Những cơ quan yêu cầu phải đảm bảo rằng các bằng chứng được yêu cầu là cần thiết 
và tương xứng cho các thủ tục tố tụng. Ngoài ra, việc mua lại các bằng chứng như vậy trong 
những hoàn cảnh tương tự trong các nhà nước đưa ra yêu cầu phải được quy định trong luật 
pháp quốc gia. Chỉ khi những điều kiện này được đáp ứng thì EEW có thể đó phải được ban 
hành. Khi cơ quan có thẩm quyền của một nhà nước phát hành có căn cứ hợp lý để tin rằng 
bằng chứng có liên quan nằm trên lãnh thổ của một nước thành viên, có thể truyền tải các 
EEW cho cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đó. Các EEW phải được truyền trực tiếp cho 
cơ quan thực hiện và theo cách đó để lại một biên bản. Để kết thúc quá trình này,quốc gia
thành viên có thể chỉ định một hoặc nhiều cơ quan trung ương sẽ hỗ trợ các cơ quan có thẩm 
quyền. Các nước thành viên cũng có thể tận dụng lợi thế của hệ thống viễn thông an toàn 
của mạng lưới tư pháp châu Âu cho việc truyền EEWs.
Cơ quan thực hiện sẽ có những biện pháp cần thiết để thực hiện các EEW, trừ khi nó 
quyết định gọi một mặt bằng không công nhận, không thực hiện hoặc trì hoãn. Khi EEW 
không được cấp hoặc xác nhận bởi một thẩm phán, tòa án, điều tra thẩm phán, công tố viên, 
các cơ quan thực thi có thể quyết định không thực hiện một tìm kiếm hoặc tịch thu để thực 
hiện đảm bảo. Tuy nhiên, nó phải tham khảo ý kiến các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước 
phát hành trước khi một quyết định. Các nước thành viên có thể tuyên bố rằng họ cần xác 
nhận như vậy khi các biện pháp thực hiện trong một trường hợp tương tự trong nước phải 
được đặt hàng, giám sát của một thẩm phán, tòa án, điều tra thẩm phán hoặc công tố công 
cộng theo pháp luật của mình. Nếu không quy định khác trong quyết định khung, các cơ quan 
thi hành được thực hiện theo thủ tục chỉ định của cơ quan phát hành. Tuy nhiên, các thủ tục 
có thể không mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nhà nước thực hiện.
Nhà nước thực hiện có thể từ chối công nhận hoặc thực hiện các EEW trong vòng 30 ngày 
nhận được nó nếu:
 thực hiện hành vi vi phạm các nguyên tắc ne bis lũy đẳng;
 trong một số trường hợp quy định tại quyết định khung, hành động không phải là một 
hành vi phạm tội theo luật pháp quốc gia;
 thực hiện là không thể với các biện pháp có sẵn cho cơ quan thực hiện trong trường 
hợp cụ thể;
 có một khả năng miễn dịch hoặc đặc quyền theo pháp luật của nhà nước thực hiện mà 
làm cho nó không thể thực hiện;
 nó đã không được xác nhận bởi một thẩm phán, tòa án, thẩm phán điều tra hoặc công 
tố viên công cộng tại các tiểu bang phát hành khi có yêu cầu;
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2714 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các nội dung pháp lý cơ bản của luật tố tụng hình sự EU, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
1 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
Tiểu luận 
Các nội dung pháp lý cơ bản của 
Luật tố tụng Hình sự EU
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
2 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
LỜI NÓI ĐẦU 
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo việc các vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng 
vì những mục đích cá nhân nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Vi phạm trên nhiều 
phương diện và lĩnh vực như dân sự, hình sự … Tuy nhiên, vi phạm pháp luật hình sự là 
một trong những lĩnh vực đáng lo ngại, nhất là khi nó diễn ra ở một khu vực có nền kinh tế 
phát triển tương đối mạnh và đồng đều như châu Âu . Một yêu cầu đặt ra đối với các nhà 
lãnh đạo EU, làm thế nào để có thể đưa ra những phán xét công bằng đối với các tội phạm 
hình sự khi mà họ có thể đến từ những quốc gia có pháp luật khác nhau. Cần phải có một 
sự thống nhất sao cho thật phù hợp, từ đó đẩy mạnh, nâng cao sự phát triển của cả khu vực. 
Các biện pháp, cách thức để có thể xét xử các tội phạm hình sự được quy định trong 
Luật TTHS EU. EU đã xây dựng luật này với nội dung như thế nào, thực tế áp dụng ra sao? 
Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thông qua đề tài: “Các nội dung pháp lý cơ bản của Luật tố 
tụng Hình sự EU” 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
3 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
NỘI DUNG 
I. Khái quát chung về Luật tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu 
1. Khái niệm 
Luật tố tụng hình sự là hệ thống quy trình thủ tục để giải quyết một vụ việc hình sự. 
Qua đó,nhà nước của một quốc gia sẽ quy định nhằm đảm bảo xét xử đúng người đúng tội và 
áp dụng đúng pháp luật hình sự. Nói cách khác, các quy định của Luật tố tụng hình sự được 
thông qua để thực thi các quyền được hiến pháp công nhận của bị cán, bị cáo thông qua việc 
bắt giữ, điều tra, xét xử , kết án và kháng cáo. 
Liên minh Châu Âu chưa có cho mình một bản hiến pháp riêng, tuy nhiên bằng rất 
nhiều hiệp ước những quyền cơ bản của người dân Châu Âu cũng được quy định và đảm bảo 
thực hiện bằng pháp luật của các quốc gia thành viên cũng như pháp luật của Liên minh. 
Xuất phát từ quy định tại Điều 6 của Công ước châu Âu về Nhân quyền là một điều khoản 
của Công ước châu Âu để bảo vệ các quyền được xét xử công bằng: “Trong trường hợp pháp 
luật hình sự và các trường hợp để xác định các quyền dân sự nó bảo vệ quyền có một điều 
trần công khai trước một tòa án độc lập và vô tư trong thời gian hợp lý, suy đoán vô tội, và 
các quyền lợi tối thiểu cho những người khác bị cáo buộc trong vụ án hình sự (thời gian đủ 
cơ sở để chuẩn bị cho họ tiếp cận với đại diện pháp lý, quyền kiểm tra các nhân chứng chống 
lại họ hoặc có họ kiểm tra, phải để sự hỗ trợ miễn phí của một thông dịch viên) phải được 
đảm bảo”, Liên minh Châu Âu đã có những quy định về Tố tụng hình sự nhằm đảm bảo thực 
hiện quyền trên của mỗi người dân Châu Âu. 
Mặc dù trong lĩnh vực Tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu đã đạt được tới mức độ 
nhất thể hóa trong nhiều lĩnh vực nhưng vẫn chưa có một đạo luật thống nhất về Tố Tụng 
hình sự được ban hành tại đây. Các nguyên tắc cũng như trình tự tố tụng đối với các vụ án 
hình sự tại Liên minh Châu Âu được quy định rải rác trong các chỉ thị và quyết định là chủ 
yếu. 
