BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba còn làm giảm nhẹ gánh nặng cho
ngân sách nhà nước, đồng thời làm tăng thu cho ngân sách cho nhà nước. Việc đóng phí sẽ là
nguồn chủ yếu để chi trả bồi thờng cho ngời thứ ba.
Đây là mục đích chủ yếu của nghiệp và của nhà nước Việt Nam, nó thể hiện vai trò
trung gian hoà giải có tính chất pháp lý của công ty bảo hiểm.
50 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm nhân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả đáng mừng thể hiện những nỗ
lực và tinh thần làm việc nhiệt tinh của cán bộ nói chung và bộ phận giám định nói riêng.
Qua công tác giám định công ty đã phát hiện đợc rất nhiều vụ tai nạn không thuộc phạm vi
bảo hiểm, đem lại lợi ích cho công ty, xử lý thích đáng các hành vi gian lận trục lợi bảo
hiểm của một số chủ xe.
* Những hạn chế của công ty trong khâu giám định:
- Là một công ty có tuổi đời hoạt động kinh doanh còn ít, kinh nghiệm cha nhiều, uy
tín cha lớn cũng nh đội ngũ cán bộ giám định trình độ chuyên môn cha cao và kỹ thuật
nghề còn bị hạn chế nên nó cũng ảnh hởng không nỏ đến tiến độ, chất lợng, đánh giá, kết
luận để đi bồi thờng trong khâu giám định.
- Do số vụ tai nạn hàng năm lớn mà đội ngũ cán bộ giám định thì ít không đủ để
thực hiện giám định, không có mặt tại hiện trờng kịp thời. Các hồ sơ biên bản giám định,
kiểm tra tính pháp lý... Hầu hết phải dcựa vào hồ sơ của công an, bệnh viện và các ngành
cơ quan chức năng có thẩm quyền liên quan. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc
giám định thiếu chính xác không đánh giá đúng tổn thất thực tế là boa nhiêu, làm cho phát
sinh tiêu cực trong khâu bồi thờng.
* Nguyên nhân của hạn chế.
- Thờng các vụ tai nạn xảy ra chủ xe (lái xe đối với ngời thứ ba việc phân định lỗi là
rất khó, thông thờng khi xảy ra tai nạn thì chủ xe (lái xe) bỏ trốn để lại hiện trờng bị thiệt
hại giải quyết bằng thơng lợng hoà giải, thông cảm cho nhau cho nên trong lúc này áp
dụng luật định là rất khó. Chỉ khoảng 5% vụ tai nạn phải đa ra toà án xét xử để phân định
lỗi.
- Do xe cơ giới liên quan trực tiếp tới ngành giao thông nên mọi hồ sơ lại do ngành
công an trực tiếp quản lý, ắm giữ. Mà sự phối hợp giữa công ty bảo hiểm PJIO với lực
lợng cảnh sát giao thông, công an cha đợc chặt chẽ và quan hệ mật thiết qua lại với nhau.
- Thông thờng khi xảy ra tai nạn chủ xe không thông báo cho công ty bảo hiểm ngay
mà để một thời gian sau mới tới để giải quyết. Đặc biệt đối với các vụ tai nạn nghiêm
trọng đã gây khó khăn trong việc giải quyết bồi thờng cuả bảo hiểm, hầu nh bất lợi lại toàn
rơi về phía PJICO.
Sau những thực tế, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong khâu giám định đòi
hỏi PJICO cần phải có sự xem xét kỹ lỡng hơn nữa, tăng cờng đội ngũ nhân viên giám
định cả về số lợng và chất lợng nhằm đảm bảo tính chính xác, kịp thời để tạo uy tín cho
PJICO trên thị trờng bảo hiểm hơn nữa.
4. Công tác bồi thờng.
Bồi thờng là một khâu cuối cùng sau ba khâu (khai thác, để phòng hạn chế tổn thất,
giám định), nên nó quan trọng đối với sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bồi thờng không chỉ ảnh
hởng đến lợi ích của ngời tham g ia bảo hiểm mà còn tác động trực tiếp đến kết quả kinh
doanh của công ty.
Riêng trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba thì khâu
này thể hiện rõ nhất tầm quan trọng của nó.
Công ty PJICO rất chú trọng đến công tác bồi thờng thể hiện trong lề lối làm việc,
chất lợng và số lợng bồi thờng, quy trình giải quyết bồi thờng.
Bồi thờng nhanh cóng hơn đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng. Nhân viên
trong khâu bồi thờng đã chủ động xuống tận cơ sở để hớng dẫn làm kịp thời thủ tục chu
đáo, nhiều hồ sơ đợc giải quyết ngay đợc trong ngày đã hạn chế đợc phiền hà cho khách
hàng.
Mỗi năm, xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau với mức độ khác nhau, nên công tác
bồi thờng ở PJICO hàng năm cũng khác nhau.
Để đánh giá công tác bồi thờng cụ thể, chính xác hơn ra có bảng tình hình bồi thờng
nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba.
Theo bảng 8 thì năm 2000 số vụ tai nạn bị giảm đi rất nhiều so với năm trớc, năm
1998 có tới 617 vụ tai nạn nhng năm 2000 còn 390 vụ nhng mức độ thiệt hại trong mỗi vụ
lớn hơn, nen tổng số tiền bồi thờng năm 2000 tỷ; năm 1998 STBT là 2,7 tỷ; năm 1999
STBT là 2,85 tỷ; năm 2000 số tiền bồi thờng giảm còn 2,6974 tỷ. Tỷ lệ tai nạn ôtô gây tai
nạn nhiều hơn ở xe máy, riêng năm 1999, năm 2000 số vụ tai nạn cũng giảm đi rất nhiều,
đây là kết quả đáng mừng cũng là do một phần công tác tuyên truyền, công tác giám định
và sự nhận thức của các chủ xe tốt hơn. Song so với gần 5 năm hoạt động thì tỷ trọng
doanh thu nghiệp vụ BHTNDS năm 1999 lại bị giảm sút. năm 2001 xảy ra nhiều vụt tai
nạn giao thông ngihêm trọng, đến hết quý I năm 2001 tỷ lệ tai nạn giao thông tăng trên
130,3%. Đây là một thử thách rất lớn cho ngành bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng
trong năm 2001. Tổng số tiền bồi thờng không ngừng gia tăng, mức độ tổn thất/ vụ tai nạn
lớn cũng là do công ty bảo hiểm không tham gia giáo dục, tuyên truyền an toàn giao thông.
Qua bảng trên ta còn đánh giá đợc PICO là công ty có tỷ lệ giải quyết bồi thờng xe máy
cao hơn ôtô vì so công việc giám định tổn thất cdủa các vụ xe máy đơn giản hơn nhiều,
mức dodọ thiệt hại nhỏ giấy tờ, hồ sơ giải quyết bồi thờng nhanh gọn. Khai thác là đầu vào
của bảo hiểm còn bồi thờng là đầu ra, cả hai khâu này đều có liên quan trực tiếp đến hiệu
quả kinh doanh của công ty.
Bảng 8: Tỷ lệ bồi thờng của PJICO (1998 - 2002)
Năm Doanh thu
nghiệp vụ (Tr.đ)
Số tiền bồi
thờng (Tr.đ)
Tỷ lệ bồi thờng
(%)
Năm 1998
- Ôtô (chiếc)
- Xe máy
3.760,04
3.462,52
297,5
2.685,6
2.397,096
288,504
71,42
69,23
96,98
Năm 1999
- Ôtô (chiếc)
- Xe máy
3.909,5394
3.612,0342
357,50517
2.854,75
2.509,694
345,056
73,02
69,48
96,51
Năm 2000
- Ôtô (chiếc)
- Xe máy
4.212,84
3.812.034
460,806
2.973,668
2.600,08
271,366
70,59
68,21
48,9
(Nguồn : Theo báo cáo thống kê của PJICO (1998 -2002)
Qua bảng số 9 cho thấy doanh thu nghiệp vụ và số tiền bồi thờng nghiệp vụ ngày
càng tăng dần.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 2.414,99 triệu, số tiền bồi thờng chiếm 71,37%
tỷ trọng doanh thu.
