy mô giao dịch giảm từ những tháng đầu năm 2008. Thứ hai là do tâm lý của nhà đầu tư. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa hoặc niêm yết trên sàn, họ đều đưa ra những mức giá quá cao. Còn ở phía nhà đầu tư, người ta cũng kỳ vọng quá cao. Hai yếu tố này gặp nhau và đẩy thị trường lên khá cao. Và cuối năm 2007, thị trường đã nhận ra điều đó và có phản ứng. Ở phía nhà đầu tư rõ ràng là có phản ứng, người ta không chịu mua cao nữa, trong khi cái quán tính hay sự chuẩn bị của rất nhiều công ty để phát hành tăng vốn hay cổ phần hóa thì vẫn tiếp tục triển khai, phát hành hoặc niêm yết giá cao. Khi mà thị trường không chấp nhận nữa mà giá vẫn tiếp tục được đẩy ra cao như thế thì thị trường buộc phải kéo xuống. Chính lý do đó đã làm cho quy mô giao dịch giảm mạnh. Bên cạnh đó, đầu năm 2009 cũng trùng với giai đoạn Tết Âm lịch. Theo tâm lý nhà đầu tư Việt Nam ”không muốn mất tiền vào ngày mùng 1”, thêm vào đó là việc rút bớt vốn để thanh toán các khoản nợ đã làm giá trị giao dịch giảm đáng kể. Thứ ba, do thị trường chứng khoán thế giới bắt đầu suy giảm mạnh thì Việt Nam không tránh khỏi sự ảnh hưởng, cho tới giờ phút này. Sự gia tăng trở lại của khối lượng giao dịch từ 2/2009 là do ảnh hưỏng lớn từ các chính sách kích cầu của chính phủ và sự phục hồi dần của nền kinh tế. Tổng kết lại: Năm 2007, tăng trưởng giá trị giao dịch cao hơn tăng trưởng số lượng công ty chứng khoán, bởivậy giá trị giao dịch / 1 công ty chứng khoán tăng cao hơn, giúp các công ty chứng khoán có lãi hơn trong môi giới giao dịch. Năm 2008, tăng trưởng giá trị giao dịch không theo kịp với tăng trưởng số lượng các công ty chứng khoán, bởi vậy giá trị giao dịch trung bình / 1 công ty chứng khoán đang có xu thế giảm. 3.2.Kết quả của hoạt động kinh doanh: Những khoản lỗ khổng lồ Bất ngờ nhất có lẽ là khoản lỗ lên tới 554 tỷ đồng của CTCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC). Với khoản lỗ này, BSC chỉ còn vỏn vẹn 274 tỷ đồng vốn chủ sở hữu, trong khi vốn điều lệ của công ty này là 700 tỷ đồng (vào thời điểm cuối năm 2008, tổng các khoản trích lập dự phòng giảm giá của BSC là gần 633,5 tỷ đồng). Tuy nhiên, tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ của BSC chỉ là 79,16%, không phải là mức thua lỗ lớn nhất. Xét theo tiêu chí này, kỷ lục tạm thời thuộc về CTCK Bảo Việt (BVSC). Với khoản lỗ 452 tỷ đồng trên vốn điều lệ 451 tỷ đồng, tương đương 100,2% vốn điều lệ, BVSC đã khiến khá nhiều NĐT bất ngờ. Dù vậy, do vốn chủ sở hữu lớn có được từ thặng dư phát hành và tích lũy các năm trước, BVSC vẫn duy trì mức vốn chủ sở hữu lớn, lên tới 1.067,57 tỷ đồng. Một số CTCK khác cũng có tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ lớn như: Kim Long, Âu Việt, Hải Phòng…Phân tích sơ bộ BCTC năm 2008 tóm tắt cho thấy, các CTCK thua lỗ chủ yếu do hoạt động tự doanh. BVSC phải trích lập các khoản đầu tư lên tới hơn 445 tỷ đồng, VNDirect trích 105,8 tỷ đồng, CTCK Hải Phòng trích 87,7 tỷ đồng… Sự thua lỗ của CTCK là hình ảnh chung, phù hợp với diễn biến TTCK suy giảm và kém thanh khoản trong năm 2008. Những CTCK có nghiệp vụ chính là môi giới và tư vấn cũng thua lỗ. Trường hợp CTCK Tầm Nhìn, vốn điều lệ là 25 tỷ đồng, đủ cho nghiệp vụ môi giới, nhưng sau 2 năm hoạt động, doanh thu (năm 2007 và 2008) chỉ đạt hơn 3 tỷ đồng, khoản lỗ tổng cộng lên đến hơn 13 tỷ đồng, dẫn đến vốn chủ sở hữu của công ty này chỉ còn non nửa (11,2 tỷ đồng). Một số CTCK dù đã đi vào hoạt động từ trước năm 2007, nhưng doanh thu vẫn rất khiêm tốn, thể hiện hoạt động môi giới chưa hiệu quả, như trường hợp của CTCK Nam Việt, doanh thu các năm 2007 và 2008 chỉ đạt lần lượt 30 triệu đồng và 277 triệu đồng! 9 tháng đầu năm 2009: Vượt cả dự tính! Bắt sóng phục hồi của thị trường, lợi nhuận của các công ty nhanh chóng trở lại. Đến thời điểm này nhiều công ty chứng khoán đã công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2009. Trong đó, có những con số vượt cả dự tính, nhưng không gây ngạc nhiên, khi đặt trong những chuyển biến tích cực trên của thị trường. Mặt khác, sau khi trải qua năm 2008 đầy khó khăn, cũng như trong quý 1/2009, hầu hết các thành viên đều rất thận trọng khi dự tính các mục tiêu trong năm này. Công ty Cổ phần Chứng khoán Tp.HCM (HSC) là một trong số ít thành viên có lãi năm 2008 (23,5 tỷ đồng). Năm 2009, HSC đặt mục tiêu thu lợi nhuận trước thuế khoảng 123 tỷ đồng; sau 6 tháng đầu năm, kết quả đã vượt mục tiêu với hơn 144,5 tỷ đồng. Tương tự, ngày 3/8, Công ty Cổ phần Chứng khoán Thiên Việt (TVS) thông báo đã đạt tới 150% kế hoạch lợi nhuận cả năm chỉ sau 6 tháng đầu năm. Báo cáo cho thấy lũy kế 6 tháng đầu năm của công ty này đạt hơn 29,5 tỷ đồng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chứng khoán; trong khi mục tiêu đưa ra đầu năm cho cả năm là 20 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2008. Nhưng không phải tất cả các công ty chứng khoán đều có được những kết quả khả quan như trên. Đa số các thành viên hiện chưa công bố các dữ liệu cụ thể, nhưng một số trường hợp cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn hoặc chưa tìm lại được khả năng sinh lãi. Ngày 31/7, Công ty Cổ phần Chứng khoán Hải Phòng (HASECO) công bố kết quả kinh doanh với mức lỗ 15,79 tỷ đồng trong quý 2/2009 và 6 tháng đầu năm lỗ 31,41 tỷ đồng. Nguyên nhân lỗ được giải thích là do công ty trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Tại Công ty Chứng khoán VPBank, hiện chưa có tổng kết 6 tháng, nhưng trong 5 tháng đầu năm, tổng thu nhập thuần là 16,6 tỷ đồng trong khi tổng chi phí hoạt động là 18,4 tỷ đồng… Đạt được thành quả này là do nhiều yếu tố: Trước hết, nguồn tiền bùng nổ với mức độ chưa từng có trong lịch sử, diễn ra trong tháng 5 và nửa đầu tháng 6 đã thúc đẩy doanh thu từ phí môi giới của các công ty chứng khoán tăng đột biến. Tại KLS, nếu trong quý 1 doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán chỉ khoảng 1,8 tỷ đồng, thì kết thúc quý 2 đã vọt lên hơn 9,8 tỷ đồng. Tại HSC, những con số tương ứng là từ khoảng 4,7 tỷ đồng lên hơn 30,2 tỷ đồng. Hay ở BVSC, nguồn thu từ phí giao dịch lên tới 24 tỷ đồng, tăng tới 300% so với quý 1/2009… Đó là những thuận lợi từ sự sôi động của thị trường, phân bổ cho các thành viên theo thị phần môi giới. Nhưng đó chỉ là phần nhỏ trong cơ cấu lợi nhuận. Phần lớn hơn có từ hoạt động tự doanh cùng với những khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán trước đó. Có thể thấy tại những công ty lớn, khoản hoàn nhập dự phòng nói trên trong 6 tháng đầu năm tương đối lớn, như SSI là gần 151 tỷ đồng, KLS gần 44 tỷ đồng, BVSC hơn 200 tỷ đồng… Tuy nhiên, không hẳn tất cả các công ty chứng khoán đều có chiến lược đầu tư quyết đoán để “bắt sóng” phục hồi trong thời điểm trên. Điều này đồng nghĩa với việc bỏ qua cơ hội để có thể cải thiện tình thế vẫn lỗ trong bối cảnh hồi phục chung. Từ đây, nhiều nhà đầu tư hoài nghi có tình huống một số công ty chứng khoán lỡ đợt sóng quý 2 cùng đưa ra những nhận định bi quan để “đánh xuống” thời gian gần đây. 3.3.Hạn chế về hoạt động của các công ty chứng khoán: 1. Quy đinh về vốn Theo nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định, công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh nhưng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn sẽ phải làm thủ tục tăng vốn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực. Điều này dẫn đến một tình trạng : các CTCK nếu muốn đáp ứng đủ các điều kiện về vốn theo quy định mà không gây ảnh hưởng đến thị trường thì thường cắt giảm 2 nghiệp vụ: bảo lãnh phát hành, tự doanh. Trong khi đó tự doanh chính là nghiệp vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty trong thời kì trước đó. Tuy nhiên một số công ty vẫn muốn hoạt động trên cả 4 nghiệp vụ thì phải tăng vốn. Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, khoảng 35 công ty chứng khoán thuộc diện phải tăng vốn hoặc cắt bớt nghiệp vụ đã thực hiện gần như đầy đủ. Một số công ty đang trong quá trình hoàn tất thủ tục để trình lên SSC. Vậy các công ty chứng khoán sẽ tăng vốn bằng cách nào? Huy động thêm vốn không phải là một giải pháp được lựa chọn bởi việc thực hiện cực khó, lối ra được nhiều công ty chứng khoán nghĩ đến là xin giảm bớt nghiệp vụ để phù hợp với vốn điều lệ hiện tại. Phát hành thêm cổ phiếu lúc này không có người mua trong khi cổ đông sáng lập cũng không dám bỏ thêm vào. Thêm vào đó nếu tăng vốn, công ty cũng không biết sử dụng vào mục đích gì, nếu lại đi đầu tư sẽ lỗ thêm. Việc rút bớt nghiệp vụ không ảnh hưởng gì đến thị trường bởi nhu cầu hiện tại không có. Khi thị trường khởi sắc, công ty sẽ xin tăng vốn, bổ sung nghiệp vụ cũng không Bảo lãnh phát hành chứng khoán ngốn nhiều vốn nhất (165 tỷ đồng) được nhiều công ty chứng khoán chọn cắt giảm, như các công ty Tràng An, Quốc Tế, Hà Nội, Thủ Đô, SME, Quốc Gia, Việt Tín. Thị trường hiện tập trung vào hai nghiệp vụ chính: môi giới và tư vấn đầu tư, vốn cần thiết cho hai mảng này cũng chỉ có 35 tỷ đồng muộn. Chứng khoán năm qua sụt hơn 60% giá trị, hoạt động tự doanh nhiều công ty chứng khoán thua lỗ. Do vậy, đây cũng là nghiệp vụ được các công ty chứng khoán chọn cắt giảm. Tuy nhiên, với khoản tự doanh còn tồn đọng, nếu buộc phải thanh lý ngay khi Ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận cho cắt giảm liệu sẽ tạo làn sóng bán tháo vẫn là nỗi lo của nhiều người. 2. Sự xuất hiện của sàn vàng Một sự kiện nổi lên trong hoạt động của các công ty chứng khoán những tháng đầu tiên năm 2009 là liên kết với các sàn vàng mở đại lý nhận lệnh. Tận dụng nhân lực, cơ sở vật chất, khách hàng hiện có để được thêm khoản phí môi giới hàng tháng, đây chính là lý do khiến các sàn vàng mọc lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đến cuối tháng 3/2009 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có văn bản yêu cầu các công ty chứng khoán phải tạm ngừng mở sàn vàng đề chờ văn bản hướng dẫn cụ thể. Theo đó, đối với các công ty chưa mở sàn giao dịch vàng, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu không được mở sàn giao dịch vàng cho đến khi có văn bản hướng dẫn. Đối với những sàn đã