2. Đặc điểm của Luật tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu 
a. Phạm vi 
Luật tố tụng hình sự là một lĩnh vực rộng lớn quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều 
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ 
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người 
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ 
chức và công dân. Liên minh Châu Âu với các quốc gia thành viên, mỗi quốc gia đều có 
pháp luật về tố tụng hình sự riêng của mình và điều chỉnh tất cả các vấn đề được liệt kê ở 
trên. Nhiệm vụ của Luật tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu chỉ là quy định để tạo ra sự nhất 
thể hóa pháp luật của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực này đồng thời tăng cường hợp 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
4 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
tác trong các lĩnh vực của tố tụng hình sự chứ không hề quy định rõ ràng từng vấn đề như 
pháp luật quốc gia. Để làm việc đó, Liên minh Châu Âu ban hành các quyết định, chỉ thị 
nhằm đảm bảo từng vấn đề cụ thể trong luật tố tụng hình sự sẽ được đề cập. Do vậy, phạm vi 
điều chỉnh của pháp Luật tố tụng hình sự Châu Âu không trùng khít như phạm vi điều chỉnh 
của các nước thành viên, nó không bao quát toàn bộ những quy định như điều tra, truy tố, xét 
xử, thi hành phán quyết, ....mà chỉ điều chỉnh những vấn đề nhất định nhằm nhất thể hóa dần 
dần các quy định như: hợp tác về cảnh sát và hợp tác tư pháp trong các vấn đề hình sự, các 
quy định nhằm đảm bảo bằng chứng, đảm bảo bắt giữ, bồi thường thiệt hại cho nạn nhân của 
tội phạm, thủ tục tố tụng hình sự, bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân của tội phạm ... 
b. Phương thức 
Do các quy định về Tố tụng hình sự của Liên minh Châu Âu được quy định trong các 
văn bản luật phái sinh của EU nên các quy định do các thiết chế của EU ban hành này có hiệu 
lực thấp hơn luật gốc (Các hiệp ước) và phù hợp với Luật gốc. 
Các quyết định đề cập tới những vấn đề của tố tụng hình sự như: Quyết định của Hội 
đồng 2002/630/JHA của ngày 22 Tháng Bảy năm 2002 thành lập một chương trình khung về 
hợp tác cảnh sát và tư pháp trong các vấn đề hình sự, Quyết định 2000/597/EC của Hội đồng 
Châu Âu tại Euratom của ngày 29 tháng 9 năm 2000, Quyết định khung của Hội 
đồng 2008/978/JHA của Ngày 18 tháng 12 năm 2008 về việc bảo đảm bằng chứng ở châu Âu 
với mục đích đạt được các đối tượng, tài liệu, dữ liệu để sử dụng trong thủ tục tố tụng trong 
các vấn đề hình sự....chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các cá nhân, thể nhân, quốc gia thành 
viên được chỉ định trong văn bản. Những quyết định này có hiệu lực trực tiếp đối với tất cả 
các đối tượng được chỉ định trong văn bản. Do đó có thể coi phương thức được Liên minh 
Châu Âu sử dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến tố tụng hình sự là sử dụng các quyết 
định có hiệu lực trực tiếp. Thời điểm có hiệu lực được xác định trong các quyết định, trường 
hợp không được xác định trong văn bản thì nó sẽ có hiệu lực 20 ngày sau khi được đăng trên 
công báo của EU (Official Journal of The EC). 
Các quyết định này được đảm bảo thi hành bằng các cơ quan của Liên minh cũng như 
các cơ quan cưỡng chế của các nước thành viên. 
c. Tính chất 
Nhận định chung thì luật tố tụng hình sự của Liên minh Châu Âu đã đạt tới mức độ 
nhất thể hóa. Tuy nhiên, không phải tất cả các vấn đề được đề cập trong các quyết định đều 
đã được nhất thể hóa mà trong đó tồn tại các vẫn đề mới chỉ đạt ở mức hài hòa hóa. 
Các vấn đề tạo được thành khung chung là những vấn đề có thể nói đã đạt tới mức độ 
nhất thể hóa, cụ thể như: Trao đổi thông tin trong hồ sơ hình sự; Hợp tác trong các vấn đề 
hình sự: bảo vệ dữ liệu cá nhân; Tư pháp châu Âu; Ủy ban Thường vụ về hoạt động hợp tác 
về an ninh nội bộ; Hiệp định với Nhật Bản về tương trợ tư pháp; Eurojust; Đấu tranh chống 
tội phạm có tổ chức và khủng bố: vai trò của Eurojust và mạng lưới tư pháp châu Âu; Châu 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
5 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
Âu mạng lưới các điểm tiếp xúc; Mạng lưới tư pháp châu Âu; Tư pháp đào tạo trong Liên 
minh châu Âu; Hợp tác trong các vấn đề tư pháp hình sự: đào tạo mạng lưới tư pháp châu 
Âu; Khuôn khổ cho việc trao đổi các quan tòa liên lạc; Châu Âu liên hệ với mạng lưới các 
điểm phục hồi công lý; Chương trình hành động: Chương trình cụ thể: "Tư pháp hình sự '’ và 
chương trình cụ thể: ngăn ngừa và chống tội phạm (2007-2013); Khung chung cảnh sát liên 
quan đến chương trình và hợp tác tư pháp trong các vấn đề hình sự (AGIS). 
Các vấn đề mà các quốc gia thành viên mới chỉ dừng lại ở mức độ công nhận lẫn nhau 
thì mới chỉ đạt được ở mức độ hài hóa hóa: Châu Âu bảo đảm bằng chứng (EEW); Giám sát 
của người bị kết án, người có ngày phát hành có điều kiện; Thừa nhận lẫn nhau của câu giam 
giữ và các biện pháp tước quyền tự do; Tính đến án tại các nước thành viên trong quá trình tố 
tụng hình sự mới; Công nhận và thực hiện lệnh tịch thu; Thừa nhận lẫn nhau về các hình phạt 
tài chính; Thi hành lệnh đóng băng tài sản hoặc chứng cứ; Hiệp định về các thủ tục đầu hàng 
giữa các thành viên EU, Iceland và Na Uy; Công nhận quyết định trong vấn đề hình sự: tăng 
cường tin cậy lẫn nhau; Giấy màu xanh lá cây trên giả định vô tội; Thủ tục tố tụng hình sự: 
xung đột về thẩm quyền và nguyên tắc ne bis lũy đẳng (Green Paper)... 
II. Nội dung cụ thể của luật tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu 
Đấu tranh chống tội phạm là vấn đề liên quan đến việc tăng cường đối thoại và hành 
động giữa các cơ quan tư pháp hình sự của các nước thành viên liên minh. Do đó, Liên minh 
châu Âu (EU) đã thành lập các cơ quan cụ thể để tạo điều kiện giúp đỡ lẫn nhau trong vấn đề 
này. Đặc biệt, Eurojus t và mạng lưới hỗ trợ tư pháp châu Âu là mấu chốt trong hợp tác giữa 
cơ quan tư pháp. Hợp tác trong các vấn đề tư pháp hình sự được dựa trên nguyên tắc công 
nhận lẫn nhau của các bản án, quyết định tư pháp quốc gia thành viên. Nó liên quan đến tỷ lệ 
xấp xỉ của pháp luật của quốc gia có liên quan và áp dụng các quy tắc tối thiểu chung. Các 
quy tắc tối thiểu, chủ yếu liên quan đến các sự chấp nhận chứng cứ và các quyền của nạn 
nhân tội phạm cũng như của cá nhân trong tố tụng hình sự. Những quy tắc này được đưa ra 
lần đầu tiên bởi Hiệp ước Maas tricht năm 1993 trong phần hợp tác tư pháp trong các vấn đề 
hình sự đi kèm theo mục V của Hiệp định về các chức năng của Liên minh châu Âu. 
