Qua Hình 19 cho thấy sự tương quan giữa sức sinh sản với trọng lượng chặt
chẽ hơn sự tương quan giữa sự tương quan giữa sức sinh sản và chiều dài cá.
Vì khi cá vào thành thục sinh dục phần lớn năng lượng đều cung cấp cho sự
phát triển của tuyến sinh dục nên quá trình sinh trưởng chậm lại nhưng sự tăng
trưởng về chiều dài rất chậm. Nhận định này tương đối phù hợp theo nhận định
của (Bùi Lai vàctv, 1985) thì trong quá trình sinh sản thì sự sinh trưởng về
chiều dài giảm có khi tới mức “không” sau khi sinh sản thì sự sinh trưởng về
chiều dài mới tăng trở lại và cứ tiếp tục như vậy cho đến chết.
33 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3318 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiếp tục nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá ngát (plotosus canius hamilton, 1822), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN VĂN VIẾNG ANH
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
SINH SẢN CÁ NGÁT
(Plotosus canius Hamilton, 1822)
LUẬN VĂN ĐẠI HỌC
Cần thơ, 2009
LỜI CẢM TẠ
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Nguyễn Bạch Loan đã hướng dẫn
tận tình và đóng góp ý kiến quý báo giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Xin được gửi lời cảm ơn đến:
Thầy Nguyễn Văn Thường, thầy Trần Đắc Định, thầy Vũ Ngọc Út đã tạo điều
kiện để thuận lợi để luận văn tốt nghiệp em được hoàn thành.
Qúy thầy cô, cán bộ Khoa Thủy sản đã tận tâm truyền đạt kiến thức trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của anh Nguyễn Bá Quốc trong quá trình thực hiện
đề tài, cảm ơn những lời động viên tinh thần của các bạn cùng lớp trong suốt
quá trình học tập.
Cuối cùng xin cảm ơn Ba, Mẹ đã dạy dỗ, tạo mọi điều kiện để con có cơ hội
học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
TÓM TẮT
Đề tài tập trung nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá Ngát ngoài tự
nhiên. Mẫu cá được thu tại 3 tỉnh An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng dọc theo
tuyến sông Hậu từ các ngư dân và các chợ địa phương.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cá Ngát (Plotosus canius) có sự tương quan chặt
chẽ giữa sức sinh sản tuyệt đối và tọng lượng cá theo phương trình có dạng
y=2.3003x0.9514 với hệ số tương quan R2=0.809. Độ béo của cá biến đổi trong
các tháng quan sát như sau: Độ béo Fulton thay đổi từ (0.16-3.52%) và độ béo
Clack thay đổi từ (0-3.34%). Độ béo tăng cao nhất vào khoảng tháng 11. Hệ số
thành thục (GSI) trung bình của cá thấp thay đổi từ (0.145-3.55%) thấp nhất
vào khoảng tháng 9. Sức sinh sản trung bình tuyệt đối của cá Ngát là 2125
trứng/cá thể và sức sinh sản tương đối là 1692 trứng/Kg. Đường kính trứng
trong bình của cá dao động từ 0.37-0.68 cm, lớn hơn nhiều so với các loài cá
khác.
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong những nước có diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS)
lớn nhất Thế giới (Hanafi và Admad, 1999). Theo Bộ thủy sản Việt nam tính
đến 14/11/08 kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam xấp xỉ 4 tỷ USD, trong
10 tháng đầu năm xuất khẩu đat 1.054.600 tấn, tăng 24% so với cùng kỳ năm
ngoái. Qua đó, cho thấy được vai trò quan trọng của thủy sản đối với nền kinh
tế của đất nước. Hơn nữa sản phẩm thủy sản còn cung cấp nguồn đạm rất cần
thiết cho người nghèo và là sản phẩm tốt cho sức khỏe cộng đồng. Trên Thế
giới, tiêu thụ sản phẩm thủy sản 5-9.7 (Kg/người /năm) ở Việt Nam là 13-15
(Kg/người/năm), riêng ở ĐBSCL là 30 (Kg/người/năm). Thủy hải sản lại có hệ
số chuyển hóa thức ăn thấp hơn gia súc và gia cầm (Lê Xuân Sinh, 2005). Tuy
nhiên nguồn lợi thủy sản tự nhiên thì có hạn mà nhu cầu của con người thì tăng
lại càng tăng nhất là những loài cá có thịt thơm ngon như cá Trê vàng, cá
Chạch lấu, nhất là cá Ngát. Cá Ngát (Plotosus canius Hamilton, 1822), một
trong những loài cá da trơn có kích cỡ thương phẩm tương đối lớn, trung bình
cá 2 năm tuổi có trọng lượng từ 2- 3 kg/con. Cá ngát có giá trị thịt thơm ngon.
Hiện nay trên thị trường, cá có trọng lượng trên 1kg được bán với giá từ 40.000
- 50.000 đồng.(Google, 2008)
Do có giá trị kinh tế cao nên nhiều ngư dân đã khai thác tích cực đối tượng này
dẫn đến sự cạn kiệt dần nguồn cá ngoài nhiên. Trên cơ sở điều tra của Trung
Tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống thủy sản An Giang, bước đầu có thể nhận
định cá Ngát hoàn toàn có thể nuôi được trong các lồng bè đặt nơi có dòng
chảy tốt và đây có thể được xem là một đối tượng nuôi mới rất hiệu quả trong
tương lai. Nhưng những nghiên cứu về đối tượng này còn rất ít và qui trình sản
xuất giống chưa ổn định để đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Chính vì vậy Lê
Thái Nguyên (2008) đã tìm hiểu một số chỉ tiêu sinh học sinh sản của cá Ngát
nhưng thời gian thực hiện chỉ mới từ tháng 1-5. Xuất phát từ tình hình trên
được sự phân công của Khoa thủy sản, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, đề tài
“Tiếp tục nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá Ngát (Plotsus canius)
được tiến hành.
1.1 Mục tiêu của đề tài
Góp phần hoàn chỉnh những dẫn liệu về sinh học sinh sản nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho những nghiên cứu tiếp về sản xuất giống nhân tạo loài cá Ngát
(Plotosus canius Hamilton, 1822)
1.2 Nội dung
1.2.1. Tiếp tục khảo sát hình thái các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục
qua các tháng còn lại trong năm.
1.2.2. Biến động độ béo qua các tháng thu mẫu.
Clark
Fulton
1.2.3. Tiếp tục theo dõi biến động hệ số thành thục của cá Ngát ngoài tự nhiên.
1.2.4. Đường kính trứng của cá Ngát.
1.2.5. Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối.
1.2.6. Tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức sinh sản và kích cỡ cá
Ngát thành thục sinh dục.
PHẦN II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Họ cá Plotosidae được phát hiện đầu tiên trong thủy vực thuộc vùng cửa sông,
vùng đầm phá, thỉnh thoảng bắt gặp trong các con sông ở các quốc gia phụ cận
khu vực hạ lưu Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương và sự đa dạng thành phần loài
của họ cá này cũng tập trung chủ yếu ở khu vực này: từ bờ biển phía tây và
phía nam Ấn Độ, chạy về phía đông Sri Lanka đến bờ biển Bangladesh and
Myanmar, xuyên qua Châu Úc (Indo-Australian Archipelago) and Philippines.
