Tiểu luận Các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam

Do tập trung vốn và nguồn lực lớn nên dễ dẫn tới tình trạng độc quyền kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các CTM nắm giữ Điều đầu tiên là cho đến nay, những nghiên cứu cơ bản về tập đoàn, về mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta còn rất ít. Còn rất nhiều vấn đề về mặt lý luận chưa được trao đổi và thống nhất với tinh thần thẳng thắn, khách quan và khoa học. Chẳng hạn, thế nào là một tập đoàn kinh tế? Gọi là tập đoàn kinh tế hay tập đoàn DN? Tập đoàn có phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân hay không? Khi chưa hiểu thấu đáo về tập đoàn và công ty mẹ - công ty con mà đã "cho ra" hàng loạt thì chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong điều hành.

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7067 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang 1. Phụ lục:………………………………………………………………… 1 2. Công ty trách nhiệm hữu hạn:……………………………………….. 3 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:…………………….. 3 Công ty trách nhiệm hữu hai thanh viên trở lên:………………….. 6 3. Doanh nghiệp tư nhân:………………………………………………. 8 4. Công ty hợp danh:……………………………………………………. 10 5. Công ty cổ phần:……………………………………………………… 13 6. Nhóm công ty:………………………………………………………… 15 Tập đoàn kinh tế:………………………………………………… 15 Công ty mẹ-công ty con:…………………………………………. 17 Nguồn: Luật doanh nghiêp 2005 và văn bản sửa đổi bổ xung năm 2010 Webside tham khảo: Mở đầu 1. Đặt vấn đề. Việt Nam hiện tại là một nền kinh tế đa thành phần với sự định hướng phát triển của nền kinh tế quốc doanh. Nhưng các thành phần kinh tế khác cũng có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Chúng ta phải có những hiểu biết nhất định về các loại hình doanh nghiệp 2. Mục đích. Tìm hiểu về những loại hình doanh nghiệp hiện có tại Việt Nam. 3. Yêu cầu. Hiểu biết về khái niệm, ưu điểm, nhược điểm của các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam và các bất cập về cơ chế của các loại hình doanh nghiệp tại VN được quy định trong luật doanh nghiệp VN năm 2005. 4. Phương pháp nghiên cứu-Phạm vi nghiên cứu. Phương pháp: Phân tích bộ luật doanh nghiệp 2005 và tìm kiếm thông tin trên các diễn đàn luật (các webside ở trên). Phạm vi nghiên cứu: các loại hình doanh nghiệp được quy định ở bộ luật doanh nghiệp VN năm 2005. 5. Kết quả nghiên cứu. Tìm ra được khái niệm, ưu điểm, khuyết điểm, một số bất cập về cơ chế của các loại hình doanh nghiệp mà luật doanh nghiệp 2005 qui định. I. Công ty trách nhiệm hữu hạn I.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu. Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả. Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc. Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn có đầy đủ các đặc thù của công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên. Điểm khác biệt duy nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên này  phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. I.2. Ưu điểm, nhược điểm I.2.1. Ưu điểm Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; Số lượng thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp; Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. I.2.2. Nhược điểm: Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh; Việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu. I.3. Nội dung tranh luận Công ty một người, tại sao không? -  Khái niệm truyền thống coi công ty là sự canh ty của nhiều người, nên các quy định của luật công ty ở các nước thường quy định số thành viên tối thiểu phải có trong một công ty. Luật Công ty của Thái Lan quy định công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) phải có ít nhất 5 thành viên. Luật DN 1999 của Việt Nam quy định số thành viên tối thiểu đối với công ty TNHH là 2, công ty cổ phần phải là 3 thành viên. Nếu công ty TNHH một thành viên thì thành viên chủ sở hữu phải là pháp nhân. Không có sự giải thích tại sao công ty cổ phần phải có ít nhất 3 cổ đông? Đã đến lúc chúng ta phải nghiên cứu bản chất của công ty để thoát khỏi sự đồng nghĩa giữa công ty với canh ty. Trước hết, cần nhận rõ rằng, bản chất của công ty TNHH là chủ công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn điều lệ đã đăng ký. Thuật ngữ “TNHH” đã là một sự nhắc nhở với các đối tác khi làm ăn với loại hình DN này. Với đặc điểm như vậy, một công ty dù đơn sở hữu vẫn có thể được thành lập dưới dạng TNHH. Sau đó, còn những lý do sau: Thứ nhất, công ty là một thực thể pháp lý do pháp luật tạo nên, là công cụ để phân định trách nhiệm tài sản, phân tán rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư. Nó không phụ thuộc vào số người, vì công ty có 1.000 chủ sở hữu cũng có địa vị pháp lý như công ty có 2 chủ sở hữu. Luật DN 1999 có quy định, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tối thiểu 2 thành viên và tối đa là 50 thành viên. Thực ra, hai con số này không có ý nghĩa, chỉ do sự ước đoán. Tại sao lại hạn chế tối đa không quá 50 người? Có lẽ chỉ có thể giải thích được do quy định tại Điều 32 về nguyên tắc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên cho người ngoài công ty phải được sự chấp thuận của tất cả các thành viên còn lại. Nếu 1 người muốn chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty mà phải hỏi ý kiến của 49 người còn lại thì quá vất vả, nếu không hỏi thì bị coi là phạm luật và sự chuyển nhượng sẽ bị coi là vô hiệu nếu như có người khởi kiện do họ chưa được hỏi ý kiến. Thực tế cho thấy, quy định số người tối thiểu và tối đa trong Luật DN là không thiết thực. Thứ hai, thực tế đã tồn tại các công ty TNHH một thành viên là cá nhân. Ở Việt Nam có đến 70% số công ty TNHH là vốn của 1 người trong gia đình và một vài người khác chỉ đứng tên cho đủ số. Ở Thái Lan, quy định công ty TNHH có 5 thành viên thì 1 người bỏ vốn thuê thêm các luật sư đứng tên để đủ 5 thành viên. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định, DN 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, nhưng không quy định số thành viên tối thiểu, nên 1 cá nhân nước ngoài, 1 Việt kiều đều có quyền thành lập DN 100% vốn nước ngoài do mình làm chủ. Luật Đầu tư nước ngoài không quy định về cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị công ty, nên đương nhiên DN 100% vốn nước ngoài có quyền áp dụng mô hình công ty TNHH theo Luật DN. Trong khi đó, Luật DN lại không quy định loại công ty TNHH một thành viên là cá nhân. Đó chẳng phải là sự khập khiễng của hệ thống pháp luật Việt Nam? Tại sao một Việt kiều, một công dân nước ngoài có quyền lập một DN 100% vốn là pháp nhân Việt Nam, còn một công dân Việt Nam lại không được thành lập công ty là pháp nhân do mình sở hữu vốn? Khi thảo luận Luật DN 1999 đã có nhiều ý kiến đề nghị phải coi DN tư nhân là pháp nhân, tức là thừa nhận công ty TNHH một thành viên là cá nhân, nhưng ý kiến đó không được chấp thuận, có lẽ lý do đưa ra là sở hữu tài sản cá nhân với tài sản DN tư nhân không phân biệt nên dễ có nguy cơ làm phương hại lợi ích của chủ nợ. Có thể lý do này sẽ không còn đứng vững, nếu như một ông chủ hoàn toàn phân biệt được một cách minh bạch giữa tài sản kinh doanh của công ty với tài sản riêng của cá nhân. Thứ ba, kinh doanh ngày càng có nhiều cơ hội, nhưng cũng có nhiều rủi ro, nên nhu cầu lập các công ty TNHH một chủ để phân tán rủi ro ngày càng trở nên cấp bách. Ngay các công ty lớn ở các nước khi đầu tư vào những thị trường mới hoặc thị trường có nhiều yếu tố rủi ro, họ đều lập ra các công ty con một thành viên với số vốn điều lệ chỉ tượng trưng vài đô-la. Vốn hoạt động của công ty con sẽ do công ty mẹ cho vay bằng hợp đồng vay vốn. Khi ký kết các hợp đồng vay, công ty mẹ và công ty con là 2 pháp nhân độc lập. Nếu có rủi ro và công ty con phá sản thì công ty mẹ trở thành chủ nợ không đảm bảo và được ưu tiên đòi nợ theo Luật Phá sản. Như vậy, công ty mẹ cùng lắm chỉ mất vài đô-la đã đăng ký và rủi ro được phân bổ cho các chủ nợ khác. Công ty TNHH một thành viên ngày nay là công cụ hữu hiệu cho các nhà đầu tư phân tán rủi ro, vì vậy một số nước đã chấp nhận cho cá nhân thành lập công ty TNHH một thành viên, thay vì họ chỉ được thành lập DN tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước đây. Vấn đề cốt lõi là phải phân biệt minh bạch tài sản riêng của cá nhân và tài sản kinh doanh mang tên công ty. Thứ tư, việc quy định số thành viên tối thiểu trong công ty sẽ buộc các nhà đầu tư phải đối phó, vì họ phải nhờ người khác đứng tên đăng ký hộ. Người đứng tên này hoàn toàn vô trách nhiệm với công ty, thậm chí còn lợi dụng công ty để thu lợi riêng, làm phương hại đến lợi ích của ông chủ thật. Việc quy định công ty TNHH một thành viên là cá nhân sẽ tạo nên bức tranh minh bạch về sở hữu trong công ty hiện nay, tránh được tình trạng đứng tên hộ, số phần vốn góp mà ông chủ ghi cho người đứng tên sẽ thuộc sở hữu của người đứng tên, khi người đứng tên lật lọng thì ông chủ thực hoàn toàn chịu rủi ro trước pháp luật. Thực tế ở Việt Nam đã xảy ra những sự kiện này, việc ghi 5%, 10% khi lập công ty chỉ vài trăm ngàn hay vài triệu đồng, nhưng khi công ty kinh doanh bất động sản thì vài triệu đồng lúc đầu sẽ có giá trị vài tỷ đồng, và thế là tranh chấp xảy ra! Thứ năm, về mặt thực tế và tâm lý, người Việt Nam chưa có kinh nghiệm quản lý chung với nhiều người, trong khi vốn ít, thích kinh doanh một mình nhưng ngại chịu trách nhiệm vô hạn. Nếu có mô hình công ty TNHH một chủ là cá nhân thì sẽ rất phù hợp với nhà đầu tư, đáp ứng được nhu cầu phân tán rủi ro trong đầu tư của người Việt Nam. Đối với công ty cổ phần cũng sẽ xuất hiện câu hỏi tương tự. Tại sao số cổ đông tối thiểu của công ty cổ phần là 3? Không có lý lẽ nào thuyết phục. Nếu quy định công ty cổ phần trong một giai đoạn nhất định, khi vừa thành lập hoặc chuyển đổi thành, được phép chỉ có một cổ đông thì tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho việc cổ phần hoá các DN nhà nước chuyển ngay công ty nhà nước thành công ty cổ phần và bán dần phần vốn cho xã hội. Khi đó, vấn đề quản lý quá trình cổ phần hóa sẽ chỉ còn là xem số vốn nhà nước hiện còn là bao nhiêu, chứ không phải quản lý theo kiểu có bao nhiêu DN nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Từ thực tế trên, đã đến lúc Luật DN chung phải quan tâm đến loại hình công ty một chủ là cá nhân, theo đó một cá nhân có thể thành lập công ty TNHH một chủ. Ngay cả công ty cổ phần khi thành lập ban đầu cũng nên cho phép được sở hữu bởi một chủ với quy định sau một thời gian, công ty phải gọi thêm người đồng sở hữu vốn theo luật định. Các công ty này là những pháp nhân độc lập với nhau, miễn là quyền sở hữu tài sản giữa các pháp nhân này phải minh bạch để nhà nước và xã hội kiểm soát được một cách công khai. I.2 Khái niệm công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên II.2.1 Khái niệm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định của luật doanh nghiệp I.2.1.