Do đó, việc hợp tác trong các vấn đề tư pháp hình sự được các nhà chức trách của liên 
minh đặc biệt quan tâm, bằng chứng là hàng loạt các văn bản về vấn đề này đã được ban 
hành và thực thi tại hầu hết các quốc gia thành viên của liên minh. Như đã phân tích, Luật tố 
tụng hình sự là một vấn đề rộng lớn, trong khuôn khổ một bài tập nhóm chúng tôi không thể 
đi phân tích tất cả các chế định có liên quan, do vậy, nhóm chúng tôi sẽ chia thành 2 nhóm cơ 
bản, và trong 2 nhóm này, nhóm sẽ tiến hành phân tích các chế định tiêu biểu. 
1. Khung pháp luật chung 
Việc thiết lập một khung pháp luật chung cho toàn Liên minh về các vấn đề tố tụng hình 
sự nói riêng và các vấn đề hình sự nói chung là cần thiết. Tuy nhiên, dưới góc độ là một tổ 
chức liên minh, không phải tất cả các vấn đề có liên quan sẽ dễ dàng trong việc tạo ra khung 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
6 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
chung này do liên quan đến vấn đề chủ quyền của các quốc gia thành viên. Hầu hết các lĩnh 
vực được đề cập đến trong khung pháp luật chung là những vấn đề đã được nhất thể hóa. 
Liên quan đến vấn đề khung pháp luật chung, bao gồm các chế định và văn kiện pháp 
lý có liên quan được liệt kê dưới đây: 
 Chương trình Stockholm; 
 Kế hoạch hành động về Chương trình Stockholm; 
 Chương trình The Hague: 10 ưu tiên cho năm năm tiếp theo; 
 Thẩm quyền trong các vấn đề hình sự: đầu tiên và thứ ba trụ cột; 
 Các kích thước bên ngoài của khu vực an ninh, tự do và công lý; 
 Hỗ trợ lẫn nhau trong các vấn đề hình sự giữa các nước thành viên; 
 Hợp tác của các cá nhân để chống lại tội phạm có tổ chức; 
 Giấy Green về các vụ án hình sự: Thường trực của các nạn nhân trong tố tụng hình sự; 
 Các quyền của nạn nhân tội phạm; 
 Bồi thường cho nạn nhân tội phạm; 
 Đơn giản hóa thủ tục dẫn độ giữa các nước thành viên; 
 Công ước về dẫn độ giữa các nước thành viên; 
 Trao đổi thông tin trong hồ sơ hình sự; 
 Hợp tác trong các vấn đề hình sự: bảo vệ dữ liệu cá nhân; 
 Phát triển một chiến lược toàn diện để đo lường EU tội phạm và công lý hình sự; 
 Diễn đàn Tư pháp; 
 Mạng lưới Tư pháp châu Âu; 
 Ủy ban Thường vụ về hoạt động hợp tác về an ninh nội bộ; 
 Hiệp định với Nhật Bản về tương trợ tư pháp; 
 Eurojus t- Quyết định thành lập Eurojust; 
 Đấu tranh chống tội phạm có tổ chức và khủng bố: vai trò của Eurojust và mạng lưới 
tư pháp châu Âu; 
 Châu Âu mạng lưới các điểm tiếp xúc; 
 Mạng lưới tư pháp châu Âu; 
 Tư pháp đào tạo trong Liên minh châu Âu; 
 Hợp tác trong các vấn đề tư pháp hình sự: đào tạo mạng lưới tư pháp châu Âu; 
 Khuôn khổ cho việc trao đổi các quan tòa liên lạc; 
 Châu Âu liên hệ với mạng lưới các điểm phục hồi công lý; 
 Chương trình hành động: Chương trình cụ thể: “Tư pháp hình sự” và chương trình cụ 
thể: ngăn ngừa và chống tội phạm (2007-2013); 
 Khung chung cảnh sát liên quan đến chương trình và hợp tác tư pháp trong các vấn đề 
hình sự (AGIS). 
a. Bồi thường cho nạn nhân của tội phạm 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
7 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
Năm 1999, Ủy ban trình bày một thông báo nhằm tăng cường địa vị pháp lý của nạn 
nhân tội phạm trong EU. Ngoài ra, tại cuộc họp Hội đồng châu Âu ở Tampere, các thành 
viên công nhận sự cần thiết phải xây dựng tiêu chuẩn tối thiểu về bảo vệ nạn nhân của tội 
phạm trong Liên minh. Ngày 15 tháng 3 năm 2001, Hội đồng đã thông qua một quyết định 
khung về địa vị pháp lý của các nạn nhân trong tố tụng hình sự. Quyết định khung có quy 
định về bồi thường của người phạm tội, nhưng không giải quyết các vấn đề khác về bồi 
thường nạn nhân tội phạm. Sau đó, vào ngày 28 tháng 9 năm 2001, Ủy ban trình bày sách 
xanh về việc bồi thường các nạn nhân của tội phạm, mà mục tiêu là hai lĩnh vực chính có 
tiềm năng triển khai hoạt động: 
• Áp dụng các tiêu chuẩn tối thiểu có liên quan đến bồi thường ở cấp châu Âu bằng cách 
yêu cầu các nước thành viên đảm bảo mức bồi thường hợp lý cho nạn nhân từ phía nhà 
nước; 
• Áp dụng các biện pháp làm cho việc bồi thường trên thực tế trở nên dễ dàng, không phân 
biệt tội phạm đã xảy ra ở đâu trong EU. 
Chỉ thị của Hội đồng 2004/80/EC ngày 29 tháng 4 năm 2004 liên quan đến bồi 
thường cho nạn nhân của tội phạm. Mục đích của chỉ thị này là để thiết lập một hệ thống 
hợp tác tạo điều kiện tiếp cận với bồi thường cho các nạn nhân của tội phạm trong tình 
huống qua biên giới. Hệ thống này hoạt động trên cơ sở phương án bồi thường của các 
nước thành viên cho các nạn nhân của tội phạm cố ý gây thương tích trong lãnh thổ của 
mình. 
a.1. Sơ lược 
Nạn nhân của tội phạm được quyền đòi bồi thường công bằng và thích hợp cho các 
thương tích mà họ đã chịu, bất kể ở đâu trong Liên minh châu Âu (EU) nơi tội phạm xảy ra. 
Chỉ thị này đóng góp cho vấn đề này thông qua việc: 
- Yêu cầu các nước thành viên quy định trong pháp luật quốc gia của họ một kế hoạch 
bồi thường cho các nạn nhân của tội phạm cố ý gây thương tích đã xảy ra trong lãnh thổ 
của họ. 
