Kết hợp với các ngân hàng: Cơ quan thuế cần thiết phải kết hợp chặt chẽ với ngân
hàng để nhanh chóng phát hiện và ngăn chặn những hoạt động nhằm mục đích chuyển
giá tại các doanh nghiệp FDI. Bởi vì, thông qua việc thực hiện thu chi qua ngân hàng một
cách minh bạch, ngân hàng có thể kiểm soát được tất cả các hoạt động thu chi có liên
quan đến nghiệp vụ chuyển giao các doanh nghiệp này. Ngoài ra, với chức năng tín
dụng của mình, ngân hàng phải có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ những khoản tín dụng mà
ngân hàng cung cấp cho các công ty vay vốn tại ngân hàng, đảm bảo rằng công ty này sử
dụng nguồn vốn đúng mục đích và những nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư
ngân hàng phải tham gia thẩm định tính năng, chất lượng và định giá lại nhằm tránh tình
trạng nâng quá mức mà một số lớn công ty đã thực hiện trong thời gian qua. Chính những
điều này cho thấy ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần hạn chế
chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI. Để nâng cao hơn nữa vai trò này của ngân hàng,
cần phải đẩy mạnh việc thu chi qua các ngân hàng, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt,
đồng thời ngân hàng phải thường xuyên giám sát và yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ
đúng những qui định quản lý ngoại hối hiện hành
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2989 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại
tệ cho ngân hàng từ nguồn thu các giao dịch vãng lai. Đây là một qui định rất khắt khe và
không phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì thế, đến năm 2003, chính phủ đã ban hành thông
tư 08/2003/TT-NHNN Hướng dẫn thi hành về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ đối
với giao dịch vãng lai của Người cư trú là tổ chức bãi bỏ việc bắt buộc bán ngoại tệ cho
ngân hàng. Đây là một điểm mới, tiến bộ được các nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh.
Tuy nhiên, đồng tiền Việt Nam đến nay vẫn là một đồng tiền yếu khó chuyển đổi
trên thế giới. Tuy các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được sự hỗ trợ
của chính phủ và ngân hàng trong việc cân đối nhu cầu ngoại tệ nhưng vẫn còn những
hạn chế trong việc chuyển đổi tiền đồng Việt Nam sang đồng tiền ngoại tệ. Thực tế, có
nhiều công ty không thể có được lượng ngoại tệ đúng hạn và đúng số lượng nên phải mua
chúng ngoài chợ đen. Tóm lại, khả năng chuyển đổi thấp và sự mất giá dần của đồng tiền
Việt Nam cũng như những khó khăn có được lượng ngoại tệ cần thiết đã làm tăng rủi ro
tài chính cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Việt Nam và vì vậy
làm tăng khả năng chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam thông qua chuyển giá.
3.3 Các hạn chế về số lượng
Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không còn bị đánh thuế chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài theo tinh thần của Thông tư số 26/2004/TT-BTC ngày 31/3/2004
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
và hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp tái đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài. Trong
điều 1 của Thông tư qui định rõ:
“Từ ngày1/1/2004, các khoản thu nhập hợp pháp mà các tổ chức kinh tế hoặc cá
nhânnước ngoài thu được do tham gia đầu tư vốn dưới bất kỳ hình thức nào theoqui định
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, kể cả cá nhân làngười Việt nam định cư ở nước
ngoài đầu tư về nước và người nướcngoài thường trú ở Việt nam đầu tư theo Luật khuyến
khích đầu tư trong nước (bao gồm cả số thuế thu nhập đã được hoàn trả cho số thu nhập
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 43
tái đầu tư và thu nhập do chuyển nhượng vốn, mua cổ phần), khi chuyển ra khỏi lãnh thổ
Việt nam hoặc giữ lại ngoài Việt nam không phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài (kể cả khoản lợi nhuận phát sinh trước ngày 31/12/2003)”.
