Chính trị và phát triển xã hội là một phạm trù của chính trị học, nó ra đời và phát
triển cùng với sự ra đời và phát triển của chính trị
Phát triển xã hội tiếp cận từ góc độ chính trị học là cách tiếp cận cơ bản trong
điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong điều kiện đó chính trị có vai trò dường
như quyết định xu hướng, phương thức hình thành thể chế nhà nước và do đó quyết định
sự phát triển của thực tiễn. Chính trị chi phối mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã
hội thậm chí cả tinh thần, tôn giáo, đạo đức, pháp luật.
Một thể chế chính trị tiếp cận và phản ánh đúng các quy luật phát triển khách
quan của kinh tế, chính trị, xã hội sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, khắc phục được những sai
lầm chính trị. Mặt khác một nền chính trị dựa trên nhận thức chủ quan, duy ý chí về nhận
thức thế giới sẽ dẫn đến những khó khăn, thất bại thậm chí thụt lùi, tụt hậu.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2781 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính trị và phát triển xã hội - Con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận:
Chính trị và phát triển xã hội - con
đường phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta
Mở đầu
Phát triển, từ lâu là phạm trù được các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau
quan tâm nghiên cứu, luận giải nhằm cung cấp phương pháp luận khoa học giúp cho các
quốc gia dân tộc tìm kiếm mô hình, lựa chọn hình thức và bước đi cho dân tộc mình,
đồng thời tránh được những vấp váp, sai lầm trong quá trình đi lên.
Chính trị và phát triển xã hội là bộ phận cấu thành của chính trị học và của khoa
học chính trị. Trong quá trình phát triển của nhân loại, từ khi xã hội hình thành các lợi ích
khác nhau, thì đồng thời tư tưởng chính trị, khoa học chính trị hình thành và luôn luôn là
nhân tố có ý nghĩa trực tiếp tác động đến quá trình phát triển xã hội. Và lịch sử đã chứng
minh vai trò to lớn của mối quan hệ chính trị và phát triển xã hội trong sự dẫn dắt xã hội
loài người trên con đường phát triển của mình.
Lịch sử đã ghi nhận các thể chế chính trị dựa trên các quan điểm chính trị khoa
học, nắm vững và vận dụng các quy luật tự nhiên và xã hội trong phát triển, đã đưa đến
sự phát triển ngoạn mục của các nền văn minh như cổ đại Hy Lạp, Trung Quốc, ấn Độ cổ
đại, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ phục hưng và các giá trị XHCN hiện thực. Đồng thời
lịch sử cũng chứng kiến sự xuất hiện của các đêm dài lịch sử, cái quái thai chính trị đã
đưa nhân loại đến sự huỷ diệt và thất bại như chính trị phong kiến trong đêm dài trung cổ;
chủ nghĩa phát xít hay chế độ Khơ me đỏ ở Campuchia. ở trong phạm vi các quốc gia
dân tộc nhỏ, yếu, đang phát triển thì nghiên cứu chính trị và phát triển xã hội có một ý
nghĩa rất quan trọng nhằm tiếp cận phương pháp luận khoa học để xây dựng chiến lược,
quyết sách chính trị đúng đắn đưa đất nước đi lên.
Với ý nghĩa đó, sau khi nghiên cứu lý luận về chính trị và phát triển xã hội. Học
viên chọn viết tiểu luận có nội dung: " Chính trị và phát triển xó hội - con đường phát
triển theo định hướng XHCN ở nước ta " nhằm tiếp cận lý luận chung về chính trị và
phát triển xã hội để nhìn nhận con đường đi lên theo định hướng XHCN ở nước ta và đề
xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế chính trị, hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay.
Chương 1
Phát triển và mối quan hệ chính trị
và phát triển xã hội
1.1. Phát triển xã hội - cách tiếp cận
1.1.1. Phát triển: Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, do những điều
kiện khác nhau về lịch sử, địa lý, trình độ của lực lượng sản xuất và các yếu tố về văn
hoá, chính trị chi phối làm cho các quốc gia phát triển không đồng đều. Hình thành nên
các khái niệm dùng để chỉ trình độ phát triển khác nhau đó như: các nước phát triển, các
nước đang phát triển, các nước chậm phát triển và xuất hiện nhiều phạm trù, khái niệm,
quan điểm khác nhau đi cùng các khái niệm chỉ trình độ phát triển khác nhau đó.
Nhìn vào điều kiện địa lý tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, thoạt đầu nhiều học giả
cho rằng, sự thịnh vượng, giàu có của các quốc gia, dân tộc phụ thuộc vào điều kiện địa
lý, tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên do thiên nhiên ban tặng như rừng vàng, biển bạc, đất
phì nhiêu..., quan niệm đó đã đúng trong thời kỳ văn minh nông nghiệp, đồng thời là điều
kiện thuận lợi cho các quốc gia dân tộc nói chung trong lịch sử. Tuy nhiên trong điều
kiện của nền văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp và văn minh tin học thì
điều kiện tự nhiên không phải là yếu tố quyết định sự phát triển. Vì lịch sử đã chứng
minh một Nhật Bản thần kỳ đi lên trong điều kiện nghèo nàn về tài nguyên hay một
Singapo nhỏ bé cũng vậy.
