Tiềm năng du lịch hồ Dầu Tiếng – tỉnh Tây Ninh

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có việt Nam. Du lịch phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm, mang lại thu nhập cao cho nền kinh tế, giảm các tác động rủi ro đến môi trường sinh thái, đồng thời còn là cầu nối hữu hiệu cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tình hữu nghị, hoà bình, đoàn kết và hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Ở nước ta, ngành du lịch từ lâu cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đặc mục tiêu phát triển cao. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu: “Phát triển nhanh du lịch, dịch vụ và từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch - thương mại có tầm cỡ trong khu vực”. Nghị quyết 45/CP năm 1993 của Chính phủ cũng đã nêu rõ: “Làm cho ngành du lịch nước ta sớm đuổi kịp ngành du lịch của các nước phát triển ở trong khu vực và trên thế giới, đưa du lịch nước ta trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới, vừa gắn được với điều kiện thực tế, tiềm năng, khả năng và yêu cầu bức thiết của sự phát triển đất nước. Do vậy đòi hỏi các ngành liên quan, đặc biệt là ngành du lịch các tỉnh, thành phố phải có quy hoạch, xây dựng chiến lược cho phát triển du lịch. Để góp phần tạo cơ sở cho sự phát triển du lịch ở Việt Nam, thì việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng và định hướng chiến lược phát triển các ngành du lịch ở nước ta đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công tác quy hoạch và phát triển các loại hình du lịch ở các khu vực giàu tiềm năng, phát triển các điểm - tuyến du lịch trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tài nguyên, kinh tế xã hội, văn hoá, phong tục tập quán và góp phần hạn chế những tác động tiêu cực tiềm ẩn mà du lịch mang đến cho môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội mà nhiều nước trên thế giới đã phải trả giá trong quá trình xây dựng và phát triển du lịch. Vì vậy Tôi lựa chọn đề tài: “TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG – TỈNH TÂY NINH”. 2. Tên đề tài: “TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG - TỈNH TÂY NINH”. 3. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu về tiềm năng du lịch của Hồ Dầu Tiếng - Tỉnh Tây Ninh. 4. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và đề xuất định hướng, giải pháp phát triển các loại hình du lịch tại Hồ Dầu Tiếng. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu. - Phương pháp thống kê số liệu. - Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu.

doc113 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4762 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiềm năng du lịch hồ Dầu Tiếng – tỉnh Tây Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có việt Nam. Du lịch phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm, mang lại thu nhập cao cho nền kinh tế, giảm các tác động rủi ro đến môi trường sinh thái, đồng thời còn là cầu nối hữu hiệu cho sự giao lưu giữa các nền văn hoá, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tình hữu nghị, hoà bình, đoàn kết và hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Ở nước ta, ngành du lịch từ lâu cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đặc mục tiêu phát triển cao. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu: “Phát triển nhanh du lịch, dịch vụ và từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch - thương mại có tầm cỡ trong khu vực”. Nghị quyết 45/CP năm 1993 của Chính phủ cũng đã nêu rõ: “Làm cho ngành du lịch nước ta sớm đuổi kịp ngành du lịch của các nước phát triển ở trong khu vực và trên thế giới, đưa du lịch nước ta trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới, vừa gắn được với điều kiện thực tế, tiềm năng, khả năng và yêu cầu bức thiết của sự phát triển đất nước. Do vậy đòi hỏi các ngành liên quan, đặc biệt là ngành du lịch các tỉnh, thành phố phải có quy hoạch, xây dựng chiến lược cho phát triển du lịch. Để góp phần tạo cơ sở cho sự phát triển du lịch ở Việt Nam, thì việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng và định hướng chiến lược phát triển các ngành du lịch ở nước ta đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công tác quy hoạch và phát triển các loại hình du lịch ở các khu vực giàu tiềm năng, phát triển các điểm - tuyến du lịch trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tài nguyên, kinh tế xã hội, văn hoá, phong tục tập quán và góp phần hạn chế những tác động tiêu cực tiềm ẩn mà du lịch mang đến cho môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội mà nhiều nước trên thế giới đã phải trả giá trong quá trình xây dựng và phát triển du lịch. Vì vậy Tôi lựa chọn đề tài: “TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG – TỈNH TÂY NINH”. 2. Tên đề tài: “TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG - TỈNH TÂY NINH”. 3. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu về tiềm năng du lịch của Hồ Dầu Tiếng - Tỉnh Tây Ninh. 4. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và đề xuất định hướng, giải pháp phát triển các loại hình du lịch tại Hồ Dầu Tiếng. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu. - Phương pháp thống kê số liệu. - Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu. CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH 1. Hiện trạng và xu thế phát triển du lịch thế giới: 1.1. Du lịch thế giới: Thế kỷ XXI, tình hình thế giới sẽ có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá là một xu thế khách quan và tất yếu. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển với xu hướng chuyển dần sang khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, và khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2000 tổng số khách du lịch trên toàn thế giới là 688 triệu lượt khách, năm 2009 là 898 triệu lượt khách, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 - 2009 là 3,88%. Trong đó khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao so với phần còn lại của thế giới, tăng trưởng bình quân khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn 2000- 2009 là 7,51%. Tuy nhiên cũng trong những năm đầu thế kỷ XXI, du lịch thế giới đã cho thấy sự phát triển chững lại. Tăng trưởng khách du lịch tại tất cả các khu vực trên thế giới đều thấp hơn so với những năm 90 của thế kỷ trước. Tình hình thế giới từ năm 2000 đến nay có những diễn biến không thuận lợi cho sự phát triển của ngành du lịch: chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo tràn lan và dịch bệnh hoành hành ở một số nơi trên thế giới, thiên tai và tấn công khủng bố diễn ra phức tạp và trên quy mô lớn, giá cả năng lượng tăng đột biến,… Đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trên bình diện rộng, bắt đầu từ năm 2007 và hậu quả còn kéo dài với mức độ ảnh hưởng và phạm vi ngày càng lan rộng, có tác động sâu sắc đến mọi mặc của thế giới. Trên phương diện ngành du lịch, khủng hoảng đã có những tác động tiêu cực thể hiện trên các khía cạnh: Tại các thị trường cung cấp nguồn khách du lịch truyền thống như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản hầu hết đều có dấu hiệu suy thoái kinh tế hoặc đã rơi vào suy thoái kinh tế khiến cho sản xuất đình trệ, tỉ lệ thất nghiệp gia tăng, thu nhập của người dân giảm sút. Từ đó người dân buộc phải cắt giảm, thắt chặt chi tiêu, tập trung vào các nhu cầu và mặt hàng thiết yếu. Do đó nhu cầu du lịch và lượng người đi du lịch đã giảm xuống rõ rệt. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, du khách đã lựa chọn đi bằng đường sắt, đường bộ hơn là đường hàng không, các điểm và tuyến du lịch nội địa, trong vùng có cự ly ngắn được ưa chuộng hơn, và phù hợp hơn với du khách trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế chung. Tại các điểm đến du lịch, khách du lịch thường có xu hướng lựa chọn những nơi lưu trú có thứ hạng thấp, chi phí rẻ và thời gian lưu trú được rút ngắn lại. Nhìn chung chi tiêu của du khách cho các dịch vụ bổ trợ, các sản phẩm du lịch đều bị tiết giảm. Bảng 1.1: Hiện trạng khách du lịch quốc tế trên thế giới phân bố theo khu vực Đvị tính: 1000 lượt khách stt  Khu vực  2000  2005  2007  2009  TTBQ GIAI ĐOẠN         2000-2005  2005-2009  2000-2009   1  Châu Phi  28.284  37.312  40.900  44.200  5,7%  8,84%  6,59%   2  Châu Mỹ  128.164  125.739  136.000  142.100  -0,38%  6,31%  1,49%   3  Châu Á- Thái Bình Dương  111.372  145.491  167.400  184.900  5,49%  12,73%  7,51%   3.1  Đông Bắc Á  58.276  79.412  94.100  104.200  6,38%  14,55%  8,66%   3.2  Đông Nam Á  37.763  48.309  53.900  60.400  5,05%  11,82%  6,94%   3.3  Châu Đại Dương  14.739  24.700  26.600  32.300  12,64%  14,35%  11,86%   3.4  Nam Á  4.797  9.900  11.200  13.400  15,40%  16,34%  15,81%   4  Châu Âu  232.486  347.400  376.900  433.400  8,42%  11,69%  9,31%   5  Trung Đông  17.567  28.600  29.900  43.200  9,42%  22,90%  13,72%    Tổng cộng  687.897  789.093  842.000  898.000  2,78%  6,68%  3,38%   (Nguồn: UNWTO, 2009) Về doanh thu, năm 2000 doanh thu ngành du lịch đạt 481,56 tỷ USD; năm 2005 đạt 681,5 tỷ USD; năm 2009 đạt 864 tỷ USD; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,73%. Bảng 1.2: Hiện trạng doanh thu du lịch thế giới. stt  Khu vực  2000  2005  2007  2009  TTBQ GIAI ĐOẠN         2000-2005  2005-2009  2000-2009   1  Châu Phi  10.503  21.300  24.600  28.300  15,43%  15,27%  15,21%   2  Châu Mỹ  130.797  145.300  154.100  171.100  2,02%  8,52%  3,91%   3  Châu Á- Thái Bình Dương  90.207  138.900  156.500  188.900  9,31%  16,62%  11,14%    Trong đó:          3.1  Đông Bắc Á  44.460  71.200  75.200  89.200  9,76%  11,93%  10,46%   3.2  Đông Nam Á  26.210  33.100  43.600  54.000  4,97%  27,73%  10,88%   3.3  Châu Đại Dương  14.739  24.700  26.600  32.300  12,64%  14,35%  11,86%   3.4  Nam Á  4.797  9.900  11.200  13.400  15,40%  16,34%  15,81%   4  Châu Âu  232.486  347.400  376.900  433.400  8,42%  11,69%  9,31%   5  Trung Đông  15.567  28.600  29.900  43.200  9,42%  22,90%  13,72%    Tổng cộng  481.560  681.500  742.000  864.900  7,23%  12,65%  8,73%   (Nguồn: UNWTO, 2009) 1.2. Du lịch khu vực ASEAN: Khu vực ASEAN với những lợi thế về thiên nhiên nhiệt đới cùng với một nền văn hoá truyền thống đa dạng, đang vươn lên trở thành những điểm đến hấp dẫn nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và cả thế giới. Trong giai đoạn 2000 – 2009, du lịch ASEAN đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 6,94%/năm, từ 38 triệu lượt khách (năm 2000) lên 60,4 triệu lượt khách (năm 2009), chiếm 6,12% tổng số khách du lịch trên toàn thế giới. Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, hiện nay các nước ASEAN chiếm đến 33% số lượng khách quốc tế và 24% thu nhập từ các hoạt động du lịch của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Xu hướng này còn tiếp tục tăng trưởng trong tương lai, theo dự báo của WTO, cả năm 2010 lượng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam Á là 72 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân đạt khoảng 6 – 7%/năm, so với mức 1 – 2% của thời kỳ 1998 – 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính trong khu vực. Trong đó các nước ở khu vực ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore là những điểm đến hấp dẫn nhất trong khu vực, trong đó Thái Lan và Malaysia đã lọt vào danh mục hai mươi điểm đến thu hút được nhiều du khách nhất trên thế giới. 1.3. Xu thế phát triển trong tương lai: Xu hướng phát triển của du lịch thế giới trong giai đoạn từ nay đến 2012 và các năm tiếp theo chịu ảnh hưởng không nhỏ từ những hệ luỵ của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ các năm 2008, 2009. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới thì du lịch thế giới sẽ suy giảm trong giai đoạn từ 2009 – 2011 và sớm nhất là đến cuối 2011 mới bắt đầu có dấu hiệu hồi phục, năm 2010 có sự suy giảm trong lượng khách du lịch trên thế giới, tốt độ tăng trưởng được dự báo sẽ giảm từ 1 – 3%/năm. Dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, xu thế phổ biến của du lịch thế giới sẽ là ưu tiên lựa chọn những điểm đến có chi phí thấp. Các điểm đến có đặc tính gần gũi về khoảng cách địa lý, đang trong giai đoạn đầu phát triển, có nhiều chính sách khuyến mãi, giảm giá…sẽ có lợi thế lớn trong cạnh tranh thu hút khách du lịch. 2. Hiện trạng và xu thế phát triển của du lịch Việt Nam: 2.1. Hiện trạng: Những năm đầu của thập kỷ 90 - thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, tốc độ tăng trưởng của khách du lịch quốc tế vào Việt Nam tăng nhanh. Thời kỳ này Việt Nam được biết đến như là một điểm đến du lịch mới lạ và hấp dẫn ở khu vực Đông Nam Á, thu hút ngày càng nhiều khách đến du lịch với nhiều thành phần và mục đích khác nhau. Năm 1990 Việt Nam đón được 250.000 du khách quốc tế, nhưng đến năm 1995 đã đón được trên 1,3 triệu lượt khách quốc tế (giai đoạn 1990 – 1995 tăng bình quân 40,3%). Đây là giai