- Thiết lập một hệ thống tạo điều kiện bồi thường cho các nạn nhân của tội phạm trong 
tình huống qua biên giới (khả năng tạo ra một ứng dụng trong các nước thành viên cư trú, 
chỉ định các điểm liên hệ với trung tâm ở các nước thành viên,…) 
a.2. Đảm bảo đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân của tội phạm trên toàn EU 
 Việc bồi thường cho nạn nhân thường gặp khó khăn vì hoặc người phạm tội không 
có các nguồn lực tài chính cần thiết hoặc vì không được thể xác định hoặc truy tố những 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
8 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
người phạm tội (khả năng thu được bồi thường từ người phạm tội đã được quy định trong 
quyết định khung về địa vị pháp lý của các nạn nhân trong tố tụng hình sự). Hầu hết các 
nước thành viên đều nhận thức được thực tế này và đã đưa ra phương án bồi thường từ nhà 
nước. Tuy nhiên, những đề xuất khác nhau rất nhiều, và những khác biệt này gây ra sự bất 
bình đẳng đáng kể trong việc bao quát được tất cả các công dân EU và số tiền bồi thường. 
Theo hiệu lực của chỉ thị, có thể các nạn nhân của tội phạm được bồi thường trong 
các tình huống qua biên giới và các quốc gia không được phân biệt quốc gia của nạn nhân 
cư trú hoặc các quốc gia thành viên, nơi tội phạm đã xảy ra. Số tiền bồi thường phải trả cho 
nạn nhân, cá nhân tuỳ thuộc quyết định của các nước thành viên nơi tội phạm xảy ra nhưng 
phải được công bằng và thích hợp. 
a.3. Tạo điều kiện yêu cầu đòi bồi thường của các nạn nhân trong các tình huống qua 
biên giới. 
Chỉ thị này đặt ra một hệ thống hợp tác để tạo điều kiện bồi thường cho các nạn 
nhân của tội phạm trong tình huống qua biên giới. Hệ thống này hoạt động trên cơ sở 
phương án bồi thường của các nước thành viên cho các nạn nhân của tội phạm cố ý gây 
thương tích đã xảy ra trong lãnh thổ của nước mình. Tất cả các nước thành viên vì thế phải 
thiết lập một cơ chế đền bù và giới thiệu luật pháp quốc gia và đưa ra một phương án bồi 
thường cho các nạn nhân vào ngày 01 tháng 7 năm 2005. 
a.4. Chuẩn bị việc thành lập một phương án bồi thường và tăng cường hợp tác giữa các 
nước thành viên 
Tất cả các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng luật pháp quốc gia của họ quy 
định một chương trình bồi thường cho các nạn nhân của tội phạm cố ý gây thương tích đã 
xảy ra trong lãnh thổ của mình được đền bù công bằng và thích hợp. Chỉ thị này đặt ra một 
hệ thống hợp tác giữa chính quyền các quốc gia để tạo điều kiện bồi thường cho các nạn 
nhân trong những trường hợp qua biên giới. Các nạn nhân của tội phạm bên ngoài nước 
thành viên cư trú thường xuyên có thể yêu cầu một cơ quan trong nước thành viên, nơi họ 
đang cư trú để cung cấp thông tin về cách áp dụng để bồi thường. Các cơ quan trong nước 
thành viên nơi thường trú chuyển các ứng dụng trực tiếp cho cơ quan trong nước thành viên 
nơi tội phạm đã xảy ra (quyết định thẩm quyền), trong đó có trách nhiệm đánh giá việc ứng 
dụng và thanh toán hiện việc bồi thường. Ủy ban đã thành lập các hình thức tiêu chuẩn cho 
việc truyền tải các ứng dụng và các quyết định liên quan đến bồi thường cho nạn nhân. 
Nhằm thực hiện một cách đầy đủ, chỉ thị dự liệu việc lập và xuất bản các hướng dẫn 
cho các cơ quan giúp việc trên internet. Chỉ thị này cũng đưa ra việc thiết lập một hệ thống 
các điểm liên hệ với trung tâm trong mỗi nước thành viên để tạo điều kiện hợp tác trong các 
tình huống xuyên biên giới. Bổ sung thông tin có sẵn trên trang web của bản đồ tư pháp 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
9 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
châu Âu trong vấn đề dân sự. Các nước thành viên phải thực hiện các luật, quy tắc và các 
quy định hành chính cần thiết để thực hiện theo chỉ thị này muộn nhất là tới 1/1/2006. 
b. Khung chung cảnh sát liên quan đến chương trình và hợp tác tư pháp trong 
các vấn đề hình sự (AGIS) 
Ngày 22 Tháng Bảy năm 2002 Hội đồng ban hành Quyết định số 2002/630/JHA về 
thành lập một chương trình khung về hợp tác cảnh sát và tư pháp trong các vấn đề hình sự 
(AGIS) 
Các nước thành viên tiến hành để tạo ra một khu vực an ninh, tự do và công bằng 
trong Liên minh châu Âu và đẩy mạnh hợp tác trong phòng, chống tội phạm có tổ chức. Ủy 
ban đề xuất một chương trình khung mới từ 1 tháng Giêng 2003 đến 31 tháng 12 năm 2007. 
Các mục tiêu chính của chương trình bao gồm: 
 Phát triển, thực hiện và đánh giá các chính sách châu Âu kết hợp với việc tạo ra các 
khu vực an ninh, tự do và công bằng và với đấu tranh phòng chống tội phạm; 
 Đẩy mạnh mạng lưới, hợp tác lẫn nhau và trao đổi thông tin và thực hành tốt nhất 
giữa các dịch vụ có thẩm quyền; 
 Khuyến khích hợp tác với các nước nộp đơn và các nước khác ngoài EU. 
Các dự án phải bao gồm các lĩnh vực cụ thể như hợp tác tư pháp và các vấn đề hình sự 
nói chung, hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật và các tổ chức khác tham gia phòng, 
chống tội phạm, và hỗ trợ cho các nạn nhân của tội phạm. 
Ủy ban có trách nhiệm quản lý và thực hiện chương trình, trong hợp tác với các nước 
thành viên và được hỗ trợ bởi một ủy ban gồm các đại diện của các nước thành viên. Ủy ban 
này được chủ trì bởi đại diện của Ủy ban, có thể mời đại diện từ các quốc gia nộp đơn đến 
các cuộc họp Uỷ ban thông tin sau khi các cuộc họp của các. 