Đứng trên quan điểm về nhân chủng học, dân tộc học, nhiều học giả lý giải sự
phát triển phụ thuộc vào chủng tộc, cho rằng da trắng là chủng tộc có trình độ cao nhất
còn da màu chậm phát triển, chịu sự chi phối của da trắng... quan niệm phân biệt chủng
tộc A-Pac-Thai cũng là một nhận thức phản khoa học, phản lịch sử.
Chủ nghĩa kỹ trị, đề cao tuyệt đối vai trò của khoa học kỹ thuật, cho rằng trình độ
công cụ sản xuất quyết định sự phát triển xã hội, quan điểm này đúng khi xét nó trong
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng lược quy tuyệt đối hoá nó thì
chưa đủ và còn phiến diện.
Triết học, tiếp cận phát triển như là một quá trình vận động tự nhiên của sự vật,
hiện tượng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
theo những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Xã hội học tiếp cận phát triển - coi xã hội là một chỉnh thể bao gồm các nhóm xã
hội cấu thành xã hội, do đó phát triển xã hội là quá trình làm thay đổi các cơ cấu xã hội
phù hợp với nhu cầu phát triển khách quan của xã hội (như làm thay đổi các cơ cấu về lao
động, về trình độ tay nghề; về học vấn, thu nhập...).
Xã hội học còn nghiên cứu sự phát triển trong mối quan hệ công bằng xã hội với
nhận thức rằng phát triển chính là khả năng nhận được về phúc lợi tương xứng với sự hao
phí nguồn lực bỏ ra.
Tất cả các cách tiếp cận trên về phát triển phản ánh trình độ nhận thức khác nhau
của con người trong quá trình đi lên của lịch sử và đó là tiền đề đi tới nghiên cứu sự phát
triển xã hội trong điều kiện xã hội đã xuất hiện quyền lực chính trị.
1.1.2. Phương pháp tiếp cận của chính trị học về phát triển
- Các nhà chính trị học mác xít quan niệm rằng con người chính là một bộ phận
của giới tự nhiên. Con người xuất hiện là nấc thang cao nhất của sự tiến hoá của tự nhiên
và con người trở thành nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, mặc dù sự phát triển của
xã hội cũng là quá trình lịch sử tự nhiên - lôgíc nằm ngoài ý muốn của con người, nhưng
đó là quá trình phát triển thông qua hoạt động có ý thức của con người nên con người giữ
vị trí quyết định sự phát triển xã hội.
Từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước, con người tồn tại với tư cách là một thực
thể chính trị, là chủ thể quyền lực nhà nước. Từ đó con người luôn luôn có khát vọng và
đấu tranh không mệt mỏi vì khát vọng vươn tới tự do, thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tự
nhiên và vươn lên chinh phục tự nhiên "mỗi bước tiến trên con đường văn minh là một
bước tiến tới tự do"(1) hay "Phát triển là một quá trình làm cho con người hoàn thiện nhân
cách của mình, tự tin ở chính mình, là quá trình giải phóng các cư dân thoát khỏi sự lo âu về
nhu cầu, về sự bóc lột và đẩy lùi sự áp bức về chính trị, kinh tế, xã hội" (2).
Như vậy, chính trị học nhìn nhận sự phát triển xã hội dựa trên quan điểm lấy con
người là trung tâm. Phát triển xã hội chính là quá trình tạo lập các điều kiện phát triển của
con người, cho người về kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị... Vươn tới sự thoả mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và xã hội loài người.
Như vậy, phát triển xã hội là sự vận động có định hướng của quốc gia, dân tộc
trên thế giới nhằm đạt được sự tiến bộ về tăng trưởng kinh tế, công bằng dân chủ, nhân
văn, hạnh phúc hay: "phát triển là một quá trình hướng tới việc thiết lập một nền dân chủ
ổn định cho phép không ngừng nâng sống cho quần chúng nhân dân theo một cách thức
mang tính nhân văn và công bằng. Nói cách khác phát triển là một quá trình tiến hóa
đồng bộ của và năm thành tố cơ bản: tăng trưởng, kinh tế, ổn định, công bằng, dân chủ và
quyền con người". (B.Gali - TTK - LHQ).
Để đi tới một xã hội phát triển theo quan điểm chính trị lấy con người làm trung
tâm. Các Quốc gia phải phấn đấu hiện thực hoá các tiêu chí của sự phát triển xã hội là:
1. Tiêu chí tham gia. Chính là mức độ tham gia của nhân dân vào các công việc
của nhà nước và xã hội với tư cách là chủ thể của các công việc đó. Muốn vậy, chế độ
dân chủ phải được xác lập, ngày càng mở rộng và trở thành hiện thực của đời sống.
2. Tiêu chí đồng thuận xã hội. Chính là hệ quả của quá trình được tham của của
nhân dân vào các công việc nhà nước và xã hội, làm cho các nhóm xã hội và công dân
tham gia vào các hoạt động một cách tự giác, do sự tương đồng về lợi ích của họ quy
định. Đồng thuận xã hội được coi là chìa khoá cho phát triển xã hội.