mở, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các công ty chứng khoán phải báo cáo thời gian mở sàn giao dịch vàng; hình thức pháp lý; đối tác hợp tác mở sàn; doanh số giao dịch bình quân tháng,…Trên thực tế, hơn 2 tháng kể từ ngày UBCKNN yêu cầu các công ty chứng khoán tạm ngưng mở sàn vàng, các sàn vàng không những hao hụt đi mà còn tiếp tục mọc lên mạnh mẽ. Câu hỏi đặt ra là có nên hay không trong việc cho phép mở các sàn vàng? Có rất nhiều ý kiến trái chiều nhau về vấn đề này. Nhưng theo ý kiến khách quan Trong một thời gian dài VN-Index rớt từ hơn 1.000 xuông hơn 200 điểm. Nhà đầu tư chịu thiệt hại rất lớn. Tiền mất dần trong chứng khoán buộc nhà đầu tư phải tìm cơ hội đầu tư khác để giữ lại giá trị trong điều kiện kinh tế suy giảm. Việc công ty chứng khoán mở sàn vàng cũng là mở đường thoát cho nhà đầu tư. Vậy giải pháp đưa ra là nên đưa ra để nâng cao tính kiểm soát chứ không phải cấm đoán vì các công ty chứng khoán có trăm nghìn cách để lách quy định. UBND TP.HCM đã thống nhất sẽ kiến nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính giao Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM quản lý sàn vàng tập trung tại TP.HCM, nhằm đảm bảo hoạt động an toàn và hạn chế rủi ro cho người kinh doanh. Hiện cả nước có hơn 20 sàn vàng. Người kinh doanh tại sàn có những quan ngại khác nhau khi chọn sàn vàng để kinh doanh. Rủi ro về công nghệ, tính pháp lý và tính minh bạch là vấn đề người kinh doanh quan tâm khi chọn sàn, bên cạnh tính thanh khoản cao và dịch vụ rẻ. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh để sàn vàng hoạt động một cách hiệu quả nhất. 4. Giai đoạn 3 tháng cuối năm 2009 cho đến nay 4.1. Tình hình hoạt động tổng quan Năm 2009 Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CTCK được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CTCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008. Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CTCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Năm 2010 1. Kết quả kinh doanh Quý 2-2010, nhiều doanh nghiệp thô lỗ buộc phải tạm ngừng giao dịch vì theo quy định doanh nghiệp lỗ 2 năm liên tiếp sẽ bị tạm ngừng giao dịch. Trên HOSE, đã có những công ty như Bông Bạch Tuyết (BBT), Full Power (FPC), Tribeco (TRI) và gần đây có Interfood (IFS) . Trong số 9 công ty chứng khoán công bố báo cáo tài chính quí 3 thì đã có 6 công ty công bố lỗ, các công ty còn lại lợi nhuận cũng giảm mạnh. VnEconomy cập nhật kết quả kinh doanh quý 3 và lũy kế 9 tháng năm 2010 của các công ty chứng khoán niêm yết trên HOSE và HNX. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (mã SSI-HOSE) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 349,953 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 35,85 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 103,281 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 116,042 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 1.181,32 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 đạt 146,164 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 đạt 568,456 tỷ đồng. Năm 2010, SSI thông qua kế hoạch kinh doanh với doanh thu đạt 1.254 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 1.200 tỷ đồng, cổ tức tối đa 20%/mệnh giá bằng tiền hoặc cổ phiếu. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam (mã CTS-HNX) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 32,488 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 11,295 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 8,636 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 9,4 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 126,056 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 lỗ 26,96 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 lỗ 15,22 tỷ đồng. Năm 2010, CTS đặt mục tiêu với doanh thu đạt 360 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 140 tỷ đồng, cổ tức dự kiến 12%/vốn điều lệ. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Hải Phòng (mã HPC-HNX) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 8,43 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 5,88 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 1,896 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 592,062 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 42,906 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 lỗ 42,954 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 lỗ 42,572 tỷ đồng. Năm 2010, HPC đặt mục tiêu với tổng doanh thu đạt 129,778 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 55 tỷ đồng. * Công ty Chứng khoán An Phát (mã APG-HNX) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 6,623 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 1,213 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 614,835 triệu đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 32,85 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 đạt 1,924 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 đạt 13,538 tỷ đồng. Năm 2010, APG đặt chỉ tiêu với tổng doanh thu