Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Tính cấp thiết của đề tài Giao thông vận tải thuỷ nội địa là một trong những lĩnh vực rất quan trọng của giao thông vận tải, góp phần phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt với tổng chiều dài trên 1.700 km gồm 324 tuyến sông, kênh, rạch lớn nhỏ với 06 cảng sông, 07 bến tàu khách và tàu du lịch, hàng ngàn bến bãi, kho hàng, hàng ngàn phương tiện vận tải thuỷ thường xuyên hoạt động. Điều kiện tự nhiên của hệ thống sông, kênh, rạch thành phố Hồ Chí Minh rất thuận lợi cho việc khai thác kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ. Do vậy vận tải thuỷ trở thành một trong những ngành kinh tế huyết mạch góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của thành phố và của cả khu vực phía Nam. Bên cạnh đó, tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa bàn gây án, địa bàn tiêu thụ và địa bàn ẩn náu của các loại tội phạm lợi dụng tuyến đường thuỷ để hoạt động. Thời gian qua nổi lên là tình hình buôn lậu xăng dầu, kim khí điện máy, vận chuyển hàng cấm (thuốc lá ngoại); tình hình các băng, ổ, nhóm sử dụng phương tiện ghe, xuồng để trộm cắp, cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt tài sản trên tàu, ghe, ở các cảng sông, kho hàng và nhà dân sống ven sông. Hoạt động của các loại tội phạm đa dạng, phương thức thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hoạt động lưu động liên tuyến, liên tỉnh. Trong những năm vừa qua, nhất là từ năm 2002 trở lại đây, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực tổ chức điều tra, khám phá và xử lý kịp thời nhiều vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Song qua nghiên cứu nhận thấy hoạt động điều tra khám phá các vụ án này gặp nhiều khó khăn, hiệu quả điều tra khám phá thấp, tỷ lệ điều tra khám phá chưa cao. Chính vì vậy mà hoạt động của tội phạm xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông này vẫn không giảm, thậm chí còn có một số tội phạm tiếp tục phát triển, gây ra thiệt hại ngày càng lớn cho các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp và nhân dân ở trong vùng, một số vụ đã gây hoang mang lo sợ, làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tình hình này đã tác động xấu đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nư¬ớc ta nói chung. Từ những lý do trên, việc nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là một đòi hỏi hết sức cấp bách nhằm góp phần đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội của thành phố Hồ Chí Minh và của cả nư¬ớc. Từ tr¬ước đến nay, mặc dù đã có một số đề tài nghiên cứu về công tác điều tra tội phạm xâm phạm sở hữu ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống theo góc độ điều tra tội phạm về công tác điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế tôi đã chọn nghiên cứu đề tài : “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”.

doc189 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2715 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực, thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ của mình tong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, các cơ quan này vẫn còn những nhược điểm tồn tại cần khắc phục trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động phòng ngừa tội phạm. Đó là việc quản lý, điều hành chưa được chặt chẽ, triệt để, chỉ đạo mang tính hình thức quan liêu; còn tư tưởng cho rằng phòng ngừa tội phạm là chức năng nhiệm vụ của ngành Công an vì vậy đã phó mặc cho cơ quan Công an; việc phối kết hợp chưa đãm bảo đồng bộ thống nhất. Tình trạng đó làm cho mọi người chưa nhận rõ vai trò điều hành và quản lý của các cơ quan thuộc chính phủ và Uỷ ban nhân các cấp trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. 4.4 Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch... Các cơ quan này có vai trò to lớn trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Với tính cách là chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm, chức năng chính của các tổ chức này là quản lý và tổ chức hoạt động của lĩnh vực mình theo nhhiệm vụ chuyên môn: tổ chức kinh tế (xí nghiệp, công ty tập thể lao động...) tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá cơ sở vật chất của xã hội; cơ quan văn hoá phát triển cơ sở văn hoá, nâng cao giá trị tinh thần; cơ quan giáo dục: đào tạo, giáo dục con người...thông qua hoạt động này, những chủ thể trên đã tích cực tham gia trong hoạt động phòng ngừa chung, phòng ngừa xã hội phát triển kinh tế, nâng cao trình độ văn hoá toàn dân, giáo dục con người mới. Mặt khác, quán triệt quan điểm “chủ động phòng ngừa đi đôi với bảo vệ sản xuất”, “xây dựng và bảo vệ an toàn nội bộ, cơ quan” trong các tổ chức đã được tiến hành hoạt động phòng ngừa phù hợp với nhiệm vụ chức năng của mình. Cụ thể là: - Nghiên cứu phát hiện nghuyên nhân và điều kiện phạp tội, những sơ hở thiếu sót tạo nên khả năng phát sinh và phát triển tội phạm trong mỗi lĩnh vực và đề ra các biện pháp phòng ngừa (cơ quan văn hhoá không để phát hành những ấn phẩm văn hoá đồi truỵ...) - Đề ra những quy định thích hợp trong hoạt động của lĩnh vực mình, tham mưu cho Đảng và Nhà nước có những phương hướng, biện pháp chính sách: đúng đắn phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực đó. - Xây dựng các phương án phòng ngừa, các tổ chức phòng ngừa tội phạm mang tính chất quần chúng, bán chuyên trách trong cơ quan, tổ chức và sử dụng có hiệu quả lực lượng này trong đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. - Làm tốt công tác quản lý con người, tài sản trong các cơ quan, xí nghiệp, công ty, doanh nghiệp của mình. 4.5. Các tổ chức xã hội và tổ chức quần chúng tự quản. Các tổ chức xã hội được Hiến pháp Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó như tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ... là cơ sở chính trị, chổ dựa vững chắc của Nhà nước (Điều 9 – Hiến pháp 1992) có vị trí quan trọng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Hoạt động của các tổ chức này trong phòng ngừa tội phạm là: Phối hợp và hổ trợ các cơ quan chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn của các ngành soạn thảo, tham gia xây dựng các kế hoạch phòng ngừa tội phạm; trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa cụ thể ở địa bàn, khu vực. 4.6 . Các công dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên phòng ngừa tội phạm cũng là sự nghiệp của quần chúng, thực tiển hoạt động phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trên cơ sở quy định của hiến pháp 1992 về quyền và nghĩa vụ của công dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự kết hợp với tinh thần làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực phòng chống tội phạm, với tính cách là chủ thể phòng ngừa tội phạm, các cá nhân công dân phải: Thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của công dân đã được Hiến Pháp 1992 quy định. Tích cực tham gia vào