1.3. Những nội dung cơ bản của chính trị và phát triển xã hội
Cho đến nay, khoa học chính trị đã nghiên cứu và tiếp cận phát triển xã hội dựa
trên ba thành tố cơ bản sau đây.
1.3.1. Phát triển kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường, cho đến nay, được hầu hết các nhà nghiên cứu Đông, Tây cơ
bản thống nhất thừa nhận đó là thành tựu của sự phát triển nhân loại. Chính kinh tế thị
trường đã tạo tiền đề cho chính bản thân con người nhận thức đầy đủ hơn về chính chủ
nghĩa và xã hội loài người. Kinh tế thị trường từ khi xuất hiện, chỉ trong vòng 300 năm
đã tạo ra số của cải xã hội bằng toàn bộ các xã hội trước đó cộng lại, và ngày nay chỉ
trong vòng 20 đến 30 năm, của cải thế giới tăng gấp đổi. Dưới tác động của kinh tế thị
trường, giác quan của con người được nối dài và mở rộng, làm cho trái đất thậm chí vũ
trụ trở nên nhỏ bé và chật hẹp. Con người với tư cách là cơ thể sống cá nhân có điều kiện
để nhận được nhiều nhất phúc lợi xây dựng tương ứng với khả năng của họ.
Những giá trị chi phối của kinh tế thị trường bao gồm: Sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu TLSX và trí tuệ.
Đó là sự tất yếu, do quy luật phát triển không đều của xã hội loài người và đặc
điểm lịch sử cụ thể, xuất phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội, các quốc gia, dân
tộc quy định. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu TLSX cũng có nghĩa là thừa nhận một
cách tự nhiên sở hữu cá nhân như là cơ sở đầu tiên của sự phát triển xã hội và còn tồn tại
khách quan lâu dài trong các chế độ xã hội khác nhau.
Đa dạng hoá sở hữu trí tuệ cũng là tất yếu khách quan khi trí tuệ. Với tư cách là
sức vóc. Thần kinh của cá nhân đã được tích hợp thành sản phẩm trí tuệ và tồn tại ngoài
đầu óc con người với tư cách là hàng hoá sản phẩm trí tuệ. Kinh tế thị trường với sự đa
dạng hoá sở hữu TLSX và trí tuệ sẽ tiếp tục góp phần làm cho LLSX xã hội phát triển
mạnh mẽ. Tạo vận hội mới cho các quốc gia dân tộc trên con đường phát triển.
- Quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh. Đó là cơ sở động lực để phát triển xã
hội. Kinh tế thị trường xác định nhu cầu đầu tư từ nhu cầu xã hội và khai thác tối đa tri
thức cá nhân và tri thức nhân loại trong cạnh tranh nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho chủ
thể kinh doanh và đóng góp cho xã hội để đạt được yêu cầu đó phải có hệ thống luật pháp
và thực thi luật pháp một cách bình đẳng.
- Xác định vai trò của nhà nước trong cơ chế thị trường, chính là thể chế hoá cơ
chế kinh tế thị trường phù hợp mục tiêu chính trị và bản chất nhà nước, tuy nhiên nhà
nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của chủ thể tham gia thị trường. Các quan hệ kinh tế được xác lập trên cơ sở các hợp
đồng.
Tuy vậy, nhưng kinh tế thị trường vẫn không phải là chìa khoá vạn năng mà là
điều kiện cần thiết cho sự phát triển xã hội. Kinh tế thị trường nếu không được nghiên
cứu vận dụng vào kinh doanh lịch sử của nền sản xuất xã hội, không xác định hợp lý vai
trò của nhà nước thì tự nó có thể trở thành con ác quỉ, chi phối vào mọi mặt của đời sống
xã hội và văn hoá, tạo ra những lực cản của tiến bộ xã hội nhân loại đã chứng kiến sự
can thiệp của thị trường vào chính trị, phá hoại sự ổn định chính trị của nhiều nước trên
thế giới, kinh tế thị trường tác động vào lòng tham của con người, làm băng hoại đạo đức
xã hội, quan hệ gia đình làm mất bản sắc văn hoá dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá v.v.
Vì vậy, việc nhận thức đúng các quy luật của nền kinh tế thị trường, thể chế hoá
cơ chế vận hành của kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của mối quốc gia là
rất quan trọng để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Mọi
sự từ chối của chính trị đối với kinh tế thị trường là sai lầm và thất bại.
1.3.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp
đến sự phát triển xã hội
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài và trong mỗi
giai đoạn nhất định của lịch sử loài người đã dựng lên trên bề mặt xã hội các kiểu nhà
nước khác nhau đại biểu cho lợi ích giai cấp của các giai cấp thống trị xã hội như chủ nô,
phong kiến, tư bản và XHCN. Bên cạnh sự khác nhau trong bản chất của các nhà nước thì
tư tưởng pháp quyền đã được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử, về đến giai
đoạn CNTB, cùng với sự ra đời và vận hành kinh tế thị trường. Các quốc gia phát triển đã
xây dựng được các thể chế nhà nước pháp quyền định hướng xã hội theo các nguyên tắc
cơ bản là:
- Là nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân.