đạt 85,071 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 37 tỷ đồng, chia cổ tức bằng tiền 17,5%. Trong báo cáo tài chính quí 3, Công ty chứng khoán Hải Phòng (HPC) cho biết doanh thu đạt được là 8 tỉ đồng, trong khi chi phí hoạt động kinh doanh lên tới 47 tỉ đồng, cộng với chi phí quản lý doanh nghiệp 4,6 tỉ đồng, khiến cho quí này, HPC lỗ 42,9 tỉ đồng. Và lỗ lủy kế đến hết 30-9 của HPC là 143 tỉ đồng. Một trong những công ty chứng khoán lớn thua lỗ trong quí 3 năm nay là Công ty chứng khoán VietinbankSc (CTS), lý do vẫn là việc doanh thu tự doanh trong quí này giảm từ mức 59,8 tỉ đồng vào cùng kỳ còn 8,6 tỉ đồng trong quí này. Trong khi chi phí tăng lên 59,45 tỉ đồng khiến lợi nhuận sau thuế quí 3 âm 26,96 tỉ đồng. Trong số các công ty đã công bố báo cáo lợi nhuận quí 3 thì Công ty chứng khoán TPHCM (HCM) vẫn có lợi nhuận sau thuế là 31,7 tỉ đồng, chủ yếu đến từ các hoạt động như hợp tác đầu tư chứng khoán, lãi tiền gửi, lãi từ hợp đồng đặt mua cổ phần… trong khi doanh thu tự doanh giảm mạnh từ 80,8 tỉ đồng xuống còn 15,5 tỉ đồng. Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) có lợi nhuận sau thuế 146,2 tỉ đồng trong quí 3. Mang lại doanh thu chính cho SSI là từ hoạt động khác chiếm 33,14% tổng doanh thu, từ hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn (tự doanh) chiếm 29,5%, hoạt động môi giới chiếm 23,6%. Theo ông Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn đầu tư tài chính, Đại học Kinh tế TPHCM thì nhà đầu tư vẫn nên cẩn trọng với các công ty công bố lãi, vì để có kết quả lợi nhuận tốt, nhiều công ty đã bán ra các danh mục tự doanh có lãi, và sau khi đã hạch toán lợi nhuận thì sẽ mua lại các mã cổ phiếu đang lỗ để trung bình giá và tránh việc trích lập nặng cho các tháng cuối năm. Nguyên nhân: Theo giải trình của các công ty thì thị trường không khởi sắc cùng với giao dịch yếu chính là nguyên nhân khiến các công ty chứng khoán gặp khó trong quí này. Bên cạnh đó, việc chi phí hoạt động kinh doanh của các công ty tăng mạnh trong quí này là do các công ty phải tăng các khoản lương và hoa hồng để môi giới mời gọi khách hàng trong tình trạng thị trường ảm đạm, thanh khoản thấp như hiện nay. Thêm vào đó là việc lạm phát tăng, cúp điện xảy ra thường xuyên, chi phí cho hoạt động cải tiến công nghệ, kỹ thuật của các sàn giao dịch cũng tăng cao so với năm 2009 khiến lợi nhuận các công ty giảm. 2. Công ty chứng khoán: Bế tắc tự doanh Tự doanh luôn là hoạt động tạo ra lợi nhuận chính của các CTCK. Sau năm 2009 khá thành công, bộ phận tự doanh của nhiều CTCK hiện đang “chết đứng”. Nhiều CTCK chuyên về tự doanh đã lỗ nặng, a, Mua dưới sàn, bán trên sàn Năm 2009, các CTCK đã tích cực tìm doanh nghiệp (DN) chưa niêm yết để tư vấn rồi mua CP giá rẻ, chờ khi lên sàn sẽ hiện thực hóa lợi nhuận. Nhưng từ đầu năm 2010, hầu hết CTCK lựa chọn chiến thuật này đã rơi vào tình trạng thua nhiều hơn thắng. Mấu chốt ở đây chính là các CTCK đã không thể dự báo được tình hình của thị trường trong khoảng thời gian mình mua CP cho đến khi lên sàn. Quản trị rủi ro kém, dự báo yếu, thua lỗ là điều không thể tránh khỏi. Trong năm 2009 đã có khá nhiều CTCK huênh hoang về khả năng tư vấn niêm yết CP của mình, hễ CP nào mình “làm” là sẽ “lên", nhưng giờ đây không ít CTCK đã phải lãnh quả đắng về sản phẩm của mình. Đầu tháng 9 vừa qua, một DN lớn trong ngành vận tải biển đã chào sàn với giá 1.8. Theo đánh giá của một số chuyên viên phân tích ngành vận tải biển, mức giá này được xem là rẻ, vì khi đó thị trường chung diễn biến không thuận lợi và ngành vận tải biển cũng đang gặp khó khăn. Trước đó, một CTCK lớn đã ra tay gom CP này với giá bình quân 1.8 và chắc mẩm đây là “giá tốt”. Nhưng với việc giá gom mua bằng với giá chào sàn, rõ ràng CTCK này rất khó có lời, nếu không muốn nói bị lỗ, vì một tổ chức lớn muốn xả hàng sẽ không hề đơn giản. Có thể nói chiến thuật hữu hiệu của các CTCK cách đây một năm đã thất bại hoàn toàn. b,Đầu tư giá trị và những rào cản Sau khi thất bại với những cách đầu tư mang tính chất ăn xổi, nhiều CTCK đang rục rịch quay trở lại với cách đầu tư giá trị, dài hạn và căn cơ hơn. Nhưng từ kỳ vọng đến thực tế, từ dự định đến triển khai đã gặp không ít rào cản, cả chủ quan lẫn khách quan. Rào cản thị trường Đầu tư giá trị là lựa chọn những CP có nền tảng cơ bản tốt, có tiềm năng trong dài hạn đang được thị trường định giá thấp để mua vào và nắm giữ trong dài hạn, nhưng đòi hỏi thời gian, công sức và trí tuệ rất nhiều. Nếu xét trên những tiêu chí này, tìm ra các thương vụ đầu tư giá trị của các CTCK trong những năm vừa qua chẳng khác nào “mò kim đáy bể”. Nửa đầu tháng 7 vừa rồi, CP C. thuộc ngành BĐS đã tăng giá mạnh từ 3.0 lên 4.0, đây là một CP được đánh giá tốt vì có quỹ đất khá dồi dào và các chỉ số định giá cũng hấp dẫn. Bên cạnh đó một quỹ có thế mạnh trong đầu tư các doanh nghiệp (DN) trong ngành BĐS cũng sở hữu một khối lượng lớn CP C. Sau khi tạo đỉnh 4.0, CP C. đã điều chỉnh giảm và quay trở lại vùng giá 2.8-3.0 vào giữa tháng 8. Có tin đồn một CTCK thuộc top 10 có thế mạnh