các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Tích cực, kịp thời phát hiện tội phạm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và cho chính quyền. Bằng các biện pháp, các hình thức tác động cảm hoá giáo dục những người phạm tội, những người có quá khứ lầm lỗi. Phối hợp giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội thực hiện tốt: “ Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”. Có trách nhiệm quản lý giáo dục các thành viên trong gia đình không đi vào con đường phạm tội. Đoàn kết tích cực tham gia xây dựng cuộc sống mới nơi cư trú. 4.7. Các cơ quan bảo vệ pháp luật Công an, Viện kiểm sát, Toà án… Hệ thống các cơ quan này bao gồm: Công an, Toà án, Viện kiểm sát, Tư pháp… có chức năng chung là đấu tranh chống tội phạm và tham mưu cho các cấp Uỷ Đảng và chính quyền đề ra các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực bảo vệ An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các cơ quan này có những hoạt động chung trong phòng ngừa tội phạm như sau: Nghiên cứu, phân tích tình trạng tội phạm, xác định nguyên nhân điều kiện của nó, soạn thảo, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Sử dụng các biện pháp theo luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức nặng cụ thể để tiến hành phòng ngừa tội phạm. Làm lực lượng nòng cốt, xunh kích trong việc phối hợp hướng dẫn các lực lượng thuộc cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân trong quá trình hoạt động phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, mỗi lực lượng trong các cơ quan chuyên trách nói trên lại có những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình trong phòng ngừa tội phạm. Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật thì cơ quan Công an là lực lượng tham gia trực tiếp và rộng rãi công việc phòng ngừa tội phạm hơn cả. Bởi vì nó giữ vai trò là lực lượng nòng cốt, xunh kích trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị, và trật tự an toàn xã hội, cơ quan Công an có lợi thế về lực lượng, phương tiện nghiệp vụ trong phòng ngừa tội phạm. Sử dụng các biện pháp quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội, các lực lượng Cảnh sát khu vực, Cảnh sát trật tự nắm vững nhân khẩu, hộ khẩu, tình hình diễn biến các loại đối tượng, quản lý nghề nghiệp, phương tiện đặc biệt, xây dựng trật tự nếp sống mới… qua đó có thể phát hiện nguyên nhân điều kiện phạm tội, đối tượng cụ thể. Lực lượng cảnh sát Điều tra và An ninh điều tra ở các cấp và các địa phương bằng các biện pháp tố tụng và nghiệp vụ có khả năng làm rõ những nguyên nhân, điều kiện của mỗi loại tội phạm, phòng ngừa ngăn chặn kịp thời những tội phạm có thể xảy ra. Lực lượng Cảnh sát hình sự, Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát phòng, chống ma tuý, An ninh kinh tế, văn hoá tư tưởng… tiến hành nắm vững các điạ bàn, quản lý chặt chẽ các đối tượng trong các cơ quan và ngoài xã hội bằng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, tiến hành ngăn chặn kịp thời những kẻ có ý định phạm tội. Đấu tranh là giảm các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm…nhằm góp phần xoá bỏ các nguyên nhân điều kiện của tội phạm. Lực lượng Cảnh sát giao thông quản lý trật tự an toàn giao thông, quản lý phương tiện và đội ngũ người sử dụng phương tiện giao thông, tuyên truyền giáo dục mọi chủ phương tiện giao thông và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh và tôn trọng luật lệ giao thông. Đó là biện pháp phòng ngừa tích cực trước hết để làm giảm tai nạn giao thông trên tất cả các lĩnh vực giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và tham gia tích cực xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trên lĩnh vực này. Trong tình hình hiện nay, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào phòng ngừa tội phạm đang là yêu cầu cấp bách với lực lượng công an. Các lực lượng kỹ thuật nghiệp vụ trong ngành công an đang cố gắng áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và những phương tiện kỹ thuật tiên tiến hiện đại trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, nhất là trong hoạt động theo dõi giám sát, điều tra khám phá thu thập chứng cứ về hoạt động của bọn tội phạm, bảo vệ an toàn cho các mục tiêu kinh tế, chính trị của đất nước. Công tác phòng cháy chữa cháy được thực hiện theo phương châm phòng hoả hơn cứu hoả. Lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy tích cực tuyên truyền vận động nhân dân làm nồng cốt công tác chữa cháy hướng dẫn công tác phòng chống cháy ở các cơ quan xí nghiệp và địa bàn dân cư, đặc biệt là các thành phố lớn, trung tâm đô thị, các siêu thị. Đối với những người phạm tội, tuỳ theo mức độ nặng nhẹ và căn cứ vào chính sách xử lý của Nhà nước, lực lượng cảnh sát tiến hành giáo dục cải tạo họ tại các trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng… nhằm đưa họ trở về với cộng đồng, trở thành những công dân có ích cho xã hội. Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Công an luôn luôn gắn liền với hoạt động điều tra tội phạm đồng thời gắn liền với việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các cơ quan của Viện kiểm sát tiến hành phòng ngừa tội phạm theo chức năng nhiệm vụ của mình. Cụ thể là: Tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động điều tra xét xử, thi hành án, giam giử, thực hiện quyền công tố trong các phiên toà, tổ chức phối hợp phòng ngừa tội phạm giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan Nhà nước khác, tuyên truyền pháp luật phát hiện những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tội phạm; kiến nghị các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội nhằm khắc phục những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tội phạm. Toà án nhân dân các cấp, thông qua hoạt động xét xử bằng việc làm sáng tỏ bản chất thực sự của vụ án. Tính chất mức động sai phạm của người phạm tội, mức độ tham gia của các người khác mà quyết định hình phạt được đúng người, đúng tội công bằng nghiêm minh. Thông qua hoạt động xét xử Toà án còn kiến nghị với các cơ quan nơi mà tội phạm xảy ra để có những biện pháp ngăn chặn, loại trừ những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tội phạm. Các cơ quan thuộc Bộ tư pháp đưa ra những sáng kiến pháp luật và trực tiếp tham gia vào việc xây sựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhất là pháp luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm. Thông qua hoạt động quản lý công tác thi hành án các cơ quan thi hành án của Bộ Tư pháp góp phần tích cực vào việc phòng ngừa tội phạm. 5. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa tội phạm là một hoạt động thực tế rất đa dạng và phong phú vì vậy phải xem xét nó theo quan điểm hệ thống, khoa học. Có nhiều cách hình dung khác nhau về hệ thống phòng ngừa tội phạm. Ví dụ: xem xét phòng ngừa tội phạm như một hệ thống gồm có lý luận và các biện pháp phòng ngừa cụ thể, xem xét hoạt động phòng ngừa tội phạm như một hoạt động của công tác quản lý xã hội, soạn thảo ra quyết định về phòng ngừa tội phạm và tổ chức thực hiện các quyết định đó theo tính chất của đối tượng phòng ngừa: theo tính chất của đối tượng phòng ngừa tội phạm có thể có hệ thống phòng ngừa tội phạm mà trong đó bao gồm các biện pháp hướng đến phòng ngừa từng loại, từng nhóm tội phạm như phòng ngừa tội phạm sử dụng bạo lực, phòng ngừa tội phạm của người chưa thành niên, phòng ngừa tội phạm kinh tế. Ơ đây chỉ trình bày hệ thống phòng ngừa tội phạm mang tính khái quát nhất, đó là hệ thống theo giới hạn về quy mô, phạm vi và đối tượng tác động của hoạt động phòng ngừa. Hệ thống này bao gồm hai mức độ khác nhau: phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng ngừa riêng (phòng ngừa chuyên môn). Hai mức độ này tạo thành hệ thống phòng ngừa tội phạm, có quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau. Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá, giáo dục…được thực hiện trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Thực chất đó là quá trình giải quyết những mâu thuẫn xã hội, các vấn đề khó khăn phức tạp, khắc phục những nhược điểm thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội. Quá trình này tạo ra những tiền đề vật chất, tư tưởng tinh thần nhằm xoá bỏ những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tội phạm. Ngày nay, nhân dân ta đang ra sức thực hiện thắng lợi những phương hướng phát triển kinh tế xã hội theo con đường CNXH mà Cương lĩnh của Đảng đã vạch ra nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phòng ngừa riêng (phòng ngừa chuyên môn) là việc áp dụng các biện pháp mạng tính đặc trưng chuyên môn của từng ngành, từng lực lượng để tập trung phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa từng nhóm tội phạm cũng như phòng ngừa những hành vi phạm tội cụ thể. Đặc trưng của phòng ngừa riêng có đặc điểm là quy mô sử dụng biện pháp hẹp hơn so với phòng ngừa xã hội, các biện pháp mạng tính thiết thực, chuyên môn rõ rệt và nhằm vào những đối tượng cụ thể. Ví dụ: giáo dục luật lệ giao thông do Cảnh sát giao thông tiến hành nhằm mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật trên lĩnh vực giao thông hoặc lực lượng Cảnh sát hình sự phòng ngừa tội phạm hình sự theo chức năng, nhhiệm vụ của mình như làm tốt công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi… Mối quan hệ tác động của hai mức độ trong hệ thống phòng ngừa tội phạm thể hiện ở chổ làm tốt công tác phòng ngừa xã hội tạo cơ sở nền tảng thực tiễn cho hoạt động phòng ngừa chuyên môn. Ngược lại phòng ngừa chuyên môn tốt giải quyết các vấn đề cụ thể có hiệu quả sẻ góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa chung. Tội phạm là một hiện tượng xã hội hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng, tác động của nhiều yếu tố. Do đó, để phòng ngừa tội phạm chúng ta cần phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau cả về hình thức mức độ, phạm vi khác nhau. Khi nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa tội phạm, dựa vào các tiêu chí khác nhau chúng ta có thể phân loại thành các hệ thống biện pháp phòng ngừa sau: 5.1. Theo nội dung tác động của phòng ngừa tội phạm. Có thể chia biện pháp phòng ngừa tội phạm thành các biện pháp như sau: Biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục tư tưởng, biện pháp tổ chức biện pháp pháp luật… Sử dụng các biện pháp kinh tế trong phòng ngừa tội phạm là quá trình tác động của Nhà nước, xã hội và công dân đến sản xuất và bảo vệ sản xuất, đảm bảo các chế độ sở hữu, quản lý và phân phối sản phẩm một cách dân chủ, công bằng. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong phòng ngừa tội phạm, bởi vì một trong những nguyên nhân của tội phạm chính là do nghèo đói bần cùng, sự quản lý kinh tế lỏng lẻo và thiếu công bằng xã hội. Đối với nước ta hiện nay điều đó càng có ý nghĩa khi trong xã hội nền kinh tế còn thấp kém, vấn đề quản lý trong kinh tế thị trường còn nhiều sơ hở…Vì vậy, bằng những biện pháp mạng tính chất kinh tế như đãm bảo nâng cao đời sống của các tầng lớp xã hội, quản lý chặt chẽ cơ sở vật chất, phân phối sản phẩm công bằng là một trong những cơ sở quan trọng để loại trừ nguyên nhân điều kiện của tội phạm. Để nâng cao hiệu quả biện pháp này cần phải làm tốt công tác kiểm toán, kiểm kê, bảo vệ, thanh tra, kiểm tra phát hiện bịt kín những sơ hở thiếu sót, xử lý nghiêm khắc những người có lỗi và bắt bồi thường thiệt hại. Nhóm các biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng, văn hoá là tiến hành về mặt chính trị tư tưởng nhằm làm cho các thành viên của xã hội thông suốt với quan điểm của Đảng và Nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách pháp luật đã đề ra, xây dựng nếp sống văn minh, đạo đức trong sạch. Thực tế đã chứng minh khi con người không có quan điểm đúng đắn, không có niềm tin vào cách mạng dể dẫn đến có những hành vi sai trái vi phạm pháp luật. Nhóm các biện pháp mang tính tổ chức hành chính nhằm không ngừng hoàn thiện về mặt tổ chức của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội, xây dựng nội bộ cơ quan đoàn thể trong sạch, vững mạnh, hoàn thiện cơ chế hoạt động phối hợp giữa các cơ quan nói chung và trong bộ phận các cơ quan, phát hiện bịt kín những sơ hở thiếu sót. Nhóm biện pháp hành chính còn thể hiện ở chổ hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các lực lượng tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cả nước cũng như trong từng địa phương. Nhóm các biện pháp pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ có ý nghĩa như phương tiện sắc bén đối với điều tra, xử lý các vụ việc phạm tội đã xảy ra, mà còn có ý nghĩa thiết thực đối với lĩnh vực phòng ngừa tội phạm. Các quy định của hiến pháp, pháp luật và các văn bản pháp quy khác tạo ra khả năng phòng ngừa tội phạm, hướng dẫn mọi người thực hiện theo quy định chung phù hợp với lợi ích của nhà nước, xã hội. Sử dụng biện pháp pháp luật với tính cách là biện pháp phòng ngừa tội phạm đòi hỏi phải: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng Nhà nước pháp quyền. Thực hiện đúng thẩm quyền của các cơ quan và những người có trách nhiệm trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ví dụ: các cơ quan điều tra, xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật, đúng đường lối chính sách, nhanh chóng kịp thời nghiêm minh. 5.2. Theo phạm quy mô tác động của các biện pháp phòng ngừa tội phạm. - Các biện pháp phòng ngừa theo lãnh thổ: biện pháp phòng ngừa chung cho cả nước, biện pháp trong vùng, biện pháp trong tỉnh, trong một huyện, xã, thôn. - Theo phạm vi các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội: các biện pháp phòng ngừa trong lĩnh vực kinh tế, trong các nhà máy xí nghiệp trên tuyến giao thông, nơi công cộng. Cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể trong mỗi địa phương, mỗi lĩnh vực mà có các biện pháp phòng ngừa cụ thể phù hợp. 5.3. Theo phạm vi đối tượng tác động của biện