2. Công nhận lẫn nhau 
Bên cạnh khung pháp luật chung, Liên minh còn hợp tác trong vấn đề Luật tố tụng 
hình sự bằng một hình thức nữa đó là công nhận lẫn nhau. Các vấn đề được các nước liên 
minh thông qua dưới hình thức này bao gồm: 
 Quyền giải thích và bản dịch trong tố tụng hình sự; 
 Thẩm quyền trong tố tụng hình sự: phòng ngừa và giải quyết xung đột; 
 Thừa nhận lẫn nhau các biện pháp giám sát; 
 Công nhận lẫn nhau trước khi xét xử giám sát measuresArchives; 
 Giấy Xanh công nhận lẫn nhau về cách thức giám sát không giam giữ trước khi xét 
xử; 
 Châu Âu bảo đảm bằng chứng (EEW); 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
10 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
 Giám sát của người bị kết án, người có ngày phát hành có điều kiện; 
 Thừa nhận lẫn nhau của câu giam giữ và các biện pháp tước quyền tự do; 
 Tính đến án tại các nước thành viên trong quá trình tố tụng hình sự mới; 
 Công nhận và thực hiện lệnh tịch thu; 
 Thừa nhận lẫn nhau về các hình phạt tài chính; 
 Thi hành lệnh đóng băng tài sản hoặc chứng cứ; 
 Châu Âu bảo đảm bắt giữ; 
 Hiệp định về các thủ tục đầu hàng giữa các thành viên EU, Iceland và Na Uy; 
 Công nhận quyết định trong vấn đề hình sự: tăng cường tin cậy lẫn nhau; 
 Giấy màu xanh lá cây trên giả định vô tội; 
 Thủ tục tố tụng hình sự: xung đột về thẩm quyền và nguyên tắc ne bis lũy đẳng 
(Green Paper); 
 Công ước về lái xe không đạt chuẩn. 
a. Châu Âu bảo đảm bắt giữ 
Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua một quyết định khung về các lệnh bắt giữ châu 
Âu và thủ tục đầu hàng giữa các nước thành viên. Quyết định làm đơn giản hóa và tăng tốc 
thủ tục, làm cho các giai đoạn chính trị và toàn bộ thủ tục hành chính được thay thế bằng một 
cơ chế tư pháp mới. Đó là Quyết định khung của Hội đồng 2002/584/JHA ngày 13 tháng 6 
năm 2002 về lệnh bắt giữ châu Âu và thủ tục đầu hàng được thỏa thuận giữa các nước thành 
viên. 
a.1. Sơ lược 
Các Hội đồng châu Âu họp tại Tampere từ 15-16 tháng 10 năm 1999 kêu gọi các 
nước thành viên thực hiện nguyên tắc công nhận lẫn nhau là nền tảng của một khu vực châu 
Âu bảo vệ pháp luật . Các lệnh bắt giữ châu Âu được đề nghị từ Ủy ban được thiết kế để thay 
thế hệ thống dẫn độ hiện hành bằng cách yêu cầu cơ quan tư pháp của mỗi quốc gia với một 
mức tối thiểu các thủ tục, yêu cầu đầu hàng của một người được thực hiện bởi các cơ quan tư 
pháp của một quốc gia thành. Tuy nhiên, các nước thành viên vẫn áp dụng các quyền tự do 
và ký kết thỏa thuận song phương hoặc đa phương ở chỗ là các hiệp định đó giúp đơn giản 
hóa hoặc tạo điều kiện cho các thủ tục đầu hàng hơn nữa. Việc áp dụng các thỏa thuận như 
vậy nên không có trong trường hợp ảnh hưởng đến quan hệ với các nước thành viên không 
được các bên cho họ. 
a.2. Nguyên tắc chung 
Quyết định định nghĩa "lệnh bắt giữ châu Âu" như bất kỳ quyết định tư pháp do một nước 
thành viên nhằm bắt giữ hoặc đầu hàng của một quốc gia thành viên của một người được yêu 
cầu, cho các mục đích: tiến hành truy tố hình sự; thực hiện giam giữ; thực hiện lệnh tạm 
giam. Và được bảo đảm áp dụng trong các trường hợp sau đây: 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
11 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
 Khi một bản án cuối cùng của án phạt tù hoặc bị giam giữ trật tự đã được áp đặt cho 
một khoảng thời gian ít nhất bốn tháng; 
 Cho hành vi phạm tội bị phạt tù hoặc bị giam giữ trật tự cho một thời gian tối đa ít 
nhất một năm. 
Các nước thành viên bổ nhiệm các thẩm quyền (ban hành và thực hiện) cơ quan tư 
pháp và thông báo cho Ban thư ký tổng hợp của Hội đồng cho phù hợp. Họ cũng có thể chỉ 
định một cơ quan trung ương chịu trách nhiệm về việc hỗ trợ các cơ quan tư pháp (hỗ trợ 
hành chính, bản dịch, vv.). Các lệnh bắt giữ châu Âu phải có các thông tin về danh tính của 
người có liên quan, các cấp thẩm quyền tư pháp, bản án cuối cùng, bản chất của hành vi 
phạm tội, hình phạt, 
a.3. Thủ tục 
Như một quy luật chung, các cơ quan có thẩm quyền truyền các lệnh bắt giữ châu Âu 
trực tiếp cho cơ quan tư pháp thực hiện. Cung cấp được thực hiện trong mối quan hệ hợp tác 
với các hệ thống thông tin Schengen (SIS) và với Interpol. Nếu thẩm quyền của nước thành 
viên thực hiện không được quy định, các nước thành viên ban hành lệnh bắt giữ này sẽ nhận 
được sự hỗ trợ của mạng lưới tư pháp châu Âu . Khi một cá nhân bị bắt giữ, anh / cô ấy phải 
được nhận thức được các nội dung của các lệnh bắt giữ và được hưởng các dịch vụ của một 
luật sư và thông dịch viên. Trong mọi trường hợp, cơ quan thực thi có thể quyết định tạm giữ 
cá nhân hoặc tạm thả anh / cô ấy với những điều kiện nhất định. 
Trong khi chờ quyết định, cơ quan thực hiện tuân theo pháp luật quốc gia mình. Các 
cơ quan tư pháp thực hiện phải đưa ra quyết định cuối cùng về việc thực hiện các lệnh bắt giữ 
châu Âu không quá 60 ngày sau khi bắt giữ. Nó sau đó ngay lập tức thông báo cho cơ quan ra 
quyết định thực hiện. Tuy nhiên, nếu thông tin được cung cấp bởi các cơ quan các cấp không 
có đủ thẩm quyền, cơ quan thực thi có thể yêu cầu thêm thông tin. 
 Bất kỳ thời gian giam giữ phát sinh từ thực hiện các lệnh bắt giữ châu Âu phải được 
trừ vào tổng thời gian bị tước quyền tự do áp đặt. Những người bị bắt có thể đồng ý với cô ấy 
hay tự thú hành vi của mình. Sự chấp thuận có thể không được thu hồi và phải tự nguyện 
trong mối liên hệ nhận thức đầy đủ về hậu quả.Trong trường hợp cụ thể, các cơ quan tư pháp 
thực hiện phải đưa ra quyết định cuối cùng về việc thực hiện các cam kết trong thời hạn mười 
ngày sau khi có sự đồng ý đã được đưa ra. 
a.4. Căn cứ để từ chối thực hiện một bảo đảm và từ chối đầu hàng 
Mỗi quốc gia thành viên có quyền từ chối thực thi một lệnh bắt giữ châu Âu nếu: 
 Phán quyết cuối cùng đã được thông qua bởi một nước thành viên khi người được yêu 
cầu đối với cùng một tội ; 
 Hành vi phạm tội được tha bổng bởi một lệnh ân xá trong các nước thành viên thực 
hiện; 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
12 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
 Người có liên quan có thể không được tổ chức chịu trách nhiệm hình sự của Nhà nước 
thực hiện do tuổi của mình. 