- Hoạt động của các thể chế nhà nước tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch.
- Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật đóng vai trò tối thượng, ngự trị trong đời
sống xã hội, phản ánh ý chí của nhân dân. Tôn trọng và bảo vệ các quyền thiêng liêng của
cá nhân như quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc - quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc! Đó là những giá trị chung mà nhân loại
phấn đấu để đi tới.
- Trong nhà nước pháp quyền để đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân, ngăn
chặn sự tha hoá và kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
và nhân quyền giữa ba bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước là lập pháp - hành
pháp - tư pháp.
1.3.3. Xây dựng xã hội công dân là một yếu tố cho sự phát triển bền vững
Theo quan niệm của Mác, xã hội công dân là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự
của mọi cuộc cách mạng. Nghĩa là xét về logic phát triển loài người đi từ con người công
dân (cá thể) tới con người xã hội và cuối cùng đi tới con người xã hội tự quản.
Mọi cuộc cách mạng cuối cùng phải đi tới xã hội công dân.
Vậy xã hội công dân được hiểu là hệ thống các tổ chức các cộng đồng công dân
và quan hệ giữa chúng nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với
hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời nó phối hợp với nhà
nước trong quá trình tìm kiếm các phương thức tối ưu cho sự phát triển xã hội.
Cấu trúc của xã hội công dân bao gồm toàn bộ các tổ chức của công dân ngoài
nhà nước, ngoài cơ sở SXKD và lớn hơn gia đình. Theo cách tiếp cận cấu trúc này thì xã
hội công dân phản ánh sự đa dạng các hình thức đáp ứng nhu cầu của công dân trong xã
hội ngoài nhà nước, ngoài cơ sở sản xuất kinh doanh một cách tự nguyện - nghĩa là công
dân tổ chức ra những nhóm xã hội - lợi ích, làm những việc cho mình mà nhà nước
không cấm.
Nguyên tắc hoạt động của xã hội công dân là;
- Tự nguyện
- Tự chủ về tài chính
- Tự quản
Phương thức hoạt động của XHCD là phi lợi nhuận, phi hành chính.
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội công dân có vai trò tích cực là nói lưu giữ
các kỹ năng sản xuất và tổ chức sản xuất. Như các làng nghề truyền thống, các hội nghề
nghiệp là những tổ chức lưu giữ và truyền bá kinh nghiệm sản xuất quản lý từ đời này
sang đời khác mà nhà nước không thể làm được. Xã hội công dân góp phần định hướng,
kiểm soát quá trình phát triển của thị trường, bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển
bền vững. Xã hội công dân phát huy sự sáng tạo, phát triển và giữ gìn các giá trong văn
hoá, nhân văn, phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng dân cư.
Trong nhà nước pháp quyền, xã hội công dân bảo đảm cho sự ổn định xã hội, bảo
đảm cho sự phát triển bền vững. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng
tự quản của công dân, làm cho các quan hệ xã hội lành mạnh.
Như vậy, mặc dù không phải là chìa khoá vạn năng, không phải là nhất thành bất
biến nhưng ba trụ cột:
Kinh tế thị trường
Nhà nước pháp quyền
Xã hội công dân
Là sự phản ánh trình độ phát triển về chất các nhân tố của sự phát triển xã hội. Là
cơ sở phương pháp chọn, vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi nước trong quá trình
phát triển.
Chương 2
Đổi mới nhận thức về con đường phát triển xã hội theo định hướng XHCN ở nước
ta
2.1. Bối cảnh
Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ của LLSX đang ở giai đoạn thấp.
Nền kinh tế còn mất cân đối. Trong thời kỳ quá lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa chúng ta có những thuận lợi và khó khăn hiện thực.
2.1.1. Về thuận lợi, đó là tư duy đổi mới đã bắt đầu ăn sâu vào nhận thức và
hành vi của con người, là cơ sở cho sự đồng thuận xã hội dựa trên tư tưởng đồng lợi ích
tổng thể đã được xác định thành mục tiêu chung là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh".
- Thành tựu 20 năm đổi mới đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về
kinh tế xã hội. Đồng thời cho ta nhiều bài học quý giá trong tổ chức, trong quản lý đất
nước và xã hội.
- Quá trình hội nhập vào các cơ cấu của nền chính trị và kinh tế thế giới giành
được nhiều thành tựu quan trọng, thế và lực của nước ta đã từng bước được nâng cao trên
trường Quốc tế.
2.1.2. Về khó khăn thách thức
Những nguy cơ của đất nước đã được đại hội Đảng các khoá VII, VIII, IX, X
tổng kết vẫn còn nguyên giá trị đặc biệt là nguy cơ về sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực và trên thế giới là thách thức cơ bản và lớn nhất.
- Quốc nạn quan liêu tham nhũng diễn ra ngày càng gay gắt, đe doạ sự tồn vong
của thể chế chính trị.