đoạn Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế vào loại hàng đầu trong khu vực và trên thế giới, khoảng cách về khả năng thu hút du khách quốc tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực dần dần được thu ngắn lại. Bước sang những năm tiếp theo từ 1996 – 1997, mặc dù số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn tăng, nhưng sự tăng trưởng hàng năm đã bắt đầu giảm sút. Năm 1996 Việt Nam đón được 1.607.155 khách, đến năm 1997 chỉ đón được 1.715.637 khách, trung bình tăng 12,4%/năm. Nguyên nhân cơ bản tình trạng về thị trường du khách trong giai đoạn này là: - Thị trường Việt Nam dần trở nên quen thuộc với đa số khách du lịch quốc tế, sự hấp dẫn của một điểm du lịch mới lạ đã giảm dần. - Các sản phẩm du lịch của Việt Nam chưa đổi mới và nâng cao chất lượng kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách, giá cả các sản phẩm du lịch chưa phù hợp và tương xứng với chất lượng nên phần nào đã hạn chế lượng khách du lịch quốc tế quay trở lại Việt Nam. - Hoạt động xúc tiến, tuyên truyền quảng bá cho ngành du lịch Việt Nam còn nhiều bất cập và hạn chế đối với các thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng. Theo các thống kê hiện nay cho thấy số lượng khách du lịch nội địa ngày càng tăng lên do mức sống người ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó thì số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cũng không ngừng tăng cao. Điển hình là vào năm 2003 mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch SARS nhưng Việt Nam vẫn đón được 2,2 triệu khách du lịch quốc tế, nộp ngân sách nhà nước hơn 20.000 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2000 – 2005, du lịch Việt Nam vẫn phát triển khá mạnh mẽ, lượng khách, thu nhập và GDP du lịch tăng tốc với tốc độ tăng trưởng khá cao hàng năm, tỷ trọng dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân tăng lên, tạo tiền đề đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước. Bảng 1.3: Hiện trạng khách du lịch đến Việt Nam theo thị trường Đơn vị tính: 1.000 lượt khách stt  Chỉ tiêu  2000  2005  2007  2009  TTBQ GIAI ĐOẠN         2000-2005  2005-2009  2000-2009    Tổng cộng  2.140,10  3.467,76  3.583,49  4.171,564  10,13%  9,68%  10%   1  Trung Quốc  492,00  752,58  516,29  558,719  8,87%  -13,84%  1,83%   2  Mỹ  95,80  333,57  385,65  412,301  28,34%  11,18%  23,18%   3  Nhật Bản  142,90  320,61  383,90  411,557  17,54%  13,30%  16,31%   4  Đài Loan  210,00  317,21  274,66  314,026  8,60%  -0,50%  5,92%   5  Hàn Quốc  -  286,32  421,74  475,535  -  28,87%  -   6  Úc  -  145,36  172,52  227,300  -  25,05%  -   7  Pháp  88,20  126,40  132,30  182,501  7,46%  20,16%  10,95%   8  Campuchia  -  186,54  154,96  150,655  -  -10,13%  -   9  Anh  53,90  80,88  84,26  105,918  8,46%  14,44%  10,13%   10  Đức  -  -  76,75  95,740  -  -  -   11  Thái Lan  20,80  84,10  123,80  160,747  32,24%  38,25%  33,93%   12  Các nuớc khác  1.036,50  834,19  856,65  1.076,565  -4,25%  13,60%  0,54%   Nguồn: TCDL Việt Nam, 2009 Các hoạt động du lịch đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, thúc đẩy các ngành kinh tế, xã hội phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng và cả nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo động lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 2.2. Cơ hội phát triển của du lịch Việt Nam: Thế kỷ XXI tình hình thế giới sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong nhiều lĩnh vực. Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu khách quan. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các ngành kinh tế đối ngoại (trong đó có du lịch) phát triển. Ngành du lịch tiếp tục được tập trung phát triển đúng với vai trò, vị trí là một ngành kinh tế quan trọng và dần tiến tới là ngành mũi nhọn của nền kinh tế của đất nước. Đất nước, con người Việt Nam kiên cường bất khuất, Việt Nam có một nền chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, là điểm du lịch còn tương đối mới trên bản đồ du lịch thế giới, cộng với tiềm năng phong phú và đa dạng về du lịch sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi và đặc biệt quan trọng để phát triển ngành du lịch. Hệ thống pháp luật nước ta đang dần hoàn thiện. Hiện nay, Luật du lịch đã được Quốc Hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2006, là một cơ sở tiền đề quan trọng phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển ngành du lịch. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta đang và sẽ tiếp tục được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng du lịch to lớn trên khắp các vùng miền của đất nước, tăng khả năng giao lưu giữa các vùng và phát triển mạnh mẽ hơn nữa các điểm, tuyến tham quan du lịch. Đời sống nhân dân được cải thiện, dẫn đến nhu cầu du lịch - đặc biệt là nhu cầu du lịch nội địa tăng nhanh. Việt Nam được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã và đang tạo ra những vận hội mới cho phát triển du lịch của nước ta. Vị thế của Việt Nam là một điểm đến an toàn cho du khách trên toàn thế giới một lần nữa tiếp tục được khẳng định và nâng cao sau khi Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị APEC tại Hà Nội. 2.3. Những khó khăn, thách thức chung của ngành du lịch Việt Nam: Tác động từ các cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn toàn cầu đã gây ra những khó khăn không nhỏ cho ngành du lịch Việt Nam khi lượng khách du lịch giảm xuống đáng kể, xu hướng cắt giảm chi phí trong các tour du lịch đang trở thành xu thế phổ biến. Dự kiến trong giai đoạn từ 2010 – 2011 số lượng du khách đến Việt Nam sẽ giảm khoảng từ 1 – 4%. Cạnh tranh du lịch trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam nói chung còn rất hạn chế, đây là một trong những yếu điểm cần nhanh chóng khắc phục triệt để. Du lịch Việt Nam đang ở vào thời kỳ đầu phát triển, từ xuất phát điểm quá thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm quản lý kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động hoạt động trong ngành còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động du lịch còn nhiều yếu kém, bất cập và thiếu đồng bộ. Tài nguyên du lịch, cảnh quan và môi trường đang có sự suy thoái rõ rệt do khai thác, sử dụng bất hợp lý và những tác động ngày càng bất thường của thiên nhiên như bão, lụt, động đất,… Vốn đầu tư cho xây dựng, phát triển du lịch còn rất thiếu, trong khi sự đầu tư còn chưa đồng bộ, hiệu quả kém đang là thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của ngành du lịch nước nhà. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mức sống của người dân ở nước ta nhìn chung còn thấp kém, ảnh hưởng rất nhiều đến mối quan hệ cung cầu đối với ngành du lịch. Hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đáp ứng một cách đầy đủ yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành du lịch. Nhận thức của xã hội về ngành du lịch vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch còn thiếu đồng bộ, chưa tạo điều kiện thông thoáng so với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý và phát triển. Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một lợi thế không thể phủ nhận nhưng cũng đem lại vô vàng những thách thức thực sự khi mà các doanh nghiệp hoạt động du lịch trong nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với nhiều đối thủ mạnh, có tiềm lực và kinh nghiệm trên thế giới. CHƯƠNG 2 HIỆN TRẠNG, TIỀM NĂNG VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH TỈNH TÂY NINH 1. Hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh: Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Tây Ninh thì hoạt động du lịch năm 2009 vừa qua đã có những hướng chuyển biến rõ rệt với mức tăng tưởng cao. Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng và dịch vụ lữ hành năm 2009 Stt   ĐVT  Năm 2009   I  HOẠT ĐỘNG KHÁCH SẠN     -  Doanh thu  Triệu đồng  44.041   -  Lượt khách phục vụ  Lượt khách  210.415   -  Ngày khách phục vụ  Ngày khách  97.067   II  HOẠT ĐỘNG NHÀ HÀNG     -  Doanh thu  Triệu đồng  1.413.419   III  HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỮ HÀNH     -  Doanh thu  Triệu đồng  38.990   -  Lượt khách du lịch theo tour  Lượt khách  24.411   -  Ngày khách du lịch theo tour  Ngày khách  26.507   Nguồn: Cục thống kê Tây Ninh, 2009 Với con số thống kê số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam gần 3,43 triệu lượt khách, trong đó TP. HCM đã chiếm khoảng 70%. Đây được xem là một lợi thế vô cùng lớn cho phát triển du lịch các vùng phụ cận như Tây Ninh. 1.1. Hiện trạng du khách: Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Tây Ninh thì Tây Ninh là một trong những tỉnh đón nhiều du khách nội địa nhất. Ước tính năm 2000 số lượng khách lưu trú là 31.456 lượt người, trong đó lượng khách người Việt Nam khoảng 30.643 lượt người và khách Quốc tế khoảng 813 lượt người; năm 2008 lên đến 355.780 lượt người, trong đó lượng khách Việt Nam khoảng 352.593 lượt người và lượng khách Quốc tế khoảng 3.187 lượt người. Tỷ trọng khách Quốc tế tăng theo từng năm, tuy nhiên vẫn còn chiếm một tỷ lệ tương đối thấp trong tổng số lượt khách du lịch đến Tây Ninh hàng năm. Nhìn chung số lượng khách du lịch đến Tây Ninh tăng theo thống kê khách lưu trú, có thể xem đó là tín hiệu tốt cho sự phát triển du lịch ở khía cạnh kinh tế, bởi khách du lịch thuần tuý có mức chi tiêu cao và lưu trú dài ngày hơn so với các nhóm khách du lịch khác (trừ khách du lịch thương mại). Bảng 2.2: Số khách lưu trú và số ngày lưu trú trong các năm  2000  2002  2004  2006  2008  2009   Số khách lưu trú (người)  31.456  59.960  34.410  369.865  355.780  218.413   Người Việt Nam  30.643  57.647  32.679  366.117  352.593  2.7.305   Người nước ngoài  813  2.313  2.345  3.748  3.187  3.106   Số ngày lưu trú (ngày)  29.803  78.662  55.350  171.046  266.141  297.066   Người Việt Nam  29.037  74.737  50.372  165.325  261.021  297.670   Người nước ngoài  766  3.925  4.978  5.721  5.120  4.397   Nguồn: Sở VH, TT và DL Tây Ninh, 2009 Qua các số liệu phân tích có thể nhận thấy rằng trong khoảng 5 năm trở lại đây, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam với mục đích tham quan du lịch thuần tuý tăng nhanh. Thị phần của các nhóm khách khác có xu thế giảm. Đây có thể xem là một trong những tín hiệu tốt cho sự phát triển du lịch bền vững ở khía cạnh kinh tế. 1.2. Doanh thu từ du lịch: Doanh thu từ ngành du lịch tỉnh Tây Ninh chủ yếu là doanh thu từ lượng khách du lịch nội địa (khoảng 98%), doanh thu từ lượng khách du lịch quốc tế của tỉnh chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh thu của ngành. Trong tổng số doanh thu từ ngành du lịch của tỉnh Tây Ninh thì doanh thu từ dịch vụ ăn uống và bán các mặt hàng chiếm tỷ trọng đến 80%, còn doanh thu từ dịch vụ lưu trú chỉ chiếm 20%. Do đó, tỉnh Tây Ninh trong tương lai cần đầu tư mạnh hơn nữa cho dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, nhằm khai thác hiệu quả hơn nữa nguồn thu từ ngành dịch vụ quan trọng này. Như vậy, mặc dù tỉnh Tây Ninh có nhiều tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch, nhưng trong mấy năm gần đây xu hướng phát triển chung đang trên đà chậm lại. Đặc biệt là số lượng khách quốc tế giảm nhanh. Một trong số nhiều những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm nêu trên là sự đầu tư để phát triển ngành du lịch của tỉnh còn nhiều hạn chế và bất cập, hiệu quả đầu tư còn thấp, đầu tư còn dàn trải dẫn đến chưa phát huy hết tiềm năng du lịch vốn có của tỉnh nhà với rất nhiều những ưu điểm đặc thù mà vùng có như Hồ Dầu Tiếng. Vấn đề phát triển cảnh quan, môi trường sinh thái còn chưa tốt, nên lượng khách nước ngoài quay lại tỉnh còn quá ít, phần lớn không vì mục đích du lịch. Hơn nữa, ảnh hưởng từ hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế ở khu vực và thế giới trong thời gian qua ít nhiều đã làm suy giảm số lượng du khách vào nước ta nói chung và Tây Ninh nói riêng. Mặc dù vậy, số lượng khách du lịch nội địa đến tỉnh Tây Ninh tăng lên nhanh. Điều này nhìn chung đã gợi mở ra một hướng khai thác mới nhắm vào khách du lịch và lữ hành nội địa, vì một khi mức sống người dân tăng cao thì nhu cầu du lịch giải trí cũng vì thế mà tăng cao. Bảng 2.3: Số Đơn vị kinh doanh du lịch nhà hàng, khách sạn qua các năm ở tỉnh Tây Ninh  2000  2001  2002  2003  2005  2007  2009   Du lịch  1  1  2  2  6  7  5   Khách sạn, nhà hàng  1.290  3.652  4.180  4.260  7.495  8.874  10.946   Nguồn: Sở TT, VH & Du lịch Tây Ninh, 2009 Kể từ năm 2003, số đơn vị kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn phục vụ hoạt động du lịch đã tăng nhanh đột biến, chỉ tính riêng trong năm 2005, số lượng các dịch vụ nhà hàng, khách sạn đã tăng gần gấp đôi so với năm 2003, đây có thể xem là một dấu hiệu đáng mừng và là cột mốc quan trọng đánh dấu cho bước phát triển khởi sắc mới của ngành du lịch tỉnh Tây Ninh. 1.3. Số người kinh doanh du lịch, khách sạn và nhà hàng trên địa bàn: Hầu hết các dịch vụ kinh doanh phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đều do doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể quản lý khai thác. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để người dân có thể phát huy sức lực và nguồn vốn để cải thiện đời sống, làm giàu cho chính bản thân và đóng góp cho xã hội. Bảng 2.4: Số lượng người tham gia kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn theo các năm  2000  2001  2002  2003  2005  2007  2009   Du lịch  191  120  84  90  179  248  106   Khách sạn, nhà hàng  5.314  14.296  8.309  8.500  14.564  18.929  22.754   Nguồn: Sở VH, TT& DL Tây Ninh, 2009 1.4. Doanh thu từ ngành du lịch: Với số lượng khách du lịch, lữ hành nội địa đến Tây Ninh chiếm đa số nên doanh thu của ngành cũng chủ yếu từ từ đối tượng khách này (khoảng 98%), doanh thu từ lượng khách quốc tế không đáng kể. Bảng 2.5: Tổng doanh thu từ du lịch trên địa bàn tỉnh Tây Ninh TT   2000  2002  2003  2005  2007  2009   1  Phân theo thành phần kinh tế      901.373  1.143.495    Tập thể  -  -  -  -  -  -    Tư nhân  -  17.392  3.485  4.344  4.493  11.601    Cá thể  -  594.550  583.600  567.852  857.693  1.116.680    hỗn hợp  -  -  -  -  -  -    Khu vực kinh tế có vốn đầu tư  -  -  -  -  -  -   2  Phân loại theo doanh thu          Doanh thu dịch vụ  12.069  35.778  28.706  37.931  47.428  28.314    - Thuê phòng  2.755  5.948  5.665  12.700  15.425  19.995    - Lữ hành  -  29.830  23.041  25.231  32.399  8.319    Vận chuyển khách  75  -  -  -  -  -    Thu khác  9.239  -  -  -  -  -    Doanh thu bán hàng  64.698  320  680  740  -  -    Doanh thu ăn uống  3.587  582.905  582.298  564.175  853.549  1.115.181   Nguồn: Thống kê Sở VH, TT & DL Tây Ninh, 2009 Có thể nhận thấy rằng, trong tổng doanh thu của ngành du lịch tỉnh Tây Ninh thì doanh thu từ các dịch vụ ăn uống và bán hàng chiếm đa số (đến khoảng 95%), còn doanh thu từ các dịch vụ khác (lưu trú, vận chuyển khách,…) chỉ chiếm khoảng 5%. Trong tương lai khi khu du lịch Hồ Dầu Tiếng được đầu tư và đi vào hoạt động khai thác thì số lượng khách du lịch lưu trú lại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh sẽ nhiều hơn và số ngày lưu trú sẽ được kéo dài hơn. Đây có thể sẽ là nguồn thu nhập chính cho ngành du lịch của tỉnh. Do đó, một yêu cầu cấp thiết cần đặt ra là cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho loại hình dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, nhằm khai thác tối đa hiệu quả từ nguồn thu này. 1.5. Đánh giá hiện trạng du lịch tỉnh Tây Ninh: Ngành du lịch của tỉnh Tây Ninh đã có lịch sử phát triển hơn một thập kỷ. Trên cơ sở phân tích hiện trạng khách du lịch và doanh thu, có thể đánh giá việc phát triển du lịch của tỉnh nhìn chung còn chậm, hiệu quả kinh tế mang lại còn thấp và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của tỉnh. Đặc biệt là số lượng khách quốc tế đến với Tây Ninh giảm nhanh. Một trong nhiều nguyên nhân giải thích cho tình trạng nêu trên là sự đầu tư để phát triển ngành du lịch còn thiếu và bất hợp lý, công tác quản lý còn yếu kém và nhiều bất cập, chưa tận dụng hết khả năng vốn có cũng như phát huy tối đa các đặc trưng độc đáo mang tính vùng miền để phục vụ phát triển du lịch. Vấn đề xây dựng, phát triển và bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái chưa tốt. Bên cạnh đó, sức hấp dẫn từ các dịch vụ còn nhiều hạn chế, các hoạt động giới thiệu tuyên truyền, quảng bá cho ngành du lịch của tỉnh vừa thiếu vừa yếu cũng góp phần vào sự phát triển trì trệ của ngành du lịch nói chung. Mặc dù vậy, nhưng cho đến nay thì ngành du lịch tỉnh Tây Ninh vẫn chưa tìm ra được những hình thức, nội dung và các sản phẩm du lịch độc đáo, mang bản sắc riêng và có tính đặc trưng để qua đó có thể thu hút khách du lịch nhằm mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Vì vậy, việc đánh giá tiềm năng, định hướng phát triển các loại hình du lịch, khai thác triệt để tiềm năng du lịch vốn có của Hồ Dầu Tiếng sẽ là bước đi quan trọng, cần thiết để làm cơ sở cho mục tiêu thu hút khách du lịch trở lại với Tây Ninh. 2. Tiềm năng phát triển: 2.1. Vị trí địa lý kinh tế và lợi thế phát triển du lịch: Tây Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trung tâm kinh tế năng động và phát triển mạnh mẽ nhất của Việt Nam. So với các tỉnh cùng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, Tây Ninh có những lợi thế so sánh nhất định để phát triển du lịch dịch vụ. Thứ nhất, Tây Ninh cách TP. HCM khoảng 99 km, là thị trường có nhu cầu lớn về nghỉ ngơi giải trí, du lịch sinh thái. Ngoài ra vị trí tiếp giáp với TP. HCM cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tại Tây Ninh có thể sử dụng các công trình hạ tầng kỹ thuật như cảng biển, sân bay,…hiện có của TP. HCM. Thứ hai, Tây Ninh có lợi thế rất lớn trong việc thông thương và kết nối tour tuyến du lịch với Campuchia và các nước ASEAN khác. Tây Ninh có đường biên giới quốc gia dài 240 km, giáp với ba tỉnh của Campuchia. Với 14 cửa khẩu (bao gồm 2 cửa khẩu quốc tế, 4 cửa khẩu chính và 8 cửa khẩu phụ) thông thương sang Campuchia. Trong đó hai cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài ở phía Nam và Xa Mát ở phía Bắc của tỉnh, là những nguồn cung cấp du khách quốc tế quan trọng cho tỉnh. Đặc biệt là với hai cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài và Xa Mát, Tây Ninh có hai cửa ngõ thuận lợi nhất của khu vực để kết nối với Campuchia, Thái Lan và xa hơn nữa có thể là Ấn Độ. Cửa khẩu Mộc Bài là cửa khẩu thuận lợi nhất để đến Thủ đô Phnôm Phenh của Campuchia khi chỉ cách khoảng 150 km, còn cửa khẩu Xa Mát rất thuận lợi để kết nối với khu di tích nổi tiếng Angkor – Di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận khi chỉ cách khoảng 300 km. Như vậy hai cửa khẩu này có thể giúp du khách từ Tây Ninh có thể đi lại một cách thuận lợi theo đường bộ đến Phnôm Phênh, khu di tích Angkor, biển hồ Tonle Sap và xa hơn nữa là đến với Thái Lan, Ấn Độ. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch Caravan – loại hình du lịch đang được ưu chuộng hiện nay. Trong tương lai, Tây Ninh sẽ trở thành một trong những cửa ngõ quan trọng trong việc phát triển các mối quan hệ về kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khối ASEAN, cũng như các nước vùng Trung Á thông qua tuyến đường bộ xuyên Á. 2.2. Điều kiện và tài nguyên du lịch tự nhiên: 2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên của Tây Ninh khá thích hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân với các đặc điểm chính: Khí hậu ôn hoà, chia làm hai mùa là mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Lượng mưa trung bình cả năm từ 1.800 mm – 2.200 mm, độ ẩm trung bình trong năm vào khoảng 70 – 80 %, chế độ bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, ít chịu ảnh hượng của bão và các hiện tượng thời tiết bất lợi. Địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc không lớn, nhìn chung giảm dần độ cao từ phía Đông Bắc xuống Tây Nam. Tây Ninh có núi Bà Đen, cao nhất cùng Đông Nam Bộ (986 m) tạo thành thắng cảnh nổi tiếng của cả khu vực. Hệ sinh thái của của Tây Ninh mang nhiều đặc tính sinh thái của rừng nhiệt đới miền Đông Nam Bộ với hệ động vật rừng tương đối đa dạng, tập trung chủ yếu ở khu vực Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát. Tây Ninh tương đối nhiều mưa, đó là nguồn nước khá dồi dào để nuôi sống hệ thống sông ngòi trong tỉnh, tạo ra dòng chảy trung bình từ 20 – 30 l/s/km2. Lượng nước trong năm của sông ngòi thay đổi theo mùa rõ rệt. Mùa lũ ứng với mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, chiếm tới 85% tổng lượng nước của cả năm, lũ lớn nhất thường là vào tháng 9. Với tổng chiều dài sông suối khoảng 469 km, Tây Ninh có mật độ mạng lưới sông ngòi tương đối thấp so với các nơi khác (trung bình 0,31 km/km2). Hai con sông lớn nhất của tỉnh là sông Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn, hai sông này chịu ảnh hưởng của thuỷ triều từ Biển Đông với chế độ bán nhật triều, thượng lưu sông Sài Gòn là hồ thuỷ lợi Dầu Tiếng. 2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên: 2.2.2.1. Núi Bà Đen: Núi Bà Đen nằm ở phía Đông Bắc thị xã Tây Ninh, là khu vực có thắng cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ trong lành, cùng với đó là rất nhiều di tích văn hoá như Chùa chiền, Hang động. Các Lễ hội diễn ra và dịp đầu năm âm lịch đã thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong tỉnh cũng như các khu vực khác đổ về. Hiện nay, các Lễ hội này hàng năm thu hút được khoảng 1,5 triệu lượt khách tham quan, chiếm khoảng 90% tổng lượng khách du lịch của tỉnh. Trong quần thể Núi Bà Đen có rất nhiều di tích có giá trị, trong đó Thiên Ma Lãnh là một trong những khu vực có giá trị lớn nhất về du lịch và nghỉ dưỡng, du lịch cuối tuần. Khu vực Thiên Ma Lãnh là một thung lũng được tạo thành bởi 3 ngọn núi lớn của núi Bà Đen, đây là khu vực có môi trường trong lành, khí hậu mát mẻ dễ chịu, là điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển các loại hình như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm,… Hiện nay, tỉnh Tây Ninh đã có Quy hoạch chi tiết khu du lịch Thiên Ma Lãnh: gồm 96 ha, với 80 ha rừng và 16 ha đất nông nghiệp vòng theo chân núi Bà Đen. Theo Quy hoạch dự án, các hạng mục sẽ được xây dựng và phát triển bao gồm: khu du lịch cộng đồng với diện tích 0,3 ha; khu đón tiếp du khách, khu quản lý và khu biệt thự nghỉ dưỡng 15 ha; khu du lịch dịch vụ sinh thái, thể thao với diện tích 33 ha và khu vui chơi giải trí nghỉ dưỡng với diện tích 45 ha. 2.2.2.2. Hồ Dầu Tiếng: Hồ Dầu Tiếng nằm trên địa bàn huyện Dương Minh Châu, cách thị xã Tây Ninh khoảng 20Km về hướng Đông Bắc và cách TP. HCM khoảng 70 km về phía Bắc. Đây là hồ nước nhân tạo lớn nhất khu vực miền Nam với diện tích 27.000 ha mặt nước, 4.560 ha đất bán ngập, dung tích 1,5 tỷ m3 nước, mực nước dao động trung bình từ 17 – 24 m, là điều kiện vô cùng thuận lợi để hình thành và phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, thể thao, công viên rừng, khu săn bắn, câu cá, bãi tắm, du thuyền và các môn thể thao dưới nước. 2.2.2.3. Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát: Nằm ở khu vực phía bắc của tỉnh Tây Ninh, giáp với biên giới Campuchia, thuộc địa phận 3 xã Tân Lập, Hoà Hiệp và Tân Bình của huyện Tân Biên, cách thị xã Tây Ninh khoảng 30 km về phía Bắc. Đây là khu vực chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ, khu vực Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đặc trưng nổi bật của vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát là cảnh quan với hệ sinh thái rừng nhiệt đới, các trảng thực vật cây họ Dầu rụng lá vào mùa khô, ngập nước vào mùa mưa, tạo nên một vùng đất ngập nước theo mùa khá độc đáo; là nơi cư trú của hơn 130 loài chim nước, tiêu biểu là loại chim Quắm cánh xanh, cò Quắm lớn,… Đặc biệt, tại đây có tới 6 loài chim quý hiếm, đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. 2.2.2.4. Sông Vàm Cỏ Đông: Sông Vàm Cỏ Đông là dòng sông lớn nhất khu vực Đông Nam Bộ, với lòng sông rộng, lưu vực hai bên bờ sông bằng phẳng là điều kiện vô cùng thuận lợi để xây dựng mô hình các trang trại miệt vườn phục vụ nhu cầu du lịch giải trí sinh thái cuối tuần như ẩm thực sông nước, câu cá thư giãn của khách du lịch cuối tuần trong tỉnh và các vùng phụ cận, đặc biệt là nguồn khách du lịch từ TP. HCM. Ngoài ra, phát triển loại hình du lịch sinh thái sông nước trên sông Vàm Cỏ Đông còn có khả năng thu hút một lượng khách du lịch không nhỏ theo tuyến đường sông vào mùa Lễ hội núi Bà Đen, đồng thời hình thành một tour du lịch sông nước hấp dẫn, góp phần đa dạng hoá các sản phẩm du lịch của tỉnh Tây Ninh. Ngoài các điểm du lịch chủ yếu nêu trên, tiềm năng du lịch của tỉnh Tây Ninh còn rất lớn nhưng vẫn chưa được khai thác như: tiềm năng du lịch sinh thái ở khu vực Trảng Bàng, du lịch sinh thái ở khu vực Mộc Bài,… 2.2.2.5. Rạch Trưởng Chừa – Trảng Bàng: Xây dựng khu nghỉ dưỡng, công viên sinh thái, thương mại dịch vụ, cắm trại kết hợp du lịch sinh thái, du lịch văn hoá (địa đạo văn hoá, ẩm thực địa phương) nhằm phục vụ nhu cầu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần của khu công nghiệp Trảng Bàng và khách du lịch từ Bình Dương, TP. HCM. 2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn: 2.3.1. Di tích lịch sử - văn hoá: Nếu tính các di tích lịch sử - văn hoá được Nhà nước xếp hạng so với nhiều tỉnh khác, Tây Ninh không có nhiều, tuy nhiên các di tích với quy mô nhỏ hơn thì khá phong phú. Có thể chia thành các nhóm sau: 2.3.1.1. Các di tích gắn với tôn giáo: Ở Tây Ninh có nhiều tôn giáo khác nhau nhưng nổi bật nhất vẫn là đạo Cao Đài. Số lượng người theo đạo Cao Đài chiếm đông nhất. Ngoài ra còn có đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Hồi,… về số lượng nơi thờ tự, chiếm số lượng nhiều nhất là đạo Phật (81 Chùa) và đạo Cao Đài (57 Thánh Thất), đạo Thiên