trong mảng nghiên cứu và phân tích, đã tiến hành mua vào CP C. với giá 2.9, nhưng không lâu sau đó CP C. lại tiếp tục rớt mạnh xuống còn 2.3 nên CTCK đó bị lỗ nặng. Sau đó CP C. có tăng lên được vài phiên nhưng cũng chỉ đến hơn 2.7 là dừng và hiện chỉ còn hơn 2.0. Như đã nói ở trên, nhìn chung CP C. là một mã được nhiều CTCK đánh giá cao, thậm chí còn có cả tin đồn về việc sẽ có một khoản lợi nhuận “khủng” trong năm 2011. Như vậy, CTCP đó đã phần nào chọn đúng mục tiêu nhưng lại không lường được diễn biến của thị trường chung không thuận lợi trong tháng 8 nên đã thua lỗ. Rào cản DN Thương vụ kể trên cũng là điển hình cho xu hướng đầu tư giá trị “nửa mùa” của các CTCK hiện nay. Theo đó, các CTCK chọn những DN “được được” rồi tiến hành mua CP, sau đó bắt tay với lãnh đạo DN để bàn cách công bố thông tin tốt, rồi đánh CP tăng mạnh, dụ NĐT vô rồi xả. Khi được hỏi “giá trị” nằm ở chỗ nào, một người trong cuộc đã trả lời “giá trị” nằm ở chỗ DN cũng “được được” chứ không phải là DN không tên tuổi, nên NĐT cũng an tâm hơn. Tại sao các CTCK lại chỉ chọn DN “được được” mà không phải DN tốt? Lý do khá đơn giản, hiện tại các DN kinh doanh ổn định, có thương hiệu thường không muốn đánh bóng mình bằng việc tạo sóng CP. Tổng giám đốc một công ty trong ngành thép chia sẻ, ông thường nhắc nhở nhân viên của mình nên tạo thói quen khi CP xuống nên mua một ít, CP lên lại thì bán ra, điều này giúp cho nhân viên có thêm chút ít thu nhập, còn CP của công ty cũng duy trì được sự ổn định. Rào cản thời gian Khi xác định đầu tư trung hạn hoặc dài hạn thì thời gian mua vào và nắm giữ CP sẽ phải hơn 1 năm. Nhưng khác với các quỹ đầu tư, CTCK là một DN nên cũng có năm tài chính của mình, và như vậy cũng phải chịu sức ép về lợi nhuận, cổ tức không nhỏ. Đặt trường hợp CTCK A. đang nắm giữ CP X. được đánh giá rất tốt, có nền tảng kinh doanh ổn định, nhưng do thị trường chung không thuận lợi nên CP X. giảm giá, KQKD của CTCK A. cũng có thể bị ảnh hưởng. Lúc này lãnh đạo CTCK A. không thể đứng trước ĐHCĐ nói rằng “X. là CP tốt, chúng tôi chỉ “xui” vì thị trường không thuận lợi”. Như vậy dưới áp lực chốt sổ, định giá lại danh mục đầu tư vào cuối năm, chiến thuật dài hạn rất dễ bị thay đổi thành ngắn hạn. Hiện tại, một xu hướng đang được các CTCK nhắm tới là thành lập hẳn một công ty quản lý quỹ để có thời hạn, chiến lược đầu tư rõ ràng hơn. Nhưng cũng cần nói thêm hàng năm quỹ cũng tiến hành chốt NAV (giá trị tài sản ròng), nên nếu có thua lỗ CTCK cũng phải chịu ảnh hưởng, mà ở đây lại là ảnh hưởng kép. Bởi vì đã lập ra công ty quản lý quỹ, ngoài chuyện quản lý tiền cho CTCK, còn có thêm việc huy động và quản lý tiền cho các NĐT khác nữa. Ở đây, nếu muốn giữ NAV của mình, các quỹ có thể dùng nhiều cách khác nhau để “bùa chú”, nhưng che mắt được các cổ đông là điều không đơn giản. Chính vì vậy, khi quỹ hoạt động không thành công, CTCK vừa bị mất tiền, lại vừa mất tiếng. Thực tế cho thấy mô hình CTCK lập ra công ty quản lý quỹ không phải bây giờ mới được đề cập, nhưng cũng chỉ có rất ít CTCK thực hiện trong khi hiệu quả lại là một dấu hỏi lớn. Nói đi cũng phải nói lại, nhiều NĐT hiện thời bày tỏ quan điểm muốn CTCK đầu tư bài bản, nhưng lại đòi hỏi lợi nhuận phải cao trong tức khắc - đó là điều không tưởng. Như vậy, các CTCK đang chuyển hướng từ đầu tư “chụp giật” sang giá trị sẽ phải tái cấu trúc rồi sau đó mới có thể chỉnh đốn chiến lược của mình, như vậy sẽ mất một khoảng thời gian không nhỏ. Hệ quả phải chịu là lợi nhuận thấp, CP có thể bị ghẻ lạnh, nhưng đó là điều CTCK phải chấp nhận để có thể làm mới mình. 3. Các công ty chứng khoán đang tìm mọi cách cố gắng duy trì hoạt động và chờ thị trường ấm lên. Còn nhớ vào đầu năm 2009, khi thị trường khó khăn, các công ty chứng khoán (CTCK) lại phải thực hiện yêu cầu tăng vốn pháp định mới được thực hiện các nghiệp vụ tương ứng, nên nhiều CTCK đã nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh, bởi theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh nghiệp là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình huy động vốn khó khăn. Hiện tại, tuy không có những CTCK xin “cắt bớt chân tay” như đầu năm ngoái, nhưng tình cảnh cũng chẳng khác bao nhiêu. Thị trường ảm đạm kéo dài, cổ phiếu mất giá, nhiều mã giảm sâu so với giá trị sổ sách, khiến CTCK nào càng tự doanh nhiều thì  càng lâm vào khó khăn. Việc CTCK VincomSC công bố đóng cửa sàn giao dịch tại Hà Nội hay việc chuyển danh mục của Vietnam Dragon Fund (VDF) sang Quỹ Tín thác Dragon Capital Vietnam Fund (DCVNF) mới chỉ được xem là những tín hiệu ban đầu về tình cảnh khó khăn của các CTCK hiện nay. Trên thực tế, các CTCK đều nỗ lực tìm mọi cách để duy trì hoạt động và chờ thị trường ấm lên. Để giảm bớt gánh nặng, nhiều CTCK đã phải cắt giảm nhân sự, đóng cửa các đại lý nhận lệnh, thu hẹp diện tích hoặc chuyển sàn ra khỏi khu vực trung tâm để giảm bớt chi phí. Một CTCK đang thuê mặt bằng gần trung tâm Hà Nội, với giá lên đến 50 USD/m2/tháng, đang đôn đáo tìm mặt bằng mới. Theo một giám đốc CTCK, các CTCK tự doanh đang khó xử