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó: a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi; b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp; c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 43, 44 và 45 của Luật doanh nghiệp 2005. I.2.1.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. II.2.1.3 Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần. Điều 45 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc và nếu có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam; trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên ba mươi ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. I.2.2. Điều kiện thành lập Công ty TNHH 2 thành viên trở lên: Theo quy định tại Điều 38 Luật Doanh nghiệp các chủ thể tham gia thành lập Công ty TNHH 2 thành viên trơ lên có thể là một tổ chức hoặc là một cá nhâ, số lượng tối thiểu là hai và số lượng thành viên không vượt quá năm mươi (50). Ngoài ra các tổ chức, cá nhân tham gia thành lập Công ty TNHH một thành viên phải đáp ứng được các điều kiện sau đây (Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005): I.2.2.1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. I.2.2.2. Tổ chức, cá nhân sau đây không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. b) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác. e) Người chưa thành niên người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự. f) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh. g) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản. I.2.2.3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 điều này. I.2.2.4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. I.2.3. Ưu và nhược điểm I.2.3.1. Ưu điểm Công ty có thể thay đổi địa chỉ trụ sở giao dịch, đặt văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại các địa phương khác chứ không bó hẹp tại địa phương đặt trụ sở - địa phương cấp giấy Đăng ký kinh doanh. Có tư cách pháp nhân. Chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn và tối đa không vượt quá phần vốn góp.Phân chia rủi ro trong kinh doanh. Có nhiều thành viên góp vốn nên khả năng huy động vốn tốt hơn và quy mô kinh doanh cũng mở rộng hơn. Có nhiều thành viên nên trình độ quản lý tốt hơn I.2.3.2. Hạn chế Số lượng thành viên tối đa không vượt quá 50 người. Không được quyền phát hành cổ phần. Việc chuyển nhượng phần vốn góp phải tuân thủ một trình tự chặt chẽ theo quy định tại Điều 43, 44, 45 của Luật doanh nghiệp 2005. I.2.4. Quy định bất cập của pháp luật về cty TNHH: Theo quy định tại Điều 13 của NĐ 139/CP, muốn trở thành GĐ (TGĐ) của cty TNHH 2 TV trở lên thì cổ đông phải là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông, hoặc người khác thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong QTKD hoặc trong ngành nghề KD chính của cty. Hơn nữa, Nghị định 139/CP lại cho phép trường hợp Điều lệ cty quy định tiêu chuẩn và điều kiện khác với tiêu chuẩn và điều kiện trên thì áp dụng tiêu chuẩn và điều kiện do Điều lệ cty quy định. Thứ nhất, việc quy định chức danh GĐ (TGĐ) trong mô hình cty TNHH 2 TV trở lên là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông là mâu thuẫn với quy định tại Điều 57 Luật DN, quy định GĐ (TGĐ) của cty TNHH phải sở hữu từ 10% vốn điều lệ của cty trở lên. Theo luật DN 2005, Điều 60, khoản 2 quy định: “trường hợp tăng vốn điều lệ bằng việc tiếp nhận thêm thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên”. I.2.5. NHẬN XÉT CHUNG: Tuy còn bất cập nhưng nhìn chung pháp luật về công ty TNHH 2 TV trở lên như hiện nay là khá đầy đủ và đảm bảo việc thực thi pháp luật trong việc thành lập, quản lý. Nhiều phần trong luật DN 2005 và các nghị định hướng dẫn đều có giao quyền cho công ty bằng câu: “Ngoại trừ điều lệ có quy định khác” hoặc ”và các quy định khác trong điều lệ công ty”. Điều này giao quyền khá rộng cho các công ty nhưng trong một số trường hợp lại tự vô hiệu haó toàn bộ các quy định trong luật như đã phân tích ở trên. II. DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN II.1. Khái niệm Theo Điều 141 Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005, Doanh nghiệp tư nhân được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp cũng được quy định rõ ràng trong Điều 142 : Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê. Toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp đơn giản nhất hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.  Loại hình doanh nghiệp này không được coi là một pháp nhân độc lập.  