Việt Nam cũng đã ký Hiệp định tránh thuế hai lần với 50 nước, trong đó có các
nước đầu tư chính vào Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan. Tuy
nhiên, các nước đầu tư lớn như Hồng Kông và Mỹ do chưa ký Hiệp định tránh đánh thuế
2 lần với Việt Nam thì các công tư đóng tại các nước này phải đóng thuế 2 lần. Vì vậy họ
có thể dùng chuyển giá để tối thiểu hóa số thuế phải nộp.
3.4 Sự hiện hữu của các đối tác trong nước
Theo đà hội nhập với thế giới, dòng vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đổ mạnh
vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài có 2 lựa chọn: liên doanh với đối tác Việt Nam
hoặc thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Nếu liên doanh, đối tác Việt Nam thường
góp quyền sử dụng đất và đối tác nước ngoài góp vốn. Thông thường, các nhà đầu tư
nước ngoài chuộng hình thức thứ nhất hơn, vì đối tác nước ngoài trong liên doanh thông
qua sự trợ giúp của đối tác trong nước nắm bắt được thị trường nội địa và thiết lập quan
hệt với chính quyền cũng như thừa hưởng thị phần có sẵn của các công ty trong nước.
Một khi nền tảng kinh doanh đã được bảo đảm, các đối tác nước ngoài muốn tự điều hành
mọi hoạt động một mình không muốn có sự cản trở của phía đối tác Việt Nam. Trong hầu
hết các trường hợp xin chuyển sang công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, các đối tác
nước ngoài thường phàn nàn về sự yếu kém trong quản lý và ngoại ngữ của đối tác Việt
Nam. Một nghịch lý là dù nắm giữ vốn góp nhỏ trong liên doanh nhưng đối tác VIệt Nam
vẫn có quyền quyết định bình đẳng với các đối tác nước ngoài, có quyền phủ quyết làm
chậm trễ nhiều quyết định kinh doanh quan trọng. Như đã phân tích ở trên, phía Việt
Nam góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất và thường thiếu nguồn tài chính bổ sung
khi liên doanh bị lỗ trong thời gian đầu thực hiện. Vì vậy, sự hiện diện của phía Việt Nam
trong liên doanh sẽ trở thành động lực cho phía nước ngoài thực hiện hành vi chuyển giá
để giảm lợi nhuận của liên doanh và cuối cùng đẩy phía Việt Nam ra khỏi liên doanh.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 44
Tuy nhiên mức độ chuyển giá phụ thuộc vào đối tác Việt Nam có đầy đủ thông tin và khả
năng đánh giá hành vi này ở mức độ nào. Thực tế việc kiểm soát hành vi này của đối tác
trong nước dường như không hiệu quả, do đó phía đối tác nước ngoài tự do thực hiện
chiến lược chuyển giá.
3.5 Môi trường kinh doanh và các áp lực về thể chế chính trị
Rủi ro đầu tư tại các nước chủ nhà có thể làm các MNC chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài thông qua chuyển giá.Mối đe dọa quốc hữu hóa và tịch biên tài sản luôn là mối
quan tâm hàng đầu khi đầu tư tại nước ngoài. Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trước đây và Luật đầu tư 2005 đều bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định và các
ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều 6 và 7 của Luật đầu tư
2005 qui định:
- Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị
tịch thu bằng biện pháp hành chính.
- Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; bảo đảm lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại Việt Namtheo quy định
của pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên trong thực tế những điều luật này vẫn chưa được thực hiện một cách
đầy đủ.Nạn quan liêu, tham nhũng cũng như vấn đề thay đổi luật vẫn diễn ra tại một vài
nơi.