lý với nguồn cổ phiếu nắm giữ, bởi thị trường quá ảm đạm, cổ phiếu mất giá, để không đành mà bán cũng… không xong, vì thanh khoản hiện không tốt. Chưa kể, nhiều công ty dùng đòn bẩy tài chính, cho nhà đầu tư vay mua cổ phiếu, nay cổ phiếu mất giá, hết ngưỡng thì công ty phải giải chấp, ôm về thêm một đống cổ phiếu nữa. Ông Hoàng Xuân Quyến, Tổng giám đốc CTCK Liên Việt (LVS) cho biết, vào thời điểm này, các CTCK có quy mô nhỏ và vừa, ít đầu tư cổ phiếu trong thời điểm thị trường “nóng” sẽ an toàn hơn do không bị gánh nặng tự doanh. Tuy vậy, các công ty này cũng phải xoay xở để duy trì hoạt động, ổn định bộ máy. Lãnh đạo một CTCK nhỏ khác cho rằng, thị trường lúc này đòi hỏi các CTCK phải có nền tảng tốt, không chỉ trông chờ vào những cuộc mua bán “nóng” để thu lợi như lúc thị trường sôi động. “Nền tảng tốt không chỉ là bộ máy gọn, hiệu quả, nghiệp vụ tốt, mà còn là sức mạnh tài chính của các cổ đông. Lúc này, các CTCK có các ngân hàng hay doanh nghiệp đại gia đứng đằng sau “chống lưng” cho là “khỏe” nhất”, lãnh đạo một CTCK tiết lộ. Được biết, CTCK này hiện có một số phòng chỉ có Trưởng phòng mà không có… nhân viên! Trong bối cảnh hiện nay, các CTCK có lẽ sẽ tiếp tục “thu mình”, nếu không muốn “lặng lẽ ra đi”. 4.Nhà đầu tư nhỏ bán tháo, đại gia gom vào Trong khi thị trường vàng sôi động thì TTCK lại đìu hiu, èo uột với một sự hạn chế về dòng tiền và số lượng lớn cổ phiếu niêm yết. Càng nhảy vào càng thua lỗ, đó là tình trạng chung của nhiều NĐT nhỏ lẻ. Chính vì thế, nhiều người đã sớm chuyển sang kênh đầu tư mới là vàng, một số khác lại chấp nhận án binh bất động, đợi thời cơ mới, hoặc bán tháo để chấp nhận cắt lỗ. Thế nhưng, ngược lại, những đại gia hàng đầu của sàn chứng khoán Việt lại công bố mua thêm một lượng lớn cổ phiếu để tăng tỷ lệ sở hữu tại tổ chức mà họ đang làm chủ tịch hội đồng quản  trị. Cụ thể: giữa tháng 11, thời điểm giá của nhiều cổ phiếu ở mức thấp nhất trong vòng 1 năm trở lại đây, 2 đại gia của sàn chứng khoán Việt Nam công bố mua thêm một lượng lớn cổ phiếu của công ty họ đang làm chủ tịch. Đó là trường hợp ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) công bố mua thêm 1 triệu cổ phiếu SSI. Song song với thời điểm mua cổ phiếu của ông Hưng, ông Hà Văn Thắm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Đại Dương (OGC) cũng công bố mua thêm 2 triệu cổ phiếu OGC. Trước đó, ông Thắm sở hữu gần 80 triệu OGC và dự kiến nằm trong danh sách 10 người giàu nhất sàn chứng khoán Việt năm 2010. Ngoài ra, còn có thể điểm danh những nhân vật "ông lớn" trên sàn chứng khoán mua vào như ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng quản trị Sacombank cũng công bố hoàn thành việc mua thêm 2 triệu cổ phiếu của ngân hàng này, nâng tỷ lệ sở hữu từ 26 triệu lên 28 triệu cổ phiếu. Hay như Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Chứng khoán Âu Việt (AVS) - ông Đoàn Đức Vịnh, đã công bố mua thêm 6,75 triệu AVS, nâng số cổ phiếu sở hữu lên 7,66 triệu… 4.2 Bất cập 1. Thao túng giá Với tư cách là Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, khi trực tiếp đi khảo sát thực tế tại một số CTCK phục vụ cho quá trình thẩm tra Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, TS. Trần Du Lịch, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP. HCM nhìn nhận, tình trạng thao túng giá chứng khoán gây lũng đoạn thị trường đang là "căn bệnh" nguy hiểm nhất của TTCK hiện nay. Để cạnh tranh trong tình hình hiện nay, các sàn giao dịch chứng khoán đã bất chấp tất cả và người chịu thiệt hại đầu tiên là những nhà đầu tư chân chính. Vụ ông Lê Văn Dũng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Cty cổ phần dược phẩm Viễn Đông - vừa bị bắt về hành vi thao túng giá chứng khoán chỉ như hồi chuông cảnh báo cho các đối tượng đã, đang có những hành vi này. - Bất chấp sự nguy hiểm cho chính mình Trong tình hình thị trường chứng khoán (CK) đang ảm đạm như hiện nay, thì sự cạnh tranh trong việc chia thị phần môi giới ngày càng thêm phần quyết liệt. Điều đó khiến các Cty CK không ngần ngại áp dụng mọi biện pháp, kể cả những biện pháp không được luật cho phép như: Nhà đầu tư được sử dụng đòn bẩy tài chính với mức ký quỹ 10% nhưng được hỗ trợ tới 90%; cho phép nhà đầu tư bán khống chứng khoán (bán cổ phiếu nhưng không có hàng); không có tiền ký quỹ nhưng vẫn được phép mua hàng (nguyên tắc là phải có tiền trong tài khoản mới được phép đặt lệnh mua). Thậm chí, để che mắt các cơ quan chức năng, Cty chứng khoán còn tạo tiền khống trên tài khoản, sau đó (có thể từ 1- 60 ngày) nhà đầu tư mới nộp tiền cho Cty chứng khoán... Chính những việc làm này đã ảnh hưởng rất xấu tới thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam và làm méo mó cả thị trường vốn rất cần minh bạch. Việc một số Cty chứng khoán sử dụng đòn bẩy tài chính cho nhà đầu tư với tỉ lệ tối đa lên tới 90% tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về thanh khoản cho thị trường chứng khoán cũng như thị trường tiền tệ. Thực tế đã có nhiều Cty chứng khoán mất thanh khoản khi thị trường đi xuống quá nhanh. Nhưng các Cty chứng khoán này vẫn bất chấp, vẫn sử dụng đòn bẩy tài chính này như một biện pháp quan trọng để thu hút nhà đầu tư. Mặt khác, các nguồn tiền này lại không minh bạch khi được chính các ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các Cty tài chính đẩy vào thị trường chứng khoán. Ngoài các nguồn tiền chính thức của mình, các Cty chứng khoán còn lợi dụng nguồn tiền cân quỹ của khách hàng gửi tại Cty chứng khoán (thường có tổng số dư chưa sử dụng từ nhân làm một số Cty chứng khoán mất khả năng thanh khoản khi các khách hàng đồng thời sử dụng hết các nguồn tiền gửi trong tài khoản. 