Trong một số trường hợp khác (ví dụ như khi bị truy tố hình sự hoặc hình phạt bị cấm 
theo pháp luật của nước thành viên hoặc khi một phán quyết cuối cùng đã được thông qua 
bởi một nước thứ ba đối với các hành động tương tự), các nước thành viên có thể từ chối việc 
thực hiện lệnh bắt giữ. Các nước thành viên cũng có thể từ chối thực hiện lệnh nếu đương sự 
đã không đích thân xuất hiện tại phiên toà, nơi quyết định đã được trả lại, trừ khi các biện 
pháp bảo vệ thích hợp được thực hiện. Trong mọi trường hợp căn cứ để từ chối phải được 
đưa ra. 
Quyết định khung cũng cung cấp cho khả năng nắm bắt hoặc bàn giao tài sản nhất 
định có thể sẽ được yêu cầu làm bằng chứng hoặc đã được mua lại như là kết quả của hành vi 
phạm tội. Về trình bày một số thông tin (liên quan đến lệnh bắt giữ, bản chất của hành vi 
phạm tội, bản sắc của người có liên quan, vv), mỗi nước thành viên phải cấp giấy phép vận 
chuyển quá cảnh qua lãnh thổ của mình của người yêu cầu những người này đang được đầu 
hàng. Thông tin này đảm bảo được dịch ra các ngôn ngữ chính thức của các nước thành viên 
thực hiện và được gửi bởi bất kỳ phương tiện nào và cho phép các nước thành viên thực hiện 
để xác định tính xác thực của nó. 
b. Châu Âu bảo đảm bằng chứng(EEW) 
Việc bảo đảm bằng chứng châu Âu (EEW) nhằm thay thế hệ thống tương trợ lẫn nhau 
trong các vấn đề hình sự giữa các nước thành viên để có được các đối tượng, tài liệu, dữ liệu 
để sử dụng trong thủ tục tố tụng hình sự. Quyết định thiết lập các thủ tục và biện pháp bảo vệ 
cho các nước thành viên, trong đó EEWs sẽ được ban hành và thực thi. Do đó, Hội đồng đã 
ban hành Quyết định khung số 2008/978/JHA ngày 18 tháng 12 năm 2008 về việc bảo đảm 
bằng chứng ở châu Âu với mục đích đạt được các đối tượng, tài liệu, dữ liệu để sử dụng 
trong thủ tục tố tụng trong các vấn đề hình sự. 
Sơ lược: 
Việc bảo đảm bằng chứng châu Âu (EEW) là một quyết định tư pháp, theo đó các đối 
tượng, tài liệu, dữ liệu có thể được lấy từ các nước thành viên khác. Các EEW được cấp có 
thẩm quyền được chỉ định bởi các nước thành viên. Một cơ quan cấp có thể là một thẩm 
phán, tòa án, điều tra thẩm phán, công tố viên công cộng hoặc cơ quan tư pháp khác. Các 
nước thành viên cũng phải chỉ định các cơ quan có thẩm quyền công nhận và cho thi hành 
EEW. Các EEW có thể được cấp để yêu cầu các đối tượng, tài liệu, dữ liệu từ các nước thành 
viên cho các loại sau đây của thủ tục tố tụng: 
 Thủ tục tố tụng hình sự mang theo hoặc sẽ được đưa ra trước một cơ quan tư pháp 
về hình sự theo pháp luật quốc gia của nhà nước phát hành; 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
13 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
 Thủ tục tố tụng được đưa ra bởi cơ quan hành chính đối với hành vi có thể bị trừng 
phạt theo pháp luật của nhà nước phát hành, nơi quyết định có thể làm phát sinh thủ tục tố 
tụng tòa án; 
 Thủ tục tố tụng được đưa ra bởi cơ quan tư pháp đối với hành vi đó là bị trừng phạt 
theo pháp luật của nhà nước phát hành, nơi quyết định có thể làm phát sinh thêm thủ tục tố 
tụng tòa án; 
 Tất cả các bên trên, đối với tội phạm mà nhà nước phát hành có thể trừng phạt hoặc 
tổ chức chịu trách nhiệm pháp nhân. 
Những cơ quan yêu cầu phải đảm bảo rằng các bằng chứng được yêu cầu là cần thiết 
và tương xứng cho các thủ tục tố tụng. Ngoài ra, việc mua lại các bằng chứng như vậy trong 
những hoàn cảnh tương tự trong các nhà nước đưa ra yêu cầu phải được quy định trong luật 
pháp quốc gia. Chỉ khi những điều kiện này được đáp ứng thì EEW có thể đó phải được ban 
hành. Khi cơ quan có thẩm quyền của một nhà nước phát hành có căn cứ hợp lý để tin rằng 
bằng chứng có liên quan nằm trên lãnh thổ của một nước thành viên, có thể truyền tải các 
EEW cho cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đó. Các EEW phải được truyền trực tiếp cho 
cơ quan thực hiện và theo cách đó để lại một biên bản. Để kết thúc quá trình này,quốc gia 
thành viên có thể chỉ định một hoặc nhiều cơ quan trung ương sẽ hỗ trợ các cơ quan có thẩm 
quyền. Các nước thành viên cũng có thể tận dụng lợi thế của hệ thống viễn thông an toàn 
của mạng lưới tư pháp châu Âu cho việc truyền EEWs. 
Cơ quan thực hiện sẽ có những biện pháp cần thiết để thực hiện các EEW, trừ khi nó 
quyết định gọi một mặt bằng không công nhận, không thực hiện hoặc trì hoãn. Khi EEW 
không được cấp hoặc xác nhận bởi một thẩm phán, tòa án, điều tra thẩm phán, công tố viên, 
các cơ quan thực thi có thể quyết định không thực hiện một tìm kiếm hoặc tịch thu để thực 
hiện đảm bảo. Tuy nhiên, nó phải tham khảo ý kiến các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước 
phát hành trước khi một quyết định. Các nước thành viên có thể tuyên bố rằng họ cần xác 
nhận như vậy khi các biện pháp thực hiện trong một trường hợp tương tự trong nước phải 
được đặt hàng, giám sát của một thẩm phán, tòa án, điều tra thẩm phán hoặc công tố công 
cộng theo pháp luật của mình. Nếu không quy định khác trong quyết định khung, các cơ quan 
thi hành được thực hiện theo thủ tục chỉ định của cơ quan phát hành. Tuy nhiên, các thủ tục 
có thể không mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nhà nước thực hiện. 
Nhà nước thực hiện có thể từ chối công nhận hoặc thực hiện các EEW trong vòng 30 ngày 
nhận được nó nếu: 
 thực hiện hành vi vi phạm các nguyên tắc ne bis lũy đẳng; 
 trong một số trường hợp quy định tại quyết định khung, hành động không phải là một 
hành vi phạm tội theo luật pháp quốc gia; 
 thực hiện là không thể với các biện pháp có sẵn cho cơ quan thực hiện trong trường 
hợp cụ thể; 
 có một khả năng miễn dịch hoặc đặc quyền theo pháp luật của nhà nước thực hiện mà 
làm cho nó không thể thực hiện; 
 nó đã không được xác nhận bởi một thẩm phán, tòa án, thẩm phán điều tra hoặc công 
tố viên công cộng tại các tiểu bang phát hành khi có yêu cầu; 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
14 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
 hành vi phạm tội đã được cam kết trên lãnh thổ của nhà nước thực hiện hoặc ngoài 
nhà nước phát hành hợp pháp luật của nhà nước thực hiện không cho phép đối với thủ tục 
tố tụng pháp lý; 
 nó sẽ gây tổn hại lợi ích an ninh quốc gia; 
 hình thức không đầy đủ hoặc không chính xác hoàn thành. 
Các cơ quan lưu giữ bằng chứng trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được EEW, trừ 
khi có căn cứ cho hoãn. Các nước thành viên phải đảm bảo rằng tất cả các bên quan tâm có 
thể truy cập đến các biện pháp pháp lý chống lại việc công nhận và thực hiện một 
EEW. Những biện pháp có thể được giới hạn trong trường hợp biện pháp cưỡng chế được sử 
dụng. Các hành động này được đưa ra trước tòa án ở bang thực hiện, tuy nhiên, những lý do 
đáng kể cho việc phát hành EEW chỉ có thể được đưa ra trước tòa án ở bang phát hành. 
c. Thủ tục tố tụng hình sự: xung đột về thẩm quyền và nguyên tắc ne bis lũy đẳng 
(Green Paper) 
Thông qua Giấy Green Ủy ban châu Âu đang đưa ra tham khảo rộng rãi ý kiến của các 
bên quan tâm về các vấn đề xung đột về thẩm quyền giữa các tòa án của các nước thành viên 
trong các vấn đề hình sự. Các giấy xanh cũng xem xét các nguyên tắc ne bis-lũy đẳng. 
c.1. Sơ lược 
Các giấy Green trình bày một quá trình phản ánh về những xung đột về thẩm quyền 
giữa các tòa án của các nước thành viên trong các vấn đề hình theo nguyên tắc của các bis ne. 
Để giải quyết xung đột về thẩm quyền giữa các tòa án quốc gia, Ủy ban đã phác thảo các khả 
năng cho việc tạo ra một cơ chế phân bổ các trường hợp đến một thẩm quyền xét xử thích 
hợp. Nếu truy tố đã được tập trung vào một thẩm quyền duy nhất, những người có liên quan 
sẽ không có khả năng đang được thực hiện nhiều lần cùng một tội ở nước khác nhau. Ủy ban 
cho rằng một cơ chế mới sẽ bổ sung các nguyên tắc công nhận lẫn nhau. 
c.2. Phân bổ Vụ Nhà nước: 
Các cơ chế mới sẽ bao gồm các giai đoạn sau đây: 
 Xác định và thông báo cho các bên cố liên quan. Một nhà nước của quốc gia thành 
viên đã bắt đầu hoặc bắt đầu truy tố hình sự trong một trường hợp mà thể hiện tính liên kết 
đáng kể cho một quốc gia thành viên phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Nhà 
nước mà thành viên khác. Nó có thể được dự kiến rằng thông tin này cần được cung cấp 
trong một thời gian nhất định. Nếu không có quốc gia thành viên thể hiện sự quan tâm trong 
việc truy tố những trường hợp còn nghi vấn, Nhà nước bắt đầu có thể tiếp tục truy tố các 
trường hợp không có tư vấn, trừ khi sự kiện mới thay đổi hoàn toàn vụ án. 
 Tư vấn và thảo luận. Nếu hai hoặc nhiều nước thành viên quan tâm đến việc truy tố 
những trường hợp đó, nhà chức trách có thẩm quyền tương ứng của họ sẽ có thể kiểm tra 
"nơi tốt nhất" để khởi tố vụ án. Một lựa chọn sẽ được đưa ra để tạo ra một nhiệm vụ hoặc để 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
15 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
tham gia vào các cuộc thảo luận. Nếu cần thiết, các nước thành viên có thể yêu cầu sự hỗ trợ 
của Eurojus t hoặc các cơ chế hỗ trợ khác Union. 
 Giải quyết tranh chấp. Trường hợp thỏa thuận không đi đến kết luận, Eurojust hoặc 
một cơ chế mới được thành lập để giải quyết tranh chấp có thể giúp các nước thành viên có 
liên quan để đạt được một thỏa thuận tự nguyện xét đến các lợi ích liên quan đến sử dụng các 
tiêu chí nêu trong các giấy Green. Ủy ban cũng xem xét các khả năng của cơ thể ở cấp độ EU 
được trao quyền để có một quyết định ràng buộc như với phán quyết thích hợp nhất. 
 Thành lập một cơ chế phân bổ nâng cao sự cần thiết phải trao đổi thông tin hiệu quả 
giữa các cơ quan liên quan trong các nước thành viên. Một khi họ nhận thức được rằng thủ 
tục tố tụng đang được tiến hành trong một quốc gia thành viên, các nhà chức trách truy tố của 
một quốc gia thành viên phải có khả năng ngăn chặn một vụ công tố đang có khả năng xảy 
ra. Ủy ban thừa nhận rằng có thể nâng cao các vấn đề về trình tự pháp luật của Quốc gia 
thành viên tuân thủ các nguyên tắc truy tố bắt buộc, hay nói cách khác, nơi các nhà chức 
trách có nhiệm vụ truy tố tất cả các tội phạm đó thuộc thẩm quyền của họ theo. Giấy Green 
đề xuất một ngoại lệ cho việc áp dụng nguyên tắc này có thể được cung cấp, vì nó hợp lệ có 
thể được lập luận rằng trong một khu vực chung về an ninh, tự do và công bằng nguyên tắc 
này được thỏa mãn khi một nước thành viên truy tố như một trường hợp. 
c.3. Chọn các quốc gia thành viên tốt nhất để truy tố. 
Trong giai đoạn trước khi xét xử, cơ chế tập trung vào các cấp có thẩm quyền truy tố. 
Sau đó sẽ thảo luận về các vấn đề thẩm quyền xét xử với những cá nhân có liên quan thường 
có thể tiết lộ sự thật có thể gây nguy hiểm cho việc truy tố, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích 
của nạn nhân và nhân chứng. Cho dù như vậy nguy cơ có một trường hợp cụ thể có thể được 
để lại cho Toà án quốc gia sẽ được quyết định. Không giống như trong giai đoạn trước khi 
xét xử, ở giai đoạn thử nghiệm một tòa án quốc gia nhận được một lời buộc tội của một bản 
cáo trạng thường xem xét liệu nó có thẩm quyền để thử các trường hợp. Ủy ban đang đề xuất 
rằng các nước thành viên nên được yêu cầu để kiểm tra xem nó là tốt nhất để truy tố. Tư pháp 
xem xét sau đó sẽ lên chỉ để xét xử về việc liệu các nguyên tắc của hợp lý và đúng thủ tục đã 
được tôn trọng. Một sự lựa chọn của các thẩm quyền như vậy có thể được đặt sang một bên 
bởi các tòa án có thẩm quyền nếu nó phát hiện ra rằng sự lựa chọn thực hiện được tùy ý trên 
cơ sở học thuyết được biết đến trình tự pháp lý quốc gia của các nước thành viên, ví dụ như 
lạm dụng quá trình. Các câu hỏi về việc giải thích các quy định Liên minh toàn cầu, bao gồm 
cả pháp luật về cơ chế thủ tục đề xuất và các tiêu chí cho việc lựa chọn các thẩm quyền, có 
thể được trình lên Tòa án Tư pháp châu Âu (ECJ) để phán quyết sơ bộ CJEC). 