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ tăng lên 3,45 tỷ nhng số tiền bồi thờng 72,86% tỷ
trọng doanh thu.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 3,91 tỷ, số tiền bồi thờng chiếm giảm xuống còn
71,42% tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ.
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ tăng lên 3,45 tỷ nhng số tiền bồi thờng 72,86% tỷ
trọng doanh thu.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 3,91 tỷ, số tiền bồi thờng chiếm giảm xuống còn
71,42% tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ.
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ là 3,9095 tỷ, số tiền bồi thờng chiếm 73,02%.
- Năm 2000 doanh thu nghiệp vụ là 4,2123 tỷ, tỷ lệ bồi thờng giảm xuống còn
70,59% thấp nhất từ giai đoạn từ 1998 - 2000.
Tỷ lệ bồi thờng của công ty tăng dần theo thời gian do mức độ thiệt hại ở mỗi vụ tai
nạn ngày một tăng mà phí bảo hiểm lại rất ít tăng thậm chí lại giảm di và do sự cạnh tranh.
* Hạn chế của công tác bồi thờng: Việc bồi thờng của PJICO có phần thực hiện tốt
hơn, nhng không thể tránh khỏi rờm rà, tiêu cực trong khâu bồi thờng chủ xe phải đi lại
mất rất nhiều thời gian và đã tạo ra cảm giác mất tin tởng vào bảo hiểm, thất vọng cho chủ
xe và ngời bị nạn.
* Nguyên nhân của sự hạn chế.
- Do từ phía ngời bị nạn, nh khi ngời bị nạn họ đa ra mức đòi bồi thờng vô lý còn
ngời gây tai nạn bao giờ cũng đòi mức thấp hơn nên lúc này nhà bảo hiểm (công ty) rơi
vào tình thế đứng giữa hai bên nên phải dùng thơng lợng để giải quyết, nếu hai bên hoặc
ba nên không tự giải quyết thơng lợng đợc thì phải đa ra toà án có thẩm quyền giải quyết.
- Những vụ tai nạn không do PJICO trực tiếp đứng ra giám định mà hồ sơ phải
thông qua công an, cảnh sát giao thông để làm căn cứ xét bồi thờng. Nên dễ gây ra thiệt
thòi cho ngời bị nạn, thiếu chính xác trong khâu bồi thờng.
- Những vụ tai nạn hầu hết không xác định đúng mức thiệt hại nh:
+ Mất thu nhập hiện nay không cơ quan nào xác định đợc thu chính thức của nạn
nhân, hầu hết những ngời bị tai nạn là buôn bán tự do.
+ Chi phí y tế hiện nay cung cấp hoá đơn chứng từ không đợc thực hiện đợc vì nạn
nhân không lu giữ hồ sơ bệnh án, hay có trờng hợp gian lận trong việc khai không đúng
sự thật. Ngoài ra chi phí điều trị cùng thơng tật có thể rất khác nhau do cách điều trị rất
khác nhau của bác sỹ. Để thu thập đầy đủ hồ sơ phải chờ đến khi nạn nhân ra viện.
Qua đó ta thấy công tác bồi thờng không đơn giản, nó luôn gây ra cho các cán bộ
trong khâu bồi thờng phải mất nhiều thời gian để thu thập chứng từ, hoá đơn, sổ sách,
phân định lỗi, tuy nhiên tình hình bồi thờng của PJICO ngày một tăng. Liệu trong thời
gian tới mức độ bồi thờng của công ty sẽ nh thế nào? Thu phí nghiệp vụ và phí toàn thu có
đủ bù đắp nổi những tổn thát xảy ra? Có lẽ dây vẫn là câu hỏi đặt ra coh cán bộ lãnh đạo
công ty? cần phải làm gì để hạn chế bớt tai nạn và công tác giám định, bồi thờng cần chấn
chỉnh và hoàn thiện hơn.
5. Kết quả triển khai nghiệp vụ.
Kết quả triển khai nghiệp vụ thể hiện qua hai chỉ tiêu là chỉ tiêu doanh thu và chỉ
tiêu lợi nhuận, ngoài ra còn có chỉ tiêu tốc độ tăng doanh thu và tốc độ tăng lợi nhuận, hiệu
quả kinh doanh.
Trong các chỉ tiêu thì chỉ tiêu lợi nhuận là thớc đo hữu hiệu nhất, nó cho biết tình
hình doanh thu đạt đợc ở mức độ nào, cho phép đánh giá đợc tốc độ tăng trởng kinh doanh.
Lợi nhuận nghiệp vụ = doanh thu nghiệp vụ - tổng chi phí nghiệp vụ đó.
- Doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là toàn bộ
số tiền hay phí boả hiểm mà công ty bảo hiểm thu đợc từ chủ xe cơ giới.
- Chi phí nghiệp vụ gồm các khoản chi:
+ Chi phí bồi thờng nghiệp vụ là khoản ci chủ yếu chiếm 73%.
+ Chi đề phìng hạn chế tổn thất (3% doanh thu phí).
+ Cih hoa hồng (2%).
+ Chi thuế (10%).
+ Chi khác 2%.
Công ty PJICO trong 5 năm hoạt động đã đạt đợc tốc độ tăng trởng bình quân là
39% năm. Đây là tốc độ tăng trởng khá cao so với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong
cùng điều kiện và thời hạn kinh doanh.
Qua bảng 10 ta thấy công ty hàng năm luôn đạt ra mức kế hoạch nhng thực tế hàng
năm đạt cao hơn mức kế hoạch đề ra.
- Năm 1998 tỷ lệ vợt mức kế hoạch là 19,79%.
- Năm 1999 tỷ lệ vợt mức kế hoạch là 28,32%
- Năm 2000 tỷ lệ vợt mức kế hoạch là 30,55%.
- Năm 2001 tỷ lệ vợt mức kế hoạch là 13, 42%.
- Năm 2002 tỷ lệ vợt mức kế hoạch là 9,4%.
Từ năm 1998 -2000 tỷ lệ vợt ở mức cao dần nhng đến năm 2000 chỉ tăng 13,42%.
Lợng chi nghiệp vụ chiếm phần đáng kể trong tổng thu nghiệp vụ, nhất là từ khi
Chính phủ thu thuế VAT10% thì doanh thu công ty bị giảm mất một phần. Trong các
khoản chi thì chi bồi thờng chiếm tỷ lệ cao.
Năm 1996 chi bồi thờng là 71,33%, trong đó chi hoa hồng chiếm 2%, chi đề phòng
hạn chế tổn thất chiếm 2,25% và các khoản chi khác là 2%. Tới năm 2000 do mức độ thiệt
hại không tăng nên số bồi thờng là 70,6%, cho đề phòng hạn chế tổn thất là 2,26%, chi hoa
hồng 3% còn các khoản chi khác vẫn giữ ở mức ổn định 2% qua các năm.
Nhìn chung thì PJICO vẫn luôn đạt mức thu lợi nhuận ổn định, hàng năm chênh
lệch thu chi nghiệp vụ tăng dần từ 541,4 triệu (1996) đến 932,84 triệu vào năm 2000
chứng tỏ Công ty kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đạt
hiệu quả cao, nó đóng góp tích cực trong tổng lợi nhuận chung cho toàn công ty.
Tuy PJICO đã có những kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
chủ xe cơ giới đạt kết quả cao, nhng so với các Công ty nh Bảo Việt, Bảo Minh về kết quả
kinh doanh nghiệp vụ thì PJICO còn kém rất nhiều nên PJICO cần phải tăng cờng khai
thác nghiệp vụ, mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh liên hệ các trạm đăng kiểm để thu
phí, cắt giảm những chi phí khác không cần thiết và phải đa ra những biện pháp đề phòng
hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC
HIỆN BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGỜI
THỨ BA
1. Kết quả thực hiện Nghị định 115/CP/1997
Nghị định 115/CP/1997 "Về chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới"
của Chính phủ là hết sức cần thiết để góp phần khắc phục hậu quả của các vụ tai nạn giao
thông, (nhất là trong tình hình tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng nh hiện nay). Và
bảo vệ quyền lợi của những ngời bị hại về thân thể và tài sản trong các vụ tai nạn giao
thông, đồng thời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh của chủ xe cơ giới khi có tai nạn
giao thông xảy ra.