2.Bán khống cổ phiếu Án phạt tiền 70 triệu đồng được Ủy ban chứng khoán (SSC) đưa ra với Công ty chứng khoán Nhấp và Gọi sau khi phát hiện tổ chức này cho phép khách hàng bán khống cổ phiếu vào đầu năm 2010. Mức phạt nói trên từng được SSC áp dụng với Công ty chứng khoán An Thành vào cuối tháng 5/2010 với vi phạm tương tự. 70 triệu đồng cũng là mức phạt cao nhất theo quy định hiện hành (Nghị định 36/2007/NĐCP) đối với vi phạm của Công ty chứng khoán khi cho phép khách hàng thực hiện lệnh khi không có đủ tiền hoặc chứng khoán. 3.Tính minh bạch - Tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý. - Chuyện DN "làm đẹp" bản cáo bạch, thông tin tài chính trước khi công bố ra công chúng là một thực tế nhức nhối trên TTCK hiện nay. Trường hợp Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vừa đình chỉ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng của CTCP Dược phẩm Viễn Đông (DVD) do DN này đưa vào Bản cáo bạch chào bán cổ phiếu một số thông tin sai lệch và bỏ sót các thông tin quan trọng, gây hiểu lầm và ảnh hưởng đến quyết định của NĐT… là một ví dụ. - Thông tin về tài khoản của nhà đầu tư (kể cả các CTCK có chức năng tự doanh), trong có có thông tin về danh mục đầu tư, là những thông tin mật, chỉ được phép tiết lộ khi có yêu cầu của các cơ quan thực thi pháp luật. Thế nhưng, một bảng thống kê tập hợp danh mục đầu tư và các khoản tự doanh hàng ngày của 40 CTCK trong tháng 2, 3 và đầu tháng 4 lại được chễm chệ nằm trên diễn đàn của một câu lạc bộ đầu tư đều đặn hàng ngày vào lúc 3 giờ chiều, dưới dạng tập tin excel. Tại sàn giao dịch của một CTCK, sau giờ giao dịch hoặc đầu giờ mỗi buổi chiều, một bảng thống kê giao dịch từ các tài khoản tự doanh của các CTCK cũng được phân phối hàng ngày cho các nhà đầu tư. => Thực tế này là một dấu hỏi lớn của dư luận đặt ra cho các cơ quan quản lý có liên quan về tính minh bạch của thị trường, quy trình bảo mật các thông tin nhạy cảm của các cơ quan quản lý! Muốn thị trường phát triển minh bạch thì UBCKNN chỉ nên kiểm soát chặt các công ty chứng khoán, kiểm tra những dấu hiệu bất thường xảy ra với thị trường và đặc biệt hạn chế các công ty tham gia vào việc làm giá cùng các DN. Đây là ý kiến của TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính với DNSGCT trước việc thị trường chứng khoán (TTCK) thời gian qua liên tục xuất hiện những nghi vấn về "làm giá chứng khoán", với đủ các chiêu thức từ đơn giản tới tinh vi. III-Giải pháp cho các công ty chứng khoán: Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ công ty chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung như: Hoàn chỉnh hệ thống quy phạm pháp luật, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của các CTCK. Nghiên cứu xem xét xây dựng văn bản hướng dẫn đối với nghiệp vụ Repo, Margin theo tình hình phát triển của thị trường và khả năng quản lý rủi ro của CTCK. Nâng cao vai trò của ủy ban chứng khoán nhà nước. Đặc biệt bộ phận giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải được tăng cường để hoạt động chặt chẽ hơn. Nghiên cứu điều chỉnh các chính sách đối với các CTCK và thị trường chứng khoán như: Đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Khuyến khích các CTCK đầu tư vào công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao công tác quản trị điều hành và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng của các CTCK. Mở rông các kênh thông tin cho các nhà đầu tư. Tăng việc tổ chức thông tin minh bạch, tăng thêm nhiều cơ quan ngôn luận chuyên ngành để mổ xẻ, phân tích thị trường một cách sát sườn. Có chính sách và hành lang pháp luật hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài. Tăng cường quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của CTCK trên cơ sở phân loại các tiêu chí rủi ro để có phương án xử lý phù hợp; tăng cường hoạt động giám sát thực thi và xử lý vi phạm đối với các CTCK.Yêu cầu các CTCK đảm bảo chỉ tiêu an toàn tài chính theo quy định và tăng cường công tác kiểm tra việc thực thi này. Có biện pháp nhằm tránh hiện tượng đầu cơ thao túng thị trường. cơ quan quản lý cần đưa ra những công vụ soi giá xuống, giá lên một cách nhanh nhất để hạn chế việc bán khống của các nhà đầu tư, khi đó vi phạm sẽ giảm dần. Có chính sách thuế thu nhập chứng khoán một cách hợp lý và có lộ trình phù hợp. Về phía CTCK Về nguồn vốn(chủ yếu đối với các công ty vừa và nhỏ) Nâng cao vốn chủ sở hữu Thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Đảm