Hệ thống chính trị bộc lộ những tồn tại yếu kém cản trở sự phát triển như tệ quan
liêu, hành chính hoá, cồng kềnh kém hiệu quả đang đặt ra đòi hỏi bức thiết về đổi mới hệ
thống chính trị trong quan hệ với mục tiêu phát triển xã hội.
- Trong Đảng và trong xã hội còn có sự phân tâm trên một số vấn đề quan trọng
của đất nước như vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cuộc đấu tranh chống quan liêu
tham nhũng, vấn đề phát huy dân chủ cơ sở, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước và xã hội.
- Tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đẩy mạnh
diễn biến hoà bình chống phá cách mạng nước ta.
Để góp phần phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục và đẩy lùi những
nguy cơ của đất nước. Dựa trên cách tiếp cận chính trị và phát triển xã hội. Đổi mới nhận
thức về đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN bao gồm một số nội dung sau:
2.2. Các nội dung đổi mới nhận thức về con đường phát triển đất nước theo
định hướng XHCN
2.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
Kinh tế thị trường được nhận thức như một quy luật tất yếu của sự phát triển xã
hội, đặc biệt đối với nước ta, một nước mà trình độ LLSX đang ở giai đoạn tiền TBCN.
Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta đã hình thành từ đại hội VI với cơ chế: Xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước, theo định hướng XHCN" và đến nay đại hội X đã khẳng định "xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định XHCN". ứng với thể chế kinh tế này, Đảng ta tiếp tục khẳng
định nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng thừa nhận
quyền làm kinh tế tư nhân không hạn chế về quy mô đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tiếp cận chính trị và phát triển xã hội, cần tiếp tục thể chế hoá quyền bình đẳng
thực sự của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế và phải thực sự có nhận thức đúng
đắn vai trò của kinh tế tư nhân như là "yếu tố động lực" của nền kinh tế. Bởi vì trong quá
trình phát triển xã hội, kinh tế tư nhân là lực lượng năng động nhất có khả năng thích ứng
nhanh và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Vả lại trong điều kiện nhà nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ, đang xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường do vậy đẩy mạnh phát triển kinh tế tư
nhân nhất định là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta.
Vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cần
tiếp tục làm rõ liệu có phải chỉ có kinh tế nhà nước là chủ đạo hay không trong điều kiện
nền kinh tế đang vận động ở giai đoạn kinh tế tư nhân nhỏ yếu, đang định hướng phát
triển các hình thức rễ hiểu hỗn hợp như công ty cổ phần và đang từng bước nghiên cứu
hoàn thiện thần phần kinh tế tư bản nhà nước.
Vì vậy sự chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ đó là vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế
theo định hướng xã hội, chứ không chỉ là vai trò của kinh tế nhà nước.
Trong quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục đổi mới, phải
chống độc quyền triệt để trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời trao doanh
nghiệp nhà nước cho những người thực sự tài năng quản lý, hạn chế đi tới xoá bỏ cơ chế
kết hợp công chức hành chính với chức danh quản lý doanh nghiệp và công tác quản lý
doanh nghiệp theo nguyên tắc quản lý cán bộ công chức. Đồng thời thông qua công cụ
quản lý vĩ mô, nhà nước tạo ra sân chơi bình đẳng cho hoạt động các doanh nghiệp - mở
đường cho sự đãi ngộ xứng đáng các giám đốc doanh nghiệp làm ăn có lãi, góp phần
xứng đáng vào sự phát triển nền kinh tế đất nước.
Đẩy mạnh kết nạp các chủ doanh nghiệp tư nhân các tầng lớp xã hội tiêu biểu
trong làm ăn, chấp hành pháp luật có ý thức tự tôn dân tộc và thừa nhận mực đích tôn chỉ
đường lối, chính sách của Đảng vào Đảng.
Đổi mới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh để bảo đảm thúc đẩy môi trường tự do kinh doanh theo pháp luật, đồng thời làm
cho tổ chức Đảng trở thành chỗ dựa chính trị, tinh thần của doanh nghiệp và người kinh
doanh. Đề cao vai trò của văn hoá kinh doanh trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền và sự hội nhập sâu của nước ta vào nền kinh tế thế giới.
2.2.2. Xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
Thể chế nhà nước pháp quyền XHCN đã được thể chế trong hiến pháp 1992 (sửa
đổi) năm 2002. Tư tưởng đó tiếp thụ được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định.
Vì đó là cơ sở bảo đảm của mô hình tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đang hình thành và trở thành nhu cầu
bức xúc của quản lý xã hội.
Dưới cách nhìn chính trị và phát triển xã hội đang đặt ra một cách nghiêm túc
việc thiết kế hệ thống nhà nước pháp quyền Việt Nam trên cơ sở kế thừa các giá trị chung
của tư tưởng pháp quyền và các mô hình các thể chế pháp quyền trong lịch sử gắn với
điều kiện lịch sử, chính trị văn hoá, xã hội Việt Nam. ở đây cần quan tâm một số vấn đề
chủ yếu sau.
Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức về quan niệm sở hữu quyền lực và sử dụng
quyền lực, xét về mặt sở hữu quyền lực thì thuộc về nhân dân, nhưng với tư cách là sử
dụng quyền lực được nhân dân uỷ quyền thì việc sử dụng quyền lực phải được phân chia
một cách khoa học, khách quan và phải có cơ chế kiểm tra, giám sát, chống sự lạm dụng,
tha hoá quyền lực hoặc vô quyền.
Với nhận thức như vậy, ở nước ta cần đổi mới nhận thức: quyền lực nhà nước là
thống nhất, không có sự phân chia; chỉ có sự phân công, phối hợp thực hiện quyền lực
nhà nước giữa ba bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước là hợp pháp, hành pháp và
tư pháp; phải khẳng định rằng về mặt bản chất, quyền sở hữu quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhưng về sử dụng quyền lực phải phân chia một cách rõ ràng giữa các
nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh quyền lực có phạm vi nhiệm vụ quyền
hạn, cơ chế thực thi quyền lực khoa học, khách quan.
Cơ chế phối hợp giữa các nhánh quyền lực chính là cơ chế bảo đảm các thủ tục
pháp lý bảo đảm tính thống nhất trong tuân thủ pháp luật, hiệu lực, hiệu quả và thời gian
ngắn nhất, giải quyết những yêu cầu pháp luật. Cơ chế phối hợp đó phải thể chế thành
chế định và quy phạm pháp luật, không có sự tuỳ tiện và ngoại lệ.
Thứ hai, để giải quyết đúng đắn vấn đề quan trọng này, cần đổi mới nhận thức về
Đảng cầm quyền trong nhà nước pháp quyền XHCN, và phương thức tổ chức hệ thống
chính trị cho phù hợp.
Nhận thức về Đảng cầm quyền đã được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện
đại hội và các nghị quyết của Trung ương, với nội dung tổng quát là.
- Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thông qua đường lối, chiến lược, sách lược,
nghị quyết của Đảng.
- Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức của Đảng và đội ngũ cán bộ Đảng
viên của Đảng trong các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị nhằm thể chế hoá đường
lối của Đảng thành pháp luật nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua hoạt động của bộ
máy nhà nước. Đảng không bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo do không
thực hiện đúng chức năng lãnh đạo của mình.
Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề xung quanh phạm vi và phương
thức lãnh đạo của đảng. Thực trạng khá phổ biến là chưa nhận định rạch ròi phạm vi và
phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động của nhà nước và hệ thống chính trị.
Biểu hiện ra trong thực tiễn là Đảng can thiệp sâu vào chức năng quản lý nhà nước nhất
là ở địa phương và cơ sở thậm chí vô hiệu hoá ở những mức độ khác nhau về thực thi
quyền lực nhà nước. Tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, vi phạm pháp luật nhà nước của
một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ xét về sâu xa có liên quan đến phương thức
lãnh đạo, của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Chính vì vậy trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân phải thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, làm cho pháp luật chiếm vị
trí thống trị trong đời sống xã hội.
Lãnh đạo bằng pháp luật ( thông qua pháp luật) là phương thức chủ yếu về sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội.
2.2.3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn
thể chính trị xã hội. Từng bước xây dựng xã hội công dân
Đây là vấn đề lớn và rất nhạy cảm bởi vì qua quá trình cách mạng, Đảng và nhà
nước ta luôn luôn chủ trương mở rộng đại đoàn kết toàn dân thông qua các tổ chức chính
trị xã hội đó là:
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
- Hội liên hiệp PN Việt Nam
- Hội Nông dân Việt Nam
- Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Đó là 6 đoàn thể chính trị xã hội là cơ sở chính trị trực tiếp của Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong lịch sử được tổ chức dưới hình thức tự nguyện, tự chủ và tự quản trong
khuôn khổ mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đuổi Nhật, Tây, giành độc lập dân tộc;
đánh đổ phong kiến để xây dựng tổ quốc. Và các tổ chức đoàn thể cách mạng đã có
những đóng góp cực kỳ to lớn cho việc thực hiện các mục tiêu của cách mạng. Từ sau khi
giành được chính quyền các tổ chức chính trị xã hội đã được tổ chức thành hệ thống có
bộ máy theo hệ thống 4 cấp song song tồn tại với hệ thống Đảng và chính quyền nhà
nước. Toàn bộ hoạt động của các tổ chức này theo phương thức tổ chức của Đảng, hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua các đại hội, các hội nghị trung ương,
địa phương, cơ sở. Tổ chức hoạt động theo hệ thống dọc và chịu sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng theo hệ thống ngang. Toàn bộ kinh phí hoạt động của các đoàn thể đều lấy từ
ngân sách nhà nước. Đến nay, đang bộc lộ những bất cập về tổ chức và phương thức hoạt
động là:
- Về tổ chức: Biểu hiện rõ của bộ máy hành chính quan liêu cồng kềnh không
hiệu lực.
- Về phương thức hoạt động. Biểu diễn của hành chính mệnh lệnh thông qua chỉ
thị, nghị quyết hướng dẫn.
- Về đối tượng tập hợp: trùng lặp về đối tượng.
- Về tài chính: Bao cấp rất nặng nề.