Cùng với cơ chế phân bổ, Ban đang đề nghị một khoản EU sẽ bắt buộc các nước thành 
viên tập trung vào thủ tục tố tụng cùng một vụ án trong một "hàng đầu" thẩm quyền. Các tiêu 
chí để xác định nhà nước hàng đầu sẽ bao gồm lãnh thổ, các nạn nhân quyền lợi, tiêu chuẩn 
liên quan đến hiệu quả của thủ tục tố tụng,... Các quy tắc ưu tiên có thể là, khi truy tố một là 
đưa vào một tòa án quốc gia, các thành viên các quốc gia khác phải tạm dừng hoặc đình chỉ 
liên tục tố tụng. 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
16 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
c.4. Tư pháp về xem xét lại. 
Các cá nhân có liên quan phải có khả năng nộp đơn xin xem xét lại quyết định bố trí 
các trường hợp để các nước thành viên, đặc biệt là giao cho một thẩm quyền cụ thể thông qua 
một thỏa thuận ràng buộc, bởi vì các hiệp định đó sẽ giới hạn khả năng của các nước thành 
viên có liên quan đến tố cáo việc giao thẩm quyền xét xử tại giai đoạn sau. Các câu hỏi của 
tổng tư pháp trong trường hợp không có thỏa thuận ràng buộc có thể được để lại theo quyết 
định của các nước thành viên và pháp luật quốc gia của họ. 
III. So sánh với pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam 
Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với mục đích điều chỉnh các 
vấn đề trong tố tụng hình sự đã ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung 
vào năm 2006, 2007. Là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật tố 
tụng hình sự là tổng thể các quy phạm pháp luật đ iều chỉnh các quan hệ xã hộ i phát s in h 
t rong q uá trình khởi tố, điều tra, truy t ố, xét xử và chấp hành án hình sự. Đối tượng điều 
chỉnh của luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ 
án hình sự giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Quan hệ pháp luật tố tụng 
hình sự có các đặc điểm: 
 Mang tính chất quyền lực nhà nước, Liên quan mật thiết tới quan hệ pháp luật 
hình sự. 
 Liên quan hữu cơ tới các hoạt động tố tụng hình sự. 
Phương pháp điều chỉnh của lu ật tố tụng hình sự là phương pháp quyền uy và 
phố i h ợp, cưỡng chế lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để điều chỉnh các quan hệ 
pháp luật tố tụng hình sự. 
Với vai trò là một Liên minh, pháp luật tố tụng hình sự của EU có những điểm khác 
biệt rất lớn so với pháp luật Việt Nam. Đặt trong mối tương quan so sánh có thể rút ra được 
các điểm khác nhau cơ bản sau: 
Thứ nhất, về đối tượng, Luật tố tụng hình sự Việt Nam điều chỉnh những quan hệ xã 
hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật 
tố tụng hình sự còn Luật tố tụng hình sự của Liên minh Châu Âu không điều chỉnh tất cả 
những quan hệ đó mà nó điều chỉnh sự hợp tác, công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia thành 
viên trong việc thực hiện các vấn đề có liên quan sao cho thống nhất, tiến từ hài hòa hóa đến 
nhất thể hóa. 
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh, Luật tố tụng hình sự Việt Nam sử dụng phương 
pháp quyền uy và phối hợp, sử dụng cưỡng chế nhà nước là chính, đây cũng là đặc điểm 
riêng có của các quan hệ hình sự và quan hệ tố tụng của các quốc gia. Còn luật tố tụng hình 
sự Châu Âu sử dụng sự cưỡng chế liên minh và cưỡng chế của các quốc gia đối với các đối 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
17 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
tượng và vụ việc hình sự cụ thể. Các quyết định của Hội đồng có hiệu lực trực tiếp đối với 
các quốc gia thành viên được xác định trong quyết định đó. 
Thứ ba , về hình thức, thì Luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có một bộ luật thống nhất 
với đầy đủ tất cả các quy định như điều tra, khởi tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thi hành án 
hình sự... còn Luật tố tụng Liên minh Châu Âu mặc dù đã đặt tới nhất thể hóa trong rất nhiều 
lĩnh vực nhưng vẫn chưa tìm được tiếng nói chung để cho ra đời một bộ luật thống nhất. Đã 
có rất nhiều ý tưởng, thậm chí là các bản dự thảo cho một bộ luật tố tụng hình sự của Liên 
minh Châu Âu nhưng tất cả mới chỉ dừng lại ở đó, chưa có một bộ luật tố tụng hình sự thống 
nhất trên toàn Châu Âu. Do đó, hình thức chủ yếu lúc này của Luật Tố tụng hình sự Châu Âu 
là các quyết định, chỉ thị của Hội đồng Châu Âu điều chỉnh các vấn đề nhất định của Luật 
này. 
Cấu trúc pháp luật của một liên minh hoàn toàn khác với cấu trúc pháp luật của một 
quốc gia thống nhất, bởi lẽ để có một Liên minh hoàn toàn thống nhất thì các quốc gia thành 
viên sẽ còn phải làm rất nhiều thứ. Từ lý do này, việc Luật Tố tụng hình sự của Liên mình 
Châu Âu có những điểm khác biệt lớn so với Luật tố tụng hình sự Việt Nam là điều hoàn 
toàn dễ hiểu. 
KẾT LUẬN 
Tìm hiểu một vấn đề mang tính quốc tế không phải đơn giản, dễ dàng, hơn thế nữa 
là một vấn đề mang tính pháp lý với nhiều khía cạnh. Thông qua việc tìm hiểu về các nội 
dung pháp lý cơ bản của Luật tố tụng hình sự Liên minh Châu Âu đã giúp các thành viên 
trong nhóm có được một cái nhìn bao quát hơn về vấn đề này. Bên cạnh đó, nhờ có sự so 
sánh với pháp luật Việt Nam, chúng ta cũng có thể rút ra được một số điểm còn hạn chế của 
Luật Việt Nam để từ đó có những khắc phục, sửa đổi, hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp 
luật nói chung và luật Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng. 
Do kiến thức còn có hạn, tài liệu tham khảo cũng có phần giới hạn về mặt ngôn ngữ, 
bài viết của nhóm không tránh khỏi các sai sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của 
các thầy cô. Chúng em xin chân thành cảm ơn! 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Các webside: 
Nhóm D2-2 Lớp QT33D – Bài tập nhóm tháng 2 
18 
Pháp luật Liên minh Châu Âu 
1.
riminal_matters/index_en.htm. 
2.
riminal_matters/l33174_en.htm. 
3.
riminal_matters/l14583_en.htm. 
4.
riminal_matters/l33177_en.htm. 
5.
riminal_matters/jl0018_en.htm. 
6.
riminal_matters/l33167_en.htm. 
7.
riminal_matters/jl0015_en.htm. 
8.
riminal_matters/l16011_en.htm. 
9.
riminal_matters/l16011_en.htm. 
10. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. 
Nhóm D2-2 xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy Lê Minh Tiến và 
các thầy cô tổ bộ môn Liên minh Châu Âu đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài tập này. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bt_nhom_lm_chau_au_2_8849.pdf bt_nhom_lm_chau_au_2_8849.pdf