Nói cách khác, doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp được xem là một. Với quy mô nhỏ và tính chất kinh doanh sản xuất theo vụ việc, các Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có một số ưu điểm và nhược điểm sau : II.2. Ưu và nhược điểm II.2.1. Ưu điểm: - Hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề lien quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. - Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ Doanh nghiệp tư nhận tạo sự tin tưởng cho các đối tác, khách hang và giúp cho Doanh nghiệp ít chịu ràng buộc chặt chẽ như các loại hình doanh nghiệp khác. II.2.2. Nhược điểm : Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao, chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cũng như của mình chứ không giới hạn bằng số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường mắc phải 1 số nhược điểm sau: - Khâu xử lý thông tin nội bộ rất kém hệ thống thông tin về qui trình và đặc tính của sản phẩm không hoàn chỉnh cũng như trách nhiệm công việc không được phân công rõ ràng. làm cho giá thành sản phẩm cao và khiến khách hàng không hài lòng. - Thường không chú ý hoặc thiếu các kỹ năng cần thiết để phát triển các kế hoạch chiến lược. Dẫn đến các doanh nhân trong nước hoặc quá lạc quan về kế hoạch phát triển, hoặc đánh giá thấp các rủi ro và trở ngại liên quan. - Doanh nghiệp tư nhân trong nước thường chỉ sử dụng hệ thống tài chính kế toán cho mục đích báo cáo thuế mà chưa xem hệ thống trên là một công cụ rất hiệu quả, có thể giúp hiểu biết về cấu thành giá, phân tích tài chính hoặc cho việc kiểm soát nội bộ II.3. Tình hình chung Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam Qua báo cáo được thực hiện bởi Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Đầu tư, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho thấy, nếu chỉ tính về số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, thì từ số lượng khoảng 31.000 doanh nghiệp vào năm 2000, con số này đã nhanh chóng tăng lên 15 lần trong 9 năm. So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác thì khu vực doanh nghiệp tư nhân có số lượng tăng ấn tượng nhất và tạo nên sự tăng trưởng chính về mặt số lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân cũng tăng đáng kể. Tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp tư nhân đã tăng 17 lần từ khoảng 38.700 tỷ đồng vào năm 2000 lên tới 657.000 tỷ vào năm 2008. Tính trung bình, vốn chủ sở hữu bình quân một doanh nghiệp dân doanh hiện nay đạt 5,2 tỷ đồng so với 1,2 tỷ đồng vào năm 2000. Đánh giá một cách toàn diện, việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân đã đi kèm với mức tăng rất ấn tượng về doanh thu thuần (tăng gần 16 lần), lợi nhuận (tăng 27 lần), tổng tài sản (tăng 24 lần) trong giai đoạn 2000-2008. Doanh nghiệp tư nhân là khu vực tạo ra nhiều việc làm, và với việc tăng nhanh về số lượng, đây cũng là khu vực có tốc độ tạo ra việc làm lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Thế nhưng, lợi nhuận trên tổng tài sản lại thấp hơn so với khu vực nhà nước và đầu tư nước ngoài. Nhận định này nằm trong báo cáo rà soát chỉ số và chính sách phát triển kinh tế tư nhân vừa được Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp - Đầu tư cùng Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 13/10. Lợi nhuận trên tổng tài sản của khu vực tư nhân là 1,5%, trong khi của doanh nghiệp nhà nước là 5,4% và FDI là 10,6%. Tình trạng lợi nhuận thấp khiến doanh nghiệp tư nhân khó tích lũy nội bộ. Khi tỷ suất lợi nhuận thấp thì không thể phát triển, đó là vòng luẩn quẩn của doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân không bằng các doanh nghiệp Nhà nước” đó là nhìn nhận của cả người dân và cơ quan chức năng đã rào cản gây ra nhiều bất bình đẳng ở mọi lĩnh vực hoạt động như: mỗi khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp tư nhân phải thực hiện nhiều thủ tục phức tạp, ngay cả khi có thế chấp cũng chỉ được vay dưới 50% giá trị tài sản. Đại đa số cán bộ chủ chốt ở các cơ quan công quyền đều ngại gần doanh nghiệp tư nhân họ cho rằng những biểu hiện xấu trong kinh tế sản xuất, thực hiện các quy định pháp luật sai như gian lận thuế, làm hàng kém chất lượng thường được gán cho khu vực này, nhưng thực tế sai phạm ở các doanh nghiệp nhà nước không hề ít. Doanh nghiệp tư nhân phải chịu gánh nặng chi phí kinh doanh lớn nên dẫn tới lợi nhuận lại thấp. Các doanh nghiệp tư nhân phải chịu chi phí thuê mặt bằng lớn, còn doanh nghiệp nhà nước và FDI có thể sẽ được giao hoặc cho thuê với mức giá thấp hơn.. Nhiều ưu đãi hiện nay của Nhà nước dành cho doanh nghiệp tư nhân vẫn theo cơ chế xin - cho. Doanh nghiệp tư nhân cần được coi là trụ cột của nền kinh tế và do đó, cần có sự cân bằng về quan điểm khuyến khích đầu tư trong nước cũng như thu hút FDI. III. Công ty hợp danh. III.1. KHÁI NIỆM CÔNG TY HỢP DANH Là một hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người, công ty hợp danh bao giờ cũng được nhắc tới trước tiên trong các đạo luật hay các công trình nghiên cứu về công ty. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty hợp danh bị gắn với một hình thức công ty khác là công ty hợp vốn đơn giản để cùng được gọi là “công ty hợp danh”. III.1.1. Công ty hợp danh : là doanh nghiệp, trong đó : Phải có ít nhất hai thành viên(có nghĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty),là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty” (Điều 130, khoản 1). III.1.2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng lkí kinh doanh. III.1.3. Công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. III.2. HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN : ( Điều 135 ) Tất cả thành viên hợp danh lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh lên làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đóc hoặc Tổng Giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có quy định khác. Thành viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành viênđể thoả thuận và quyết định công việc kinh doanh của công ty. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. III.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC Công ty hợp danh có Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên hợp lại, Chủ tịch hội đồng thành viên và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc III.4. ĐIỀU HÀNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY HỢP DANH ( Điều 137 ) III.4.1. Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện cọng việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ 3 khi người đó được biết về hạn chế đó. III.4.2. Trong điều hành công việc của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau nhiệm vụ các chức danh quản lí và kiểm soát công ty. Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng kí của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp hoạt động đó đã được các thành viên còn lại chấp nhận. III.4.3. Công ty có thể mở một hoặc một số tài khoản tại ngân hàng. Hội đồng thành viên chỉ định thành viên được uỷ quyền gửi và rút tiền từ các tài khoản đó. III.4.4. Chủ tịch hội đồng thành viên và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các nhiệm vụ sau đây : a) Quản lí và điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh. b) Triệu tập và tổ chức họp hội đồng thành viên ký các quyết định hoặc nghị quyết của hội đồng thành viên. c) Phân công phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh , ký các quyết định về quy chế, nội quy và các công việc tổ chức nội bộ khác của công ty. d) Tổ chức sắp xếp, lưu giữ đầy đủ và trung thực sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và các tư liệu khác của công ty theo quy định của pháp luật. đ) Đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước đại diện cho công ty với tư cách là tự đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác. III.5. Ưu và nhược điểm III.5.1 Ưu điểm Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau. III.5.2. Khuyết điểm Công ty Hợp Danh không đươc phép chia, tách công ty, chỉ được hợp nhất và sáp nhập. Vậy tại sao ? Công ty hợp danh kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Do vậy, khi chia, tách cty, "độ tin cậy" chắc chắn sẽ giảm và "giới hạn trách nhiệm" của các thành viên hợp danh cũng thay đổi. Như vậy, bản chất của công ty hợp danh cũng thay đổi. Khi đó, nó sẽ có bản chất của công ty TNHH hoặc doanh nghiệp tư nhân CTy hợp danh: chỉ áp dụng với một số ngành đặc trưng (Tư vấn pháp luật, bác sỹ...). Người đứng đầu CT (thường là Giám đốc) phải có chứng chỉ hành nghề tương ứng, chịu trách nhiệm với Pháp luật về lĩnh vực hoạt động của CT. Hình thức góp vốn thì tương tự như CTy TNHH >2 thành viên. Các thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm về vốn, còn người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về hoạt động chuyên môn. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao. Loại hình công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 1999 và 2005 nhưng trên thực tế loại hình doanh nghiệp này chưa phổ biến. III.6. Một Số Thực Tiễn Đáng Quan Tâm : Công ty hợp danh theo luật Việt Nam là mô hình kém hấp dẫn nhà đầu tư. Điều đó thể hiện qua các con số thống kế trên thực tế về số lượng của các doanh nghiệp theo loại hình này. Theo thống kê doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội, cho đến ngày 20/11/2007, Hà Nội chỉ có 17 công ty hợp danh so với 33.327 công ty trách nhiệm hữu hạn, 21.061 công ty cổ phần, 2.921 doanh nghiệp tư nhân, 2.137 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên[26]. Như vậy, có thể thấy số lượng công ty hợp danh là quá ít ỏi so với số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình khác. Trong một nỗ lực giải quyết tính kém hấp dẫn của mô hình công ty hợp danh, Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thành viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh.Tuy nhiên, cách xử lý này bị phản đối gay gắt, và ngày 20/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, vói quy định thành viên hợp danh vẫn phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tại sao công ty hợp danh ở việt nam lại ít? Vì công ty hợp danh liên quan nhiều đến những người hợp danh phải có chứng chỉ gì đó. Ví dụ: Công ty hợp danh luật Gia Nguyễn do 2 người hợp danh thành lập nên công ty, 2 người này phải có chứng chỉ hành nghề luật sư. Còn công ty TNHH chỉ cần có vốn là thành lập được doanh nghiệp. III.7. KẾT LUẬN Lợi ích của quy định này nhìn chung là không cao, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của loại hình công ty này. Không chỉ riêng các quy định về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh mà nhiều quy định khác của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng phản ánh một hiện trạng chung về sự phát triển của chế định công ty trong pháp luật Việt Nam, đó là hướng phát triển tương đối khác với hầu hết các nước trên thế giới. Ở nhiều nước, công ty có trước, sau đó mới có luật pháp điều chỉnh nó. Còn ở Việt Nam, nhiều loại hình doanh nghiệp chỉ được hình thành sau khi Luật Công ty năm 1990 và các văn bản tiếp sau nó ra đời. Cần tham khảo thêm pháp luật một số nước có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này, để có quy định hợp lý hơn về công ty hợp danh, tạo điều kiện cho giới doanh nhân có thêm một mô hình doanh nghiệp để lựa chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh của mình; đồng thời, cũng là để phù hợp với xu thế chung của thế giới khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). IV. Công ty cổ phần IV.1. Khái niệm  Là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt động có hiệu quả. Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban Kiểm soát. Khái niệm công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại chúng bởi cấu trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số bộ luật, trong đó có Luật Việt Nam ghi rõ công ty cổ phần cần có tối thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp nhân hay thể nhân. Tuy nhiên, các quy định đối với một công ty niêm yết thường yêu cầu công ty phải có số cổ đông lớn hơn nhiều. Theo điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005 (của Việt Nam), công ty cổ phần được định nghĩa như sau: IV.1.1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. IV.1.2. Các loại cổ phần Theo điều 78 Luật Doanh nghiệp 2005 (của Việt Nam), các loại cổ phần bao gồm: Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:Cổ phần ưu đãi biểu quyết; Cổ phần ưu đãi cổ tức; Cổ phần ưu đãi hoàn lại; Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. Trong các loại cổ phần ưu đãi trên thì cổ phần ưu đãi biểu quyết chịu một số ràng buộc như: § chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. § Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Các cổ phần còn lại (ưu đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại và ưu đãi khác) thường tuân theo các quy tắc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Ngoài ra, cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi; trong khi cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau. IV.2. Ưu và nhược điểm IV.2.1. Ưu điểm § Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty; § Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần; § Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần; § Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lý và sở hữu. IV.2.2. Nhược điểm § Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của luật pháp; § Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém; § Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty phải công khai và báo cáo với các cổ đông; § Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt động kinh doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định trong Điều lệ của công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội đồng Cổ đông của Công ty Cổ phần quyết định. IV.3. Bất cập về cơ chế Các quy định về công ty cổ phần cho thấy nhiều sự lúng túng của nhà làm luật. Trước hết xin nói về điều 80, có hai vấn đề: - Khoản 1: cổ đông phổ thông phải “thanh toán đủ số cổ phần đã cam kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Ở đây có sự nhầm lẫn. Sự thật chỉ riêng các cổ đông sáng lập là phải thanh toán đủ số cổ phần phổ thông đăng ký mua trong thời hạn trên. Đối với các cổ đông khác, trên nguyên tắc họ phải thanh toán đủ một lần khi đăng ký mua, nhưng không nhất thiết phải trong thời hạn 90 ngày như nói trên, bởi vì công ty có quyền rao bán cổ phần trong thời hạn ba năm sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (điều 84). - Khoản 5: “cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty… thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty”. Quy định này vô nghĩa bởi vì khó có thể hình dung làm thế nào một cổ đông phổ thông lại có thể nhân danh công ty thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn của công ty nếu họ không phải là người có thẩm quyền trong cơ cấu quản lý công ty. Điều 89 quy định: “cổ phần, trái phiếu của công ty cổ phần… phải được thanh toán đủ một lần”. Khó khăn đặt ra trong trường hợp các cổ đông sáng lập không góp đủ vốn điều lệ và phải rao bán cổ phần sau khi đăng ký kinh doanh (đây là trường hợp thông thường). Đại hội đồng thành lập chỉ có thể được triệu tập để thiết lập cơ cấu quản lý đầu tiên của công ty khi toàn bộ cổ phần của công ty đã được đăng ký mua. Đối với công ty có vốn điều lệ lớn nếu buộc người mua cổ phần phải thanh toán đủ một lần khi đăng ký mua thì thời gian rao bán có thể kéo dài và việc triệu tập đại hội đồng thành lập sẽ bị đình trệ, gây thiệt hại cho cổ đông và công ty. Tham chiếu luật của các quốc gia khác, người mua cổ phần không bắt buộc phải thanh toán giá tiền ngay một lần mà có thể trả trước 50%, số tiền còn lại sẽ thanh toán trong thời hạn quy định tại phiếu đăng ký mua; mọi việc thanh toán chậm trễ sẽ chịu lãi và người nào thanh toán không đúng hạn sẽ phải bồi thường thiệt hại cho công ty nếu có. Như vậy, đại hội đồng sáng lập có thể được triệu tập ngay sau khi toàn bộ cổ phần của công ty đã được đăng ký mua mặc dù chưa thanh toán đủ. Hiệu quả của cổ phần hóa đã thấy rõ, nhưng xung quanh những doanh nghiệp sau quá trình này vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập về cơ chế, chính sách. Mặc dù được các ngân hàng tin tưởng về cơ sở tài chính, thậm chí doanh nghiệp có uy tín sau cổ phần hóa đã được ngân hàng cho vay với định mức cao hơn, nhưng không ít doanh nghiệp vẫn buộc phải thế chấp số tài sản lớn hơn trước khi cổ phần mới được ngân hàng cho vay vốn. Chuyện vốn vẫn là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp, bởi hiện nay thị trường chứng  khoán còn là điều mới mẻ. Vì vậy nhiều doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn huy động để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. V. Nhóm công ty V.1. Khái niệm: Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty gồm có: Công ty mẹ, công ty con. Tập đoàn kinh tê Các hình thức khác. Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì: V.1.1. Khái niệm tập đoàn kinh tế: được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia. Còn nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn, nhưng có một điểm chung nhất là: Tập đoàn doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, liên kết nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các doanh nghiệp trong tập đoàn đều có pháp nhân độc lập. ªMột vấn đề rất cơ bản là: tập đoàn không phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Các doanh nghiệp tự nguyện gia nhập tập đoàn đều có tư cách pháp nhân đầy đủ và hoạt động độc lập. Vì vậy, không có một mệnh lệnh hành chính nào có hiệu lực trong tập đoàn. Cũng vì vậy, không có một quyết định hành chính của bất kỳ cấp quản lý nào về việc thành lập tập đoàn. Trong các tập đoàn trên thế giới, không tồn tại chức danh Tổng Giám đốc tập đoàn mà chỉ có Chủ tịch tập đoàn do Hội đồng chủ tịch của các công ty con bầu ra. Ngay ở nước ta hiện nay, trong khu vực kinh tế dân doanh, một số tập đoàn đã hình thành và hoạt động có hiệu quả như: Tập đoàn PG tại Hải Phòng; Việt Á; Sunfat, Hòa Phát, Nam Cường, v.v… Các tập đoàn này không có quyết định thành lập của cấp chính quyền nào và cũng không có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho toàn tập đoàn. V.3. Vài suy nghĩ về tập đoàn kinh tế quốc doanh ở nước ta Theo công bố trên báo chí, nước ta hiện nay có 8 tập đoàn kinh tế quốc doanh. Cũng theo công bố trên báo chí, cả nước có 18 tổng công ty 91 và 73 tổng công ty 90 mang dáng dấp các tập đoàn kinh tế quốc doanh hoặc công ty mẹ-công. Toàn bộ các đơn vị kinh tế này chiếm khoảng  54% về vốn, 62% doanh thu và 73% tiền nộp ngân sách trong tổng số 5.970 doanh nghiệp nhà nước hiện nay (khu vực kinh tế quốc doanh). Các số liệu thống kê cho biết khu vực kinh tế quốc chiếm từ 53% đến 67% vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp cả nước; có tài sản cố định cao hơn tài sản cố định của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước nhưng không được thể hiện trong các số liệu thống kê về vốn. Hàng chục năm nay các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ đóng góp vào GDP ước khoảng 37-39%; tạo công ăn việc làm cho khoảng 4,4% tổng số lao động, những năm gần đây không tạo ra không đáng kể việc làm mới; chỉ đóng góp từ 25% đến 34% sản lượng công nghiệp; các doanh nghiệp nhà nước hầu như tham gia không đáng kể vào các khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Khu vực các doanh nghiệp nhà nước có nhập siêu thường xuyên và lớn nhất trong hàng chục năm nay. Từ các số liệu nói trên có thể suy ra bức tranh, vai trò và hiệu quả của các tập đoàn kinh tế quốc doanh ở nước ta hiện nay. Hiện nay đang có xu thế đôn lên hoặc sáp nhập, hoặc tổ chức lại nhiều tổng công ty 91 và 90 để thành các tập đoàn kinh tế quốc doanh. Nhằm phán đoán xu thế này, có thể gộp các tổng công ty 91 và 90 và các tập đoàn kinh tế quốc doanh vào một nhóm để quan sát, chúng ta sẽ thấy riêng nhóm này hiện nay chiếm khoảng 25 đến 30% toàn bộ vốn kinh doanh của cả nền kinh tế (chưa kể tài sản cố định – vì chưa thể hiện trong số liệu thống kê và chưa tính được), khoảng 30% vốn đầu tư hàng năm của toàn xã hội, đóng góp hàng năm ước tính khoảng 14% vào thu ngân sách nhà nước. Các số liệu này cho thấy tiếp tục xu thế hình thành các tập đoàn kinh tế quốc doanh, với mong muốn tạo thêm các quả đấm thép cho nền kinh tế, sẽ chỉ là ảo tưởng. Xu thế này chỉ có thể đẻ thêm ra những gánh nặng mới cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển, chức năng hàng đầu của loại tập đoàn này là chống độc quyền để phòng ngừa sự phát triển thiên lệch và thúc đẩy kinh tế phát triển. Ở nước ta, loại tập đoàn này phát triển độc quyền kinh tế và chính trị, không giải phóng được mọi nguồn lực của đất nước. Chức năng thứ hai ở các nước phát triển là nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế; ở nước ta khó có thể nói các tập đoàn kinh tế quốc doanh đã làm được vai trò này. Chức năng thứ ba là góp phần gìn giữ an ninh chính trị xã hội và quốc phòng, ở nước ta chức năng này của các tập đoàn kinh tế quốc doanh cần được nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng để có đánh giá xác đáng. Đã có nhiều lời cảnh báo quyết liệt không thể để ngoài tai: Vai trò chủ đạo và quả đấm thép thì chưa rõ lắm, nhưng đang xuất hiện những quả bom nổ chậm phá nền kinh tế. Chẩn bệnh thì phải làm xét nghiệm máu, chính là làm xét nghiệm sự lưu chuyển này. Xin lưu ý: Quản lý kinh tế theo cơ chế “chủ quản” là lỗi thời và cần xóa bỏ, song điều này có nghĩa phải thực hiện tốt quản lý theo luật và công khai minh bạch, tuyệt đối không thể để cho các “quan hệ” hay lợi ích nhóm chi phối như đang diễn ra. Hơn thế nữa, các tập đoàn kinh tế quốc doanh và các tổng công ty 91 & 90 là thuộc sở hữu Nhà nước, là tài sản của nhân dân, Nhà nước thay mặt dân là chủ sở hữu phải là người có tiếng nói quyết định, phải quản lý có có hiệu quả nhất khối tài sản rất lớn này; song hiện nay Nhà nước chưa thực hiện đúng được vai trò này. Hiển nhiên, xóa “chủ quản” thì phải triệt để quản lý theo luật và thực hiện công khai minh bạch, không có con đường nào khác – đòi hỏi này thực sự đang là thách thức lớn đối với hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước: Hoặc là phải làm bằng được, hoặc là bó tay đầu hàng.  Ưu tiên số một của cả nước bây giờ là chống lạm phát, chống trước mắt là  chống những nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát, chống lâu dài là khắc phục thực trạng dẫn tới những nguyên nhân gây ra lạm phát. Đặt vấn đề như vậy, hiển nhiên sẽ thấy không thể tiếp tục duy trì nguyên trạng của khu vực doanh nghiệp quốc doanh nói chung, và nhóm tập đoàn kinh tế quốc doanh và các tổng công ty 91 & 90 như hiện nay, lại càng không thể khuyến khích xu thế “tập đoàn hóa” và khuynh hướng lũng đoạn của nó đang diễn ra. Bởi lẽ nền kinh tế nước ta sẽ không thể chịu đựng nổi tình trạng chống được lạm phát (cứ giả thiết cho là chống được và phải chống bằng được) để rồi sau đó vài ba năm sẽ rơi trở lại vào lạm phát, có thể sẽ là cấp tính hơn,  – vì tình trạng gây ra những nguyên nhân của lạm phát được giữ nguyên. Nhìn dài hạn, từ mổ xẻ thực trạng như vậy, sẽ có cơ sở xác đáng và có quyết tâm sắp xếp lại và đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước nói chung và nhóm kinh tế này nói riêng, chống lại xu thế “tập đoàn hóa theo hướng tạo ra độc quyền và khuyến khích lũng đoạn”, tất cả nhằm vào mục tiêu giải phóng mọi nguồn lực và tiềm năng của đất nước. Có thể nói đây là nhiệm vụ then chốt nhất, khó nhất, là bước đi đầu tiên trong giai đoạn phát triển mới của đất nước hiện nay sau 22 năm đổi mới. Bước đi này có ý nghĩa quyết định thành hay bại toàn bộ sự nghiệp đổi mới của nước ta trong tương lai, là sẽ có hay không có một Việt Nam công nghiệp hóa – hiện đại hóa với đúng nghĩa: Một Việt Nam là một nước phát triển. Có phải làm như thế không? Có làm được không? Nhưng trước đó là câu hỏi: Có dám không? V.1.2. Công ty mẹ, công ty con: CTM-CTC là cách gọi của chúng ta, chuyển ngữ từ tiếng Anh “Holding company” và “Subsidiaries company” sang tiếng Việt. Holding company là công ty nắm vốn, Subsidiaries company là công ty nhận vốn. Từ “mẹ-con” là cách gọi suy diễn, có thể gây hiểu lầm, nếu không đi sâu vào nội dung của từ. Thực chất CTM là một nhà tài phiệt, quan hệ mẹ - con giữa CTM và CTC là sự chi phối của nhà tài phiệt vào hoạt động sản xuất kinh doanh của CTC nhờ có vốn của nhà tài phiệt tại các CTC đó. Nhà tài phiệt này khác các cổ đông thông thường ở chỗ, do có nhiều vốn nên có thể cùng lúc là cổ đông của nhiều công ty. Vì là cổ đông của nhiều công ty, hơn thế nữa, là cổ đông chi phối hoặc đặc biệt đối với hoạt động của các CTC. CTM có thể là một công ty hoạt động tài chính thuần tuý (chuyên dùng vốn để mua cổ phần tại các CTC), cũng có thể là một công ty vừa hoạt động tài chính, vừa trực tiếp sản xuất-kinh doanh. V.2. Ưu và nhược điểm. V.2.1. Ưu điểm Thu hút được nhiều vốn từ xã hội mà vẫn bảo đảm được quyền quyết định trong CTM cũng như kiểm soát, khống chế hoạt động của các CTC. Do có khả năng tập trung vốn lớn tạo điều kiện để đáp ứng nhanh thị trường trong nước cũng như quốc tế, tạo cơ hội cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế trong khu vực và thế giới. Khả năng tác động toàn diện của CTM vào các CTC do cùng lúc có vốn tại nhiều CTC nên có tầm nhìn bao quát toàn ngành, toàn thị trường, biết chỗ yếu, chỗ mạnh của nhiều công ty để có hành vi tác độngchính xác tại mỗi CTC cụ thể. V.2.2. Nhược điểm Do tập trung vốn và nguồn lực lớn nên dễ dẫn tới tình trạng độc quyền kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các CTM nắm giữ Điều đầu tiên là cho đến nay, những nghiên cứu cơ bản về tập đoàn, về mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta còn rất ít. Còn rất nhiều vấn đề về mặt lý luận chưa được trao đổi và thống nhất với tinh thần thẳng thắn, khách quan và khoa học. Chẳng hạn, thế nào là một tập đoàn kinh tế? Gọi là tập đoàn kinh tế hay tập đoàn DN? Tập đoàn có phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân hay không? Khi chưa hiểu thấu đáo về tập đoàn và công ty mẹ - công ty con mà đã "cho ra" hàng loạt thì chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong điều hành.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận các loại hình doanh nghiệp tại VN.doc
Luận văn liên quan