(Fishbase, 2008)
Hình 1: Bản đồ phân bố của cá Ngát trên Thế giới
2.1 Đặc điểm hình thái phân loại cá Ngát
2.1.1 Vị trí phân loại
Theo dẫn liệu từ Fishbase (2008) và Itis (2008) hệ thống phân loại của cá Ngát
được xác định như sau:
Giới: Animalia Linnaeus, 1758 - animals
Ngành: Chordata Bateson, 1885 - chordates
Lớp: Osteichthyes Huxley, 1880 - bony fishes
Bộ: Siluriformes - catfishes
Họ: Plotosidae - eeltail catfishes
Giống: Plotosus La Cepède, 1803
Loài: Plotosus canius Hamilton, 1822
Cá Ngát Plotosus canius còn có các đồng danh sau (Fishbase ,2008):
+ Plotosus canius Hamilton, 1822
+ Plotosus horridus Bleeker, 1846
+ Plotosus multiradiatus Bleeker, 1846
+ Plotosus unicolor Valenciennes, 1840
+ Potosus viviparus Bleeker, 1846
Hiện nay tên Plotosus canius Hamilton, 1822 của cá Ngát được nhiều tác giả sử
dụng phổ biến trên thế giới (Fishbase, 2008 và Itis, 2008).
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) và Rainboth (1996) họ
Plotosidae chỉ có một giống Plotosus. Theo Itis (2008) và Fishbase (2008) họ
Plotosidae có 10 giống cá với tên khoa học như sau:
+ Anodontiglanis Rendahl, 1922
+ Cnidoglanis Günther, 1864
+ Euristhmus Ogilby, 1899
+ Neosiluroides Allen and Feinberg, 1998
+ Neosilurus Steindachner, 1867
+ Oloplotosus Weber, 1913
+ Paraplotosus Bleeker, 1862
+ Plotosus Lacepède, 1803
+ Porochilus Weber, 1913
+ Tandanus Mitchell, 1838
2.1.2 Đặc điểm hình thái:
Do có giá trị kinh tế cao, thịt ngon, kích thước lớn nên loài cá Ngát Nanh hay
cá Ngát Chó (Plotosus canius) được nhiều người nghiên cứu. Theo Trương Thủ
Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993, ở ĐBSCL chỉ có một loài Plotosus canius
Hamilton, 1822, được mô tả như sau:
D. I, 4 P. I, 12 V. 12 – 13
Dài chuẩn / Dài đầu = 5,2 (4,8 - 5,5)
Dài đầu / Khoảng cách hai mắt = 2,9 (2,6 – 3,3)
Dài chuẩn / Cao thân = 6,5 (5,9 – 7,6)
Dài đầu / Đường kính mắt = 10,9 (9,5 – 11,9)
Hình2: Hình dạng ngoài cá Ngát
Đầu to, rộng, dẹp bằng. Miệng dưới nằm trên mặt phẳng nằm ngang, không co
duỗi được. Môi dày, mềm, có viền rua. Răng hình quạt, cứng chắc. Răng vòm
miệng xếp thành một đám có dạng hình lưỡi liềm, răng xếp thành 4 hàng
ngang, các hàng sau thô hơn các hàng trước. Có 4 đôi râu to: Một đôi râu mũi
(kéo dài qua khỏi mắt), một đôi râu mép nhưng hơi lệch về phía hàm trên, hai
đôi râu hàm dưới. Mắt cá nhỏ, hoàn toàn nằm ở mặt lưng của đầu, gần chót
mõm hơn gần cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Mấu xương chẩm
nhỏ, hình tam giác đều. Hai màng mang dính nhau một phần và dính với eo
mang.
Thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên, mỏng và mềm mại. Đường bên
hoàn toàn chạy từ mép trên lỗ mang đến điểm giữa gốc vi đuôi. Cá có hai vi
lưng, gốc vi lưng thứ nhất ngắn, có gai độc, gốc vi lưng thứ hai và vi hậu môn
nối liền với vi đuôi nhỏ. Vi đuôi không chẻ hai. Vi ngực có gai độc. Gai độc
trước các vi ngực và vi lưng rất nhọn, cạnh trước và sau có răng cưa sắc. Cơ ở
gốc vi phát triển và da ở vi dày.
Mặt lưng của thân và đầu có màu nâu đen đến nâu đỏ nhạt dần xuống bụng.
Bụng cá và mặt dưới của đầu có màu trắng sữa. Mặt trên của vi ngực, vi bụng
màu xám, mặt dưới màu trắng sữa. Râu mép và râu mũi sậm hơn râu hàm dưới.
2.2 Phân bố và môi trường sống
2.1.1 Thế giới
Bộ Siluriformes phân bố rất rộng người ta đã tìm thấy chúng ở Bắc, Trung,
Nam Phi, Châu Mỹ, Châu Âu, Đông Nam Á…Ngoại trừ 2 họ (Aridae và
Plotosidae) phân bố ở nước lợ nhưng di cư vào nước ngọt để tìm mồi. (Google,
2008)
Cá Ngát phân bố rộng ở vùng nhiệt đới, vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương
(Fishbase, 2008; Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2006), xuất hiện
nhiều ở các cửa sông, hồ, vịnh, đầm phá nước lợ, biển, chúng cũng có thể sống
ở cả những vùng nước ngọt sâu trong nội địa (Fishbase, 2008). Chúng được tìm
thấy ở các nước: Úc, Bangladesh, Brunei Darsm, Campuchia, Ấn Độ,
Indonesia, Lào , Malaysia, Papua Guin, Myanmar, Philippines, Singapore, Sri
Lanka, Thái Lan, và Việt Nam (Fishbase, 2008).
Loài cá Ngát chó (Plotosus canius) sống đáy, vùng nước ngọt, nước lợ và nước
mặn, phân bố chủ yếu ở: vùng ven biển các nước Bangladesh, Myanmar, Thái
Lan, Sundaland, Sulawesi, Moluccas, Ấn Độ, và bên trong hạ lưu sông
Mekong.
2.1.2 Việt Nam
Ở nước ta có 2 loài cá thuộc giống Plotsus là:
Loài Plotosus canius tìm thấy ở Nam Bộ và sông MêKông (Nguyễn Hữu
Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 2004; Google, 2008)
Loài Plotosus linaetus được tìm thấy ở Vịnh Bắc Bộ và Miền Trung Việt Nam;
kích thước trung bình 15-20 cm, lớn nhất 90 cm. Trên thế giới cá Ngát sọc
phân bố ở biển và cửa sông, Đông Phi, Mandagascar, Hồng Hải, Ấn Độ, Úc,
Malaysia, Philippines, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát của Lâm Văn Minh, 2000 cho biết cá Ngát có thể sống
nơi có các chỉ tiêu môi trường như sau:
Trung bình các điểm thu
Yếu tố môi trường
Ba Tri Tiệm Tôm Vàm Nao
Oxy (ppm) 6.8 6.4 7.5
Nhiệt độ nước (0C) 28 28 2
Nhiệt độ không khí(0C) 29 28 30
pH 6 6 6.5
Độ trong (cm) 15 30 25
Nồng độ muối (%0) 10.3 14.5 0
Bảng 2.1 Các chỉ tiêu môi trường tại các điểm thu của Lâm Văn Minh. 2000
2.3 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh sản
2.3.1 Đặc điểm đinh dưỡng
Cấu tạo và chức phận của các cơ quan bắt mồi và tiêu hóa có liên hệ chặt chẽ
với sự khác biệt về thức ăn của cá. Theo (Nikolxki, 1964) cá ăn thịt với đặc
điểm là miệng rộng, răng sắc trên các xương hàm, xương lá mía và xương khẩu
cái. Chiều dài của ruột có liên quan chặt chẽ đến đặc điểm dinh dưỡng của cá,
những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có chỉ số Li/LO (tỷ lệ chiều dài
ống tiêu hóa và chiều dài thân) ≤1, cá ăn tạp có Li/LO =1-3 và cá ăn tạp có Li/LO
≥ 3.
Ngoài ra, để xác định tính ăn của cá người ta còn căn cứ trên lược mang, cấu
tạo của dạ dày, răng hầu, …Theo Nikolxki, 1964 cá ăn thịt có lược mang ngắn,
thưa, dạ dày to, manh tràng và răng hầu phát triển .