- Về hiệu quả kinh tế - xã hội mang lại rất hạn chế trừ một số hoạt động mang
tính biểu dương lực lượng, vận động xã hội tham gia xoá đói giảm nghèo, cứu trợ (việc
này trong điều kiện nhà nước pháp quyền, xã hội công dân thực hiện rõ đem lại hiệu quả
cao hơn).
Dưới cách nhìn chính trị và phát triển xã hội và bằng thực tiễn phong phú trong
quá trình tham gia hoạt động chính trị xã hội tôi thấy phải đổi mới nhận thức và kiên
quyết đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội.
1. Mục đích:- Hướng tới xây dựng xã hội công dân
- Bảo đảm các nguyên tắc XD nhà nước pháp quyền
- Giải phóng khả năng sáng tạo và ý thức chính trị công dân.
- Tiết kiệm ngân sách và nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển
2. Nội dung đổi mới tổ chức của các Đoàn thể chính trị xã hội
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, các mối quan hệ trong xã hội
chủ yếu là: nhà nước với công dân. Công dân với công dân.
Vì vậy cần phải thiết kế lại tổ chức các đoàn thể chính trị xã hội theo hướng như
sau.
- Chuyển tổ chức và hoạt động của mặt trận tổ quốc và các thể chính trị xã hội
sang hoạt động theo nguyên tắc
- Tự nguyện
- Tự quản
- Tự chịu trách nhiệm tài chính.
Theo quy định của pháp luật về hội.Tạo ra sự bình đẳng giữa tất cả các tổ chức
trong nhà nước pháp quyền.
- Tổ chức lại bộ máy các đoàn thể theo nguyên tắc gọn nhẹ, năng động và hệ
thống 2 cấp trung ương và cơ sở như tổ chức hiện nay của hội người cao tuổi Việt Nam,
giáo hội nhật giáo Việt Nam, uỷ ban đoàn kết công giáo Việt Nam. Còn ở các cấp địa
phương nếu cần thiết thì các hội tổ chức ra ban đại diện.
Vì sao vậy? Bởi vì nếu tiếp tục giữ 6 đoàn thể chính trị xã hội như hiện nay thì
tại sao hội liên hiệp TN Việt Nam không phải là tổ chức chính trị xã hội như hội liên hiệp
phụ nữ? và các hội như Hội văn học nghệ thuật, báo chí, kiến trúc, hội trù chính trị, hội
cựu giáo chức v.v. Có thực hiện chức năng chức năng chính trị xã hội không?. Câu trả lời
là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, vai trò của họ quan trọng như sau.
Nhưng đưa tất cả vào khái niệm chính trị xã hội thì nguy cơ một nhà nước quan liêu
trống rỗng về tài chính xuất hiện
- Mặt khác xét về đối tượng thì các tổ chức chính trị xã hội về cơ bản trùng lặp về
đối tượng vận động và rất trìu tượng về kết quả.
Tuy nhiên, nhà nước cần đầu tư nhiều hơn vào việc phát triển các cân đối chiến
lược của đất nước, như nguồn nhân lực trẻ, bình đẳng giới do vậy theo tôi nên sớm
nghiên cứu thành lập hai cơ quan nhà nước sau đây:
1- Uỷ ban Thanh niên Việt Nam.
2- Uỷ ban về các Vấn đề phụ nữ.
Hai uỷ ban này sẽ giúp nhà nước nghiên cứu các chính sách về chiến lược phát
triển Thanh niên và bình đẳng giới, và là cơ quan quản lý nhà nước về giới của nhà nước
ở trung ương, góp phần giải quyết vấn đề quan trọng nhất về nguồn nhân lực và tiến bộ
xã hội.
2.2.4. Phát triển dân chủ và dân chủ hoá xã hội, bảo đảm cho sự phát triển
bền vững
Do đặc điểm quá trình cách mạng nước ta phải trải qua chiến tranh, thù trong
giặc ngoài rất gian khổ. Nhân dân ta chỉ mới làm quen với dân chủ trong cơ chế chỉ huy
chiến tranh, chủ yếu là quyền tự nguyện hy sinh cho tổ quốc để đổi lấy giá trị cao nhất là
độc lập tự do.
Ngày nay đất nước và thời đại đã có nhiều đổi thay kỳ diệu. Trong mối qua hệ
chính trị và phát triển xã hội Đảng, nhà nước ta cần đẩy mạnh nghiên cứu hệ giá trị về
dân chủ XHCN ở Việt Nam. Thể chế hoá để nhân dân thật sự được dân chủ được "mở
mồm ra", được làm những điều mà pháp luật không cấm. Thông qua phương thức dân
chủ để nhân dân được tham gia thật sự vào hoạt động của nhà nước và xã hội, góp phần
phát triển đất nước.
Mở rộng dân chủ luôn luôn đặt trong mối quan hệ với tăng cường pháp luật và
pháp chế, bảo đảm cho dân chủ được phát huy cao nhất phù hợp với mục tiêu phát triển
đất nước. Không để dân chủ trở thành phương tiện thực hiện các âm mưu chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, ổn định chính trị của đất nước.