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia về tình hình phát
triển phơng tiện cơ giới đờng bộ.
- Năm 1998 cả nớc hiện có khoảng 6 triệu xe ô tô và xe gắn máy, vào năm 2000 dự
báo lên khoảng trên 6,5 triệu xe các loại. Tuy nhiên số lợng xe tham gia bảo hiểm chỉ ở
mức 10% đến 15% ở xe gắn máy và khoảng 65% đến 75% đối với xe ô tô.
- Năm 2000 với tổng số xe cơ giới tăng khoảng 12% nhng số lợng xe tham gia bảo
hiểm chỉ tăng từ 8% đến 9% (ớc tính).
Qua đó ta thấy, mặc dù chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
đã đợc ban hành cách đây hơn 12 năm kể từ khi Nghị định số 30/hội đồng bộ trởng nhng
cho đến nay tổng kết lại vẫn chỉ khoảng 30% số xe các loại tham gia bảo hiểm (đây là con
số quá ít so với tình hình chung). Do đó nhiều ngời bị hại trong các vụ tai nạn giao thông
không đợc bồi thờng đầy đủ theo chế đoọ.
2. Những hạn chế trong quy tắc BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với ngời
thứ ba
a. Bồi thờng trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba về con ngời là
rất khó do phân định tỷ lệ lỗi và mức thiệt hại là không thực tế và khó chính xác (từ mức
thu nhập và chi phí y tế). Cho nên bồi thờng đợc tính theo nguyên tắc thiệt hại thực tế và
lỗi cha phù hợp với đặc điểm bồi thờng trong xe cơ giới.
Trong mức trách nhiệm bắt buộc tối thiểu, ta nên giải quyết bồi thờng theo nguyên
tắc khoán.
b. Cha có quy tắc bảo hiểm riêng cho xe máy
- Nhiều điều quy định cho xe cơ giới không phù hợp với xe máy nh quy định về yêu
cầu bảo hiểm (điều 8.1), thay đổi mục đích sử dụng (điều 8.4), chứng nhận kiểm định an
toàn kỹ thuật và môi trờng (điều 13.2), giấy phép kinh doanh vận chuyển hành khách (điều
14/2.5)…
- Sử dụng xe máy là một tập quán tiêu dùng của ngời Việt Nam chiếm trên 5,5 triệu
xe nên có quy tắc riêng cũng là đúng đối với họ, đối với trách nhiệm tham gia bảo hiểm và
nâng cao ý thức của chủ xe hơn.
c. Chế độ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn buông lỏng việc cung cấp thông
tin điều tra tai nạn còn cha có cơ sở rõ ràng để làm căn cứ bồi thờng dẫn đến việc thiếu
chính xác, gây ra thiệt hại cho cả Công ty và ngời bị nạn. Tình trạng xe gây tai nạn rồi bỏ
trốn, nhiều trờng hợp tai nạn đều giải quyết theo thoả thuận không cần thiết đến bảo hiểm,
pháp luật nhằm trách phiền toái. Đây là cả vấn đề mang tính nhân đạo, tính xã hội. Đề nghị
các Bộ, ngành liên quan cần phải có sự xem xét phối hợp với bảo hiểm trong việc giải
quyết bồi thờng tai nạn theo Nghị định 115/CP.
d. Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức về an toàn giao thông, phân tích cho chủ
xe (lái xe) hiểu đợc phần trách nhiệm, quyền lợi của họ khi tham gia bảo hiểm.
e. Nhiều công ty bảo hiểm làm mất uy tín trên thị trờng gây ra cho các chủ xe những
hoài nghi về trách nhiệm bảo hiểm dân sự "có tham gia nhng chẳng đợc gì khi có xảy ra
tổn thất". Bồi thờng chậm chạp, giấy tờ hồ sơ phức tạp làm cho khách hàng cảm thấy mệt
mỏi.
Hiện tợng trục lợi bảo hiểm của nhiều chủ xe đã lựa chọn rủi ro bảo hiểm làm gây
thiệt hại cho Công ty bảo hiểm, mà xét về hiệu quả kinh doanh thì Công ty rất muốn từ
chối bảo hiểm nhng không đợc phép.
g. Biểu phí về mức trách nhiệm bảo hiểm
Có sự chênh lệch về mức phí quá lớn đối với hành khách trên xe đợc phân theo số
chỗ ngồi.
Ví dụ: nhóm loại xe trên 24 chỗ ngồi phí bảo hiểm cũng là 900.000 đồng nhng tổng
mức trách nhiệm chênh lệch đến 552 triệu đồng/vụ (xe 24 chỗ ngồi có tổng mức trách
nhiệm là 12 triệu x 24 = 288 triệu đồng). Trong khi đó nhóm xe cùng loại là xe 70 chỗ
ngồi có tổng mức trách nhiệm là 12 triệu x 70 chỗ = 840 triệu đồng.
Vậy cần làm sao để chỉnh đốn lại về phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe đợc
tính theo số chỗ ngồi cụ thể từng xe, không nên chia nhóm vì thực chất rủi ro nhiều hay ít
là phụ thuộc vào từng chỗ ngồi. Cách phân biệt này rất công bằng: xe càng nhiều chỗ ngồi
thì rủi ro càng cao và biểu phí phải tăng theo.
3. Nguyên nhân hạn chế
a. Sự bất cập của các văn bản (không đồng bộ)
Nghị định 115 đã đặt ra vấn đề về bắt buộc BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với
ngời thứ ba (các Công ty bảo hiểm đợc phép kinh doanh loại hình này và bắt buộc các chủ
xe), yêu cầu đặt ra là rất lớn và rất có ý nghĩa nhng quy tắc bảo hiểm lại có phần thắt chặt
hơn, có phần mâu thuẫn với Nghị định.
Các văn bản pháp lý cha định nghĩa rõ hay quy định rõ về ngời thứ ba là những ngời
nào, đối tợng nào thuộc ngời thứ ba và đối tợng nào không thuộc.
b. Việc phân định lỗi khó do khi vụ tai nạn xảy ra thì nó chỉ mang tính tơng đối
trong va chạm trong mức lỗi và thiệt hại về ngời là không thể tính toán nổi do con ngời là
tài sản vô giá. Mặt khác khi xảy ra tai nạn xong dù có để nguyên hiện trờng khi giám định
bảo hiểm và công an đến thì chỉ là xem xét lại hiện trờng cũ đã xảy ra làm sao mà tận mắt
trông thấy đợc sự thể đâm va ra sao. Khi xét đến bồi thờng cũng rất khó khăn trong việc
tính mức thu nhập chi phí y tế vì tai nạn xảy ra hầu nh ở những ngời làm ăn, kinh doanh tự
do bên ngoài họ có thu nhập bấp bênh có khi rất cao trong ngày, trong tháng nhng cũng có
khi họ lại chẳng có thu nhập gì, còn chi phí bệnh viện thì vô vàn (khi thì thuốc loại này
loại khác, thay đổi bác sĩ, thay đổi bệnh viện, giấy tờ bệnh án liên quan đến việc xem xét
bồi thờng cũng trở nên mất tính chính xác).
c. Vì xe máy là loại phơng tiện có động cơ đơn giản ai cũng có thể sử dụng và mua
đợc, giá trị của nó không lớn và mức độ thiệt hại cũng không nguy hiểm gây ra cho ngời
thứ ba. Có những trờng hợp xe máy gây tai nạn thì họ tự giải quyết và tự thơng lợng với
nhau mà không cần nhờ đến bảo hiểm và công an. Ngoài ra lợng xe máy lu hành lại rất lớn
trên 5,5 triệu xe nên việc thay đổi này sang chủ xe khác họ không tuân theo đúng thủ tục
pháp luật cứ thế mà lu hành, nên việc kiểm tra và giải quyết tai nạn là rất khó khăn.
Nớc ta sử dụng đa dạng loại xe máy các hãng, các loại xe từ rẻ đến đắt khi những
chiếc xe máy có giá trị lớn (có khi bằng cả chiếc ô tô), nhng khi bị tai nạn thì họ lại chỉ
quy theo mức trách nhiệm tham gia bảo hiểm (bảng phí đợc phân theo phân khối của xe).
d. Quy tắc bảo hiểm cần phải bổ sung thêm
- Tại điều 2: quy định về ngời thứ ba còn sơ sài cha rõ ví dụ (đối với thân thể và tài
sản chủ xe, những ngời mà chủ xe phải có trách nhiệm nuôi dỡng theo pháp luật có thuộc
ngời thứ ba hay không?).
- Điều 13 loại trừ bảo hiểm nên bổ sung: xe không đủ thiết bị an toàn để chạy (các
thiết bị về an toàn xe không bảo đảm, chủ xe, lái xe không thực hiện và thực hiện không
đảm bảo yêu cầu kỹ thuật). Thủ tục giải quyết tai nạn, nhận tiền bồi thờng còn rắc rối, do
đó một số chủ xe khi bị tai nạn không muốn làm thủ tục đòi bồi thờng (chủ yếu là những
vụ tai nạn nhỏ dới 200.000 đồng) dẫn đến tâm lý của chủ xe là khi mua bảo hiểm khó đòi
đợc tiền bồi thờng. Các chủ xe gắn máy khi xảy ra tai nạn nhỏ thờng thơng lơợng với nhau.
- Các phơng tiện thông tin đại chúng chỉ thông tin về nội dung Nghị định một số lần
trong thời gian đầu do đó ngời dân cũng cha biết hết đợc các quy định của nhà nớc về chế
độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc. Các chơng trình đề phòng hạn chế tổn thất đợc
thảo luận trên báo chí nhng cũng không đợc đề cập gì về bảo hiểm.
- Đại đa số chủ xe thiếu tinh thần tự giác, họ tìm mọi cách lẩn tránh bảo hiểm nhất
là các chủ xe máy họ chỉ mua bảo hiểm lần đầu khi đăng ký xe.
f. Việc kiểm tra thực hiện bị buông lỏng, không kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, không
có biện pháp xử lý, chế tài những tổ chức và cá nhân vi phạm.
- Bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm cha quan tâm đúng mức cha tuyên truyền để
các chủ xe có ý thức và trách nhiệm khi mua bảo hiểm.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên trong Công ty bảo hiểm PJICO còn cha nhiệt tình, cha
làm tròn trách nhiệm trình độ chuyên môn còn bị hạn chế. Nên trong công tác từ khai thác
đến giám định, bồi thờng cũng không đợc hiệu quả cao.
g. Việc xây dựng phí bảo hiểm theo mức trách nhiệm bảo hiểm mở rộng vừa qua
cha hợp lý, cần xem xét lại sao cho đảm bảo thu chi thì hàng năm số lợng xe ô tô khách tai
nạn càng tăng làm thiệt hại về ngời và tài sản. Phần biểu phí mở rộng theo mức trách
nhiệm mở rộng nên ta thống nhất theo tỷ lệ (mức trách nhiệm so với mức bắt buộc tỷ lệ
với mức phí làm tăng cách này sẽ đảm bảo các thang tỷ lệ rộng hơn và dễ thực hiện).
Qua những hạn chế trên PJICO nên có những giải pháp khắc phục tăng tính bắt
buộc trong nghiệp vụ BHTN dân sự chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba sao cho hiệu quả
nhất.
CHƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEXX (PJICO)
I. NHỮNG KHÓ KHĂN, THUẬN LỢI VÀ TỒN TẠI CỦA CÔNG TY PJICO
Theo chủ trơng phát triển nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc trong đó nổi bật là chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp (Công
ty) và phát triển các công ty cổ phần theo luật công ty 1990. Đồng thời xuất phát từ chính
sách mở cửa, phát triển thị trờng bảo hiểm Việt Nam - một thị trờng mà cho tới trớc 1994
vẫn còn độc quyền, cha thực sự phát triển theo Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của
chính phủ, Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO gồm 7 cổ đông sáng lập đã đợc thành lập
theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn về điều kiện kinh doanh bảo hiểm.
Số 06-TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài chính, giấy phép thành lập số 1873/GP-
UB ngày 8/6/1995 của UBND thành phố Hà Nội và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
số 060256 ngày 15/6/1995 UB Kế hoạch (nay là Sở Kế hoạch - Đầu t) thành phố Hà Nội.
Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO đợc thành lập trong hoàn cảnh nền kinh tế nớc ta
có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, phức tạp trong giai đoạn thị trờng bảo hiểm Việt Nam bắt
đầu đợc hình thành và phát triển với nhiều thuận lợi khó khăn nảy sinh trong quá trình
hoạt động, đó là:
1. Những thuận lợi
- Nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN đã đạt đợc nhiều thành tựu đáng khích
lệ sau 10 năm đổi mới. Các năm 1995, 1996 là những năm phát triển mạnh nhất, tỷ lệ tăng
trởng GDP trên 9%.
- Năm 1995 là năm đánh dấu việc thị trờng bảo hiểm bắt đầu đợc mở rộng phát triển.
Trớc đó thị trờng bảo hiểm mới chỉ có mình Bảo Việt độc quyền (Bảo Việt là doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nớc) tiếp đến là PJICO và Bảo Long (trong đó PJICO là công ty cổ
phần bảo hiểm đầu tiên đợc thành lập tại Việt Nam).
- Chủ trơng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc đang tiếp tục đợc Đảng và Nhà
nớc quan tâm.
- Sự tham gia góp vốn, tham gia bảo hiểm và ủng hộ của các cổ đông lớn, đặc biệt là
Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, đối với công ty là thuận lợi nền tảng và xuyên suốt đối
với Công ty trong quá trình hoạt động phát triển.
2. Khó khăn cơ bản của Công ty PJICO
- Cơ chế chính sách về công tác cổ phần đặc biệt liên quan tới hoạt động kinh doanh
bảo hiểm còn cha đầy đủ, nên hoạt động của công ty gặp nhiều vớng mắc khó khăn. Là
công ty cổ phần thành lập mới theo luật công ty, công ty bị thiệt thòi hơn các doanh nghiệp
nhà nớc khác, các doanh nghiệp cổ phần hoá, công ty không đợc hởng bất kỳ u đãi nào của
nhà nớc (thuế bảo toàn vốn), trong khi đó nhận thức và thái độ của công chúng, các cơ
quan chức năng của nhà ớc đối với công ty cổ phần hoá còn phân biệt đối xử.
- Từ năm 1997 đến nay nền kinh tế đã tăng trởng chậm lại và đã gặp nhiều khó khăn
do khủng hoảng kinh tế khu vực. Tốc độ tăng GDP liên tục giảm cùng với sự giảm sút của
hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài.
- Thị trờng bảo hiểm đã bớc sang giai đoạn cạnh tranh gay gắt do sự ra đời thêm
nhiều công ty bảo hiểm mới (Công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nớc
ngoài) dẫn đến sự chia sẻ thị trờng bảo hiểm.
- Việc áp dụng luật thuế VAT tăng gấp 2,5 lần so với doanh thu trớc đây. Trong khi
đó tỷ lệ phí giảm từ 20% đến 40% so với tỷ lệ phí bảo hiểm những năm trớc năm 1995, đã
gây nhiều khó khăn cho hoạt động khai thác và hiệu quả kinh doanh của PJICO.
- PJICO cha nhận đợc sự giúp đỡ tận tình của các ngành chức năng liên quan nh
công an giao thông, cha có sự hợp tác chặt chẽ giữa các công ty bảo hiểm ở Việt Nam.
Trong việc thực hiện Nghị định 112/CP và Quyết định số 299/BTC.
3. Những tồn tại của PJICO
Từ sau khi thành lập đến nay, PJICO đã trả qua những khó khăn trên thị trờng bảo
hiểm đầy cạnh tranh.
- Với 6 năm hoạt động đó là khoảng thời gian ngắn hơn so với tổng công ty Bảo
Việt trên 30 năm hoạt động. PJICO với đồng vốn hạn hẹp và là công ty cổ phần đầu tiên ở
nớc ta, trong khi Bảo Việt là công ty có số vốn là 776 tỷ ngay từ khi thành lập và đội ngũ
cán bộ nhân viên có trình độ, kinh nghiệm cao. Mặt khác, Bảo Việt lại còn là doanh
nghiệp Nhà nớc nên có uy tín lớn và quan hệ rộng với nhiều bạn hàng trong nớc và quốc tế.
Bảo Minh tuy mới thành lập nhng có tổ chức và bộ máy cán bộ chuyển từ công ty
bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh sang và họ đã có hơn 20 năm kinh nghiệm trong nghề
nên số khách hàng cũng rất quen thuộc, điều này tạo thuận lợi cho công tác khai thác.
Trong tình hình thị trờng bảo hiểm vừa phát triển vừa cạnh tranh càng làm cho PJICO trở
nên khó khăn hơn trong việc thu hút, khai thác, tuyên truyền, quảng cáo sản phẩm. Thêm
vào đó tính độc quyền nhà nớc trong thị trờng bảo hiểm hiện nay từ trớc đến nay đã tạo
cho khách hàng thói quen sử dụng sản phẩm bảo hiểm của Công ty cũ mà họ tham gia.
- Trình độ nhận thức của dân ta về bảo hiểm còn thấp, nên số lợng ngời tham gia
bảo hiểm còn cha đạt yêu cầu (bình quân một ngời dân Việt Nam mới chỉ bỏ ra 2 USD/1
ngời cho các loại bảo hiểm, thì con số đó ở Thái Lan chỉ bỏ ra 2 USD/1 ngời, ở Malaysia
là hơn 120USD/1 ngời. Quan niệm "Cuộc sống không có bảo hiểm nh cầu thang không có
tay vịn" cha thực sự đợc ngời dân thấu hiểu.
- Hơn nữa, bộ máy tổ chức cán bộ của PJICO còn cha đầy đủ và ổn định theo hệ
thống thống nhất từ trụ sở chính xuống các chi nhánh và văn phòng đại diện. Số lợng cán
bộ trong các bộ, văn phòng còn thiếu cán bộ quản lý có kinh nghiệm, đặc biệt là cán bộ
khai thác, giám định. Chuyên môn nghiệp vụ và ý thức kỷ luật của nhân viên trong giờ
làm việc còn cha cao. Vẫn có hiện tợng ăn quà, hút thuốc, làm những việc cá nhân trong
công ty, trong giờ làm việc. Tình trạng sử dụng điện thaọi không đúng mục đích công việc
còn xảy ra.
- Các văn phòng khu vực cha có máy tính riêng để tiện cho việc quản lý thông tin.
Cha có sự điều hành bằng quản lý mạng Internet từ trụ sở xuống văn phòng khu vực.
Công tác khai thác, tuyên truyền quảng cáo còn cha phát triển mạnh mẽ. Mức phí
PJICO áp dụng cha đợc linh hoạt, cha đợc phù hợp đôi khi còn quá cao hay quá thấp so
với những đòi hỏi yêu cầu của khách hàng.
- Giữa Công ty PJICO với ngành công an giao thông cha có sự phối hợp thống nhất,
việc kiểm tra giấy chứng nhận bảo hiểm còn lơi là. Các trạm đăng kiểm cha nhiệt tình giúp
đỡ cán bộ khai thác của PJICO. Cha có những biện pháp xử phạt nghiêm minh cho chủ xe
(lái xe) tham gia hoạt động gây thiệt hại cho ngời thứ ba mà không có bảo hiểm hoặc
không gây tai nạn mà cũng không có bảo hiểm thì cũng bị phạt. Chính vì do việc không
nghiêm minh trong việc xử phạt mà các chủ xe (lái xe) coi thờng pháp luạat, coi thờng bảo
hiểm, vô trách nhiệm trong việc lu hành xe gây thiệt hại cho ngời khác. Thể hiện càng rõ
hơn trong việc chủ xe máy mua xe máy không có giấy tờ hợp lệ, mua xe không đổi tên chủ,
các chủ xe không khám xe định kỳ hàng năm mà vẫn lu hành.
- Trong khâu giám định bồi thờng cha chính xác, luôn gây phức tạp, phiền hà cho
ngời bị nạn, điều này đã gây cho khách hàng không tin tởng đối với công ty và không
muốn tham gia bảo hiểm nữa.
- Việc tuyển chọn cán bộ nhân viên cho Công ty còn lỏng lẻo vẫn có tình trạng khi
cử làm lệ, gây ra hiện tợng thừa những ngời không có năng lực nhng lại thiếu những cán
bộ nhân viên có năng lực và trình độ chuyên môn.
- Ngoài ra, việc chi hoa hồng cho đại lý còn cha hợp lý, còn có hiện tợng nhân viên
không làm mà vẫn đợc hởng lơng. Đây cũng là vấn đề không nhỏ đề nghị cán bộ lãnh đạo
công ty cần phải điều chỉnh lại.
Qua những thuận lợi, khó khăn và tồn tại của Công ty PJICO, sau hội nghị Hiệp hội
bảo hiểm lần thứ hai ngày 20/10/2000 gồm: PTI, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí
Minh, Bảo Việt, Bảo Minh, Công ty bảo hiểm Nhật, Công ty PJICO cùng nhau tranh luận,
đánh giá và đa ra những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc nghiệp vụ BHTN dân sự
của chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN BẮT BUỘC BHTN DÂN SỰ CỦA CHỦ XE
CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGỜI THỨ BA CỦA MỘT SỐ CÔNG TY TẠI HỘI THẢO
LẦN 2 (20/10/2000).
1. Công ty cổ phần bảo hiểm bu điện (PTI)
PTI là công ty bảo hiểm ra đời trong bối cạnh thị trờng bảo hiểm Việt Nam đang
hoạt động nóng bỏng và gay gắt, tuy mới hoạt động đợc 2 năm nhng PTI đã triển khai hầu
hết các nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới.
* Theo nhận định của PTI:
- Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với chủ xe cơ giới đã đợc triển khai từ
khi có Nghị định số 30/Hội đồng Bộ trởng ngày 10/3/1998 về chế độ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Tuy vậy đối tợng tham gia chủ yếu là chủ xe ô tô, đối với
chủ xe máy chỉ mua bảo hiểm lần đầu khi tiến hành đăng ký xe qua một số cơ quan chức
năng nh: cơ quan thuế, trạm đăng kiểm, cảnh sát giao thông…
- Đại đa số các chủ xe cha ý thức đợc tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm
trách nhiệm dân sự.
- Tuy đã có văn bản của Chính phủ quy định về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, nhng cha có cơ quan giám sát chung việc thực hiện.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và doanh nghiệp bảo hiểm để tổ chức
giám định, giải quyết tai nạn giao thông cha chặt chẽ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan chức năng có liên quan cha đợc phối
hợp để tuyên truyền quảng cáo về tầm quan trọng trong việc mua bảo hiểm đối với nền
kinh tế xã hội.
- Các doanh nghiệp cha liên kết chặt chẽ với nhau trong các vụ tai nạn giao thông để
xảy ra khi có liên quan trách nhiệm của mình.
Để thực hiện tốt việc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với ngời thứ ba thì PTI có một số giải pháp cụ thể sau:
+ Các doanh nghiệp khai thác bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với chủ xe thông
qua hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
+ Các doanh nghiệp bảo hiểm cùng với các cơ quan chức năng liên quan phối hợp
chặt chẽ trong việc tuyên truyền quảng cáo, nâng cao ý thức trách nhiệm và tầm quan
trọng của việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, nhất là các chủ xe
máy.
+ Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan
chức năng trong giám định, bồi thờng cho ngời thứ bao sao cho nhanh, gọn.
+ Do tình hình phát triển kinh tế cho thấy mức trách nhiệm của bảo hiểm trách
nhiệm dân sự bắt buộc hiệ nay 12/30 triệu đồng là thấp đối với chủ xe ô tô nên điều chỉnh
lên 30/80 triệu đồng (còn mức trách nhiệm xe máy thì vẫn giữ nguyên).
+ Các doanh nghiệp cần thực hiện đúng theo chủ trơng số 115/CP/1997, nâng cao
hơn nữa vai trò của loại hình bảo hiểm bắt buộc này trong nền kinh tế - xã hội hiện nay.
* Đánh giá giải pháp của công ty bảo hiểm PTI:
Công ty đã đa ra những giải pháp rất có hiệu quả theo đúng chủ trơng Chính phủ đề
ra, nhng hầu hết các giải pháp của PTI thì trách nhiệm và cải tổ chức hiện lại đều rơi vào
các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm hoàn thiện nghiệp vụ mà lơi là đi trách nhiệm của Chính
phủ và nghĩa vụ của chủ xe (lái xe).
2. Giải pháp của Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh
Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) là công ty đứng thứ hai về
thị trờng bảo hiểm trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới,
chiếm tới 26% thị phần. Tuy cũng mới thành lập nhng Bảo Minh đã nhanh chóng thu hút
khách hàng, triển khai nghiệp vụ này một cách có hiệu quả.
Sau khi ra đời Nghị định 115/CP thì Bảo Minh cũng là công ty mẫu mực thực hiện
nghiêm chỉnh, nhng để cùng nhau thực hiện tốt hơn nữa Nghị định 115 (chế độ bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba) thì bảo hiểm thành
phố Hồ Chí Minh cũng có những giải pháp sau:
+ Cần phải chỉnh lại một số quy tắc và biểu phí phù hợp cụ thể tại điều 2, điều 13.
ã Về biểu phí: thì hiện nay tỷ lệ phí giữa xe kinh doanh và xe không kinh doanh
chênh lệch còn thấp, dẫn đến bồi thờng cao hơn khi bảo hiểm cho loại xe kinh doanh. Do
đó phải nâng mức trách nhiệm, mở rộng điều khoản cho những chủ xe muốn tham gia ở
mức cao hơn mức trách nhiệm bắt buộc hoặc đợc mở rộng một số quyền lợi cao hơn so với
mức trách nhiệm cũng nh quyền lợi của chủ xe đợc quy định trong quy tắc bảo hiểm do Bộ
Tài chính ban hành, các doanh nghiệp bảo hiểm nên mở rộng điều khoản (theo hớng có lợi
cho nhà bảo hiểm) và trên nguyên tác: phí hạ hơn, phạm vi rộng, bồi thờng trách nhiệm bắt
buộc trớc, tự nguyện sau… Nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu mà chủ xe muốn tham
gia.
ã Các doanh nghiệp bảo hiểm phải tự hoàn thiện mình, giảm bớt các thủ tục không
cần thiết trong khâu bồi thờng trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, hớng dẫn tận tình khách
hàng tạo niềm tin cho khách hàng khi mua bảo hiểm.
ã Chính phủ cho phép cơ quan công an (cảnh sát giao thông) đề ra mức phạt hợp lý,
kiểm tra và phạt những trờng hợp chủ xe không tham gia bảo hiểm (dùng biện pháp hành
chính).
ã Ngoài ra Bảo Minh cũng giống nh PTI cũng đề cập đến công tác tuyên truyền,
giáo dục ý thức trách nhiệm bản thân khi gây ra tai nạn cho ngời khác, để ngời dân hiểu rõ
thêm về quy định của Nhà nớc về chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối
với ngời thứ ba bắt buộc. Phải làm sao để các cấp, các cơ quan công quyền chấp nhận bảo
hiểm trách nhiệm dân sự là một biện pháp quan trọng trong hệ thống các biện pháp đề
phòng hạn chế tổn thất trong giai đoạn hoạt động giao thông vận tải.
* Đánh giá giải pháp của Bảo Minh
Các giải pháp mà Bảo Minh đa ra đều có tính tích cực và cũng nh những công ty
bảo hiểm khác trong hiệp hội bảo hiểm 2 đa ra, ngoài những ý kiến riêng biệt là (thay đổi
và xem xét lại quy tắc) thì hầu hết Bảo Minh và PTI đa ra các giải pháp có gần mục đích
nh nhau. Nhng theo em trong các giải pháp của Bảo Minh, có giải pháp "Chính phủ cho
phép cơ quan công an (cảnh sát giao thông) đề ra mức phạt hợp lý, kiểm tra và phạt những
chủ xe không tham gia bảo hiểm (biện pháp hành chính)". Đúng chúng ta cần phải sử dụng
biện pháp này vì đây là biện pháp có tính hiệu quả cao (đánh giá túi tiền của họ là họ sẽ sợ
hơn). Và mức phạt cần phải có sự thống nhất của Hiệp hội bảo hiểm (các công ty bảo hiểm
trong nớc có triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, cơ quan
công an và cơ quan chức năng là Bộ Tài chính dới sự cho phép của chính phủ cùng thực
hiện, hợp tác; thống nhất chung để đa ra mức phạt hợp lý cho chủ xe sai phạm.
3. Giải pháp của The Tokyo Marine and fire insurace Co, Ltd. nhằm bắt buộc
các chủ phơng tiện xe máy
Tại vì nớc ta có số lợng xe máy dự báo năm 2001 lên tới xấp xỉ 6 triệu xe, hầu nh
các chủ phơng tiện xe máy chỉ tham gia bảo hiểm lần đầu còn những đợt sau thì họ lại
không tiếp tục mua, còn bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe ôtô còn dễ bắt buộc hơn. Do
chúng ta cha có hệ thống kiểm tra hợp pháp cho xe máy dới 125 phân khối (125 CC), do
tình hình nh vậy công ty bảo hiểm Tokyo Marine đã có các giải pháp sau:
- Đa ra luật yêu cầu chủ phơng tiện xe máy dán nhãn chứng nhận đã bảo hiểm trên
góc của biển số xe. Các công ty bảo hiểm khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ giới của Việt Nam cũng nên thực hiện việc dán tem bảo hiểm để dễ kiểm tra, kiểm
soát số lợng xe máy có tham gia bảo hiểm hay không. Nhãn chứng nhận này ngời bảo
hiểm phát cùng với đơn bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm (chủ xe máy), và tháng, năm của
ngày hết hạn bảo hiểm đợc thể hiện rõ trên đó bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy từ xa.
Việc đáng bàn nữa là chất liệu tem phải làm nh thế nào để chịu đợc cả ma, cả nắng.
Cần kéo dài thời hạn bảo hiểm bằng cách khuyến khích các chủ xe máy mua bảo hiểm dài
hạn.
Còn ngày tháng ghi tem, không nên ghi ngày mua tem bảo hiểm mà chỉ cần ghi
ngày hết hạn và thời hạn là bao nhiêu năm để công an dễ nhận ra ngay khi tem hết hạn.
Màu sắc của tem cần phải đặc biệt, nhìn thấy là bắt mắt ngay và nhận ra ngay, tránh
trùng khít với màu xe.
Nếu đợc sự thống nhất chung với cả nớc về cùng loại tem (màu sắc, biểu tợng, chất
liệu, phí…) thì càng tốt. Còn nếu không thì phải có sự thống nhất màu sắc, biểu tợng tem
để tránh nhầm lẫn.
- Cần kết hợp với công an có biện pháp xử phạt trên phạm vi toàn quốc đối với
những ngời không thực hiện bảo hiểm xe máy và không dán nhãn trên xe.
- Mức phạt có thể là:
+ Những ngời không thực hiện việc mua bảo hiểnm xe máy: phạt tiền 50.000 đồng
hoặc nặng hơn là phạt từ vài tháng.
+ Không dán nhãn trên xe phạt 20.000 đến 30.000 đồng
- Ngời bảo hiểm phát hành thông báo tái tục đến ngời mua bảo hiểm (chủ xe máy)
khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn.
Hiện tại, tất cả những ngời bảo hiểm đều gửi thông báo tái tục tới ngời đợc bảo
hiểm (ngời chủ xe máy) hai tháng trớc khi đơn bảohiểm hết hạn và thực hiện việc tái tục
bảo hiểm.