Tính ăn của cá thay đổi theo kích thước cơ thể. Lúc còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) cá
dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng, khi cá hấp thu hết chuyến sang ăn thức
ăn bên ngoài nhưng chủ yếu là động vật phù du cỡ nhỏ. Theo Vahta; Nguyễn
Văn Kiểm, (1997) cá Trơn ở giai đoạn cá con thức ăn gồm: giáp xác nhỏ,
rotifer, phytoplankton,… Số ngày tuổi càng tăng thì tỉ lệ giáp xác nhỏ càng
giảm trong khi giáp xác lớn càng tăng. Ngoài ra cá Trơn cũng có thể ăn thức ăn
đáy như giun ít tơ, ấu trùng Chironomus.
Theo Nguyễn Bạch Loan (2000), cá Ngát là loài ăn tạp thiên về động vật với
phổ thức ăn rộng (Mùn bã hữu cơ, động vật phù du, cá con, thực vật thủy sinh,
thực vật phù du, giáp xác, nhuyễn thể, giun).
Hầu hết các loài cá Ngát ăn động vật thân mềm, giáp xác, cá có vẩy, động vật
đáy, mùn bã hữu cơ, giun nhiều tơ và một số loại thức ăn khác (Fishbase,
2008).
Theo Lâm Văn Minh (2000), phân tích theo phương pháp tần suất xuất hiện
cho thấy thức ăn trong ruột cá Ngát có 6 loại là: Mùn bã hữu cơ; phiêu sinh
thực vật; Giáp xác; Động vật hai mãnh vỏ; thực vật thượng đẳng và cá con.
Trong đó, mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh xuất hiện với tần số cao nhất là
(100%) kế đến là cá con (72%). Còn thực vật thượng đẳng; giáp xác và động
vật hai mãnh vỏ xuất hiện với tần số lần lượt là: 28%; 32%; 32%.
Như vậy, trong 6 nhóm thức ăn thì giáp xác và động vật hai mãnh vỏ có cùng
tần số xuất hiện (32%). Mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh tuy bắt gặp ở đoạn
đầu ống tiêu hóa của cá nhưng cũng hiện diện ở ruột sau, với lược mang của cá
Ngát ngắn, thưa, ruột cá lại ngắn, các cấu tạo này hoàn toàn không thích hợp
cho các loài cá ăn mùn bã hữu cơ và phiêu sinh thực vật. Bên cạnh đó các loài
thức ăn ở đáy như: động vật hai mãnh vỏ, giáp xác cao cho thấy mùn bã hữu cơ
bị cá Ngát ăn vào cùng với các loại thức ăn ở đáy. Các loại thức ăn như: sò,
cua, tép xuất hiện ở đoạn đầu ống tiêu hóa với tần số khá cao nhưng ở đoạn sau
chỉ thấy còn lại phần vỏ. Điều đó cho thấy các loại thức ăn này được cá thường
ăn và tiêu hóa tốt.
Tương tự, thực vật thượng đẳng xuất hiện ở đoạn đầu của ống tiêu hóa không
cao và ở phần ruột sau lại không thấy. Điều đó cũng cho thấy loại thức ăn này
cá không ăn thường xuyên nhưng cũng được cá tiêu thụ tốt. Kết quả này dự
đoán cá Ngát là loài ăn tạp.
Theo kết quả phân tích phổ thức ăn của Lâm Văn Minh (2000) cho thấy: Cá
con vẫn chiếm ưu thế nhất, giáp xác chiếm thứ hai, động vật hai mãnh vỏ đứng
thứ ba, thấp nhất là mùn bã hữu cơ và thực vật thượng đẳng. Cho thấy phổ thức
ăn của cá phong phú phù hợp với hình thái cấu tạo ống tiêu hóa của cá.
2.3.2 Đặc điểm sinh sản
2.3.2.1 Phương pháp xác định giai đoạn thành thục cá theo bậc thang
thành thục
Phương pháp thông thường để đánh giá giai đoạn thành thục của cá là xác định
giai đoạn thành thục của từng cá thể theo bậc thang thành thục trong đó có
những đặc điểm khác biệt có thể nhận biết được bằng mắt thường. Bậc thang
thành thục cho phép đánh giá nhanh mức độ thành thục và khả năng sinh sản
của một số lượng lớn cá thể.
Rất nhiều tác giả đã đưa ra các bậc thang thành thục của cá (Qasim, 1957;
Kesteven, 1960; Nikoxki, 1963; Laevastu, 1965; Crosland, 1977; Beumer,
1979). Các tác giả này đã chia bậc thang thành thục ra nhiều giai đoạn (4-5
giai đoạn thậm chí nhiều hơn: 7-8 giai đoạn). Sự phân chia bậc thang thành
thục ra nhiều giai đoạn cho phép phân chia khá chính xác mức độ thành thục
của các cá thể trong cùng một loài hay giữa các loài cá khác nhau. Tuy nhiên,
đánh giá nhanh bằng mắt chỉ có thể phân chia một cách tương đối số lượng
trung bình của mẫu vật quan sát. Cho nên không thể sử dụng bậc thang thành
thục có quá nhiều giai đoạn. Bậc thang thành thục có ít hơn 8 giai đoạn được
xem là thích hợp cho việc đánh giá hầu hết các loài cá (Holden và Raitt,
(1974) trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Các bậc thang thành thục còn được sử dụng để đánh giá nhanh tình trạng thành
thục của tuyến sinh dục trong điều kiện ít trang thiết bị khảo sát và cho phép
khảo sát một lượng lớn mẫu ngoài hiện trường. Nhìn chung, có 2 bậc thang
thành thục sinh dục thường được sử dụng:
Bậc thang thành thục 7 giai đoạn dành cho các loài cá đẻ trứng một lượt. Các
loài đẻ trứng một lượt có buồng trứng phát triển đồng nhất và tất cả các loài
trứng đều rụng cùng một thời điểm. Xác định giai đoạn thành thục các loài cá
này thường không khó, vì hầu hết các tế bào trứng đều phát triển với cùng một
giai đoạn trong cùng một thời điểm.
Bậc thang thành thục 5 giai đoạn dành cho các loài đẻ trứng nhiều đợt. Việc
xác định giai đoạn thành thục ở các loài cá này là vấn đề khá khó khăn vì thời
gian sinh sản của cá kéo dài và cá đẻ thành nhiều đợt. Buồng trứng của các
loài này có nhiều lứa trứng với các giai đoạn thành thục khác nhau.
Bảng 2.2: Bậc thang thành thục của cá đẻ trứng một lượt (theo Kesteven
(1960), trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Giai đoạn Mức độ thành thục Mô tả
I
Chưa thành thục
Tuyến sinh dục chưa phát triển, còn rất nhỏ
nằm sát vào cột sống. Tinh sào và noãn sào
là 2 sợi dây dài hẹp không màu hoặc màu
xám. Tế bào trứng không phân biệt được
II
III
IV
V
VI
VII
Trưởng thành
Sinh trưởng
Sinh trưởng & dinh
dưỡng
Thành thục
Rụng và đẻ trứng
Thoái hóa
bằng mắt thường.
Tuyến sinh dục bắt đầu phát triển và dài
thêm. Tinh sào có màu hơi đục, màu hơi
xám đến hồng. Chiều dài tuyến sinh dục
chiếm khoảng ½ hay hơn so với chiều dài
xoang bụng. Hạt trứng nhỏ và có thể quan
sát được bằng kính lúp. Các cá thể sau khi
đẻ trứng cũng được xếp vào giai đoạn này.
Tuyến sinh dục mờ đục, màu hơi đỏ với
nhiều mạch máu chiếm khoảng ½ thể tích
xoang bụng. Buồng trứng chứa đầy những
hạt trứng nhỏ, màu trắng đục và có thể
nhận biết được bằng mắt thường.