bảo khả năng kinh doanh và sinh lời Biện pháp thực hiện Hợp nhất Sáp nhập Kêu gọi các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. => Trước hết cần phải đảm bảo được nguồn vốn của mình, có thế mới có thể đảm bảo cho được khả năng kinh doanh và sinh lợi . Để đạt được mục đích này có thể đề ra nhiều giải pháp như: * Hợp nhất, Sáp nhập các công ty chứng khoán để tăng vốn chủ sở hữu. Trên thực tế, các nhà chuyên môn cho rằng một làn sóng hợp nhất, sáp nhập các công ty chứng khoán đang dần dần hình thành khi nhiều công ty đang đứng trên bờ vực giải thể như hiện nay. * Các công ty chứng khoán cũng có thể kêu gọi các nhà đầu tư để tăng lượng vốn của công ty. Nhiều công ty chứng khoán đã bắt đầu chào bán cổ phần mình cho các nhà đầu tư cả trong nước và ngoài nước. Điển hình là công ty chứng khoán Gia Anh đã rao bán đến 80% cổ phần của mình ra thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, khi thực hiện biện pháp này cần phải chú ý đến các chính sách kinh tế vĩ mô, tránh hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt nhảy vào, lũng đoạn thị trường Việt Nam. Về nhân lực và công nghệ Nâng cao khả năng chuyên môn từng bộ phận Xem xét lại cơ cấu tổ chức, lãnh đạo, điều hành công ty Nâng cấp công nghệ => Bên cạnh vấn đề vốn, nhân lực và công nghệ cũng là vấn đề then chốt. Không chỉ phải tự mình nâng cao khả năng chuyên môn trong từng nghiệp vụ, các công ty chứng khoán cũng cần phải xem xét lại vấn đề tổ chức nhân sự và bộ máy điều hành để phù hợp nhất để phát triển, tiết kiệm được chi phí điều hành và hoạt động của công ty. Một số công ty chứng khoán lớn (như SSI) cũng đã bắt đầu thực hiện những thay đổi trong bộ máy lãnh đạo cấp cao. Ngoài ra, các công ty cũng cần nâng cấp hạ tầng cơ sở của chính mình để có thể cung cấp đến nhà đầu tư những dịch vụ tốt nhất. Gần đây, công ty chứng khoán FPT đã đưa ra thử nghiệm dịch vụ giao dịch trức tuyến và được nhiều nhà đầu tư ủng hộ. Về nghiệp vụ tự doanh: Nâng cao khả năng kinh doanh của CTCK Xem xét lại các khoản mục đầu tư Tận dụng lợi thế thông tin để nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư => Xem xét đến các nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, có thể thấy rằng chúng ta cần nhanh chóng chấn chỉnh hoạt động tự doanh. Bằng các biện pháp khác nhau như xem xét cắt giảm các khoản mục đầu tư không sinh lợi, tận dụng lợi thế của mình trong việc tiếp cận thông tin, các công ty chứng khoán cần tự mình nâng cao khả năng kinh doanh, không để trường hợp thua lỗ kéo dài Về nghiệp vụ môi giới chứng khoán Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời Có chính sách thích đáng về chi phí môi gới Mở thêm các dịch vụ giá trị gia tăng. => Về nghiệp vụ trung gian môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán cần đặt lợi ích của khách hàng lên trên hết, vì lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của công ty. Để làm được việc này trước hết cần cung cấp cho khách hàng những thông tin đầy đủ và kịp thời nhất. Tiếp đó, Chính sách về chi phí giao dịch cũng cần được quan tâm. Nhiều công ty gần đây đã đưa ra những chính sách rất hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư và cũng đã mang lại hiệu quả bước đầu. Ngoài ra, sự phong phú của các dịch vụ cũng là một yếu tố được nhà đầu tư trông chờ ở các công ty chứng khoán. Sự linh hoạt trong việc đưa ra các gói dịch vụ sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, từ đó tăng doanh thu cho công ty. Về nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán Xây dựng đội ngũ nhân viên tư vấn chất lượng cao Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. => Đối với nghiệp vụ tư vấn chứng khoán, vấn đề con người và công nghệ thông tin lại được đặt ra. Các công ty cần xây dựng được cho mình đội ngũ nhân viên tư vấn có chất lượng cao, cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời nhất. Để làm được việc này, một chính sách thu hút nhân tài hấp dẫn và một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại là không thể thiếu. Không những thế. Công ty chứng khoán cần có được cái nhìn tổng quan nhất về thị trường và các công ty có niêm yết trên thị trường chứng khoán để có thể tư vấn cho các nhà đầu tư một cách có hiệu quả nhất. Về nghiệp vụ tư vấn bảo lãnh phát hành Xem xét cẩn trọng các công ty có nhu cầu phát hành chứng khoán, tránh những rủi ro có thể phát sinh. Đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện hoạt động bảo lãnh. => Cuối cùng là nghiệp vụ tu vấn bảo lãnh phát hành chứng khoán. Để có thể làm tốt nghiệp vụ này, cần phải có sự tìm hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng các công ty có nhu cầu niêm yết, đồng thời xem xét tình hình thị trường để có thể đưa ra lời khuyên tốt nhất cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng là tránh được rủi ro cho bản thân công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, các công ty cũng cần đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện nghiệp vụ này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan