Thực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta những năm qua

Đề tài: Thực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp, Nông thôn nước ta những năm qua MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Nghiên cứu sự cần thiết của đề tài. Trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta có bước phát triển, tăng trưởng đáng mừng, đời sống vật chất, tinh thần của nông dân được cải thiện. Song dưới tác động của cơ chế và chính sách kinh tế mới, đang xuất hiện nhiều quá trình, hiện tượng xã hội phức tạp, mang tính hai mặt. Một trong những vấn đề đó là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Nếu như trong nhiều năm, kinh tế nông nghiệp giữ được nhịp độ tăng trưởng cao, ổn định thì trái lại, áp lực về việc làm có xu hướng gia tăng và nổi lên như một vấn đế bức xúc. Bởi lẽ đến nay vẫn còn 80 dân số và hơn 70 lực lượng lao động của cả nước ở khu vực nông thôn. Đặc biệt có đến 90 có số hộ đói nghèo đang sinh sống ở nông thôn, và như vậy, vấn đề nhân lực , nguồn lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên nước ta gắn với vùng nông thôn rộng lớn. Muốn đất nước phát triển, tăng trưởng bền vững, vấn đế cơ bản là phải giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. Đây không chỉ là khâu then chốt mà là tính cảm trách nhiệm đối với dân. Đại hội V, trong nhiệm vụ tập trung tạo việc làm đã chỉ rõ: “Khuyến khích mọi thành phần, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Mọi công dân dược tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên những địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. Báo cáo chính trị trình đại hội X tại mục V.2 nói về dân số và việc làm có ghi: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Em xin chân thành cảm ơn cô Vũ Thị Minh và trung tâm thư viện trường đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.Do trình độ hiểu biết còn hạn chế, điều kiện thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và bạn bè về vấn đề này để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện 2. Mục đích nghiên cứu đề tài. -Nghiên cứu và hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn. -Phân tích đánh giá đúng thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở Việt nam. -Đề xuất một số quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. 3. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong ba phần: Phần : Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Phần : Thực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp nông, thôn nước ta những năm qua. Phần : Các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta từ nay đến 2010.

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3415 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết hàng loạt vấn đề như :Phát huy đầy đủ tác dụng của hệ thống thương nghiệp, dịch vụ ( cả quốc doanh và ngoài quốc doanh ), đẩy mạnh sản xuất công nghiệp nông thôn; xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ xã hội hoá nông thôn; đồng thời phát triển các thị trấn, thị tứ, và từng bước đô thị hoá nông thôn, để vừa nâng cao cơ hội có nhiều việc làm cho nông dân; vừa đáp ứng nhu cầu bức thiết của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu việc làm ở nông thôn. Thực tế cho thấy, chỉ tính 5 năm ( 1981- 1985 ) tỷ lệ lao động việc làm ở Trung Quốc đã tăng hơn 3 lần. Lao động trong công nghiệp nông thôn cũng tăng theo hướng cân đối và hợp lý hơn. -Ba là: Phát triển mạnh mẽ loại hình xí nghiệp hương trấn, vì loại hình này có nhiều ưu thế, như sử dụng vốn ít, kỹ thuật đơn giản, mức lương tương đối thấp, có khả năng thu hút nhiều lao động. Theo thống kê, trong vòng 10 năm từ 1981-1990, số nhân viên làm việc trong các xí nghiệp hương trấn đã tăng từ 28.28 triệu lên 92.65 triệu người, chiếm 25.8% tổng số lao động trên cả nước và 23% tổng số lao động nông thôn ( thậm chí có nơi đã thu hút tới 50% lao động nông thôn ). Năm 1992 đạt hơn 100 triệu người, tăng hơn 4 triệu người so với năm 1992. Mặt khác, cơ cấu sản phẩm của các xí nghiệp này cũng rất đa dạng và phong phú, từ hàng tiêu dùng đến hàng xuất khẩu. Riêng làm hàng xuất khẩu và gia công cho nước ngoài, năm 1989 đã đem lại hơn 9 tỷ đô la, nhiều hơn so với ngành du lịch. Trong tương lai, loại xí nghiệp hương trấn có tác dụng rất lớn, không những tiép tục sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dôi thừa ở nông thôn, mà còn “là con đường tất yếu làm phồn vinh kinh tế nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, thúc đẩy hiện đại hoá nông nghiệp”. -Bốn là: Đổi mới cơ chế quản lý lao động và việc làm, theo hướng giải phóng tối đa sức sản xuât và phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi một người lao động. Đồng thời tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, ý thức của người dân trong việc thực hiện chương trình dân số, xây dựng mạng lưới sinh đẻ có kế hoạch ở khắp làng, xã, huyện; lấy chủ trương sinh đẻ có kế hoạch là quốc sách lâu dài, để tạo sự cân bằng sinh thái, hạn chế tối đa mức tăng nhân khẩu cũng như lao động ở nông thôn, góp phần cùng các biện pháp nêu trên làm thay đổi toàn diện bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn, đưa nông thôn Trung Quốc bước và một giai đoạn mới - giai đoạn “tăng trưởng có phát triển”. 1.3.2 Kinh nghiệm của các nước ASEAN Dù mỗi nước có nét đặc thù, nhưng nhìn chung, các nước ASEAN lại tương đối giống nhau trên những mặt chủ yếu về việc làm và lao động, cụ thể là trình độ phát triển kinh tế chưa cao, lao động còn dư thừa nhiều,.. Dưới đây là những kinh nghiệm trong việc sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nông thôn. -Một là: Tập trung sức phát triển nông nghiệp nông thôn, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động. Sở dĩ như vậy, là vì hầu hết các nước ASEAN vốn là các quốc gia nông nghiệp lạc hậu, dân số đông, lao động dư thừa nhiều. Để thực hiện vấn đề này, tạo đà cho sự phát triển mới, Chính phủ các nước ASEAN đã tiến hành cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho các hộ nông dân; khuyến khích họ tích cực lao động tạo ra nhiều việc làm, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng vòng quay của đất, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi và thương mại hoá sản phẩm... Mặt khác các chính phủ còn có nhiếu chính sách nhằm nâng cấp các cơ sở hạ tầng, cải thiện thuỷ lợi, đường xá, thông tin liên lạc... để các luồng sản phẩm được lưu thông thông suốt trong thị trường quốc gia cũng như thị trường quốc tế. Nhờ vậy, mà số lượng việc làm của người nông dân đã tăng lên đáng kể, tình trạng thiếu việc làm được khắc phục nhiều so với trước. -Hai là: Chuyển mạnh nền kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại, từ nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp sang dịch vụ, coi đó là động lực phát triển kinh tế- xã hội và giải quyết việc làm của mỗi nước. Để thực hiện điều đó, các nước thành viên ASEAN đã kết hợp chặt chẽ giữa các sản phẩm nông nghiệp truyền thống, các sản phẩm chiếm nhiều lao động như dệt, may mặc... với các sản phẩn công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Nếu như trước đây ASEAN chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thì những năm 80 đã chuyển sang xuất khẩu bán thành phẩm và hiện nay đang chuyển sang xuất khẩu thành phẩm hoàn chỉnh có kỹ thuật cao. Đó cũng là con đường cơ bản để các nước ASEAN sử dụng hợp lý nguồn lao động và giải quyết việc làm một cách có hiệu quả. Lúc đầu, lao động trong nông nghiệp còn chiếm phần lớn ( khoảng 3/4 lực lượng lao động xã hội ), nhưng sau đó tỷ lệ này giảm dần cùng với quá trình tăng tỷ lệ lao động trong các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ. Càng về sau, tỷ lệ lao động trong các ngành dịch vụ ( kinh doanh, dịch vụ tư nhân, dịch vụ công cộng...) càng chiếm ưu thế so với công nghiệp và nông nghiệp. Nhờ vậy, các nước ASEAN đã tạo ra một khối lượng lớn việc làm làm thay đổi cơ cấu lao động trong các nganhf kinh tế, giảm được đáng kể nạn thất nghiệp. -Ba là: Phát triển mạnh mẽ các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Thực tiễn những năm qua ở các nước ASEAN đã khẳng định rằng việc phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, không những tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động mà còn góp phần giải quyết được những vấn đề kinh tế- xã hội phức tạp khác. Chính các xí nghiệp vừa và nhỏ đã cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá dịch vụ, tạo nên nguồn xuất khẩu quan trọng, tạo khả năng tăng nhanh nguồn tiết kiệm và đầu tư của nông dân, tăng nhanh các quỹ phúc lợi; đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực ở địa phương mà không đòi hỏi vốn đầu tư lớn của Nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, chính phủ các nước ASEAN đã đề ra và thực hiện nhiều chương trình đặc biệt như: + Miễn giảm thuế từ 5-7 năm trong trường hợp sản xuất để xuất khẩu, miễn thuế thu nhập từ 3-4 năm trong trường hợp mở rộng sản xuất để xuất khẩu ở Singapo. + Bảo hiểm thương mại cho 90% tổn thất có thể xảy ra; miễn thuế và trả lãi suất tín dụng thơng mại, kể cả tín dụng nước ngoài, đào tạo các ngành kinh doanh, giúp đỡ kỹ thuật và giúp đỡ quy mô hoạt động của các xí nghiệp ở Malaysia. + Thực hiện chính sách tài chính, giảm chi tiêu các khoản chưa cần thiết; hỗ trợ các hàng hoá xuất khẩu; tăng sức canh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế ... ở Thái Lan. + Tăng cường thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, để khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mỗi nước ở Thái Lan, Malaysia... -Bốn là: Phát huy yếu tố con người - động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, Chính phủ các nước ASEAN luôn xác định rằng dân số của các nước họ đông, mật độ dân số cao, lại đi lên từ nông nghiệp lạc hậu nên vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người lao động giản đơn tay nghề thấp. Điều này, vừa có ý nghĩa là thừa lao động nếu không giải quyết được công ăn việc làm; vừa có ý nghĩa là thiếu lao động nếu như không tổ chức lao động, bồi dưỡng đào tạo nguồn lao động có trình độ nhất định phù hợp với quá trình công nghiệp hoá.Vì vậy, các nước ASEAN đã thường xuyên quan tâm đầu tư vào giáo dục, tập trung nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Kết quả là đã tạo nên một đội ngũ các nhà chiến lược hoạch định đường lối ở tầm quốc gia, một đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi, có học thức, có óc sáng tạo và một lực lượng công nhân lành nghề, có khả năng tiếp nhận kỹ thuật mới và biết ứng dụng vào sản xuất. Đồng thời trong nội dung giáo dục và đào tạo, Chính phủ các nước ASEAN luôn chú trọng bản sắc dân tộc, giáo dục tinh thần tự lực tự cường của dân tộc, có trách nhiệm đối với sự phồn vinh của đất nước, có trình độ tay nghề cao, có tinh thần cần cù sáng tạo và nề nếp kỷ luật lao động; từng bước làm thay đổi cách suy nghĩ, phương thức lao động và thói quen của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu trước đây thích ứng với những đòi hỏi của nền văn minh công nghiệp trong thời kỳ mới. Nhờ vậy mà nguồn lực con người trong các nước này sử dụng ngày càng hợp lý và có hiệu quả hơn. Tóm lại, chính những giải pháp nêu trên đã làm cho nền kinh tế của các nước ASEAN không những sống động, tăng trưởng nhanh; mà còn tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra môi trường thuận lợi để cho mọi người có thể tự tìm được việc làm và gia tăng thu nhập; góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của mỗi nước ngày càng phát trển cao. PHẦN II THỰC TRẠNG VIỆC LÀM TRONG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NƯỚC TA NHỮNG NĂM QUA 2.1 Vài nét về lực lượng lao động cho nông nghiệp, nông thôn 2.1. Số lượng lao động Tính đến thời điểm điều tra về lao động việc làm (ngày 1-1-1999) dân số nước ta có khoảng 76.327.885 người. Trong đó khu vực nông thôn là 58.409.700 người chiếm 76,53% so với cả nước. Điều này đồng nghĩa với việc lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao đông của cả nước.Ở khu vực nông thôn số nhân khẩu từ 15 tuổi trở lên so với dân số năm 1998 chiếm 36,37% và năm 1999 chiếm 67,75%. Số liệu trên cho thấy 2/3 dân số nông thôn từ 15 tuổi trở lên. Số lao động trong độ tuổi lao động (nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi), năm 1998 chiếm 55,74% và năm 1999 chiếm 57,43% dân số nông thôn. Như vậy quá nửa dân số nông thôn trong độ tuổi lao động, đây là một nguồn lực quý báu để phát triển nguồn sản xuất xã hội. Lực lượng lao động (gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu việc làm) khá lớn. Theo thống kê về lao động việc làm năm 1999 lực lượng lao động của cả nước là 37.783 triệu người. Số người đủ 15 tuổi trở lên thường xuyên có việc làm trong 12 tháng qua là 35.731 triệu người chiếm 94,56% lực lượng lao động thường xuyên. Cũng trong năm 1999 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thường xuyên trong dân số từ 15 tuổi trở lên là 71,19% trong đó khu vực thành thị là 62,38% còn ở nông thôn là 74,20% cao hơn khu vực thành thị và mức trung bình của cả nước. Lực lượng lao động ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng lực lượng lao động của cả nước. Năm 1996 có 29.028 triệu lao động chiếm 80,94%; năm 1997 có 28.963 triệu lao động chiếm 79,80%; năm 1998 có 29.757triệu lao động chiếm 79,55%; năm 1999 có 29.363 triệu lao động chiếm 77,71%. Bảng 1: Lực lượng lao động khu vưc nông thôn và cả nước qua các năm Năm Lao động cả nước (triệu người) Lao động khu vực nông thôn (triệu người) Tỷ trọng lao động nông thôn ( % ) 1996 35.860 29.028 80.94 1997 36.294 28.963 79.80 1998 37.406 29.757 79.55 1999 37.785 29.363 77.71 Nguồn: Thực trạng lao động việc làm các năm 1996,1997,1998,1999 Bộ lao động và thương binh xã hội và tổng cục thống kê Thông qua số liệu trên ta thấy lưc lượng lao động nông nghiệp, nông thôn có xu hướng giảm đi một cách tương đối trong mấy năm qua nhưng vẫn còn chiếm 77,71% lực lượng lao động cả nước . 2.1.2 Trình độ học vấn chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động khu vưc nông thôn còn thấp hơn nhiều so với thành thị . Trình độ học vấn của lao động khu vực nông thôn còn thấp và thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Năm 1999 tỷ lệ người chưa tốt nghiệp cấp một trong lực lượng lao động của khu vực nông thôn vẫn còn chiếm 24,99%, trong khi đó ở khu vực thành thị chỉ có 11,93%. Tỷ lệ tốt nghiệp cấp 3 của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn chỉ có 11% trong khi đó ở thành thị là 37,42%. Điều đó khiến cho lớp học bình quân mọi người ở khu vực nông thôn là 7/12. Trong điều kiện hiện nay rất cần lao động có chuyên môn, song lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn hiện tại vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Năm 1999 ở khu vực nông thôn Việt Nam có 23.377.000 người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chiếm 7,8% so với lực lượng lao động trong khu vực này. Hàng năm, lao động chuyên môn kỹ thuật trong nông thôn có tăng lên nhưng số lượng tăng và tỷ lệ tăng còn chậm. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 1999 so với năm 1996 bình quân hàng năm tăng được 272.000 người, với tốc độ tăng là 1,2%/(năm) trong khi đó ở khu vực thành thị tăng được 48,7 ngàn người, tốc độ tăng là 10,4%/năm. Số lao động trong nông thôn được đào tạo không đồng đều giữa các tỉnh, đến tháng 10 - 1999 ở một số tỉnh vẫn còn rất ít người lao động đã qua đào tạo như ở Lai Châu chỉ có 2.555 người trong tổng số 881.000 người dân toàn tỉnh, KonTum chỉ có 2.414 người trong tổng số 314.000 người lao động. Đối với cán bộ các hợp tác xã, trình độ quản lý còn thấp.Tổng kết 1.347 hợp tác xã đã chuyển đổi theo luật hợp tác xã. Ở 10 tỉnh phía Bắc cho thấy số chủ nhiệm hợp tác xã có trình độ đại học chỉ chiếm 6,3%, trung cấp chiếm 13,7%, sơ cấp chiếm 22,4% và chưa qua đào tạo chiếm 57,5%. Số kế toán trưởng có trình độ đại học chỉ chiếm 37,1%, trung cấp chiếm 12,5%, sơ cấp chiếm 48% và chưa qua đào tạo chiếm 37,1%. Không ít chủ nhiệm hợp tác xã, nhất là vùng sâu, vùng xa và miền núi mới chỉ qua trình độ văn hoá cấp 1, kế toán trưởng mới qua lớp tập huấn ngắn hạn. 2.1.3 Do lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật không nhiều, nên hầu hết lao động ở nông thôn nước ta là lao động nông nghiệp. Theo số liệu điều tra lao động việc làm năm 1999 cả nước có 22,725 triệu người làm việc trong ngành nông nghiệp, chiếm 63,69% tổng số lao động cả nước giảm hơn 3,2% so với lao động năm 1996. Cả nước có 4,45 triệu người làm việc trong ngành công nghiệp và trong ngành xây dựng chiếm 12,45% so với tổng số của năm 1999 khu vực lao động nông thôn qua điều tra có 27,806 triệu người thì có 21,585 triệu lao động làm việc trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp, chiếm 77,62% so với tổng số lao động, có 2,267 triệu lao động làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm 8,15% so với tổng số, có 3,954 triệu lao động làm việc trong ngành dịch vụ chiếm 14,23% so với tổng số lao động trong cả nước. Như vậy, đại bộ phận lao động nông thôn hoạt động trong các ngành nông-lâm-ngư nghiệp, các ngành công nghiệp và xây dựng và dịch vụ có xu hướng hiện nay là đẩy mạnh đầu tư phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ trong nông thôn, nhằm tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2.2 Những nghịch lý trong quan hệ lao động nông thôn Cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, gần 80% dân số và 73% lực lượng lao động xã hội tập trung ở nông thôn. Tính chất thuần nông còn thể hiện rõ ở sự phân bố lao động trong nông nghiệp, nông thôn và thu nhập của các hộ gia đình. Hiện tại phân chia lao động nông nghiệp diễn ra chậm chạp, có tới 78% lao động nông nghiệp, 7% lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, 15% lao động trong lĩnh vực dịch vụ. Xét về thu nhập của các hộ nông dân, 55,6% là từ sản xuất nông nghiệp, 5,06% từ sản xuất công nghiệp và chỉ có 17,5% từ dịch vụ và các hoạt động khác. Chính quá trình phân công lại lao động tiến triển không đáng kể đã hạn chế rất lớn đến khả năng tận dụng và khai thác nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn, gây nên sự lãng phí lao động rất lớn. Trong số 27,8 triệu lao động, có tới 30% lao động thiếu việc làm, thời gian sử dụng trong năm mới đạt 72,9%. Số lao động thất nghiệp hoàn toàn đang tăng nhanh, năm 1996 mới có 0,6%, năm 1997 là 2,2,%, sang năm 1998 tỷ lệ thất nghiệp đã lên tới 3,1%. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có tiềm năng phát triển nông nghiệp lớn nhất cả nước, trong số 9,6 triệu lao động đã có gần 2 triệu người không có việc làm. Cứ theo đà này, đến năm 2002 lao động nông thôn không có việc làm có thể đạt tới trên 5% - đây là một chỉ số không có lợi cho an toàn xã hội và sự phát triển bền vững. Từ phân công và sử dụng nguồn nhân lực lao động nông thôn đang nảy sinh ít nhất ba nghịch lý đáng lo ngại. Một là nông nghiệp nước ta còn nhiều tiềm năng cần được khai thác (đất trống, đồi trọc còn 10 triệu ha, mặt nước ao hồ còn 1,4 triệu ha..), rất cần đến nguồn lực quý nhất, con người nhưng do thiếu các phương tiện và các điều kiện cơ bản nên nguồn lực này chưa được phát huy, bị lãng phí và từ là một lợi thế nguồn lực này đã trở thành một áp lực xã hội gay gắt. Hai là trong nông thôn nảy sinh quan hệ thừa thiếu lao động giả tạo: thừa lao động phổ thông, nhưng lại rất thiếu lao động có trình độ học vấn cao, đã qua đào tạo nghề nghiệp. Nhu cầu đối với loại lao động ngày càng lớn, nhất là tại các khu vực công nghiệp, công nghiệp tiên tiến hiện đại. Ba là, trong khi lao động nông thôn đang thừa và thất nghiệp với tỷ lệ cao, thì cường độ lao động ở một bộ phận nhân lực - đặc biệt là phụ nữ lại rất cao, mặc dù đây là đối tượng có nguy cơ thất nghiệp lớn nhất. Điều này càng chứng thực những bất cập trong phân chia lao động xã hội và khả năng hạn hẹp trong quá trình giải phóng sức lao động nói chung, lao động nữ nói riêng. 2.3. Thực trạng lao động ở nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức: đó là tình trạng ruộng đất ít, thiếu việc làm, thừa lao động, và chất lượng lao động thấp. Đến cuối năm 1998, cả nước có trên 29 triệu lao động ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng 75% tổng số lao động xã hội, trong đó lao động nông nghiệp chiếm khoảng 80% tổng số lao động nông thôn. Hàng năm số lao động nông thôn tăng thêm khoảng 2% do tăng tự nhiên (tương đương nửa triệu người), nhưng đất nông nghiệp lại không tăng cùng nhịp độ lao động. Năm 1998 so với năm 1995 diện tích đất nông nghiệp của cả nước chỉ tăng thêm 200 nghìn ha (2,8%) bình quân 0,5%/năm, chủ yếu là do tăng diện tích trồng cây lâu năm ở Tây Nguyên và đất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, do khai hoang ở ven các đô thị, vùng đồng bằng Sông Hồng và vùng duyên hải Miền Trung do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và san tách hộ ở các thành thị và nông thôn, diện tích trồng cây hàng năm kể cả đất lúa giảm dần. Tốc độ giảm quy mô đất nông nghiệp và đất cây trồng hàng năm bình quân nhân khẩu và lao động nông nghiệp khoảng 1,5%/năm. Với xu hướng và tốc độ giảm quỹ đất như hiện nay thì dù cho thâm canh, tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng đến mức cao như Đồng bằng sông Hồng vẫn không khỏi sự mất cân đối lớn giữa đất đai và lao động trồng trọt. Năm 1998 bình quân một lao động nông nghiệp chỉ làm việc khoảng 150 ngày trong năm, đảm đương 0,4 ha diện tích gieo trồng, bằng 90% mức đạt được của năm 1991. Chăn nuôi về cơ bản vẫn phát triển theo quy mô hộ gia đình, tận dụng thời gian nhàn rỗi và lao động phụ. Hình thức trang trại quy mô lớn chưa phát triển nên lao động và việc làm trong ngành này chưa có tác dụng giảm sức ép của lao động dư thừa trong ngành trồng trọt. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ trồng trọt sang chăn nuôi diễn ra chậm chạp và tự phát. Ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long xu hướng chuyển dịch lao động nông nghiệp phổ biến theo chiều ngược lại, làm cho tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm trong ngành trồng trọt lại nghiêm trọng hơn. Sau Nghị quyết Trung ương khoá V vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển dần lao động nông nghiệp sang ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp tuy có khởi sắc ở một số vùng nhưng trên phạm vi cả nước còn rất chậm và không rõ nét. Công nghiệp và dịch vụ ở nông thông trong tình trạng phát triển tự phát, chưa có quy hoạch kế hoạch và đầu tư thỏa đáng nên chưa có các mô hình đủ sức thuyết phục làm cơ sở cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động trên các vùng, các địa bàn nông thôn. Thực trạng được lúa mất ngành nghề vẫn còn phổ biến từ Miền Bắc đến Miền Nam. Ở vùng Đồng bằng sông Hồng vốn có nhiều làng nghề với các ngành nghề thủ công truyền thống như mộc, nề, dệt, may, mỹ nghệ, gốm sứ... nhưng những năm qua vẫn trong tình trạng sa sút cả về sản xuất và thị trường. Hàng vạn lao động ngành nghề lại quay về với nông nghiệp làm tăng đội quân thiếu việc làm ở nông thôn. Theo số liệu của chương trình cấp Nhà nước KX.08 “ phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn” đến năm 1996 trên địa bàn nông thôn của cả nước có 6-7 triệu lao động dư thừa không có việc làm thường xuyên, trong đó có trên 50% chỉ có việc làm từ 3-4 tháng trong năm. Số lượng lao động nông nhàn tăng lên, trong khi việc làm ở nông thôn ngày càng thiếu, làm nảy sinh các mặt tiêu cực và tệ nạn xã hội. Dòng người di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, từ nông thôn ra thành thị để hy vọng tìm kiếm việc làm ngày càng tăng. Đến nay có khoảng nửa triệu lao động nông thôn đang làm các công việc giản đơn ở các thành phố, khu công nghiệp; trong đó riêng thành phố Hà Nội có khoảng 200 nghìn người làm đủ các ngành nghề để kiếm sống. Lao động thừa, việc làm thiếu, nền kinh tế nông thôn phát triển chậm, thu nhập và đời sống dân nông thôn thấp xa so với thành thị. Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người ở khu vực nông thôn thời kỳ 1991 – 1995 là 2,7% so với 8,8% ở thành thị, thu nhập của dân cư nông thôn chỉ bằng 54,5%, trong đó dân nông nghiệp chỉ bằng 48,3% thu nhập bình quân dân thành thị; cơ cấu kinh tế nông thôn đến nay vẫn mất cân đối lớn, chủ yếu là nông nghiệp 74,53%; công nghiệp và xây dựng 9,73%; dịch vụ 15,74%. Tăng trưởng kinh tế hcung của cả nước chưa có tác động rõ nét đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải phóng lao động nông thôn và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Mặc dù trong 15 năm đổi mới, đất nước đã có nhiều đổi thay đáng phấn khởi, nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng và bước đầu tăng trưởng ổn định với nhịp độ 8%/năm, bộ mặt thành thị, nông thôn khởi sắc, đời sống nông dân được cải thiện. Đó là thực tế rất đáng tự hào song xã hội nông thôn còn có nhiều vấn đề nổi cộm, trong đó thiếu việc làm, lao động dư thừa ngày càng nhiều, trình độ dân trí và nghề nghiệp của nông dân rất thấp dẫn đến thu nhập thấp. Đặc biệt là nông thôn vùng sâu, vùng núi cao còn nhiều khó khăn; khoảng cách về kinh tế và đời sống giữa nông thôn với thành thị, giữa miền núi và miền xuôi còn lớn và có xu hướng gia tăng. Đây đang là thách đố của quá trình đổ mới hiện nay. Đất nước đang bước vào thời kỳ CNH-HĐH trong đó nhiệm vụ song song với mức tthu nhập được cải thiện, tình trạng thiếu lương thực trên diện rộng đã được khắc phục một số vùng thiên tai, vùng sâu, vùng xa, đời sống tinh thần của nhân dân có nhiều tiến bộ. Năm 1999 tỷ lệ số hộ có máy thu hình lên đến 32,8%; 70% số hộ đã có điện, riêng vùng đồng băng sông Hồng là 95%. Thu nhập bình quân nhân khẩu đạt từ 212 ngàn đồng tăng gấp 1,5 lần so với năm 1994 nhưng chỉ bằng 28% so với khu vực thành thị. 2.4. Những kết quả đạt được trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn thời gian qua. Vấn đề giải quyết việc làm được triển khai bước đầu đã có chuyển biến nhưng chưa căn bản, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước ta tích cực giải quyết, đã có nhiều dự án, chính sách tạo thêm việc làm đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ với hàng triệu người có việc làm, tăng thu nhập ổn định, góp phần tăng thu nhập kinh tế và cải thiện đời sống của người lao động. Ngay từ đầu năm 1999 Chính phủ và các cấp, các ngành đã tích cực triển khai nhiều biện pháp nhằm giảm bớt tình trạng thiếu việc làm. Theo báo cáo sơ bộ 9 tháng đầu năm 1999 thì thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết việc làm cho 121 ngàn người, Đồng Nai 50 ngàn người, Phú Yên 19 ngàn người...Nhà nước còn đưa ra chương trình giải quyết việc làm với nhiều giải pháp tích cực và và với nguồn vốn không nhỏ. Ở nhiều địa phương còn lồng ghép chương trình giải quyết việc làm với chương trình xoá đói giảm nghèo và các chương trình khác nên đã tạo được nguồn vốn tín dụng đáng kể cho người nghèo vay như Thừa Thiên Huế đã cho 62.700 hộ nghèo vay với số vốn là 99 tỷ đồng, Bắc Ninh cho 50 ngàn hộ vay với số vốn là 67 tỷ đồng, Cần Thơ cho 27 nghìn hộ vay với số vốn là 43,5 triệu đồng. Bắc Giang cho 5.500 hộ vay với số vốn là 13 tỷ đồng... Tuy nhiên số người thiếu việc làm và không có việc làm vẫn chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên từ 15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn còn thấp. Cả nước chiếm 70,88%, đồng bằng Sông Hồng 72,01%; Đông Bắc chiếm 66,83%; Tây Bắc chiếm 66,35%; Bắc Trung Bộ chiếm 68,97%; Tây Nguyên 76,97%; Đông Nam Bộ 74,46% và đồng bằng Sông Cửu Long 71,32%. Do nhiều nguyên nhân nên tác dụng và hiệu quả của các chương trình và đề án chưa cao. Đồng vốn từ trung ương về đến địa phương về đến người dân nông thôn còn nhiều cửa ải, nhiều cấp trung gian nên hao hụt thất thoát lớn, phương án sử dụng lại không cụ thể. Trồng cây gì, nuôi con gì, mở mang ngành nghề, dịch vụ nào để thu hút lao động tạo thêm việc làm, thêm sản phẩm hàng hoá còn là ẩn số chưa được các ngành các cấp quan tâm. phải chăng nguyên nhân cơ bản là chúng ta chưa có chiến lược lâu dài về lao động và việc làm ở nông thôn ở tầm vĩ mô. Chương trình dự án đã và đang thực hiện chỉ có tính chắp vá, nhất thời nhằm giải quyết những yêu cầu bức xúc trước mắt của một bộ phận lao động nông thôn ở một vùng cụ thể. Cho đến nay vấn đề việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc của xã hội, nhất là nước ta bước vào kế hoạch 5 năm (giai đoạn 2001-2005) thì đối tượng giải quyết việc làm không chỉ bó gọn trong 6-7 % lao động xã hội chưa có việc làm mà thực chất còn có tới 2,5 triệu lao động thất nghiệp ở thành thị, khoảng 9 triệu lao động ở nông thôn thường xuyên thiếu việc làm. Ngoài ra hàng năm có 1,2 triệu lao động đến tuổi lao động cần việc làm phần lớn là ở nông thôn. Như vậy trong 5 năm (2001-2005) cần giải quyết việc làm cho khoảng 6,5 triệu lao động phân chia theo các đối tượng sau: -Thanh niên đến tuổi lao động không đi học tiếp: 4,5 triệu học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp 60 vạn người. -Lao động nông thôn bị mất đất canh tác khoảng 50 vạn người. -Đối tượng xã hội hết hạn cải tạo khoảng 30 vạn người. -Công nhân viên chức không có việc làm khoảng 10 vạn người. -Còn lại là các đối tượng khác khoảng 50 vạn người. 2.5. Nguyên nhân và hậu quả của xã hội trực tiếp. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp trong nông thôn có nhiều nguyên nhân. Rõ nhất là do quỹ đất canh tác nông nghiệp nước ta ít, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Bình quân đất đai trên một nhân khẩu nông nghiệp là 1034m2; thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng: 556m2; khu bốn cũ là 631m2; miền núi và trung du phía Bắc 832m2; duyên hải miền Trung 849m2; Tây Nguyên 1381m2; Đông Nam Bộ 1757m2 và vùng Đồng bằng sông cửu Long là 1927m2. Bình quân đất canh tác trên một nhân khẩu nông nghiệp của nước ta thuộc loại thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á: Inđônêxia 2800m2; Philippin 3100m2; Thái Lan 61002; Malaixia 9100m2. Bình quân đất đai cho một lao động nông nghiệp là 1983m2, trong đó Đồng bằng Sông Hồng là 1048m2, khu Bốn Cũ 1294m2, duyên hải Miền Trung 1605m2, Miền Núi và trung du phía Bắc 1679m2, Tây Nguyên 2764m2, Đông Nam Bộ 3018m2, Đồng bằng sông Cửu Long 3462m2. Quỹ đất canh tác đã ít nhưng hàng năm phải lấy hàng chục vạn đất trồng lúa để xây dựng kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, khu chế xuất và mở rộng các đô thị. Ở nông thôn một số vùng đã xuất hiện xu hướng tích tụ ruộng đất, số lao động thiếu đất và không có đất tăng lên. Đối với đại bộ phận nông dân không có đất nghĩa là không có việc làm, là thất nghiệp. Riêng các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long đã có tới 1,4 triệu hộ nông dân không có ruộng. Tình hình ruộng đất ít ở nông thôn gây ra dư thừa lao động trong các lứa tuổi cần có việc làm. Đó là tiền đề về lao động để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Nhưng quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn lại diễn ra chậm chạp, ít được hỗ trợ các điều kiện cần thiết (vốn, tín dụng, thuế, tìm kiếm thị trường...), chủ yếu mới dừng lại ở việc khôi phục các làng nghề truyền thống; công nghiệp nông thôn -nhất là công nghiệp chế biến hàng nông sản hàng hoá - ít phát huy tác dụng, không đủ sức dung nạp số lao động dư thừa. Đa dạng hoá ngành nghề là một nhu cầu tất yếu, góp phần đắc lực trong việc giải toả áp lực việc làm nhưng chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1988 đến năm 1996, số hộ và cơ sở ngành nghề tăng hàng năm từ 8,6 - 9,8 %; hai năm 1997 và 1998 đã nhích lên 10 - 11 % nhưng vẫn thấp. Vì thế, hiện nay ở nông thôn, hộ thuần nông còn quá cao, chiếm 62,2%, hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề phi nông nghiệp gần 26,55%, hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp gần 11,3 % tổng số hộ nông thôn. Trong khi đó tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn còn cao, trung bình một phụ nữ có 3,2 - 3,5 con, hàng năm có thêm 75- 80 vạn người bước vào độ tuổi lao động, càng làm cho áp lực về việc làm thêm gay gắt. Nguồn nhân lực nông thôn đông về số lượng, nhưng còn hạn chế về chất lượng, chỉ có 30 - 35% tốt nghiệp trung học, 7,7% được qua đào tạo. Tính ra cứ 1000 lao động nông thôn thì có 4,4 người được đầo tạo kỹ thuật về nông, lâm, ngư nghiệp. Đáng chú ý là có tới 75% số hộ chủ thuần nông và 90% số người ở độ tuổi lao động phi nông nghiệp không được đào tạo nghề, không có một chuyên môn kỹ thuật nào. Trong khi tiến độ CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đang diễn ra khá nhanh thì lao động nông thôn đã qua đào tạo lại tăng hết sức chậm, hai năm 1997 - 1998 chỉ tăng 0,1%. Trong số lao động thất nghiệp ở nông thôn, tỷ lệ lao động nữ rất cao. Bởi lẽ, lao động nữ chiếm 70% lao động nông thôn, nhưng chỉ có 8% tốt nghiệp phổ thông trung học và còn trên 20% mù chữ. Đặc biệt lao động nữ nông thôn hầu như không được qua đào tạo tay nghề, tập huấn kỹ thuật và họ có rất ít cơ hội tìm kiếm việc làm mới, cải thiện thu nhập và đời sống. Thêm vào đó, người lao động nông thôn còn chưa thật sự thích nghi với quan hệ cung - cầu lao động trong cơ chế thị trường, ít chủ động, còn ỷ lại và mang nặng tâm lý chờ đợi của thời bao cấp. Vì thế, thị trường lao động nông thôn còn mang nặng tính tự phát, thiếu linh hoạt không theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế và phân công lại lao động xã hội trong phạm vi toàn quốc. Thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông thôn dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực. Phần lớn các hộ đói nghèo không có việc làm và thu nhập ổn định. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm rộng khoảng cách giữa hộ giàu và hộ nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực xã hội. Năm 1994 chênh lệch giữa hộ giàu và hộ nghèo mới chỉ có 6,48 lần, năm 1995 là 6,99 lần năm 1996 là 7,31 lần, năm 1997 là 7,37 lần và năm 1998 đã lên đến 8,2 lần. Hiện tượng này vẫn đang có xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo về thu nhập tất yếu dẫn đến phân tầng văn hoá, giáo dục và nguy cơ mất việc làm của con em các hộ nghèo đối càng lớn. Về mặt xã hội, thực trạng thiếu việc làm trong nông thôn đi liền với các tệ nạn rượu chè, hút xách cờ bạc, trộm cắp, buôn lậu dung túng cho nhiều họat động phi pháp. Phần lớn “cửu vạn” tiếp tay cho các chủ buôn lậu dọc các tuyến biên giới Phía Bắc và Tây Nam là những nông dân không có công ăn việc làm và thu nhập thấp không đảm bảo đời sống. Túng thiếu và do nhu cầu mưu sinh nên họ phải làm liều, mặc dù họ biết đó là việc làm nhất thời sai trái, vi phạm pháp luật. Nếu không giải quyết việc làm cho đối tượng này thì thật khó mà ngăn chặn hữu hiệu nạn buôn lậu đang có xu hướng xẻ nhỏ và tinh vi hơn. Một thực trạng rất đáng quan tâm là tình hình thất nghiệp ở nông thôn đã và đang hình thành một dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra các đô thị lớn đã quá tải và đang chịu áp lực lớn về lao động thất nghiệp. Sự di chuyển này làm nảy sinh những vấn đề bức xúc nơi dân nhập cư tới. Đó là: -Mật độ dân số gia tăng đột biến (cơ học). Chẳng hạn từ 1976 – 1996 Đắc lắc phải tiếp nhận 20 vạn người di cư tự do tới, tại thời điểm hiện nay, Hà Nội có tới 23,34 % lao động của thành phố là lao động tự do ngoại tỉnh (thành phố Hồ Chí Minh là 9,56%). Những đại phương có dân di cư tới thường bị động trong các chương trình, kế hoạch đầu tư phát triển ở địa phương, ngoài việc đầu tư để thực hiện các chương trình kế hoạch đã định sẵn còn phải đầu tư để giải quyết những vấn đề nảy sinh trước mắt. -100% dân di cư đều mong muốn có đất canh tác nên họ bất chấp luật pháp, khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên rừng, biển và đất đai lâm nghiệp, huỷ hoại môi trường sinh thái. -Trẻ em thất học, bệnh tật đe dọa. Đặc biệt đã nảy sinh những xung đột giữa dân di cư với người bản địa. Vì vậy đời sống của đại bộ phận dân nhập cư tự do không ổn định và rất khó khăn về kinh tế trong những năm đến vùng đất mới. Để tồn tại những người trong số họ chấp nhận làm đủ việc từ bán dâm, mua bán các chất ma tuý... đến mang vác thuê hàng lậu qua biên giới...gây căng thẳng về kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Như vậy thất nghiệp trong nông thôn không những làm lãng phí sức lao động, kìm hãm sự phát triển kinh tế, băng hoại đạo đức xã hội. Vì thế giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. PHẦN III CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NƯỚC TA TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010. 3.1. Những quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta. 3.1.1. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta những năm tới phải chủ yéu dựa vào các biện pháp tạo việc làm ngay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Ở mỗi quốc gia, trong quá trình CNH-HĐH sự phân bố lao động mang tính quy luật sau: Trước khi tiến hành công nghiệp hoá lao động trong nông nghiệp nông thôn tăng nhanh cả tuyệt đối và tương đối. Khi tiến hành công nghiệp hoá lao động nông nghiệp nông thôn giảm xuống về tương đối nhưng về tuyệt đối vẫn tăng lên. Chỉ đến giai đoạn công nghiệp “cất cánh”, tức công nghiệp hoá về cơ bản hoàn thành thì lao động trong nông nghiệp nông thôn mới giảm cả về tuyệt đối và tương đối. Tính quy luật trên thể hiện rất rõ ở xu hướng biến động số lượng trang trại và quy mô đất đai bình quân một trang trại ở các nước. Ở những nước đã hoàn thành công nghiệp hoá, do công nghiệp và dịch vụ phát triển cao thu hút mạnh lao động nông nghiệp dẫn đến lao động nghiệp, nhân khẩu nông nghiệp và hộ nông nghiệp giảm về tuyệt đối. Điều này là giảm số lượng trang trại nông nghiệp đồng thời tăng quy mô đất đai của trang trại. Ở Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại, năm 1970 có 2.954.000 trang trại và năm 1992 còn 1.925.000 trang trại; quy mô một trang trại năm 1995 là 86 ha, năm 1970 là l151 ha và năm 1992 là 198,7 ha. Trong khi đó ở các nước đang công nghiệp hoá do lao động nông nghiệp còn tăng về tuyệt đối dẫn tới số hộ nông nghiệp tăng tuyệt đối nên diễn ra xu hướng ngược lại: số lượng trang trại tăng lên và quy mô trang trại qiảm xuống. Ở Philipin năm 1948 có 1.639.000 trang trại, năm 1980 có 3.420.000 trang trại; quy mô diện tích bình quân một trang trại năm 1948 là 3,4 ha, năm 1980 còn 2,62 ha. Ở nước ta giai đoạn từ nay đến năm 2010 là giai đoạn đang trong quá trình công nghiệp, công nghiệp chưa “cất cánh”, dịch vụ chưa phát triển, sức thu hút lao động nông nghiệp còn hạn chế nên lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục tăng về tuyệt đối. Thực tế trên sẽ làm cho tình trạng thiếu việc làm của lao động nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng nếu không có các biện pháp tạo việc làm hữu hiệu ngay từ trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. 3.1.2. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn nước ta những năm tới cần thực hiện với các giải pháp hoàn thiện và đồng bộ, đồng thời cần phải có một số giải pháp mang tính đột phá. Giải quyết vấn đề việc làm để đảm bảo thu nhập, đời sống và làm giảm lao động dư thừa trong nông nghiệp nông thôn đã và đang là vấn đề nan giải ở nước ta do các điều kiện, các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giải quyết việc làm cho lao động trong nông thôn đều có khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn do cơ cấu sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, trình độ học vấn và tay nghề của người lao động nông thôn còn thấp, hệ thống dạy nghề kém phát triển, cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, thị trường nông sản và các sản phẩm của kinh tế nông thôn còn ách tắc...Do vậy để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn cần xác định và thực thi một hệ thống các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu. Đồng thời để thực thi có hiệu quả các giải pháp tạo việc làm ngay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn cần có những giải pháp mang tính đột phá để tạo điều kiện cho các giải pháp trong hệ thống giải pháp tạo việc làm phát huy tác dụng. 3.1.3. Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta Các khó khăn vướng mắc trong giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta như đã nêu ở trên, là phổ biến và bao trùm các điều kiện các yếu tố chủ yếu liên quan đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Để khắc phục những khó khăn vướng mắc trên cần có sự quan tâm và sự góp sức của toàn xã hội, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò của Nhà nước được thể hiện chủ yếu ở sự quản lý, điều tiết và tác động qua các chủ trương chính sách kinh tế xã hội và các biện pháp tổ chức quản lý vĩ mô phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn. Kinh nghiệm của các nước, nhất là các nước khu vực cho thấy Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho lao động trong khu vực nông nghiệp. 3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn. Như đã khẳng định ở trên, để giải quyết vấn đề việc làm cho lao đông nông thôn nước ta giai đoạn 2002 - 2010, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu. Trong khuôn khổ bài này, em chỉ xin đề cập đến những giải pháp mang tính cấp thiết cần được tập trung thực hiện trong những năm trước mắt. 3.2.1. Đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương cho tới nay vẫn mang nặng tính chất tự cung tự cấp, trong đó trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (ở các địa phương này tỷ trọng chăn nuôi thường không quá 20% giá trị sản xuất nông nghiệp). Trong trồng trọt, diện tích trồng cây nông nghiệp lương thực đặc biệt là trồng lúa chiếm tỷ trọng rất cao. Các cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây trồng có trình độ thâm canh và có giá trị kinh tế cao còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong những năm tới để góp phần tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, cần đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở mỗi địa phương theo hướng phát triển các ngành chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại câu trồng có trình độ thâm canh và có giá trị kinh tế cao mà thị trường, nhất là thị trường ngoài nước có nhu cầu.Việc phát triển chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại cây trồng có trình độ thâm canh và giá trị kinh tế cao sẽ thu hút một bộ phận đáng kể lao động nông thôn vào sản xuất nông nghiệp. Trong đợt thăm và làm việc với một số tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long giữa năm 2001, thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp là then chốt trong phát triển nông nghiệp ở các địa phương này. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng nêu trên sẽ tạo điều kiện để khai thác đầy đủ hơn các nguồn lực phát triển của từng địa phương, trong đó có nguồn lực lao động để phục vụ phát triển kinh tế địa phương. ở một số nơi diện tích trồng lúa một vụ được chuyển đổi sang trồng cây ăn quả hoặc kết hợp trồng cây ăn quả và nuôi cá đã đem lại hiệu quả cao hơn hẳn so với trồng lúa trước đây, đồng thời thu hút thêm đáng kể lao động vào sản xuất. 3.2.2. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (sử dụng từ 4 - 5 đến vài chục lao động) có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn. Về thực chất các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ra đời và hoạt động trên cơ sở kinh tế gia đình và tiểu thủ. Đây là loại hình doanh nghiệp thích ứng rộng rãi trong nền kinh tế hàng hoá do có thể thay đổi một cách linh hoạt về phương hướng, quy mô sản xuất kinh doanh và ứng dụng công nghệ sản xuất...Tính thích ứng rộng tạo khả năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đứng vững trong cơ chế thị trường. Các doanh nhgiệp vừa và nhỏ với phương hướng sản xuất kinh doanh đa dạng có thể phân bố rộng rãi ở khắp địa bàn nông thôn là một nguồn thu hút lao động tại chỗ quan trọng, góp phần tích cực giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. việc phát triển các doanh nghiệp Hương Trấn ở Trung Quốc những năm qua, mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút và giải quyết việc làm cho hơn 100 triệu lao động nông thôn, góp phần quan trọng giảm sức ép về lao động trong nông thôn. Ở nước ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn còn thiếu vắng. Trừ các vùng có làng nghề phát triển (cả nước có khoảng 1.400 làng nghề, trong đó có 300 làng nghề truyền thống), các vùng còn lại hầu như không có hoặc rất thiếu vắng các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp. Trong những năm tới, để góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, các địa phương và cơ sở cần có các biện pháp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp và phát triển các loại hình trang trại nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và cơ sở. 3.2.3. Phát triển công nghiệp và dịch vụ khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống nhằm tạo thêm việc làm cho khu vực nông thôn. Các ngành nghề trong nông thôn bao gồm công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ, cơ khí, xây dựng và vật liệu cho sản xuất, các làng nghề thủ công truyền thống...Kinh nghiệm tạo việc làm ở một số làng nghề truyền thống cho thấy: ở làng Đồng Kỷ (Tiên Sơn - Bắc Ninh) có 3.600 lao động hàng năm đã tạo ra giá trị sản lượng từ các mặt hàng gỗ mỹ nghệ từ 4 - 5 tỷ đồng. Làng gốm sứ Bát Tràng có 1.172 hộ gia đình làm nghề với hơn 800 là gốm, hàng năm sản xuất ra trên 50 triệu sản phẩm các loại và không tạo đủ việc làm cho lao động địa phương mà hàng ngày còn thu hút từ 1500 đến 2000 người từ các nơi khác đến làm việc. Hiện nay cả nước có khoảng 1450 làng nghề với hướng đi mới, chúng ta có thể phát triển quy mô sản xuất, đổi mới sản phẩm, khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng có tính chiến lược. 3.2.4. Tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới ở những nơi còn quỹ đất đai. Hiện nay ở nhiều địa phương còn quỹ đất đai đáng kể có thể sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Một số tỉnh, huyện các vùng trung du, miền núi, quỹ đất có khả năng nông, lâm, ngư nghiệp còn khá lớn. Đây là một nguồn lực quan trọng cần được khai thác để phát triển kinh tế các vùng này, đồng thời để tạo việc làm cho một bộ phận lao động đang dư thừa trong nông thôn. Trong những năm tới các địa phương cần gắn việc khai thác các vùng đất có khả năng nông, lâm, ngư nghiệp với việc phân bố lại lực lượng lao động nông thôn thông qua việc tổ chức cho lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Trong những năm qua đã có một số nơi tổ chức cho lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng vùng kinh tế mới khá thành công. Nghệ An là tỉnh có nhiều thành công và kinh nghiệm tốt trong tổ chức công việc này. Những năm qua Nghệ An đã thành lập nhiều đội thanh niên xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới. Các đơn vị thanh niên xung phong được tổ chức tốt và được sự hỗ trợ giúp đỡ về mọi mặt của chính quyền địa phương. Hiện nay ở các huyện miền tây Nghệ An đã hình thành nhiều làng kinh tế mới thanh niên xung phong. Mỗi đội thanh niên xung phong xây dựng gia đình và lập nghiệp trên vùng kinh tế mới. Mỗi hộ thanh niên xung phong vừa gắn bó với tổ chức thanh niên xung vừa là một hộ sản xuất tự chủ. Mô hình tổ chức thanh niên xung phong xây dựng kinh tế mới ở Nghệ An là một mô hình tốt về sự kết hợp phát triển kinh tế với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Cách làm của Nghệ An cần được các địa phương khác nghiên cứu và tham klhảo để xác định mô hình tổ chức phù hợp đưa lao động nông thôn, nhất là lực lượng lao động trẻ đi xây dựng các vùng kinh tế mới. 3.2.5. Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn. Kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực cho thấy phát triển các làng nghề phi nông nghiệp trong nông thôn là một trong các hướng chủ yếu để tạo việc làm cho lao động nông thôn. Các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn rất đa dạng, bao gồm nhiều ngành nghề cụ thể thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong nông thôn. Trong giai đoạn hiện nay, ở nông thôn nước ta, việc phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với tạo việc làm cho lao động nông thôn vì trong điều kiện hiện nay, phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn sẽ huy động được các nguồn lực sẵn có tại chỗ để phát triển kinh tế, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Hiện tại công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn ở nước ta còn kém phát triển, phần lớn các nông thôn nước ta còn là các vùng thuần nông với tỷ trọng của ngành trồng trọt rất cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế sự phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn nước ta hiện nay là ách tắc trong khâu tiêu thụ sản phẩm với khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này chủ yếu là do giá thành sản phẩm còn cao hơn và chất lượng sản phẩm chung còn thấp đáng kể so với các nước khác. Nguyên nhân trực tiếp của giá thành sản phẩm cao là do giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn còn cao, nhất là giá nguyên liệu và giá máy móc thiết bị. Nguyên nhân chính làm cho chất lượng sản phẩm thấp là do công nghệ sản xuất nói chung còn lạc hậu so với các nước. Để phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn nước ta những năm tới Nhà nước cần có các biện pháp phù hợp để tập trung khắc phục những nguyên nhân chủ yếu nêu trên nhằm giảm giá đầu vào của sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm của các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn trước hết là: Giảm thuế xuất nhập khẩu xuống 0% đối với tất cả các loại vật tư, máy móc thiết bị, nhân khẩu và giảm thuế giá trị gia tăng đối việc sản xuất các loại vật tư, máy móc thiết bị trong nước phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất các loại nông lâm thuỷ sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp. -Đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các ngành nông lâm ngư nghiệp và một số ngành sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến các ngành tiểu thủ công nghiệp để nâng cao chất lượng nguyên liệu và giảm giá nguyên liệu. -Tăng cường đầu tư cho các ngành hoạt động nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và ứng dụng các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ trong các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản và tiểu thủ công nghiệp để thay thế nhân khẩu và giảm giá công nghệ đầu vào của sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. 3.2.6. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lao động nông thôn. Nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lao động nông thôn bao gồm: -Thực hiện tốt kế hoạch phát triển dân số và kế hoạch hoá gia đình ở các địa phương, đạt mục tiêu dân số tăng 1,8% vào năm 2002. -Thực hiện tốt luật đất đai, triển khai nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân ; có chính sách giải quyết ruộng đất cho nông dân hiện không có ruộng đất ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây nguyên. Chính sách đầu tư vừa phải chú trọng những vùng trọng điểm để tạo lực đẩy chung, đồng thời phải chú trọng đầu tư phát triển những vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, tránh tình trạng nơi nào “khéo léo” thì nơi ấy được đầu tư nhiều. -Chính sách khuyến khích kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác. -Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành chế độ thống kê thường xuyên và báo cáo định kỳ (ít nhất là một quý một lần) về vấn đề dân số, lao động, việc làm và thất nghiệp từ cấp phường xã để làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn về phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. KẾT LUẬN Giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông nghiệp nông thôn nói riêng đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay cần được tháo gỡ, nhằm giảm bớt sức ép về việc làm cho người lao động nông thôn và nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các nguồn lực của đất nước. Thông qua một số quan điểm và biện pháp chủ yếu nhằm tạo ra một sự chuyển biến sâu sắc về vấn đề việc làm cho lao động nông thôn. Đề án đã hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra của đề tài. Nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ yếu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phân tích thực trạng về việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm giải pháp chủ yếu về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn phù hợp với tình hình và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các quan điểm và giải pháp này được xây dựng dựa trên thực tiễn về việc làm lao động nông thôn ở trong nước và nước ngoài. Việc áp dụng các biện pháp trên có tính khả thi cao và có triển vọng tốt để cải thiện tình hình khó khăn hiện nay. Nghiên cứu vấn đề việc làm và vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ hết sức quan trọng và lâu dài đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đất nước đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Vì vậy cần phải tiếp tục tìm tòi nghiên cứu và đúc rút tổng kết từ thực tiễn để vấn đề này được giải quyết tốt hơn và có hiệu quả cao. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Minh và trung tâm thư viện trường đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 2 ( 46 ) 1997. 2. Tạp chí quản lý nhà nước số 6 – 2000 3. Tạp chí kinh tế và phát triển số 50 -2001 4. Nghiên cứu lý luận số 7 - 1999 5. Thông tin lý luận số 6 - 1999 ( 256 ) ; số 7 - 1999 (257 ) 6. Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI Tài liệu khoa kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn 7. Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH-HĐH nông thôn nước ta Nguyễn Văn Trung - Nhà xuất bản- Chính trị Quốc Gia 1997

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp, Nông thôn nước ta những năm qua.doc