Tinh sào có màu đỏ nhạt đến trắng, không
có sẹ lỏng chảy ra khi ấn nhẹ vào. Buồng
trứng có màu vàng (cam) hơi đỏ. Các hạt
trứng có màu đục và có thể phân biệt rõ
từng hạt trứng. Tuyến sinh dục chiếm
khoảng 2/3 thể tích xoang bụng.
Tuyến sinh dục chiếm gần hết thể tích
xoang bụng. Tinh sào có màu trắng, có sẹ
trắng chảy ra khi ấn vào. Hạt trứng lớn,
tròn, một số trứng số trứng bắt đầu trong và
chín.
Trứng và sẹ chín muồi, khi ấn nhẹ vào
bụng các trứng và sẹ chảy ra từng tia. Nếu
nhấc ngược cá lên và lắc nhẹ, trứng và sẹ
chảy ra tự do. Tất cả trứng trở nên trong
suốt chỉ còn một vài trứng màu trắng đục
sót lại trong buồng trứng.
Tuyến sinh dục trở nên mềm nhũn, co lại
và có màu đỏ sẫm. Xoang bụng hầu như
trống rỗng, thường trong buồng trứng còn
sót lại một ít trứng nhỏ, các trứng này sẽ
chuyển biến và thoái hóa. Sau đó buồng
trứng trở về giai đoạn II .
Bảng 2.3 Bậc thang thành thục sinh dục theo Nikolxki (1963); trích bởi:
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Giai đoạn Mô tả
I
II
III
IV
V
VI
Cá thể non chưa thành thục sinh dục
Tuyến sinh dục có kích thước rất nhỏ, mắt thường
không nhìn thấy hạt trứng.
Giai đoạn thành thục. Bằng mắt thường nhìn thấy
những hạt trứng. Khối lượng tuyến sinh dục tăng
lên rất nhanh, tinh sào có màu trắng trong, chuyển
sang màu hồng nhạt.
Giai đoạn chín muồi. Tuyến sinh dục có kích thướt
lớn nhất, nhưng khi ấn nhẹ các sản phẩm sinh dục
chưa chảy ra.
Giai đoạn đẻ trứng. Các sản phẩm sinh dục chảy ra
khi ấn nhẹ vào bụng cá. Khối lượng tuyến sinh dục
từ đầu đến cuối giảm đi rất nhanh.
Giai đoạn sau khi đẻ. Các sản phẩm sinh dục được
phóng thích hết, lỗ sinh dục phồng lên, tuyến sinh
dục trong dạng túi mềm nhão. Ở con cái thường có
những trứng nhỏ còn sót lại, ở con đực còn sót lại
một ít tinh trùng
2.3.2.2 Phương pháp xác định mức độ thành thục theo chiều dài cơ thể:
(trích bởi: Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Trong những trường hợp thực tế, việc thu mẫu để xác định mức độ thành thục
sinh dục rất khó thực hiện. Có một mối liên hệ khá chặt chẽ giữa giai đoạn
thành thục và chiều dài cơ thể và cá chỉ thành thục sinh dục sau khi đạt một
chiều dài nhất định. Do vậy, xác định thang thành thục theo chiều dài cơ thể sẽ
rất hữu ích trong việc đánh giá mức độ thành thục của một quần thể cá. Khi đã
xác định được thang thành thục theo chiều dài cơ thể, tỉ lệ thành thục (%) tại
một thời điểm nhất định có thể ước tính được dựa trên số đo chiều dài của cá.
Mối quan hệ giữa sức sinh sản và các chỉ tiêu sinh học khác (trích bởi: Phạm
thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Nhiều tác giả (Bhatnagar, 1964; Rao, 1972; Varghese, 1973) cho rằng sức sinh
sản của cá có liên quan với lập phương của chiều dài cơ thể (chiều dài lũy thừa
3), một số tác giả khác thì quan sát thấy sức sinh sản của cá thì tăng theo tỉ lệ
của bình phương chiều dài cơ thể.
Tương tự, có sự tồn tại của tương quan giữa sức sinh sản và trọng lượng cơ thể
theo mối tương quan đường thẳng và đã được chứng minh bởi một số tác giả
như Pillay (1958), Bridger (1961), Varghese (1973), Yuen (1955) đã tìm thấy
mối tương quan giữa sức sinh sản và trọng lượng cơ thể là một mối tương quan
theo đường cong và cho rằng sức sinh sản có liên quan nhiều với trọng lượng
cơ thể hơn là chiều dài điều này cũng đã được chứng minh bởi Manooch
(1976).
Trọng lượng cơ thể cơ thể thường có mối liên quan chặt chẽ với lập phương
của chiều dài, khi đó mối liên quan giữa sức sinh sản và trọng lượng được biểu
diễn bằng một phương trình trong đó hệ số b tương đương 3 (Baxter, 1959;
Bridger, 1961).
F = a Wb
Trong đó: W: Trọng lượng cá
F : Sức sinh sản của cá
a : Hằng số
Trọng lượng của buồng trứng phụ thuộc chủ yếu vào số lượng trứng có trong
buồng trứng. Nhiều tác giả đã khẳng định sự tăng sức sinh sản với sự gia tăng
trọng lượng của buồng trứng Bagenal, 1963; Bhatnagar, 1964; Varghese,
1980). Tuy nhiên, ở hầu hết các loài cá có số lượng trứng không thay đổi khi
vào mùa sinh sản, sự gia tăng khối lượng buồng trứng là do sự tăng khối lượng
nước và các vật chất hữu cơ nhận được từ thức ăn (Bagenal, 1967).
Mối tương quan giữa sức sinh sản với chiều dài, trọng lượng cơ thể hay trọng
lượng buồng trứng sẽ tạo ra một đồ thị với sự phân bố rãi rác các điểm. Khi
đó mối tương quan giữa sức sinh sản (F) với mỗi chữ số của các biến số độc lập
khác (X1) thường được biễu diễn bằng phương trình tổng quát sau (Bagenal,
1967)
F = a X1b
Đồ thị của mối tương quan giữa log của sức sinh sản với log của mỗi chỉ số
độc lập khác sau đó sẽ được vẽ lên và đường biểu diễn mối tương quan thích
hợp nhất sẽ được xác định bằng phương pháp phân tích hồi qui bình phương
nhỏ nhất. Phương trình của đường hồi qui này có dạng:Log F = log a – b log Xi
PHẦN III. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: Mẫu cá Ngát dùng trong nghiên cứu được thu mua
từ các thủy vực tự nhiên như: sông, cửa sông và biển ven bờ, thông qua các ngư
cụ khác nhau như: cào đáy, câu, đăng,…
b. Dụng cụ và hóa chất:
- Formol công nghiệp 38%
-Thước bàn, thước cây,...
- Khai nhựa, cal nhựa, chai nhựa, ống nhỏ giọt
-Găng tay, kính nhựa, khẩu trang
- Kính lúp sinh vật, trắc vi thị kính, lame, lamell, nước cất.
- Pen, dao mổ, kéo giải phẩu...
- Thùng bảo quản lạnh
- Cân điện, cân đồng hồ.
3.2 Thời gian và địa điểm thực hiện
-Thời gian thực hiện: từ tháng 12/2008-05/2009
-Điểm thu mẫu: Mẫu được thu định kỳ ở 3 điểm dọc theo tuyến sông Hậu như:
An Giang, Cần Thơ, cửa sông Trần Đề (Sóc Trăng).
- Địa điểm thực hiện: phòng mẫu vật thuộc bộ môn Thủy sinh học ứng dụng
Trường Đại học Cần Thơ.