Kết luận
Chính trị và phát triển xã hội là một phạm trù của chính trị học, nó ra đời và phát
triển cùng với sự ra đời và phát triển của chính trị
Phát triển xã hội tiếp cận từ góc độ chính trị học là cách tiếp cận cơ bản trong
điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong điều kiện đó chính trị có vai trò dường
như quyết định xu hướng, phương thức hình thành thể chế nhà nước và do đó quyết định
sự phát triển của thực tiễn. Chính trị chi phối mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã
hội thậm chí cả tinh thần, tôn giáo, đạo đức, pháp luật.
Một thể chế chính trị tiếp cận và phản ánh đúng các quy luật phát triển khách
quan của kinh tế, chính trị, xã hội sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, khắc phục được những sai
lầm chính trị. Mặt khác một nền chính trị dựa trên nhận thức chủ quan, duy ý chí về nhận
thức thế giới sẽ dẫn đến những khó khăn, thất bại thậm chí thụt lùi, tụt hậu.
Cho đến nay, khoa học chính trị học nghiên cứu phát triển xã hội trong mối quan
hệ chính trị và phát triển xã hội đã chỉ ra giá trị phổ quát của quá trình phát triển của xã
hội loài người dựa trên ba trụ cột cơ bản là:
- Kinh tế thị trường
- Nhà nước pháp quyền
- Xã hội công dân
Ba trụ cột đó hình thành và phát triển theo quy luật của sự vận động lịch sử xã
hội loài người dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất bất đầu từ thời kỳ TBCN, trải qua
gần 400 năm, ba yếu tố đó ngày càng phát huy tác dụng của nó trong thực tiễn của nền
sản xuất xã hội, tạo ra của cải vật chất, tinh thần và văn minh nhân loại phục vụ đời sống
con người, đem lại nhiều giá trị tự do, dân chủ, tính tích cực sáng tạo cho con người và xã
hội. Đó là những giá trị chung mà nhân loại đang hướng tới.
Tiếp cận quan hệ chính trị và phát triển xã hội là cơ sở phương pháp luận để
Đảng và nhà nước ta vận dụng xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và xây dựng xã hội công
dân phù hợp với đặc điểm lịch sử chính trị, văn hoá xã hội của đất nước.
Là một Học viện chính trị học, từ thực tiễn và cơ sở lý luận về phát triển xã hội,
bản thân tôi mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ ban đầu của mình xung quanh việc vận
dụng lý luận vào thực tiễn xây dựng thể chế, đổi mới nhận thức về sự lãnh đạo của Đảng,
đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội và xây dựng chế độ dân
chủ, xã hội công dân.
Những vấn đề nêu ra sẽ được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, kiến nghị để góp
phần đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương và là phương
pháp luận nhận thức trong hoạt động thực tiễn của mình.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. C.Mác - FĂngghen: Hệ tư tưởng Đức. M - A tuyển tập, tập V, NXB sự thật HN -
1980.
2. F.Angghen: Nguồn gốc của gia đình, của tư nhân và của nhà nước. F.Angghen tuyển
tập, tập VI, NXB Sự thật 1984.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập II, NXB chính trị quốc gia, 2002.
4. CNXH Hiện thực - khủng hoảng, đổi mới và phát triển, NXB CTQG - 1993.
5. Li Liang Dong: chủ nghĩa xã hội và văn minh chính trị của loài người trong thế kỷ
XXI. Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Viện thông tin KHXH Hà Nội; số TN 2001-45.
6. Hồ Ngọc Minh: Các lý thuyết phát triển và chính trị, Thông tin chính trị học, Viện
KHCT số 2/2000.
7. Phạm Xuân Sơn: Tập bài giảng chính trị học, Viện KHCT - HVCTQG Hồ Chí Minh,
2005.
8. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
9. Các tài liệu, bài giảng của các nhà khoa học, Viện chính trị học, HVCTQG Hồ Chí
Minh.
10. Hoàng Chí Bảo - GS.TS Tổng thuật các quan điểm nghiên cứu và các kiến nghị về
đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, chương trình khoa học - công nghệ cấp
nhà nước KX.10 (2004-2010).
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Phát triển và mối quan hệ chính trị và phát triển xã hội 2
1.1. Phát triển xã hội - cách tiếp cận 2
1.1.1. Phát triển 2
1.1.2. Phương pháp tiếp cận của chính trị học về phát triển 3
1.3. Những nội dung cơ bản của chính trị và phát triển xã hội 5
Chương 2: Đổi mới nhận thức về con đường phát triển xã hội theo
định hướng XHCN ở nước ta 10
2.1. Bối cảnh 21
2.2. Các nội dung đổi mới nhận thức về con đường phát triển đất nước
theo định hướng XHCN 11
2.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội 11
2.2.2. Xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân 13
2.2.3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của mặt trận và các
đoàn thể chính trị xã hội. Từng bước xây dựng xã hội công dân. 15
2.2.4. Phát triển dân chủ và dân chủ hoá xã hội, bảo đảm cho sự phát
triển bền vững 18
Kết luận 19
Danh mục tài liệu tham khảo 21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29_5728.pdf