pháp phòng ngừa tội phạm. Xem xét biện pháp phòng ngừa tội phạm theo phạm vi đối tượng tác động có thể phân loại biện pháp thành các nhóm: Biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước bao gồm những biện pháp về kinh tế, chính trị, giáo dục, pháp luật. Biện pháp phòng ngừa theo nhóm các loại tội phạm: phòng ngừa tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, phòng ngừa tội phạm chức vụ, phòng ngừa vị thành niên phạm pháp… Biện pháp phòng ngừa cá biệt: tác động đến những đối tượng cụ thể có biểu hiện sai trái lệch lạc dể trở thnàh tội phạm. 5.4. Theo chủ thể hoạt động phòng ngừa tội phạm. Mỗi loại chủ thể theo chức năng, nhiệm vụ riêng có điều kiện tham gia phòng ngừa tội phạm khác nhau, vì vậy có thể chia ra các nhóm biện pháp phòng ngừa tội phạm sau: Biện pháp của các cơ quan trực tiếp thực hiện và chỉ đạo chuyên môn phòng ngừa tội phạm ( cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát, Tư pháp, Hải quan…), sử dụng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ phòng ngừa tội phạm. Hướng dẫn quần chúng tham gia và bảo vệ quyền lợi của những người tham gia. Biện pháp của các tổ chức xã hội: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội cựu chiến binh và các tổ chức tự lập như: đội an ninh nhân dân, dân phòng…hình thức chủ yếu của các tổ chức này là: quản lý giáo dục các thành viên của mình, trực tiếp tiến hành phòng ngừa tội phạm trong tổ chức của mình, giáo dục cá biệt đối với người có sai lầm thiếu sót… Biện pháp của các công dân: Tham gia thực hiện phòng ngừa tội phạm ở địa phương, nơi làm việc, tự giác chấp hành những quy định chung.. Tóm lại: trong thực tế có thể còn có những cách xác định phân loại biện pháp phòng ngừa khác. Điều đó nói lên tính đa dạng phong phú của các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Khi sử dụng biện pháp trong phòng ngừa tội phạm cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi lực lượng, mỗi thời gian, địa điểm và từng loại đối tượng để áp dụng cho phù hợp và có hiệu quả. Chương 6 DỰ BÁO TỘI PHẠM VÀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM Ở MỘT ĐỊA BÀN, LĨNH VỰC CỤ THỂ Dự báo tội phạm. 1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa tác dụng của dự báo tội phạm. 1.1.1. Khái niệm. Đã từ lâu, vấn đề dự báo đã phát triển và trở thành một ngành khoa học được nhiều người thừa nhận và gọi là khoa học dự báo. Ngày nay, khoa học dự báo đã được nghiên cứu và vận dụng vào nhiều lĩnh vực hoạt động của con người, giúp cho con người trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể nhận định tình hình phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai và có biện pháp chủ động, xử lý những vấn đề về thực tế theo phương hướng tích cực phục vụ lợi ích xã hội. Quá trình tiến hành công tác đấu tranh phòng chống tội phạm diễn ra rất phức tạp, đòi hỏi phải chủ động phòng ngừa ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu và tổ chức dự báo trong đấu tranh chống tội phạm là cần thiết và cấp bách. Trong các tài liệu khoa học về nghiên cứu tội phạm của nước ngoài và các giáo trình của các trường đại học đều đã đặt ra yêu cầu giảng dạy, học tập về dự báo tội phạm. Đó là một bộ phận nội dung không thể thiếu được của chuyên ngành Tội phạm học. Mặc dù còn có những cách trình bày khác nhau, những bắt đầu các ý kiến có sự thống nhất về tính cần thiết, quang trọng của dự báo, những nội dung cơ bản của vấn đề dự báo tội phạm như khái niệm, nội dung, phương pháp dự báo…tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và giảng dạy chương trình Tội phạm học. Khái niệm dự báo tội phạm được hiểu là: việc đưa ra những phán đoán khoa học về khả năng diển biến của tình trạng tội phạm (xu hứơng, mức độ, cơ cấu, phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm…) sẽ diển ra trong tương lai nhằm đề ra các giải pháp chủ động phòng ngừa ngăn chặn tình trạng đó. Để nắm vững khái niệm dự báo tội phạm cần phải chú ý những nội dung chủ yếu như sau: trước hết cần phải hiểu dự báo tội phạm có nghĩa là kết quả của một quá trình nghiên cứu về tội phạm và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trên cơ sở đó kết hợp với lý thuyết về khoa học dự báo, sử dụng những kiến thức, kinh nghiệm hiểu biết về vấn đề trên để đưa ra những phán đoán cần thiết có tính khoa học. Như vậy, dự báo về tội phạm không phải là “đoán mò” vô căn cứ, mà là một hoạt động có tính khoa học cao. Nội dung của các phán đoán (nội dung dự báo tội phạm ) là những vấn đề có liên quan đến diễn biến của tình trạng tội phạm và liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, cụ thể là phán đoán về xu hướng trong tương lai tội phạm sẽ tăng hay giảm, mức độ, tính chất nguy hiểm? Phương thức, thủ đoạn sẽ diễn ra như thế nào? Nhất là những điểm mới và nổi bật trong thời tương lai, kể cả những thuận lợi, khó khăn sẽ có thể gặp phải trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ở những địa bàn và những giai đoạn nhất định. Mục đích của công tác dự báo tội phạm là nhằm để xác định phương hướng, biện pháp, chuẩn bị lực lượng, phương tiện, vạch kế hoạch chủ động đấu tranh đãm bảo hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.2. Phân loại Do tình hình diễn biến của tội phạm ở mỗi thời kỳ có khác nhau và yêu cầu về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng đòi hỏi ở các cấp độ, phạm vi mục đích, nhiệm vụ khác nhau, cho nên việc dự báo tội phạm để phục vụ cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng có nhiều kiểu loại khác nhau. Điều đó đặt ra trong nghiên cứu về dự báo tội phạm cũng cần phải phân rõ các loại dự báo tội phạm để có điều kiện nắm vững và tiến hành thuận lợi. Trong các tài liệu Tội phạm học đã nêu ra một số cách phân loại dự báo như sau: Căn cứ vào tiêu chí thời gian để chia ra các loại dự báo: Ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. + Dự báo ngắn hạn là việc đưa ra những phán đoán về tình hình diễn biến phát triển của tội phạm trong thời gian từ 1 tháng đến 2 năm nhằm phục vụ xây dựng kế hoạch chủ động phòng chống tội phạm trong thời gian đó. Loại dự báo này được sử dụng phổ biến, thường xuyên và có ý nghĩa thiết thực phục vụ công tác đấu tranh trong một phạm vi không rộng lớn về không gian, thời gian. Đó là các loại dự báo Tình trạng tội phạm theo mùa, theo các dịp lễ tết ở từng địa phương cụ thể. + Dự báo trung hạn, là việc đưa ra những phán đoán về Tình trạng tội phạm trong thời gian tương lai từ 3 năm đến 5 năm phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm ở phạm vi lớn hơn, thường gắn với việc đề ra và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội ttrong phạm vi cả nước hoặc một vùng một địa phương nhất định. Vì cần dự báo trong một thời gian khá dài, cho nên đòi hỏi việc nghiên cứu xây dựng dự báo công phu, kỹ càng, cần phải tính toán thận trọng các phương hướng phát triển kinh tế- xã hội, lường trước những thay đổi về những vấn đề đó để có thể xác định đúng đắn những khả năng nảy sinh, phát triển các loại tội phạm và có phương hướng phòng ngừa phù hợp. + Dự báo dài hạn (dự báo chiến lược). Đây là loại dự báo về khả năng diễn biến của Tình trạng tội phạm trong khoảng thời gian từ 5 năm trở lên. Loại dự báo này rất khó khăn phức tạp, vì phải suy xét, tính toán đến một thời gian dài phục vụ cho những kế hoạch to lớn đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc nghiên cứu xây dựng những loại dự báo này đòi hỏi phải tìm hiểu nắm vững đường lối chiến lược của Nhà nước và Đảng, phải tổ chức nghiên cứu về Tình trạng tội phạm một cách quy mô rộng lớn, không những chỉ chú ý tới tình hình trong nước mà cả tình hình diễn biến các mặt của tội phạm trên thế giới. Căn cứ vào tiêu chí về phạm vi đối tượng và các lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm có thể chia ra các loại dự báo khác nhau như: + Dự báo về Tình trạng tội phạm nói chung. + Dự báo về từng loại, từng nhóm đối tượng phạm tội (tội phạm bạo lực, tội phạm ma tuý…). + Dự báo về Tình trạng tội phạm trong lĩnh vực như dự báo về tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực du lịch, xuất nhập cảnh… Những loại dự báo như trên có thể giới hạn theo thời gian cụ thể hoặc ở một địa phương, một địa bàn cụ thể. Loại dự báo này mang tính chất nghiệp vụ chuyên sâu nhằm đề ra phương hướng biện pháp đấu tranh, phòng ngừa cụ thể. Nó rất sát hợp với các lực lượng chuyên trách đấu tranh chống tội phạm theo chức năng nhiệm vụ được giao. 1.2. Phương pháp dự báo tội phạm 1.2.1. Cơ sở thực hiện dự báo tội phạm. Phương pháp dự báo là cách thức tiến hành xây dựng những phán đoán về Tình trạng tội phạm. Đó là một quá trình nghiên cứu phân tích dựa trên cơ sở tài liêu thực tế và các quy luật vận động phát triển của hiện tượng tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể. Để thực hiện dự báo tội phạm một cách chính xác và tin cậy cần phải dựa trên những tài liệu sau đây: - Những tài liệu phản ánh về tình hình chính trị, kinh tế xã hội trong điều kiện hiện tại và xu hướng trong tương lai. Tội phạm là một hiện tượng xã hội được phát sinh và phát triển trong những điều kiện nhất định, hay nói cách khác tội phạm là một hiện tượng phụ thuộc vào những điều kiện xã hội nhất định. Vì vậy, muốn biết nó diễn ra trong tương lai như thế nào cần phải biết xu hướng tình hình kinh tế, chính trị xã hội trong thời gian nhận định của các cơ quan Đảng, Nhà nước và được thể hiện bằng các chủ trương chính sách, phương hướng phát triển kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc ở các địa phương trong những thời kỳ nhất định. Có những thông tin trên sẽ giúp ta có cơ sở dự báo được khả năng diễn biến của tội phạm và đề ra biện pháp đấu tranh phù hợp. - Những tài kiệu phản ánh về tình trạnh tội phạm và tệ nạn xã hội trong thời gian đã qua. Người ta thường nói xem xét quá khứ để biết được tương lai, vậy cần phải biết tình hình thực tế của tội phạm đã và đang diễn ra, trên cơ sở đó nắm được quy luật vận động, xu hướng phát triển của Tình trạng tội phạm trong thời gian tới, những thông tin tài liệu phản ánh về Tình trạng tội phạm có thể thu thập được từ các báo cáo tổng kết hàng năm, các công trình nghiên cứu khoa học, nghiên cứu chuyên đề, các thống kê hình sự đã được thiết lập. - Những tài liệu có liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Những tài liệu này bao gồm các văn bản pháp luật, chỉ thị, nghị quyết là cơ sở phương hướng cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Từ những nội dung của các văn bản đó, giúp cho người nghiên cứu hiểu biết được khả năng, công tác phòng chống tội phạm có hiệu quả hay không có hiệu quả, có ngăn chặn được tội phạm hay không. Chính những sơ hở của những chủ trương chính sách, pháp luật không được bổ khuyết kịp thời sẽ là cơ hội cho bọn tội phạm thực hiện và làm nảy sinh những loại tội phạm mới, phương thức thủ đoạn hoạt động mới. Ngược lại khi chúng ta có những chủ trương chính sách kinh tế-xã hội phù hợp, các văn bản pháp luật quy định chặt chẻ nghiêm khắc sẽ có tác dụng phòng ngừa ngăn chặn làm giảm tội phạm trong hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, chỉ có thể dựa trên những tài liệu như trên mới có cơ sở làm “vật liệu” cho công tác dự báo tội phạm. Yêu cầu đặt ra là các dự kiến tài liệu càng đầy đủ, càng chính xác thì việc dự báo tội phạm càng sát hợp. 1.2.2. Các phương pháp dự báo tội phạm cụ thể. Trong khoa học nghiên cứu về tội phạm đã đưa ra nhiều phương pháp dự báo khác nhau, tuy nhiên phổ biến thường được dùng những phương pháp sau đây: a) Phương pháp phản chiếu (còn gọi là phương pháp suy ngoại). Phương pháp phản chiếu trong dự báo tội phạm là phương pháp suy đoán Tình trạng tội phạm trong tương lai dự trên cơ sở quy luật vận động và tồn tại của nó trong quá khứ và hiện tại. Tình trạng tội phạm là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này vận động phát triển và tồn tại theo những quy luật nhất định phụ thuộc vào những điều kiện lịch sự cụ thể. Vì vậy nếu xem xét đánh giá hiện tượng này như một quá trình con người có thể dự kiến được xu hướng vận động tồn tại và phát triển của Tình trạng tội phạm trong thời gian tương lai. Đây là phương pháp phổ biến được sử dụng trong thực tiển nghiên cứu khoa học và đánh giá nhận định Tình trạng tội phạm của các cơ quan trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm. Để thực hiện phương pháp dự báo này đòi hỏi chúng ta cần phải thu thập nghiên cứu Tình trạng tội phạm trong một thời gian dài, nắm vững Tình trạng tội phạm, cơ cấu diển biến của tình trạng đó, nguyên nhân điều kiện phát sinh phát triển tội phạm trong quá khứ và hiện tại; nắm bắt được xu hướg phát triển kinh tế, chính trị xã hội trong thời gian tương lai; trên cơ sở đó dự đoán về tính chất diễn biến của Tình trạng tội phạm trong thời gian tới. b) Phương pháp chuyên gia trong dự báo tội phạm. Sử dụng phương pháp chuyên gia để dự báo tội phạm là phương pháp dự báo dự vào các ý kiến của các cán bộ khoa học và các cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm để nêu ra các kết luận có tính chất dự báo về Tình trạng tội phạm trong tương lai theo phạm vi quy mô nhất định về không gian và thời gian. Phương pháp này là một trong những phương pháp có tính phổ biến và khả thi, được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về tội phạm, nhất là các loại tội phạm cụ thể, cơ sở của phương pháp chính là sự tổng hợp chắt lọc từ kết quả nghiên cứu, kiểm nghiệm thực tiển của các nhà nghiên cứu và cán bộ thực hành có nhiều kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh chống tội phạm, tù đó có những nhận định đúng đắn về diễn biến của Tình trạng tội phạm trong tương lai. Để đảm bảo cho phương pháp chuyên gia có hiệu quả, cần có phương pháp tổ chức tốt các buổi hội đàm, trao đổi hội thảo hội nghị, tạo ra sự đóng góp ý kiến rộng rãi của nhiều cán bộ có kinh nghiệm và phải biết phân tích sàng lọc những ý kiến cụ thể