Hình 3: Địa điểm thu mẫu cá Ngát
An Giang
Cần Thơ
Trần Đề
Hình 4: Các địa điểm thu mẫu cá Ngát
3.3 Phương pháp thu và bảo quản mẫu
Cá Ngát được thu mua từ các ngư dân đánh bắt ở các thủy vực tự nhiên ở An
Giang và Cần Thơ đại diện cho mẫu cá sống ở nước ngọt, cửa sông Trần Đề ở
Sóc Trăng để đại diện cho vùng nước lợ mặn. Mỗi đợt thu ít nhất 30 mẫu với
các kích cỡ từ nhỏ cho đến lớn trên mỗi điểm thu. Để mẫu cá thu được một
cách ngẫu nhiên nên mẫu được thu từ: cào đáy, lưới đăng, câu và thu mẫu ở
chợ địa phương.
Mẫu thu được rửa sạch, trữ lạnh và mang về phòng thí nghiệm Nguồn lợi
Trường Đại học Cần Thơ để phân tích, sau đó mẫu được bảo quản dung dịch
formol 5-6%
3.4 Phương pháp xử lý mẫu
3.4.1 Giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục
Quá trình phát triển của tuyến sinh dục cá Ngát ngoài tự nhiên được đánh giá
dựa trên cơ sở quan sát hình dạng, kích cỡ, màu sắc tuyến sinh và xác định
bằng thang thành thục sinh dục với 6 bậc của Xakun và Buskaia (1968), trích
bởi Nguyễn Bạch Loan, 2008)
Giai đoạn Mô tả
I
II
III
Cá thể non chưa thanh thục sinh dục
Tuyến sinh dục có kích thước rất nhỏ, mắt thường không nhìn thấy
hạt trứng.
Giai đoạn thành thục. Bằng mắt thường nhìn thấy những hạt trứng,
khối lượng tuyến sinh dục tăng lên rất nhanh, tinh sào có màu
trắng trong, chuyển sang màu hồng nhạt.
IV
V
VI
Giai đoạn chín muồi. Tuyến sinh dục có kích thước lớn nhất,
nhưng khi ấn nhẹ các sản phẩm sinh dục chưa chảy ra.
Giai đoạn đẻ trứng. Các sản phẩm sinh dục sẽ chảy ra khi nhấn nhẹ
vào bụng cá. Khối lượng tuyến sinh dục từ đầu đến cuối giai đoạn
đẻ trứng giảm đi rất nhanh
Giai đoạn sau khi đẻ. Các sản phẩm sinh dục được phóng thích hết,
lỗ sinh dục phòng lên, tuyến sinh dục trong dạng túi mềm nhão. Ở
con cái thường có những trứng nhỏ còn sót lại, ở con đực còn sót
lại một ít tinh trùng.
3.4.2 Biến động độ béo qua các tháng:
Xác định mức độ béo của từng giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong khi dự
báo thời gian cá đẻ trứng vì hệ số béo càng cao thì thời gian cá thành thục sinh
dục càng gần. Độ béo của cá được xác định theo công thức (theo I.F.Pravdin,
1973) lấy khối lượng chung của cá kể cả nội quan, đo chiều dài thân và chính
chiều dài thân đặc trưng cho độ béo của cá nhiều nhất, hệ số béo của cá cho ta
giá trị để so sánh độ béo của cá.
Độ béo Fulton:
Fulton(%)= W * 100/L3
Trong đó:
W: Trọng lượng toàn thân cá (g)
L: Chiều dài cá tính từ đầu mõm đến cuống đuôi (cm)
Độ béo theo Clark:
Clark (%) = W’*100/L3
Trong đó:
W’: Trọng lượng của cá bỏ nội quan
L: Chiều dài cá tính từ đầu mõm đến hết cuống đuôi (cm)
3.4.3 Sức sinh sản của cá
Sức sinh sản của cá phụ thuộc nhiều vào chiều dài và trọng lượng cá. Có thể
tính sức sinh sản của cá bằng cách đếm tất cả số trứng có trong buồng trứng
đếm mẫu đại diện.
o Sức sinh sản tuyệt đối được tính bằng công thức (Bagenal, 1968, trích
bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
F = (n * G)/g
Trong đó:
F: sức sinh sản tuyệt đối
n: số lượng trứng trong mẫu đại diện
G: trọng lượng buồng trứng
g: trọng lượng mẫu đại diện
o Sức sinh sản tương đối: có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất giống vì
khi biết số lượng trứng trên kg cá cái sẽ dễ dàng tính được tổng sổ trứng trên
một đơn vị khối lượng cơ thể trên cá cái. Sức sinh sản tương đối được tính
bằng công thức:
FA= Số trứng có trong buồng trứng/Trọng lượng thân cá cái
3.4.4. Hệ số thành thục: (GSI) được tính theo công thức
GSI =Wg *100/Wb
Trong đó:
Wg: Khối lượng tuyến sinh dục
Wb: Khối lượng toàn thân cá
3.4.5. Đường kính trứng
Trứng ở 3 vị trí đầu, giữa và cuối buồng trứng sẽ được lấy đưa lên kính hiển vi
quan sát và đo bằng trắc vi thị kính. Đường kính trứng của cá là giá trị trung bình
đường kính của 30 trứng ở các vị trí nêu trên.
3.4.5. Mối quan hệ giữa sức sinh với kích cỡ cá
Mối liên quan giữa sức sinh sản và trọng lượng được biểu diễn bằng một phương
trình trong đó hệ số b tương đương 3 (Baxter, 1959; Bridger, 1961; trích bởi
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
F = a Wb
Trong đó: W: Trọng lượng cá
F: Sức sinh sản tuyệt đối của cá
a: Hằng số
Với:
Gía trị a và b được tính bằng công thức sau:
a = xby
b =
22 xnx
xynxy
Trong đó:
n: tổng số nhóm trọng lượng khảo sát
x : giá trị trọng lượng trung bình
y : giá trị sức sinh sản trung bình
Xử lý số liệu
Tất cả số liệu thu thập được phân tích và so sánh kết quả bằng phần mềm Excel
PHẦN IV: KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Đặc điểm hình thái tuyến sinh dục cá Ngát
3.1.1 Đặc điểm hình thái tuyến sinh dục của cá cái
Noãn sào cá Ngát có hình ống hơi bầu, có màu vàng nhạt đến màu vàng rơm.
Bên trong noãn sào có vách ngăn ngang (tấm trứng), có nhiều mạch máu. Đoạn
cuối của noãn sào kết hợp nhau và dẫn ra ngoài lỗ huyệt thông qua ống dẫn
trứng.
Dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, kích thước noãn bào kết hợp với sự phân
chia các giai đoạn thành thục có thể chia quá trình thành thục sinh dục của noãn
sào cá Ngát thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn I: Noãn sào là hai dãy băng nhỏ, màu trắng trong, dài khoảng 1/3
chiều dài xoang bụng. Chưa thấy các mạch máu phân bố trên bề mặt noãn sào.
Mắt thường không nhìn thấy được hạt trứng. (Hình 5)
Giai đoạn II: Noãn sào bắt đầu phát triển và dài hơn, chiếm hơn ½ chiều dài
xoang bụng. Trên bề mặt noãn sào có nhiều mạch máu nhỏ phân bố nên noãn
sào có màu hơi hồng. Có thể quan sát được hạt trứng bằng kính lúp. (Hình 6)
Hình 5: Giai đoạn I Hình 6: Giai đoạn II
Giai đoạn III: (Giai đoạn thành thục). Kích thước noãn sào tăng lên rất nhanh
có thể chiếm 2/3 thể tích xoang bụng. Bằng mắt thường có thể nhìn thấy những
hạt trứng có màu trắng đục đến vàng nhạt. Noãn sào có màu vàng. (Hình 7)
Giai đoạn IV: Noãn sào có màu vàng đến vàng cam và đạt kích thước to nhất
(chiếm hầu hết thể tích xoang bụng). Mạch máu phân bố trên bề mặt noãn sào
nhiều và to hơn. Các hạt trứng to và đều, dễ tách rời từng hạt trứng.(Hình 8)
Giai đoạn V: Giai đoạn đẻ trứng (không bắt gặp cá thể nào trong quá trình thu
mẫu).