Liên đoàn lao động Việt Nam đóng vai trò bảo vệ quyền lợi của công nhân chứ
không gây áp lực tăng lương trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ trả lương theo mức lương của họ
nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước qui định. Như vậy, áp lực tăng
lương hầu như không ảnh hưởng đến quyết định chuyển giá.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 45
3.6 Mối đe dọa trực tiếp đến lợi nhuận
Việt Nam không áp đặt bất kỳ mức độ bảo hộ nào cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài hay kiểm soát giá dựa trên khả năng sinh lợi, nên các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không khai lỗ vì những lý do này. Do chúng ta
không thể phân tích các chiến lược kinh doanh của các công ty doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài nên không thể kết luật các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ngăn cản các đối thủ cạnh tranh tiềm năng bằng cách kinh doanh bị lỗ.
Tóm lại, sau khi xem xét các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lên chuyển giá tại
Việt Nam, ta nhận thấy rủi ro về ngoại tệ, lạm phát và sự hiện diện của các đối tác Việt
Nam trong liên doanh là những động cơ chính cho hành vi chuyển giá.
4. Cách thức thực hiện chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài Việt Nam
- Các MNC lợi dụng sự sơ hở của nước chủ nhà thực hiện việc nâng giá tài sản góp vốn
khi tham gia liên doanh như: tài sản hữu hình, bản quyền thương hiệu, công nghệ và các
tài sản vô hình khác…
- Thực hiện việc nâng giá đầu vào của nguyên vận liệu mua từ công ty mẹ ở chính quốc.
- Tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi và các chi phí khác một cách ào ạt nhằm phục vụ
cho việc quảng cáo cho thương hiệu mình.
- Sử dụng chiến lược phá giá, hạ giá sản phẩm bán gây lỗ nghiêm trọng cho liên doanh
(mặc dù công ty mẹ vẫn có lãi do bán nhiều nguyên vật liệu độc quyền với giá cao và thu
được chi phí khấu hao tài sản cố định khi tăng giá đầu vào) làm cho đối tác Việt Nam lỗ
và nước chủ nhà cũng không thu được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp nào.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 46
5. Ví dụ minh họa thực tế về thực trạng chuyển giá tại Việt Nam
5.1 Trường hợp 1: Liên doanh Coca Cola Chương Dương
Quá trình hội nhập của Coca Cola vào Việt Nam
Coca Cola đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1960 và quay trở lại Việt Nam
tháng 2 năm 1994, sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận thương mại. Khi quay trở lại, trong 3 năm
đầu từ 1995 đến 1998 Coca Cola Đông Dương(CEIL) đã nhanh chóng liên doanh với 3
công ty nước giải khát trong nước là:
Tháng 8 năm 1995 liên doanh với công ty Vinafimex (Hiện nay là một doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn). Đây là liên
doanh đâu tiên của Coca Cola Đông Dương với công ty ở Việt Nam, có trụ sở
chính đặt tại phía Bắc ở tỉnh Hà Tây với số vôn đầu tư 35 triệu USD công ty CEIL
chiếm 70% số vốn Vinafimex 30% và nhà máy đóng chai Coca Cola Ngọc Hồi
được xây dựng, đây là nhà máy đóng chai được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam và
đi vào hoạt động tháng 8 năm 1995.
Tháng 9 năm 1995 Coca Cola Đông Dương liên doanh với công ty nước giải khát
Chương Dương Việt Nam và cho ra đời công ty nước giải khát Coca Cola Chương
Dương với tổng số vốn đầu tư 48 triệu USD công ty Coca Cola chiếm 60% vốn
Chương Dương chiếm 40% vốn.
Đến tháng 1 năm 1998 thêm một liên doanh nữa của Coca Cola tại Việt Nam tại
miền Trung hình thành Coca Cola Non Nước. Đây là liên doanh cuối cùng của
Coca Cola tại Việt Nam với số vốn 25 triệu USD Coca Cola chiếm 70% công ty
nước giải khát Đà Nẵng chiếm 30% số vốn.