- Tiến hành chiến dịch bảo hiểm và các hoạt động công cộng
+ Thực hiện chiến dịch "không có xe máy không đợc bảo hiểm", với sự hợp tác của
cơ quan chức năng liên quan, hiệp hội bảo hiểm và các nhà bảo hiểm, cần tiến hành chiến
dịch bằng cách phân phát tờ rơi thông qua đại lý xe máy, trạm bảo hành, sửa chữa, đại lý
bảo hiểm… và treo những tờ áp phích.
+ Những hoạt động công cộng quảng cáo trên các phơng tiện thông tin nh báo, tạp
chí, ti vi, đài.
* Đánh giá giải pháp của Tokyo Marine:
Công ty đã có đợc giải pháp vô cùng hiệu quả cao vừa thực hiện áp đặt ngay, vừa đa
ra phơng thức thực thi và số tiền phạt cụ thể. Đây là công ty của Nhật nên có rất nhiều
kinh nghiệm trong vấn đề bắt buộc mọi ngời dân đều phải tham gia. Các công ty bảo hiểm
Việt Nam nên áp dụng ngay vào thực thi trong thời gian gần nhất.
4. Giải pháp của PJICO trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Ở phần trớc chúng ta ta đã đề cập rất nhiều tới công ty cổ phần Bảo hiểm PJICO là
công ty mới thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1995, PJICO là công ty cổ phần đầu tiên
thực hiện chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Mới thành lập nhng công ty triển khai nhiều nghiệp vụ (21 nghiệp vụ), trong đó có
triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, mặc dù cha phải là
nghiệp vụ mạnh nhng nghiệp vụ này đóng góp một phần không nhỏ trong doanh thu, cũng
nh hoạt động chung toàn thể công ty.
Trả lời công văn số 32/2000/HHBH, Hiệp hội bảo hiểm bàn về tình hình thực hiện
Nghị định 115/1997/NĐ-CP, do có những hạn chế, vớng mắc trong quá trình thực hiện
Nghị định và cần tăng tính bắt buộc hơn trong nghiệp vụ này, PJICO đã có những giải
pháp sau:
- Các cơ quan chức năng tăng cờng công tác kiểm tra và có biệnpháp thích hợp để
yêu cầu chủ xe tham gia bảo hiểm. Có sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành, các doanh
nghiệp bảo hiểm để triển khai công tác tuyên truyền bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới đối với ngời thứ ba.
- Đề nghị các cơ quan công an, toà án khi tiến hành hoà giải giữa chủ xe với ngời
thiệt hại càn yêu cầu bên bị thiệt hại đa ra các căn cứ xác đáng chứng minh tính thiệt hại
của họ và c ần xác định đợc tỷ lệ lỗi của các bên.
- Bộ tài chính cần nghiên cứu giải thích rõ hơn một số khái niệm trong quy tắc bảo
hiểm TNDS chủ xe cơ giới nh:Khái niệm chủ xe cơ giới trong nghị định 115 và bổ sung
biểu phí nhằm có đợc quy định chặt chẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai công
tác bảo hiểm càng sớm càng tốt. Thông thờng để tránh sự kiểm tra, kiểm soát của Công ty,
cơ quan chuyên môn, nhiều chủ xe chỉ mua bảo hiểm TNDS với thời hạn ba tháng. Chính
vì vậy các Công ty bảo hiểm đều thấy việc quản lý các hợp đồng loại này rất phức tạp và
tốn kém và muốn thống nhất chỉ nên cấp bảo hiểm với thời hạn từ một năm trở lên, đề
nghị các Công ty trong hiệp hội bảo hiểm nên có sự thống nhất chung.
- Trong trờng hợp xe tham gia bảo hiểm gây tai nạn với xe thứ ba khi cũng cùng lu
hành trên đờng, theo biên bản giải quyết tai nạn giao thông của cẩnh sát giao thông thì xe
tham gia bảo hiểm có lỗi hoàn toàn, nhng thực tế xe thứ ba lại không có giấy phép kiểm
định an toàn kỹ thuật và ngời điều khiển không có giấy phép lu hành, trờng hợp này Công
ty bảo hiểm có phải bồi thờng trách nhiệm dân sự 100% thiệt hại cho thứ ba hay không?
Vấn đề này Bộ tài chính cùng hiệp hội bảo hiểm cần phải có biện pháp giải quyết cụ thể
càng.
* Đánh giá giải pháp của PJICO:
PJICO cũng nh các Công ty bảo hiểm khác trong hiệp hội là cần tăng cờng công tác
kiểm tra, tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm các chủ xe cơ giới. Có đề cập đến việc
kết hợp với các bộ, ngành, cơ quan công an (cảnh sát giao thông) để xử phạt và kiểm soát
quá trình lu hành xe trong giao thông. Nhng trong giải pháp của PJICO thì không thể tránh
khỏi có biện pháp quá khó khăn để có thể thực hiện. Ví dụ giải pháp “Các cơ quan công an,
Toà án khi tiến hành hoà giải giữa chủ xe với ngời bị thiệt hại đa ra các căn cứ xác đáng
chứng minh thiệt hại của họ và cần xác định đợc tỷ lệ lỗi của các bên”. Giải pháp này quả
là khó thực hiện vì ngời bị nạn luôn tìm mọi cách để bảo vệ phần đúng về mình, hơn nữa
thờng theo phong tục ngời Việt Nam khi họ bị tại nạn do mình gây ra (có thể là chết)
nguyên nhân nếu thuộc về ngời bị nạn thì ngời gây ra đều phải bồi thờng theo thơng lợng.
Mặt khác khi xảy ra tai nạn thì công an, giám định viên cũng không thê có mặt ngay lúc đó
đợc (tận mắt không nhìn thấy). Nên mọi xác minh vấn đề tai nạn (nguyên nhân, mức tổn
thất...) chỉ là tơng đối. Vậy ngoài công an, toà án ra thì giám định viên Công ty của ngời
gây tai nạn tham gia bảo hiểm phải sáng suốt tìm ra nguyên nhân, đánh giá đúng mức tổn
thất theo khả năng hiểu biết và trình độ nghiệp vụ, thu thập, thụ lý hồ sơ công an làm bằng
chứng xác minh. Khi xảy ra tai nạn nếu có mặt đợc của giám định viên thì quá tốt.
5. Đánh giá lại toàn bộ giải pháp của công ty
Những giải pháp của bốn công ty đã nêu ở phần trên ngoài những nét riêng biệt ra,
họ đều có điểm chung trong quá trình thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ vì đều chung mục đích là thực hiện tốt nghiệp vụ và tuân thủ Nghị định 115/CP.
Các công ty đều đa ra các giải pháp:
- Tăng cờng tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ xe.
- Kết hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp chính quyền chức năng liên quan, cùng
với cảnh sát giao thông trong khám định tai nạn.
- Đa ra mức và hình thức xử phạt cụ thể do Bộ Tài chính cùng hiệp hội bảo hiểm và
cơ quan công an thống nhất chung.
6. Một số kiến nghị
Trong điều kiện khắc nghiệt của nền kinh tế thị trờng cạnh tranh và đào thải rất cao,
sự dậm chân tại chỗ của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đồng nghĩa với sự tụt hậu và
thất bại. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trong thị trờng bảo hiểm hiện nay, các công
ty phải liên tục đổi mới và tìm ra các biện pháp khắc phục hạn chế và phát huy những mặt
mạnh của mình để thích nghi với tình hình mới. Đối với một doanh nghiệp trẻ nh PJICO,
nghiệp vụ BHTNDS chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba không chỉ có ý nghĩa nâng cao
doanh thu hàng năm mà còn có mục đích xã hội rất lớn, góp phần tạo sự an toàn cho xã
hội và mang lại lợiích cho ngời tham gia bảo hiểm. Để khai thác một cách có hiệu quả nhất
nghiệp vụ này, đòi hỏi ngoài việc nhà nớc phải đa ra Bộ luật bảo hiểm hoàn thiện nhằm
tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động thì việc tìm kiếm những giải
pháp tốt nhất nhằm hoàn thiện nghiệp vụ này là rất cần thiết. Sau đây, em xin có một số ý
kiến đề xuất nhằm góp phần triển khai tốt hơn về nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ
xe cơ giới đối với ngời thứ ba.
a. Công tác khai thác
Thứ nhất, đó là vấn đề tuyên truyền quảng cáo trong quần chúng nhân dân, đây là
giải pháp cơ bản để đạt đợc kết quả cao trong khâu khai thác. Các hình thức tuyên truyền
quảng cáo nh sách báo, tạp chí, radio, vô tuyến truyền hình.