phục vụ cho dự báo. Ngoài ra trong các tài liệu nghiên cứu Tội phạm học còn sử dụng những phương pháp dự báo tội phạm khác nhau như: mô hình hoá thực nghiệm… tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu về tội phạm hiện nay ở nước ta việc dự báo mới chỉ thực hiện bằng các phương pháp đã trình bày trên. Việc sử dụng các phương pháp này thường được gắn liền với công tác nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm trên từng lĩnh vực, từng loại tội phạm cụ thể nhằm phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ở những phạm vi quy mô khác nhau. 2. Xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm 2.1 Nhận thức chung về kế hoạch phòng ngừa tội phạm. 2.1.1. Khái niệm về xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm. Thuật ngữ “kế hoạch “ theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là: “Toàn bộ những điều vạch ra có hệ thống về những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định với cách thức trình thời hạn tiến hành”. Công tác phòng ngừa tội phạm là một hoạt động có chủ định của Nhà nước hoặc từng cơ quan đơn vị trên từng địa bàn cụ thể, vì vậy cần có kế hoạch cụ thể rõ ràng. Từ khái niệm về kế hoạch nói chung, chúng ta hiểu: Kế hoạch phòng ngừa tội phạm là toàn bộ những công việc dự định cần tiến hành theo những cách thức trình tự thời gian nhất định nhằm xoá bỏ nguyên nhân điều kiện tội phạm, ngăn chặn tình trạng tội phạm trong những phạm vi quy mô nhất định. Trong khoa học nghiên cứu về tội phạm và biện pháp phòng ngừa tội phạm đã được đặt ra nghiên cứu về kế hoạch hóa phòng ngừa tội phạm. Đó là quan điểm đưa toàn bộ công tác phòng ngừa tội phạm được thực hiện theo một kế hoạch thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả của biện pháp phòng ngừa của các lực lượng cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Nhiệm vụ của kế hoạch hoá phòng ngừa tội phạm có hai nhiệm vụ cơ bản: Xây dựng, xác lập kế hoạch phòng ngừa. Tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm biến những dự định đã đặt ra trong kế hoạch trở thành hiện thực: Xoá bỏ nguyên nhân điều kiện Tình trạng tội phạm và ngăn chặn, làm giảm tội phạm Đó là những quá trình cần thiết của kế hoạch hoá hoạt động phòng ngừa tội phạm, chúng có mối quan hệ chặt chẻ với nhau tác động ảnh hưởng lẫn nhau, đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa tội phạm được tiến hành một cách khoa học và có hiệu quả. Từ quan niệm trên, chúng ta hiểu khái niệm xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm là: hoạt động của cơ quan có thẩm quyền soạn thảo mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, biện pháp, phân công cách nhiệm giữa các lực lượng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm theo phạm vi, quy mô nhất định nhằm chỉ đạo hướng dẫn thực hiện những yêu cầu của công tác phòng ngừa tội phạm trong thực tế đấu trtanh chống tội phạm. Như vậy xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm là một bước trong quá trình hoạt động phòng ngừa tội phạm. Trong bước này, những cơ quan có thẩm quyền (Công an, coa quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các ngành các lĩnh vực…) soạn thảo ấn định những nội dung cơ bản như mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp, dự kiến phân công trách nhiệm giữa các lực lượng có liên quan trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Yêu cầu của bước này là có một văn bản kế hoạch được soạn thảo khoa học để ban hành và chỉ đạo hoạt động thực tiển phòng ngừa tội phạm ở một địa bàn nhất định, trong một thời gian nhất định. 2.1.2. Vị trí, ý nghĩa của công tác xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm Trong hoạt động của Nhà nước và xã hội, V.I Lênin đã khẳng định: “Kế hoạch là cương lĩnh thứ 2”. Đó là sự khẳng định về vị trí ý nghĩa to lớn của kế hoạch. Việc xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động phòng ngừa tội phạm. Điều đó đượcthể hiện ở những khía cạnh sau: Xây dựng kế hoạch phòng ngừa ở một địa bàn đơn vị cụ thể là sự cụ thể hoá những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Vì vậy kế hoạch phòng ngừa có ý nghĩa tạo cơ sở cho các cấp các ngành thực hiện những nội dung cụ thể của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Bởi vì trong quá trình xây dựng kế hoạch, các cấp có thẩm quyền đã vạch rõ mục tiêu, phương hướng, biện pháp tổ chức hoạt động phòng ngừa. Điều đó giúp cho các cấp thực hiện có cơ sở , điều kiện để tiến hành theo trình tự quy định của kế hoạch đã vạch ra. Xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm hợp lý, khoa học sẽ giúp cho các cấp, các ngành và cá nhân cụ thể thực hiện hiệu quả các công việc được giao công tác phòng ngừa được giao, từ đó tránh được sự lãnh phí và công sức, kinh phí trong quá trình hoạt động, tránh được sự trùng lập hoặc sơ hở thiếu sót khi tiến hành. Cũng trong ý nghĩa này, khi tổ chức tiến hành hoạt động phòng ngừa trên cơ sở một kế hoạch được xây dựng đúng đắn sẽ đảm bảo huy động được lực lượng đông đảo mọi người tham gia phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng đó theo một mục tiêu phương hướng thống nhất. Xây dựng kế hoạch phòng ngừa tốt còn có tác dụng là một cơ sở pháp lý quan trọng để các cấp, các cơ quan lãnh đạo có thẩm quyền tiến hành tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra hoạt động phòng ngừa của các lực lượng, tổ chức xã hội. Chúng ta hiểu rằng, kế hoạch có tính pháp lệnh, đó là một văn bản pháp quy, bởi vậy xây dựng được kế hoạch, tức là đã tạo ra một cơ sở pháp lý, một công cụ quan trọng để chỉ đạo hướng dẫn hoạt động phòng ngừa tội phạm đối với các cơ quan chỉ đạo thực hiện phòng ngừa tội phạm. Với những ý nghĩa như trên, đòi hỏi trong hoạt động phòng ngừa tội phạm cần phải chú ý ngay từ đầu bước xây dựng kế hoạch phòng ngừa, đảm bảo tính khoa học và sâu sắc ohục vụ cho việc tiến hành trên thực tế công việc phòng ngừa ở trong những phạm vi không gian và thời gian nhất định. 2.1.3. Phân loại kế hoạch hoạt động phòng ngừa tội phạm. Hoạt động phòng ngừa tội phạm là hoạt động đa dạng với nhiều hình thức, biện pháp phong phú. Vì vậy kế hoạch phòng ngừa cũng có nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào phạm vi yêu cầu hoạt động và lực lượng tiến hành. Điều đó đặt ra yêu cầu trong nghiên cứu về xây dựng kế hoạch cần xác định phân loại các kế hoạch cụ thể để có phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phù hợp. Khi phân loại kế hoạch phòng ngừa cần dựa trên các tiêu chí sau đây: a. Phân loại kế hoạch phòng ngừa tội phạm theo thời gian. Đây là những loại kế hoạch được phân chia theo những khoảng thời gian nhất định theo yêu cầu của công tác phòng ngừa tội phạm. Cách chia này gồm hai loại chính: - Kế hoạch phòng ngừa ngắn hạn: kế hoạch ngắn hạn thường được chia theo quý, nữa năm hoặc một năm. Trong kế hoạch này vạch ra phương hướng giải quyết những nhiệm vụ phòng ngừa cụ thể, trước mắt trong một giai đoạn ngắn