Tháng 10 năm 1998 Chính phủ Việt Nam đã cho phép các công ty liên doanh trở
thành công ty 100% vốn nước ngoài. Các liên doanh của Coca Cola tại Việt Nam lần lượt
thuộc quyền sở hưu hoàn toàn của Coca Cola Đông Dương đầu tiên là Coca Cola Chương
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 47
Dương, từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1998 liên doanh tại miền Bắc, miền Trung cũng thuộc
quyền sở hữu hoàn toàn của Coca Cola.
Đến nay, công ty nước giải khát Coca Cola Việt Nam có tất cả 3 nhà máy đóng chai
tại Việt Nam ở Hà Nội, Đà Nẵng và Tp.Hồ Chí Minh, trong đó nhà máy ở TP. Hồ Chí
Minh giữ vai trò quản lý còn nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng chỉ đóng vai trò như những
đại lý ở miền Bắc và miền Trung. Văn phòng đại diện của công ty mẹ Coca Cola Đông
Nam Á (CCSAI) đặt tại Lầu 10 toà nhà Metropotitan, 235 Đồng Khởi TP. Hồ Chí Minh.
Tháng 6 năm 2001 Do sự cho phép của Chính phủ Việt Nam công ty nước giải khát
Coca Cola tại 3 miền đã hợp nhất thành một và có chung sự quản lý của Coca Cola Việt
Nam đặt trụ sở chính tại quận Thủ Đức TP.Hồ Chí Minh.
Ngày 1 tháng 3 năm 2004 Coca Cola Việt Nam dược giao lại cho Sabco, đây là một
trong những tập đoàn đóng chai danh tiếng của Coca Cola trên thế giới.
Chiến lược bán phá giá của Coca Cola tại Việt Nam
Năm 1995, Coca Cola đã liên doanh với công ty nước giải khát Chương Dương
Việt Nam với vốn đầu tư 46.7 triệu đô la, nhưng chỉ sau 3 năm hoạt động, liên doanh đã
thua lỗ lên tới 151 tỷ đồng. Tuy nhiên, mặc dù thua lỗ nhưng thị phần của liên doanh
không ngừng gia tăng (chiếm 52% năm 1998).Vấn đề là tại sao liên doanh chỉ trong 3
năm mà thua lỗ lên tới một con số khổng lồ như thế? Đó là vì Coca Cola đã áp dụng
chính sách bán phá giá sản phẩm ở Việt Nam và chi tiền ào ào để thực hiện chiến dịch
quảng cáo rầm rộ.
Thực tế trong giai đoạn 1995 – 1998, một lon Coca Cola ở thị trường Mỹ là 75
cents (tương đương khoảng 10500 đồng) trong khi một lon Coca Cola bán tại thị trường
Việt Nam bình quân một lon giá 5.000 đồng - 7.000 đồng (tương đương khoảng 40 - 50
cents) thấp hơn giá bình quân trên thị trường Mỹ là 25 cents (tỷ giá tạm tính 14.000
VND/USD). Đây phải chăng là hiện tượng bán phá giá của Công ty Coca Cola Chương
Dương được điều phối từ công ty mẹ thông qua chiến lược bán hàng và chính sách mua
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 48
nguyên liệu từ công ty con ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra Công ty Coca Cola
Chương Dương đã xâm chiếm thị phần của các đối thủ bằng con đường bán phá giá (đặc
biệt trong hai tháng 3 và tháng 4/1998) Coca Cola đã bán phá giá kỷ lục là 30%) trong
khi liên doanh này không hề có sự chuyển biến rõ rệt về công nghệ, về năng suất lao
động và hiệu suất trong các khâu khác. Đợt tổ chức khuyến mãi ‘‘Cúp bóng đá thế giới
98‘‘, công ty đã chi một số tiền 1,8 tỷ đồng bất chấp sự không đồng ý của phía đối tác
Việt Nam, làm cho Công ty đã lỗ càng lỗ nặng (trong chiến dịch khuyến mãi vào tháng 3
- 4/98 Công ty đã lỗ đến 20 tỷ đồng).