Chúa (25 Nhà thờ). Các tôn giáo khác có số lượng thờ tự ít hơn nhiều. Mỗi tôn giáo có một kiểu kiến trúc riêng làm cho các nơi thờ tự rất đa dạng. Đây có thể xem là một lợi thế của Tây Ninh trong việc thu hút khách du lịch thập phương. Nổi bật lên trong số các công trình kiến trúc tôn giáo của tỉnh Tây Ninh là Toà Thánh Tây Ninh, một công trình kiến trúc lớn có sự kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và kiến trúc phương Đông tạo thành một kiến trúc độc đáo, đặc sắc. Cùng với Toà thánh Tây Ninh, các ngôi chùa ở núi Bà Đen là những công trình kiến trúc được xây dựng kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên của thắng cảnh núi Bà Đen với sự kết hợp khéo léo, tài tình của bàn tay con người, tất cả tạo thành một quần thể di tích có giá trị văn hoá cao. 2.3.1.2. Các di tích gắn với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc: Tây Ninh là một trong những địa phương giàu truyền thống cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nơi đây từng là căn cứ của Trung Ương Cục Miền Nam, là thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời. Khu di tích lịch sử căn cứ cách mạng Trung Ương Cục Miền Nam đã được xếp hạng , thuộc huyện Tân Biên và một phần huyện Tân Châu, với diện tích trên 70.000 m2 với nhiều công trình khác nhau. Bao gồm hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn chữ A, hội trường ngầm và công sự chiến đấu bao quanh khu làm việc. Hệ thống rừng nguyên sinh hiện có là địa điểm lý tưởng để du lịch cắm trại, học tập, nghiên cứu hệ sinh thái của rừng miền Đông. Ngoài khu di tích căn cứ Trung Ương Cục miền Nam đã được xếp hạng, tỉnh Tây Ninh còn có một số còn có một số di tích khác như căn cứ Bời Lời (căn cứ tỉnh Uỷ Tây Ninh và Sài Gòn – Gia Định), chiến khu Dương Minh Châu, địa đạo An Thới và nhiều di tích khác. Các di tích lịch sử cách mạng này là tiềm năng lớn để phát triển các loại hình du lịch về nguồn, có tác dụng tôn vinh những giá trị lịch sử, thành quả đấu tranh của nhiều thế hệ đi trước, đồng thời có tác dụng to lớn trong việc giáo dục các thế hệ trẻ về lòng yêu nước, truyền thống cách mạng và sự biết ơn đối với những người đã có công trong các cuộc kháng chiến cứu nước. 2.3.1.3. Các di chỉ khảo cổ: Ngoài hai nhóm nêu trên còn có một vài di chỉ khảo cổ (An Thạnh, Bến Cầu), tháp Bình Thạnh – một trong số ít những tháp còn lại ở Nam Bộ tiêu biểu cho nền văn hoá Óc Eo. Về chất lượng di tích, mỗi di tích đều có sắc thái và dấu ấn lịch sử riêng biệt. Các di tích phần nhiều là các là các công trình nghệ thuật đặc sắc với kiến trúc độc đáo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số các di tích nhất là các di tích gắn liền với phong trào cách mạng đã không còn giữ nguyên vẹn. Tuy nhiên hiện nay việc phục chế và tôn tạo các di tích này đang được thực hiện nhằm tái tạo và gìn giữ các giá trị vô giá của dân tộc. 2.3.2. Các lễ hội: Các Lễ hội ở Tây Ninh là Lễ hội gắn liền với các tín ngưỡng tôn giáo. Các ngày Lễ hội có khả năng thu hút khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu. Lễ hội nổi tiếng và hấp dẫn, thu hút được số lượng lớn khách du lịch (khoảng 1,5 triệu du khách) đến từ khắp nơi là Lễ hội Núi Bà vào dịp tháng Giêng Âm lịch hằng năm. Đây là một trong số các Lễ hội lớn nhất của khu vực phía Nam và cả nước. Ngoài ra các Lễ hội của đạo Cao Đài như Lễ hội Đấng Chí Tôn (ngày 8 – 9 tháng 1), lễ hội Thượng Ngươn (ngày 15 tháng 1), Phật Mẫu (ngày 15 tháng 6), Trung Ngươn (ngày 15 tháng 8), Hạ Ngươn (ngày 15 tháng 10)… cũng là những dịp sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng và tâm linh. Các Lễ hội này là những sự kiện văn hoá đầy màu sắc và mang đặc trưng văn hoá dân tộc, có giá trị hấp dẫn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. 2.3.3. Các tài nguyên nhân văn khác: Các đặc trưng văn hoá dân tộc thiểu số cũng được coi là một trong những tài nguyên nhân văn có thể phục vụ cho mục đích khai thác du lịch. Mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán riêng có thể hấp dẫn đối với khách du lịch. Ngoài người Kinh chiếm đa số, Tây Ninh còn có nhiều dân tộc thiểu số khác như Hoa, Khơme, Chàm, Mường, Tày, Nùng, Thái, Xinh Mun, Phù Lá, Bana và một số dân tộc thiểu số khác. Bên cạnh đó, các loại tài nguyên nhân văn khác như các làng nghề truyền thống, nền văn hoá truyền khẩu, các món ăn đặc sản của địa phương cũng là các yếu tố có thể khai thác phục vụ các hoạt động du lịch. 2.4. Du lịch thương mại cửa khẩu: Với 240 km đường biên giới với Campuchia, trong đó có 14 cửa khẩu, đặc biệt là hai cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và Xa Mát là những cửa ngõ thuận lợi nhất đến Phnom Phenh, Angkor Vat và xa hơn là các nước Thái Lan và các nước trong khối ASEAN. Hiện nay, các cửa khẩu của Tây Ninh mới chỉ phát triển chủ yếu với vai trò thương mại, song trong thời gian tới khi tuyến đường xuyên Á hoàn thành đồng thời với việc đơn giản hoá các thủ tục nhập cảnh, thuận tiện hơn thì đây sẽ là cửa ngõ quan trọng ở khu vực Đông Nam Bộ để đón khách du lịch vào Việt Nam và đưa khách từ thị trường trong nước đến các nước trong khu vực. 2.5. Đánh giá về tài nguyên du lịch: Đánh giá vị trí, tài nguyên du lịch Tây Ninh trong tình hình mới: Từ năm 1995, tỉnh Tây Ninh đã xây dựng quy hoạch về du lịch, trong đó đã xác định, đánh giá về các tiềm năng thế mạnh du lịch của tỉnh. Tuy nhiên trong tình hình mới hiện nay, cần phải có những đánh giá lại trên quan điểm tổng hợp, phù hợp hơn với điều kiện hiện trạng, làm cơ sở để xây dựng các định hướng phát triển du lịch phù hợp với khu vực và thế giới. Thứ nhất, Tây Ninh có vị trí quan trọng và rất thuận lợi để để khai thác du lịch quốc tế từ các thị trường như Campuchia, Thái Lan và các nước khác trong khu vực ASEAN. Thứ hai, Tây Ninh có vai trò là cửa ngõ đi vào phía Tây của Việt Nam và TP. HCM thông qua tuyến đường xuyên Á. Đây được xem là điều kiện thuận lợi để Tây Ninh phát triển mạnh các loại hình du lịch cuối tuần, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch quốc tế (du lịch khu vực ASEAN và du lịch Châu Á) đối với thị trường TP. HCM. Thứ ba, tiềm năng du lịch của Tây Ninh tuy không thật nhiều nhưng khá độc đáo, có nhiều nét đặc sắc và có giá trị lớn như khu du lịch núi Bà Đen với một trong những Lễ hội lớn và thu hút nhất Việt Nam; hồ Dầu Tiếng; Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát; Toà thánh Cao Đài Tây Ninh; di tích Trung Ương Cục miền Nam. Thứ tư, tiềm năng du lịch