Giai đoạn VI: Giai đoạn sau khi đẻ. Các sản phẩm sinh dục được phóng thích
hết, lỗ sinh dục phồng lên và có màu đỏ đậm do bị xung huyết buồng trứng ở
dạng túi mềm nhão, trong buồng trứng còn sót lại một ít trứng đã bị thoái hóa.
(Hình 9)
3.1.2 Đăc điểm thành thục của cá đực
Buồng tinh của cá Ngát là hai dãy nằm sát hai bên xương sống, bên ngoài được
bao phủ bởi một lớp màng mỏng. Một đầu dính vào lỗ sinh dục, một đầu tự do
nằm trong xoang nội quan.
Hình 9: Giai đoạn VI
Hình 7: Giai đoạn III Hình 8: Giai đoạn IV
Giai đoạn I: Chỉ gặp ở cá thể non, chưa thành thục sinh dục. Tinh sào chỉ là hai
sợi chỉ mãnh dài.
Giai đoạn II: Buồng tinh có hai dãy mỏng dài khoảng 1/3-1/2 chiều dài xoang
bụng, có màu hồng nhạt, một mặt chia thùy. Tinh sào màu trắng trong hoặc hơi
hồng do có nhiều mạch máu nhỏ. (Hình 10)
Giai đoạn III: Tinh sào tiếp tục gia tăng kích thước và phân chia thành các thùy
với hình dáng rõ ràng. Buồng tinh có màu hồng nhạt. (Hình 11)
Giai đoạn IV: Buồng tinh đạt kích thước lớn nhất, dãy phân thùy sâu màu trắng
sữa, phần sau buồng tinh có các thùy màu xanh ngọc. (Hình 12)
Giai đoạn V: Không gặp trong quá trình thu mẫu.
3.2 Hệ số thành thục
Hình 10: Giai đoạn II
Hình 12: Giai đoạn IV
Hình 11: Giai đoạn III
Hệ số thành thục là một trong các chỉ số để xác định mùa vụ sinh sản và là một
trong những điều kiện cần thiết để nhận biết mức độ chín mùi của sản phẩm
sinh dục.
HSTT
0.14 0.33 0.22
1.83
0.08 0.15
3.55
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
3.50
4.00
9 10 11 12 1 2 3
HSTT
Kết quả theo dõi sự thành thục ở 214 mẫu cá Ngát qua các tháng (Hình 13) cho
thấy hệ số thành thục trung bình của cá Ngát tương đối thấp bởi vì vào thời
gian này đa số cá mẫu thu được có tuyến sinh dục đang ở giai đoạn I-II vào
khoảng tháng 3 hệ số thành thục của cá bắt đầu tăng lên là 3,55 %, kết quả này
tương đối phù hợp với kết quả nghiên cứu của Lê Thái Nguên (2008) vào
những tháng tiếp theo cá Ngát có hệ số thành thục tăng từ tháng 3 là 5.41 %
đến tháng 6 là 15.22%. Như vậy qua kết quả trên có thể xác định mùa vụ sinh
sản chính của cá Ngát là từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm. Kết quả này cũng
tương tự nhận định của Nguyễn Văn Trọng và Nguyễn Văn Hảo (1994), trích
bởi Nguyễn Văn Kiểm (2007) về mùa vụ sinh sản của một số loài cá trơn thuộc
hệ thống sông Mekong. Điều này cũng phù hợp với kết quả nhận định của ngư
dân tại các điểm thu mẫu
Tháng I-II III III-IV IV
9 95.65 4.34 0 0
10 95.83 4.16 0 0
11 100 0 0 0
12 92.72 0 1.81 5.45
1 74.28 0 11.42 14.28
2 97.36 2.63 0 0
3 82.08 2.98 2.98 11.94
Hình 13: Hệ số thành thục của cá qua các tháng thu mẫu
Bảng 3.1: Theo dõi các giai đoạn thành thục qua các tháng thu mẫu
0%
20%
40%
60%
80%
100%
9 10 11 12 1 2 3
IV
III-IV
III
I-II
Hình 14: Biến động giai đoạn của cá theo thời gian
Kết quả từ và Hình 14 cho thấy, cá Ngát có tuyến sinh dục ở giai đoạn IV vẫn
xuất hiện ở các tháng 12, 1. Đến tháng 2, 3 bắt gặp cá con có trọng lượng 1,16
gam và có chiều dài 5,7 cm, điều này có nghĩa là đàn cá con có trong tháng 2-3
được sinh ra từ 1-2 tháng trước. Kết hợp với kết quả nghiên cứu về đường kính
trứng của cá Ngát cho thấy, cá Ngát trong tự nhiên sinh sản một lần trong năm
tập trung sinh sản vào mùa mưa nhưng mùa vụ sinh sản của cá có thể kéo dài
đến đầu năm sau.
3.2 . Biến động độ béo qua các tháng
Trong quá trình thành thục sinh dục thì sự tích lũy vật chất dinh dưỡng để tạo
ra sản phẩm sinh dục xảy ra đồng thời. Nhưng ở thời kỳ đầu của sự tạo trứng
thì mức độ tích lũy vật chất dinh dưỡng trong cơ thể thường cao hơn so với quá
trình chuyển hóa để tạo ra sản phẩm sinh dục. Nguyên nhân là vào thời kỳ đầu
của sự thành thục thì sự huy động vật chất dinh dưỡng vào trong tế bào trứng
chưa mạnh mẽ, nhưng khi tế bào trứng đã hoàn thành sự phân cắt và bước sang
thời kỳ sinh trưởng thì mức độ huy động vật chất dinh dưỡng vào tế bào trứng
tăng lên rất mạnh, mà sự huy động như vậy chủ yếu dựa vào vật chất dinh
dưỡng đã tích lũy trước đó trong cơ, gan và cá tổ chức khác. (Bùi Lai và ctv.
1985)
Bảng 3.2: Biến động độ béo theo thời gian
Tháng Fulton Clack
9 0.68 0.63
10 0.16 0.57
11 3.52 3.34
12 1.35 1.31
1 1.35 1.28
2 0.75 0.12
3 0.70 0.00
0.68
3.52
1.35
0.75 0.70.57
1.31
0
1.35
0.16 0.12
1.28
3.34
0.63
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
9 10 11 12 1 2 3
Fulton
Clack
Kết quả từ (Bảng 3.2) và (Hình 15) cho thấy giá trị độ béo của cá biến động từ
0,16% - 3,52% đối với độ béo Fulton và độ béo Clack biến động từ 0% - 3,34%
qua các tháng quan sát. Độ béo thấp nhất vào khoảng tháng 10 và cao nhất vào
khoảng tháng 11. Nguyên nhân có thể là vào thời điểm này (tháng 11-12) là
mùa lũ nên nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào, kết hợp với nghiên cứu về sự thành
thục sinh dục của cá vào khoảng tháng 11 thì đa số cá đang ở giai đoạn II, đây
là thời gian vào cuối vụ sinh sản nên cá cũng tăng cường tích lũy lại năng
lượng cho mùa vụ sinh sản mới.
Tương quan giữa hệ số thành thục và độ béo của cá
Nhìn chung độ béo của cá giảm dần theo mức độ thành thục sinh dục của cá,
nhưng mức độ không rõ ràng. Từ kết quả phân tích về độ béo và nghiên cứu về
sự phát triển của tuyến sinh dục của cá Ngát có thể cho rằng cá đẻ vào mùa
mưa nhưng mùa vụ sinh sản của cá kéo dài.