nhằm phục vụ một yêu cầu phòng chống tội phạm cụ htể. - Về kế hoạch dài hạn: kế hoạch phòng ngừa tội phạm dài hạn là những kế hoạch được thực hiện trong năm 5, 10 năm trở lên. Loại kế hoạch này thường có quy mô lớn, tiến hành rộng rãi và giải quyết những vấn đề cơ bản về phòng ngừa ngăn chăn Tình trạng tội phạm trong phạm vi cả nước hoặc ở một địa phương nhất định. Những kế hoạch được phân chia theo thời gian như trên có tính chất tương đối, có thể thay đổi theo yêu cầu phòng ngừa tội phạm. b. Phân loại kế hoạch phòng ngừa tội phạm theo phạm vi lãnh thổ hoặc lĩnh vực hoạt động xã hội. Do tính chất đan dạng của Tình trạng tội phạm và nguyên nhân điều kiện của nó, do chức năng nhiệm vụ phạm vi quyền hạn của câc chủ thể phòng ngừa và do đặc điểm riêng của từng vùng lãnh thổ, lĩnh vực xã hội có những đặc điểm khác nhau, từ đó dẫn đến việc tiến hành phòng ngừa của mỗi vùng lãnh thổ có khác nhau. Vì vậy khi thực hiện cần có những kế hoạch khác nhau. Theo tiêu chí này có thể phân loại các kế hoạch sau: Kế hoạch phòng ngừa trong phạm vi cả nước, trong phạm vi một tỉnh, một huyện, một xã, một thôn. Kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực kinh tế văn hoá, giáo dục, du lịch, dịch vụ… Kế hoạch phòng ngừa tội phạm của các cơ quan xí nghiệp, tập thể lao động, trường học, hợp tác xã. Mõi loại kế hoạch như trên có những nội dung, biện pháp tiến hành cụ thể. Cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể để xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch một cách sát hợp. c. Phân loại kế hoạch phòng ngừa tội phạm theo đối tượng cụ thể của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Trong quá trình phòng ngừa tội phạm có những lúc, những nơi nổi lên những loại tội phạm cụ thể, điều đó đòi hỏi cần có những biện pháp phòng ngừa cụ thể cá biệt đối với từng loại tội phạm cụ thể, vì vậy cần đến những kế hoạch phòng ngừa riêng bịêt, cụ thể bao gồm các loại sau: Kế hoạch phòng ngừa tội phạm giết người. Kế hoạch phòng ngừa tội phạm cướp, cước giật, lừa đảo. Kế hoạch phòng ngừa tệ nạn nghiện hút… Những loại kế hoạch mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ nhiều hơn, vì vậy thường do các cơ quan chức năng phòng chống tội phạm xây dựng và tổ chức thực hiện, đó là các cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát, Tư pháp…Tuỳ theo mỗi cơ quan đơn vị, căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa từng loại đối tượng cụ thể mà xây dựng, vạch ra những nội dung biện pháp thực hiện cụ thể. 2.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm. Xây dựng kế hoạch là một quá trình nghiên cứu phân tích công phu, phức tạp, vì vậy để đảm bảo xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm có chất lượng và có tính chất khoa học cần phải có phương pháp tiến hành khoa học. Quá trình xây dựng kế hoạch cần phải nghiên cứu nắm vững những vấn đề về lý luận và thực tế cần thiết. 2.2.1. Căn cứ để xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm. Để có điều kiện xác lập một kế hoạch phòng ngừa sát hợp với yêu cầu thực tế của hoạt động phòng ngừa cần phải nắm vững những thông tin tài liệu về những vấn đề có liên quan từ đó làm cơ sở cho việc xác định những nội dung phương hướng, biện pháp phân công lực lượng tiến hành. Xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm phải dựa trên một số cơ sở căn cứ cụ thể sau đây: - Kết quả dự báo Tình trạng tội phạm. Dự báo Tình trạng tội phạm và các loại tội phạm cụ thể là một khoa học. Đó là sự nhận định phán đoán về xu hướng tồn tại và phát triển của tội phạm, cơ cấu, di biến động, phương thức thủ đoạn, nguyên nhân điều kiện và những yếu tố khác của Tình trạng tội phạm sẽ diễn ra trong tương lai, trong khoảng thời gian và không gian nhất định. Những kết quả dự báo về tội phạm nói trên sẽ giúp ta hoạch định được nội dung và biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm đúng đắn, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm hoạt động phòng ngừa. - Tình hình hoạt động của tội phạm trên từng địa bàn, lĩnh vức kinh tế xã hội cụ thể: Tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội và những vấn đề có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của tội phạm là những yếu tố rất cần thiết trong xây dựng kế hoạch. Bởi vì dựa trên cơ sở đó chúng ta mới xác định đúng những loại đối tượng chủ yếu cần phòng ngừa, những nội dung cần thiết và những biện pháp phù hợp cần sử dụng trong hoạt dộng phòng ngừa. Đặt biệt đòi hỏi phải chú ý đến những loại tội phạm, tệ nạn xã hội phức tạp đang nổi lên và phương thức, thủ đoạn của chúng. - Những vấn đề về đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước đang áp dụng trong phạm vi toàn quốc hoặc ở địa phương cụ thể. Kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và kế hoạch phòng ngừa từng loại tội phạm cụ thể ở từng địa bàn nói riêng là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, bởi vậy nó không thể tách khỏi các chủ trương, chính sách chung đang được áp dụng ở từng địa phương. Trong khi xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm cụ thể cần phải căn cứ vào nội dung chung và cụ thể hoá tinh thần đó trong kế hoạch phòng ngừa cụ thể. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước chính là cơ sở phương hướng cho hoạt động phòng ngừa tội phạm. Tình hình các tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và đặc điểm địa lý dân cư ở địa bàn cụ thể. Cơ sở này rất quan trọng, nắm vững tình hình trên để xác định lực lượng tham gia trong hoạt động phòng ngừa, có cơ sở để phân công trách nhiệm cho các lực lượng Nhà nước, xã hội tiến hành hoạt động phòng ngừa một cách phù hợp, phát huy hiệu qủa hoạt động phòng ngừa tội phạm trong từng địa bàn và từng thời gian cụ thể. Căn cứ vào những biện pháp phòng ngừa đã tiến hành và những kinh nghiệm được rút ra về công tác phòng ngừa ở những vùng nhất định. Hoạt động phòng ngừa tội phạm là 1 hoạt động thực tế đã và đang được thực hiện ở các địa phương. Tuy nhiên trong hoạt động đó có những biện pháp đạt được hiệu quả, nhưng cũng có biện pháp không đạt hiệu quả. Những kết quả đó chính là những kinh nghiệm thực tế đòi hỏi khi xây dựng kế hoạch phòng ngừa phải tính toán xem xét lại những biện pháp đã và đang sử dụng. Trên cơ sở đó có kế hoạch phát huy những biện pháp tích cực, bổ sung sửa đổi những biện pháp còn hạn chế, cải tiến làm cho biện pháp này hoàn thiện hơn. Tóm lại, để đảm bảo xây dựng kế hoạch phòng ngừa đạt được tối ưu cần phải dựa trên những căn cứ cơ sở như trên, từ đó vận dụng xây dựng kế hoạch chi tiết phù hợp. 2.2.2. Nội dung cấu trúc kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong khu vực địa bàn cụ thể. Kết quả và mục đích của việc xây dựng kế hoạch phòng ngừa là phải đưa ra được một kế hoạch hoàn chỉnh và được áp dụng trong hoạt động thực tiển phòng ngừa tội phạm ở những quy mô nhất định. Kế hoạch như vậy cần được xây dựng theo một kết cấu chặt chẻ, đầy đủ và có trình tự