Thứ hai là vấn đề liên quan đến việc chào phí và thu phí, Công ty nên đa ra nhiều
biểu phí mới để phù hợp với từng loại xe trong điều kiện hiện nay, đồng thời nâng cao
mức trách nhiệm của bảo hiểm nhằm khuyến khích các chủ xe tham gia. Mặt khác, công ty
nên cử cán bộ xuống tận nơi khách hàng tham gia để chào phí và thu phí, giải thích cặn kẽ
sẽ giúp họ nhanh chóng đa ra quyết định. Nếu họ đồng ý tham gia thì ký kết hợp đồng và
thu phí.
Thứ ba: xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, phân chia khách hàng thành nhiều
loại để tiện cho việc khai thác, tập trung khai thác khách hàng quan trọng và quen thuộc,
cần có chính sách u đãi hợp lý với từng loại khách hàng.
Thứ t: xây dựng và quản lý một hệ thống đại lý có hiệu quả. Đồng thời mở các lớp
tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ, cộng tác viên để đáp ứng nhu
cầu thực tế hiện nay. Công ty phải thờng xuyên giám sát hoạt động của các đại lý, cụ thể
bằng cách đóng giả ngời mua hàng đa ra các tình huống để xem xét ứng xử của đại lý ra
sao để từ đó rút ra kinh nghiệm nhằm hớng dẫn lại cách đối xử với khách hàng mang lại sự
thoả mãn cho khách hàng. Công ty nên có sự thởng phạt đúng đắn với các cán bộ Công ty.
Thứ năm: đẩy mạnh phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng nh cảnh sát giao
thông, Sở giao thông công chính, Cục thuế, các trạm đăng kiểm… Trong việc khai thác
bảo hiểm khi làm các thủ tục nh nộp thuế trớc bạ, đăng ký xe, cấp bằng lái… Công ty cần
hớng dẫn bằng các văn bản pháp lý cụ thể có liên quan đến BHTNDS chủ xe cơ giới đối
với ngời thứ ba về việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Cần thực hiện dán tem
bảo hiểm cho phơng tiện xe cơ giới (đặc biệt là xe máy, đây sẽ là giải pháp hữu hiệu
không chỉ cho công ty mà còn thuận tiện cho cảnh sát giao thông trong việc nhận diện xe
đã tham gia bảo hiểm. Phối hợp với ngành sản xuất giao thông để thống kê một cách chính
xác, đầy đủ số lợng xe cơ giới lu hành. Điều này giúp cho PJICO dự đoán thị trờng, mở
rộng thị phần để đẩy mạnh công tác khai thác hơn.
b. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Công tác này có vị trí quan trọng không chỉ ảnh hởng đến kết quả kinh doanh
nghiệp vụ mà còn ảnh hởng đến toàn xã hội. Vì vậy, PJICO cần phải quan tâm hơn đến
vấn đề này bằng cách:
- Đề xuất kiến nghị với ngành giao thông vận tải, giao thông công chính thờng
xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa sang đờng xá, cầu cống... định kỳ hàng năm tiến hành tổ
chức các lớp tập huấn cho lái xe, đề cao trách nhiệm của lái xe trong việc đảm bảo an toàn
giao thông, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật xe.
- Phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan và các chủ xe để khen thởng, động
viên và hỗ trợ kịp thời đối với những đơn vị thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế
tổn thất.
- PJICO cần phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tai nạn để đa ra những biện
pháp hạn chế, ngăn ngừa, khắc phục những ảnh hởng của nguyên nhân đó.
- Tăng chi phí cho đề phòng và hạn chế tổn thất.
c. Công tác giám định bồi thờng
- Công ty cần phải có những cán bộ giám định có chuyên môn, phẩm chất đạo đức
và có hiểu biết về pháp luật để giúp các cán bộ dễ dàng giải quyết các hồ sơ bồi thờng một
cách nhanh gọn, bỏ bớt các thủ tục không cần thiết.
- PJICO cần phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an trong việc thu thập hồ sơ
để giải quyết bồi thờng. Tránh tình trạng chủ xe và ngời bị nạn gian lận nhằm trục lợi bảo
hiểm.
- Công ty cần xây dựng củng cố và nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc thông suốt
giữa các văn phòng đại lý và chi nhánh. Đối với bộ phận cán bộ giám định và thanh tra cần
phải đợc trang bị hệ thống máy móc hoàn thiện hơn. Có nh vậy, mới thu nhận và xử lý
thông tin nhanh chóng kịp thời, tạo điều kiện thuận tiện cho việc giải quyết bồi thờng cũng
nh tận dụng đợc những thời cơ thuận lợi.
- Đối với các thủ tục giải quyết bồi thờng cần ngắn gọn chính xác, hớng dẫn khách
hàng làm các giấy tờ cần thiết khi đợc bồi thờng để tránh cho khách hàng phải đi lại nhiều
lần để tạo tâm lý thoải mái cho ngời không may gặp rủi ro.
- Tăng cờng công tác kiểm tra, xác minh, giải quyết hồ sơ khách hàng, đơn giản hoá
thủ tục giải quyết bồi thờng. Các hồ sơ có liên quan tới cơ quan toà án xử lý, Công ty phải
có sự thoả thuận lại với cơ quan toà án tối cao.
- Công ty nên xây dựng và phân phối bồi thờng cho các văn phòng đại diện và các
đơn vị trực thuộc nhằm tạo mối quan hệ chặt chẽ về pháp lý, chế độ tài chính theo điều
khoản bảo hiểm. Nên có những quy định cho văn phòng tự giải quyết bồi thờng những vụ
tai nạn nhỏ. Thờng xuyên kiểm tra, thanh tra tình hình xét duyệt bồi thờng ở các đơn vị
trực thuộc.
a. Công tác khác
- Tăng cờng công tác đào tạo tại chỗ chủ yếu là tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ công
nhân viên, cộng tác viên. Công ty nên chú ý tuyển những cán bộ, nhân viên có trình độ
nghiệp vụ, năng động và khả năng giao tiếp tốt.
- Tăng cờng công tác t tởng, giáo dục chính trị, phong cách đạo đức ngời cán bộ bảo
hiểm nhằm đảm bảo uy tín cho PJICO trên thị trờng bảo hiểm.
- Hỗ trợ chi phí cho việc giao dịch chào bảo hiểm những khách hàng lớn.
- Tăng cờng công tác quản lý, thực hiện quy chế giám sát kiểm tra đối với các đơn
vị trong toàn công ty, đặc biệt là trong vấn đề chi tiêu tài chính cần phải rõ ràng, chính xác.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ BHTNDS chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba là tấm lá chắn cuối cùng
giúp cho các chủ phơng tiện xe cơ giới đảm bảo an toàn giao thông. Nghiệp vụ này tuy ra
đời muộn nhng nó có ý nghĩa quan trọng tỏng việc hạn chế tổn thất quá lớn do xe cơ giới
gây ra đồng thời góp phần ổn định tài cính cho các chủ phơng tiện và khắc phục thiệt hại
của ngời thứ ba. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn đóng góp cho ngân sách nhà nớc một khoản
tiền không nhỏ nhằm thúc đẩy đầu t phát triển toàn diện về mặt kinh tế xã hội.
Qua thực tế triển khai nghiệp vụ BHTNDS chủ xe cơ giới đối với ngời thứ ba tại
Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, dới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo công ty, công ty đã
thu đợc kết quả đáng mừng. Mặc dù vậy, để phát triển mở rộng và thu đợc kết quả cao hơn
nữa, công ty cần phải có những biện pháp khắc phục hạn chế đã đợc đề cập nhằm hoàn
thiện hơn nghiệp vụ này. Chúng ta tin tởng rằng trong những năm tới PJICO sẽ là công ty
phát triển toàn diện hơn trên thị trờng bảo hiểm Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ BHTNDS.pdf