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
9 10 11 12 1 2 3
Fulton
HSTT
Hình 16: Tương quan giữa hệ số thành thục với độ béo Fulton của cá Ngát.
Hình 15: Biến động độ béo theo thời gian
00.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
9 10 11 12 1 2 3
Clack
HSTT
Hình 17: Tương quan giữa hệ số thành thục với độ béo Clack của cá Ngát.
3.4. Sức sinh sản của cá
Sức sinh sản của cá phụ thuộc vào tập tính sinh sản của cá, những loài không
có tập tính bảo vệ trứng và con thường có sức sinh sản cao và ngược lại. Ngoài
ra, những loài có tập tính làm tổ đẻ cũng có sức sinh sản thấp (Nguyễn Văn
Kiểm. 2005).
Trong thời gian thực hiện đề tài cá có kích cỡ nhỏ nhất thành thục sinh dục
được thu có trọng lượng 302.03g dài 38.2 cm với 610 trứng và có trọng lượng
tuyến sinh dục là 85.66g, cá có trọng lượng lớn nhất thành thục sinh dục là
3,330g dài 76.5 cm với 5,247 trứng và có trọng lượng tuyến sinh dục là 970g.
Cá Ngát có sức sinh sản tuyệt đối 2,125 ± 1,403 (trứng/cá thể) và có sức sinh
sản là 1,692 ± 467 (trứng/Kg)
Bảng 3.3: Sức sinh sản của cá qua các kích cỡ khác nhau
Kích
cỡ (g) W thân (g)
Số
lượng
W tuyến
sinh dục (g)
SSS tuyệt đối
(trứng/cá thể)
SSS tương đối
(trứng/Kg)
P<500 373.91±62.6 7 54.35± 36.21 840± 336
2,250±855
P500-
1,000 831.47±148.56 7 152.92±137.48 1,395± 415
1,653±305
P1,000-
1,500 1,247.14±982.7 14 265.98±105 1,871
± 498
1,506±423
P1,500-
2,000 202.52±777.5 2 415.88±133.1 2,476± 286
1,411±321
P2,000-
2,500 2,010 1 317.02 4,451
2,215
P>2,500 3,105±318.2 2 790±254.55 6,004 ± 1,070
1,962±546
Kết quả (Bảng 3.3) cho thấy sức sinh sản tuyệt đối của cá Ngát tăng dần theo
khối lượng cơ thể cá. Cá có sức sinh sản tuyệt đối tăng nhanh ở nhóm cá có
trọng lượng từ 1,500 g đến nhóm cá có kích cỡ lớn hơn 2,500 g với số trứng
tương ứng từ 2,476 ± 286 (trứng) đến 6,004 ± 1,070 (trứng).
Bảng 3.4. So sánh sức sinh sản của cá Ngát
Tên loài cá
SSS tuyệt đối
(trứng/cá thể)
SSS tương đối
(trứng/Kg)
Tác giả
Cá Kết
Cá Lăng
Cá Ngát
Cá Kết
Cá Tra
Cá Leo
1,107 - 8,269
24,379 - 43,588
449 - 780
904 - 12,178
12,3769±121.321
9,200 - 69,560
3,548 - 14,882
1,414 - 1,560
4,499 - 74,415
130,000 - 150,000
58,821 ± 45.94
Dương Thị Mỹ Hận, 2004
Ngô Vương HiếuTính, 2001
Lâm Văn Minh, 2000
Trần Quang Trung, 02/2004
Nguyễn Văn Kiểm, 1996
Phan Phương Loan, 2006
Kết quả (Bảng 3.4) cho thấy cá Ngát có sức sinh sản tương đối thấp hơn các
loài cá khác do cá Ngát có kích cỡ trứng lớn hơn so với các loài cá còn lại và
kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của Lâm Văn Minh, 2000. Nhận
định này tương ứng với nhận định của Vũ Trung Tạng (1971) những loài có
sức sinh sản thấp thì trứng của chúng thường lớn hơn so với loài có sức sinh
sản cao. Hơn nữa cá Ngát có tập tính sinh sản trong hang mà theo Vũ Trung
Tạng (1971) thì những loài biết làm tổ, đẻ ít hơn những loài đẻ trứng tự do.
3.5. Đường kính trứng
Bảng 3.5: Đường kính trứng qua các giai đoạn
Giai đoạn Số lượng W thân (g) W tsd (g) Đường kính
(mm)
III 6 766.78±344.48 100.46±167.47 3.1±0.3
III-IV 8 1,349.22 8±76.11 224.472±05.58 3.60 ±0.4
IV 11 1,382.56±22.7 338.6±206.87 6.10±0.6
Kết quả quan sát trứng cá Ngát ở (Bảng 3.5) cho thấy trứng cá Ngát ở giai đoạn
III trứng có kích cỡ 3.1 mm theo Nguyễn Văn Kiểm, 2004 về mặt tổ chức học
thì đây là giai đoạn tích lũy noãn hoàng xảy ra mạnh mẽ. Giai đoạn IV là giai
đoạn chín muồi trứng có kích cỡ từ 6.1 mm, đây là giai đoạn kết thúc quá trình
tích lũy noãn hoàng nên kích thước trứng đạt kích cỡ tối đa, đặt trưng của tế
bào trứng lúc này là sự biến đổi các thành phần bên trong chứ không thay đổi
kích thước trứng.
Bảng 3.6 Theo dõi đường kính trứng cá Ngát theo các kích cỡ cá.
P trọng lượng
(g)
Số lượng W thân (g) W tsd (g) Đường kính
(mm)
p<500 7 373.91±62.60 54.34±36.21 4.3±0.4
500 - 1,000 7 841.42±129.9 134.28±52.28 5.3±1.2
1,000 - 1,500 18 1,234±96.05 290.38±56.83 6±0.6
1,500 - 2,000 2 1,777.5±201.5 415.9±133.1 5.3±2
2,000 - 2,500 1 2,010 317.02 3.9
>2,500 2 3,105±318.2 790±254.55 5.6±1.6
Trong kết quả quan sát 34 mẫu trứng, đường kính trung bình của trứng giai
đoạn IV nhỏ nhất là 3.7 mm gặp ở cá có trọng lượng 339,57 (g) dài 39 cm,
đường kính lớn nhất ở giai đoạn IV là 0.67cm gặp ở nhóm cá có trọng lượng
lớn hơn 2500 (g). Như vậy cho thấy cùng giai đoạn thành thục thì đường kính
trứng tăng lên khi cơ thể cá cái lớn hơn.
Bảng 3.7: So sánh đường kính trứng cá Ngát so với các loài cá khác
Tên loài cá Đường kính trứng (mm) Tác giả
Cá Lăng 1.1±0.3 Nguyễn Văn Kiểm, 2007
Cá Leo 0.8-0.95 Phan Phương Loan,
2006
Cá Bông Lau 1.15±0.14 Phạn Thanh Liêm, 2005
Cá Tra 1.05-1.17 Phạm Văn Khánh, 1996
3.6 Tương quan giữa sức sinh sản tuyệt đối và trọng lượng cá
y = 4.2779x0.8612
R2 = 0.7272
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
0 1000 2000 3000 4000
Trọng lượng tổng (g)
F
t
u
yệ
t
đ
ố
i
Hình 18: Tương quan giữa sức sinh sản và trọng lượng cá
Qua Hình 18 cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa sức sinh sản và trọng
lượng tuyệt đối của 34 mẫu cá có trọng lượng từ 302.03-3,330 (g), tương ứng
với sức sinh sản từ 610 - 5,246 trứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi trọng
lượng cá nhỏ hơn 1500 (g) thì tương quan chặt chẽ hơn. Khi cá có trọng lượng
lớn hơn 1,500 (g) thì tương quan ít chặt chẽ, tốc độ tăng trưởng về trọng lượng
chậm hơn so với sức sinh sản của cá vì đây là giai đoạn cá đạt thành thục sinh
dục tốt nhất. Kết quả này tương đối phù hợp với Trần Ngọc Hải, 2008 cho rằng
cá có thể sinh sản tốt khi cá có trọng lượng từ 1,500 - 2,500 g.