sông nước ở khu vực sông Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn cũng là tiềm năng có giá trị lớn, có khả năng khai thác để đa dạng hoá các sản phẩm và tăng tính hấp dẫn của ngành du lịch. CHƯƠNG 3 TIỀM NĂNG DU LỊCH HỒ DẦU TIẾNG 1. Giới thiệu khái quát hồ Dầu Tiếng: 1.1. Các chỉ tiêu thiết kế kỹ thuật: Căn cứ theo Quyết định số 498-TTg ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ: - Cấp công trình: công trình cấp I (theo TCVN-08-76); - Tần suất đảm bảo chống lũ: P = 0,1%; - Lưu lượng xả lũ thiết kế: QP=0,1% = 2.800 m3 /s; - Tần suất đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp: P = 75%; - Diện tích lưu vực F = 2.700 km2; - Diện tích mặt hồ ứng với mực nước dâng bình thường: Fhbt = 270 km2 ; - Diện tích mặt hồ ứng với mực nước chết: Fhc = 110 km2; - Chế độ điều tiết: nhiều năm; 1.2. Công trình đầu mối: 1.2.1. Hồ Chứa: - Mực nước dâng bình thường: hbt = +24,4 m; - Mực nước lũ thiết kế: hltk = +25,1 m; - Mực nước chết: Hc = +17,0 m; - Tổng dung tích: W = 1,58 tỷ m3; - Dung tích hữu ích: Whd = 1,11 tỷ m3; - Dung tích ứng với mực nước chết: Wc = 0,47 tỷ m3; 1.2.2. Đập chính: Những chỉ tiêu cơ bản của đập chính; - Hình thức kết cấu: đập đất đồng chất; - Cao trình đỉnh đập: +28,0 m; - Tường chắc sóng: bê tông cốt thép cao 1m; - Chiều rộng mặt đập: +8,0 m; - Chiều dài đập: 1.100 m; - Mái đập thượng lưu: M1 = 3,5; 4,0; 1,5. - Mái đập hạ lưu: M2 = 3,5; 4,5; 2,5. - Đập có hai cơ rộng 4m ở cao trình: +19,5 m và +12,5 m; - Bảo vệ mái thượng lưu từ cao trình +19,5 m trở lên bằng tấm lát bê tông, từ cao trình +19,5 m trở xuống lát bằng đá; - Bảo vệ mái hạ lưu bằng trồng cỏ và rảnh tiêu thoát nước; 1.2.3. Đập phụ: Những chỉ tiêu cơ bản của đập phụ: - Hình thức kết cấu: đập đất đồng chất; - Cao trình đỉnh đập: +27,0 m; - Tường chắn sóng: bằng đá cao 1 m; - Chiều rộng mặt đập: 5,0 m; - Chiều dài đập: 27.200 m; - Mái đập thượng lưu: M1 = 3,5; - Mái đập hạ lưu: M2 = 2,5; 3,5; - Bảo vệ mái thượng lưu bằng lát đá; - Bảo vệ mái hạ lưu bằng trồng cỏ và rảnh tiêu thoát nước; 1.2.4. Đập tràn xả lũ: Những chỉ tiêu chính: - Hình thức kết cấu: Kiểu tràn sâu, có 6 cửa thoát nước, mỗi cửa rộng 10 m, cao 6 m có tường ngực; - Ngưỡng tràn kiểu đập tràn, đỉnh rộng, cao trình đỉnh tràn: +14 m; - Tiêu năng bằng máng phun, cửa hình cung bằng thép, có phai sửa chữa, đóng mở bằng hệ thống pittông thuỷ lực. - Sau tràn là dẫn lũ ra sông Sài Gòn với chiều dài 1.000 m; 1.2.5. Cống số 1: Cống số 1 đặt ở thềm bên phải sông Sài Gòn với hình thức kết cấu cống ngầm dưới đập đất, có 3 cửa hình chữ nhật. Mỗi cửa rộng 3 m, cao 4 m bằng bê thông cốt thép, ngưỡng cống ở cao trình +13 m, cửa lấy nước kiểu phẳng. Chế độ thuỷ lực chảy trong cống không có áp, lưu lượng qua cống ứng với mực nước dâng bình thường + 24,4 m là 93 m3/s. 1.2.6. Cống số 2: Cống số 2 đặt ở bờ phải vách suối Đá với hình thức kết cấu kiểu cống ngầm dưới đập đất (đập phụ), có 3 cửa hình chữ nhật, mỗi cửa có chiều rộng 3 m, cao 4 m bằng bê tông cốt thép. Cao trình ngưỡng cống +13 m. Cửa lấy nước kiểu phẳng. Chế độ thuỷ lực chảy trong ống không áp, lưu lượng qua cống ứng với mực nước dâng bình thường +24,4 m là 93 m3/s. 1.2.7. Cống số 3: Lấy nước vào kênh Tân Hưng, có một cửa xả 3 * 3 m, cao trình ngưỡng cống +17,75m, lưư lượng thiết kế QTK = 12,8 m3/s. 1.3. Hệ thống kênh: 1.3.1. Hệ thống kênh Đông: Gồm 1 kênh chính và 44 kênh cấp I. Ngoài ra còn có các kênh cấp 2, 3, 4 và các trạm bơm lấy nước từ kênh để phục vụ tưới cho các vùng cục bộ. Hệ thống kênh Đông có nhiệm vụ tưới cho 41.000 ha và cung cấp nước phục vụ sinh hoạt trong vùng. Kênh chính Đông dài 45,416 km, cao trình mực nước đầu kênh +16,5 m, cao trình mực nước cuối kênh là +8,8 m. Lưu lượng đầu kênh: Qtk = 64,54 m3/s; Chiều rộng đáy kênh đoạn đầu: Hk = 25 m; Chiều sâu cột nước thiết kế: Htk = 3,79 m; Độ dốc đáy kênh: thay đổi từ 0,4x 10-4 đến 0,9 x 10-4; Chiều rộng bờ kênh chính: 6 m; Tổng chiều dài kênh cấp I là: 210 km; Tổng chiều dài kênh cấp II là: 675 km; 1.3.2. Hệ thống kênh Tây: Gồm 1 kênh chính và 22 kênh cấp I. Ngoài ra còn có hệ thống kênh cấp 2, 3, 4 và các trạm bơm lấy nước từ kênh phục vụ tưới cho các vùng cục bộ. Hệ thống kênh Tây có nhiệm vụ tưới cho 41.689 ha và cung cấp nước sinh hoạt cho vùng. Kênh Tây dài: 38,750 km; Cao trình mực nước đầu kênh: +16,5 m; Cao trình mực nước cuối kênh: 13,47 m; Lưu lượng đầu kênh chính: Qtk = 71,9 m3 /s; Chiều rộng đáy kênh đoạn đầu: BK = 25 m; Chiều sâu mực nước đầu kênh: Htk = 3,0 m; Độ dốc đáy kênh: thay đổi từ 0,5x 10-4 đến 0,9x 10-4; Chiều rộng bờ kênh: 6 m; Tổng chiều dài kênh cấp I: 145 km; Tổng chiều dài kênh cấp II là: 466 km; 1.3.3. Hệ thống kênh Tân Hưng: Có tổng chiều dài 20 km, có nhiệm vụ cấp nước tưới cho 10.701 ha. Ngoài ra còn có nhiệm vụ cấp nước cho nhà máy đường Boubors với công suất 8.000 tấn/ ngày. 1.4. Nhiệm vụ của hồ thuỷ lợi Dầu Tiếng: 1.4.1. Nhiệm vụ trước mắt: 1.4.1.1. Cấp nước tự chảy cho 64.830 ha, trong đó bao gồm: - Tỉnh Tây Ninh: 52.800 ha; - TP. HCM (huyện Củ Chi): 12.000 ha; 1.4.1.2. Cấp nước tạo nguồn ổ định cho vùng hạ du: 40.100 ha (Tây Ninh: 16.640 ha; Long An: 21.500 ha; Bình Dương: 2.000 ha); 1.4.1.3. Xả nước vào sông Sài Gòn vào mùa kiệt, giữ nguyên tình hình như khi chưa có hồ; 1.4.1.4. Cấp nước cho các nhà máy cấp nước của TP. HCM từ tháng 1 đến tháng 7 hàng năm, với lưu lượng cấp Qc = 7,3 m3/s; 1.4.1.5. Tạo nguồn mở rộng các dự án vùng hạ du bằng 25.000 ha, trong đó: - Khu Bến Cầu – Tây Ninh = 5.000 ha; - Khu Lộc Giang, Hiệp Hoà – Long An = 5.000 ha; - Khu Hóc Môn, Bắc Bình Chánh, Bến Mương, Láng The – TP. HCM = 15.000 ha; 1.4.1.6. Cấp nước cho khu tưới Tân Hưng: 10.701 ha; 1.4.1.7. Cấp nước cho nhà máy đường Boubors, với lưu lượng Q = 1m3/s; 1.4.2. Nhiệm vụ lâu dài: 1.4.2.1. Cấp nước tưới trực tiếp cho 93.390 ha, trong đó bao gồm: - Tây Ninh: 78.830 ha; - TP. HCM : 14.560 ha, cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Hình 3.4: Mạng lưới dự kiến lấy nước từ hồ Dầu Tiếng cấp nước sinh hoạt TP.HCM

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBÀI VIẾT.File có hình Final. IN.doc
  • docDANH SÁCH CÁC BẢNG. IN.doc
  • docDANH SÁCH CÁC HÌNH. IN.doc
  • docDANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT. Final. IN.doc
  • docGIẤY XAC NHÂN CUA GVHD.doc
  • docLỜI CÁM ƠN. IN.doc
  • docMỤC LỤC.Final IN.doc
  • docPHỤ LỤC BẢN ĐỒ. IN.doc
  • docTÀI LIỆU THAM KHẢO.IN.doc
  • docTờ GIAO NHIÊM VỤ ĐỒ ÁN. IN.doc
  • docTO GIAO NHIEM VU. KHÔNG IN.doc