khoa học hợp lý. Thông thường một văn bản kế hoạch cần phải đảm bảo một cấu trúc với những nội dung cơ bản như sau: a. Nêu lên những đánh giá nhận định tình hình hoạt động của tội phạm và hoạt động phòng ngừa tội phạm trong vùng phạm vi lãnh thổ hoặc lĩnh vực xã hội. Trong nội dung này, các cơ quan hoặc bộ phận xây dựng kế hoạch phòng ngừa cần phải đưa ra những đánh giá nhận định khái quát về Tình trạng tội phạm như tình trạng chung, động thái, mức độ hậu quả tác hại đang gây ra, những phương thức thủ đoạn mới đang nổi lên và những loại tội phạm cụ thể đang hoạt động. Đồng thời cũng nêu ra những đánh giá nhận định về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm đã và đang thực hiện ở đâu đó, như đã sử dụng biện pháp phòng ngừa như thế nào? Kết quả đem lại ra sao? Những mặt tích cực và hạn chế của hoạt động phòng ngừa tội phạm ở địa phương, đặc biệt nêu rõ những nguyên nhân điều kiện của những sơ hở thiếu sót trong hhoạt động phòng ngừa tội phạm. Những nội dụng cần khái quát nêu ra ở trên là những cơ sở cần thiết đặt ra yêu cầu phải xây dựng kế hoạch và tổ chức đấu tranh phòng chống tội phạm trên phạm vi địa bàn hoặc lĩnh vực đó. Thông qua những nội dung này giúp cho mọi người thấy được cần phải xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm và bám xác những nhận định đánh giá đó mà vạch ra những nội dung phương hướng, biện pháp cần thiết trong bản kế hoạch. b. Xác định mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp thực hiện hoạt động phòng ngừa tội phạm. - Xác định mục tiêu yêu cầu cần phải đạt được của kế hoạch phòng ngừa tội phạm. Để xác định đúng mục tiêu của kế hoạch phòng ngừa cần phải căn cứ vào tình hình thực tiển ở mỗi địa bàn? Lĩnh vực và từng thời gian nhất định. Mục tiêu của phòng ngừa tội phạm là hạn chế, ngăn chặn, tiến tới xoá bỏ, loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, tuy nhiên ở mỗi địa bàn cụ thể, lĩnh vực cụ thể và trong mỗi thơi gian nhất định mục tiêu đề ra có khác nhau về phạm vi, mức độ, yêu cầu. Xác định nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm. Xác định nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm trong kế hoạch phòng ngừa là nêu ra những nội dung công tác cụ thể cần phải tiến hành (những việc làm cụ thể) trên cơ sở thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Những nhiệm vụ này phải phản ánh được những nội dung cần thiết phải làm để xoá bỏ nguyên nhân điều kiện tội phạm , ngăn ngừa các hành vi phạm tội, chẳn hạn như việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, tạo việc làm cho những người chưa có việc làm. Xác định các biện pháp và phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đã vạch ra trong kế hoạch. - Biện pháp phòng ngừa tội phạm đã chia ra 3 loại: biện pháp phòng ngừa xã hội, biện pháp phòng ngừa chuyên môn và những biện pháp phòng ngừa cá biệt. Trong một số trường hợp hoạt động, phòng ngừa tội phạm cần phải sử dụng đến những phương tiện cần thiết để đãm bảo thực hiện hoạt động phòng ngừa tội phạm việc xác định các biện pháp, phương tiện phòng ngừa cần phải căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ đã vạch ra, căn cứ vào đặc điểm tình hình địa lý dân cư trong vùng, và căn cứ vào trách nhiệm thực hiện của các chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm trên địa bàn. Cần phải có sự thống nhất các biện pháp chung, riêng và cá biệt để đảm bảo cùng hướng đến mục đích chung của công tác phòng ngừa tội phạm. c. Phân công trách nhiệm cho các chủ thể tham gia tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm. Đây là một nội dung rất quan trọng của kế hoạch phòng ngừa, bởi vì các chủ thể thực hiện kế hoạch là những đơn vị hoặc cá nhân trực tiếp thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Việc phân công cụ thể xác với chức năng nhiệm vụ của các chủ thể đó sẽ phát huy được vai trò của các lực lượng trong thực hiện kế hoạch phòng ngừa, tránh được tình trạng trùng lập hoặc thiếu sót những công việc phòng ngừa đã nêu ra. Để đảm bảo phân công đúng đắn phù hợp cho các chủ thể phòng ngừa cần phải căn cứ vào chức năng nhiệm vụ sở trường chuyên môn của từng lực lượng, đơn vị và cá nhân trong xã hội. Trên đây là những nội dung chính của một kế hoạch phòng ngừa, trên cơ sở đó xây dựng cấu trúc cụ thể phù hợp với từng loại kế hoạch phòng ngừa cụ thể. 2.2.3. Trình tự tiến hành xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm. Xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm được tiến hành theo trình tự sau: a.Điều tra nghiên cứu nắm vững tình hình có liên quan đến kế hoạch phòng ngừa tội phạm ở từng địa bàn cụ thể? + Chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. + Tình trạng tội phạm về tệ nạn xã hội. + Đặc điểm vị trí, địa lý dân cư trong vùng. + Những biện pháp phòng ngừa tội phạm đã và đang tiến hành. Đó là những vấn đề đặt cơ sở cho hoạt động phòng ngừa tội phạm và xây dựng kế hoạch đối với hoạt động này. Để có những dữ liệu trrên đòi hỏi người lập kế hoạch cần phải điều tra nghiên cứu thu thập thông tin phản ánh về tình hình đó. Thông tin tài thu được cần phải được đảm bảo yêu cầu chính xác rõ ràng. b.Soạn thảo văn bản kế hoạch. Việc soạn thảo kế hoạch phải do một nhóm cán bộ chuyên gia tiến hành. Trên cơ sở tài liệu đã có kết hợp với những kiến thức Tội phạm học cần thiết dự thảo văn bản kế hoạch. Việc soạn thảo văn bản cần được tiến hành nhanh chóng khẩn trương, cần chú ý tới sử dụng văn từ trong sáng, mạch lạc, rõ ràng dễ hiểu. c.Trao đổi thảo luận lấy ý kiến bổ sung vào bản kế hoạch dự thảo. Công việc này được tiến hành trong những phạm vi khác: lấy ý kiến chuyên gia, thảo luận tổ nhóm hoặc mở rộng đến các thành viên khác. Thông qua việc thảo luận đóng góp ý kiến sẽ có tác dụng làm cho các thành viên nhận thức rõ về bản kế hoạch và đóng góp bổ sung ý kiến, tạo nên sự thống nhất trong quá trình thực hiện kế hoạch . d.Trình cấp lãnh đạo có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch phòng ngừa. Kế hoạch là một văn bản có tính pháp quy vì vậy cần phải được soạn thảo kỹ lưỡng và được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc phê duyệt kế hoạch phòng ngừa được thực hiện tùy theo quy mô, phạm vi và mức độ của từng kế hoạch. Chỉ có sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền bản kế hoạch phòng ngừa tội phạm mới chính thức có giá trị pháp lý và bắt buộc mọi cơ quan, đơn vị và cá nhân phải chấp hành thực hiện. Như vậy xây dựng kế hoạch phòng ngừa tội phạm ở một phạm vi quy mô, địa bàn cụ thể là một hoạt động cần thiết có tính phổ biến trong quá trình hoạt động phòng ngừa tội phạm. Để xây dựng được một kế hoạch đúng đắn cũng đòi hỏi cá nhân hoặc cơ quan xây dựng phải có những kiến thức đầy đủ về công tác phòng chống tội phạm, có phương pháp khoa học trong quá trình thực hiện kế hoạch./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên tuyến giao thông đường thuỷ nội địa ở địa bàn thành phố Hồ.doc
Luận văn liên quan