So sánh với sự tương quan giữa sức sinh sản tuyệt đối với chiều dài tổng
y = 0.042x2.6216
R2 = 0.6773
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
0 20 40 60 80 100
Chiều dài tổng (cm)
F
t
u
yệ
t
đ
ố
i
Hình 19: Tương quan giữa sức sinh sản và chiều dài cá
Qua Hình 19 cho thấy sự tương quan giữa sức sinh sản với trọng lượng chặt
chẽ hơn sự tương quan giữa sự tương quan giữa sức sinh sản và chiều dài cá.
Vì khi cá vào thành thục sinh dục phần lớn năng lượng đều cung cấp cho sự
phát triển của tuyến sinh dục nên quá trình sinh trưởng chậm lại nhưng sự tăng
trưởng về chiều dài rất chậm. Nhận định này tương đối phù hợp theo nhận định
của (Bùi Lai và ctv, 1985) thì trong quá trình sinh sản thì sự sinh trưởng về
chiều dài giảm có khi tới mức “không” sau khi sinh sản thì sự sinh trưởng về
chiều dài mới tăng trở lại và cứ tiếp tục như vậy cho đến chết.
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 . Kết luận
Từ kết quả thu được về đặc điểm sinh học sinh sản có thể rút ra được kết luận:
Sự tương quan về trọng lượng và sức sinh sản tuyệt đối của cá Ngát có sự
tương quan theo phương trình có dạng phương trình y = 4.2779 x 0.8812 với hệ
số tương quan R2 = 0.7272 (n=34).
Độ béo của cá biến đổi trong các tháng quan sát, độ béo Fulton thay đổi từ
(0.16 - 3.52) và độ béo Clack thay đổi từ (0 - 3.34%). Độ béo tăng cao nhất vào
tháng 11.
Hệ số thành thục (GSI) trung bình của cá thấp thay đổi từ (0.145-3.55%) thấp
nhất vào khoảng tháng 9.
Sức sinh sản trung bình tuyệt đối của cá Ngát là 2,125 trứng/cá thể và sức sinh
sản tương đối là 1,692 trứng/Kg.
Đường kính trứng trung bình của cá dao động từ 3.7-6.8 cm, lớn hơn nhiều so
với các loài cá khác.
5.2 . Đề xuất
Nghiên cứu về nuôi vỗ, sinh sản nhân tạo cá Ngát để phục vụ cho việc ương
nuôi loài cá này.
Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng, loại thức ăn phù hợp cho cá Ngát nuôi cá
thành thục sinh dục.
Nghiên cứu thêm về tập tính làm tổ và bảo vệ con ở loài cá này ngoài tự nhiên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Lai, Nguyễn Quốc Khang, Nguyễn Mộng Hùng, Mai Đình Yên. 1985. Cơ sở
sinh lý sinh thái cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Dương Thị Mỹ Hận. 2004. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và thử nghiệm
nuôi vỗ cá Kết trong ao nước tĩnh. Luận văn tốt nghiệp Đại Học. Đại Học Cần
Thơ.
canius, Gray eel-casfish fisheries.htm
lineaus, Stripped eel casfish fishries, aquarium.htm
– Wikipedia, the free encyclopedia.htm.
Lâm Văn Minh. 2000. Một số chỉ tiêu sinh học của cá Ngát (Plotosus canius,
Hamilton 1822)
Lê Thái Nguyên. 2008. Đặc điểm sinh trưởng và sinh học sinh sản của cá Ngát
(Plotosus canius, Hamilton 1822). Luận văn tốt nghiệp Đại Học. Đại Học Cần
Thơ.
Lê Xuân Sinh. 2005. Giáo trình kinh tế thủy sản. Đại học Cần Thơ.
Ngô Vương Hiếu Tính. 1996-2001. Khảo sát một số chỉ tiêu sinh học của cá Lăng
(Mytus wyckii, Blecker 1858) ở tỉnh Đồng Tháp. Luận văn tốt nghiệp Đại Học.
Đại Học Cần Thơ.
Nguyễn Bạch Loan . 2008. Báo cáo khoa học Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá
Leo (Wallago attu Bloch & Schneider, 1801), Khoa Thủy Sản Trường Đại Học
Cần Thơ.
Nguyễn Bạch Loan. 2004. Giáo trình ngư loại I, tủ sách Đại Học Cần Thơ
Nguyễn Bạch Loan. 2004. Một số chỉ tiêu sinh học cá Ngát (Plotosus canius
Hamilton, 1822). Trích tạp chí Khoa Học Đại Học Cần Thơ chuyên ngành
Thuỷ Sản, 04/2006, trang 25-30.
Nguyễn Loan Thảo. 2008. Đặc điểm hình thái giải phẫu và dinh dưỡng của cá Ngát
(Plotosus canius, Hamilton 1822). Luận văn tốt nghiệp Đại Học. Đại Học Cần
Thơ
Nguyễn Văn Kiểm (2004). Giáo trình: sản xuất giống nước ngọt, Khoa Thủy Sản
Trường Đại Học Cần Thơ
Nguyễn Văn Kiểm và Nguyễn Văn Triều. 2008. Nuôi vỗ thành thục và kích thích cá
Lăng (Mytus wyckii). Tạp chí Khoa Học Đại Học Cần Thơ chuyên ngành Thuỷ
Sản, 2008.
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định. Bài giảng: Phương pháp nghiên cứu sinh học
cá. Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ. Trang 47-55
Phạm Thanh Liêm. 2005. Báo Cáo Khoa Học. Nghiên cứu đặc điểm sinh học và
khả năng thuần dưỡng cá Bông Lau (Pangasius krempfi) trong ao nuôi. Khoa
Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ.
Phạm Trường Nguyên Thảo, Lê Quốc Việt, Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Hương
Thùy và Lý Văn Khánh. 2006. Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá
Đối (Lizar subvirdis). Tạp Chí Khoa Học Đại Học Cần Thơ Chuyên Nghành
Thủy Sản, 2006 .Trang 215-222.
Phan Phương Loan. 2006. Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá Leo (Wallago attu)
tai An Giang. Luận văn tốt nghiệp Đại Học. Đại Học Cần Thơ.
Sở Thủy Sản Cà Mau Chi cục Bảo Vệ Nguồn Lợi Thủy Sản. Báo Cáo Đề Tài.
Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá Nâu (Scatophagus aargus) và thử nghiệm
nghiệm sinh sản nhân tạo, nuôi vỗ cá bố mẹ tại Cà Mau. Sở Khoa Học Công
Nghệ tỉnh Cà Mau. Trang 27-35.
Trần Đắc Định. 2002. Nghiên cứu sinh học sinh sản và biến động quần thể của cá
Ngân (Atule mate). Trích tạp chí Khoa Học Đại Học Cần Thơ chuyên ngành
Thuỷ Sản, 2002. Trang 147
Trần Quang Trung. 2004. Nghiên cứu đặc điểm sinh học cá Kết. Luận văn tốt nghiệp
Đại học. Đại học Cần Thơ.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương. 1993. Định loại cá nước ngọt vùng
ĐBSCL, khoa thuỷ Sản, Đại Học Cần Thơ, trang 175-176.
Vũ Trung Tạng. 2004. Sinh học và sinh thái học biển. Nhà xuất bản Đại học Quốc
Gia Hà Nội. 336 trang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_nvv_anh_7267.pdf