Kết quả là liên doanh không ngừng lỗ và cuối cùng Chương Dương buộc phải
chấp nhận bán đi 40% cổ phần của mình và phía đối tác sẽ chịu hoàn toàn phần lỗ. Tháng
10/1998, liên doanh Coca Cola Chương Dương đã được nhà nước cho phép chuyển thành
thành công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Ví dụ về liên doanh Coca Cola Chương Dương đã cho thấy rõ hành vi chuyển
giá của các MNC nhằm đẩy đối tác chủ nhà khỏi liên doanh và thao túng thị trường nội
địa.
5.2 Trường hợp 2: Các công ty lắp ráp xe hơi
Những năm 1990 khi khởi đầu công nghiệp hóa, Việt Nam dự kiến hình thành
ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam, trước tiên là có thể dần tự sản xuất ôtô du lịch. Tuy
nhiên, vì tư duy lầm lẫn, thay vì xây dựng ngành công nghiệp ô tô tự sản xuất trong nước,
Việt Nam lại phát triển ngành công nghiệp lắp ráp ô tô. Từ vấn đề trên, chính sách của
Việt Nam đã và đang bảo hộ cho ngành lắp ráp ô tô thay vì bảo hộ cho ngành sản xuất ô
tô. Điều này dẫn đến hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực lắp ráp ô tô Việt Nam.
Những con số từ thực tế
Vào năm 2003, ở Việt Nam, xe du lịch nhập khẩu nguyên chiếc giá gốc 10.000
USD phải chịu các loại thuế sau:
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 49
Thuế Thuế suất Giá trị thuế phải chịu(USD)
Thuế nhập khẩu 100% 10.000
Thuế tiêu thụ đặc biệt 80% 16.000
Thuế giá trị gia tăng 10% 3.600
Tổng cộng 296% 29.600
Vậy một chiếc xe ở nước ngoài giá 10.000 đô la Mỹ đến tay người tiêu dùng Việt
Nam sẽ có giá gần 40.000 đô la Mỹ.
Trong khi đó, xe lắp ráp trong nước chỉ phải chịu thuế nhập khẩu cho bộ linh kiện
là khoảng 30%, và thuế giá trị gia tăng 10%, nhưng không phải chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt. Tổng cộng xe trong nước chỉ phải chịu thuế 43%, thấp hơn 253 % so với xe nhập.
Như thế, một chiếc xe trong nước có giá thành 10.000 đô la Mỹ (đã bao gồm lợi
nhuận cho nhà sản xuất), “chỉ cần” bán với giá 35.000 đô la, rẻ hơn xe nhập đến 5.000 đô
la là thừa sức cạnh tranh, sau khi trừ thuế nhập khẩu 3.000 đô la, thuế giá trị gia tăng
khoảng 3.200 đô la, nhà sản xuất thu thêm được khoản lợi nhuận siêu ngạch 18.800 đô la.
Trong khoản lợi nhuận đó, Nhà nước chỉ thu được 28% thuế thu nhập doanh
nghiệp, còn lại doanh nghiệp hưởng, cỡ 135% giá xe nhập khẩu chưa thuế. Đây chính là
khoản tiền lẽ ra chỉ Nhà nước mới có quyền thu. Nói cách khác, Nhà nước đã giúp các
doanh nghiệp lắp ráp xe hơi hưởng lợi quá lớn.
Chỉ từ năm 2004 xe lắp ráp trong nước mới bắt đầu chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với
lộ trình tăng dần, và từ năm 2006 thuế đánh vào xe nhập khẩu bắt đầu giảm, thì sự chênh
lệch về thuế có giảm đi.
Thuế
Thuế suất cho xe
nhập khẩu
Thuế suất cho xe lắp ráp
trong nước
Thuế nhập khẩu 90% 0%
Thuế tiêu thụ đặc biệt 50% 50%
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 50
Thuế giá trị gia tăng 10% 10%
Tổng cộng 213.5% 65%
Chênh lệch thuế suất là 135 điểm phần trăm, các doanh nghiệp ô tô vẫn còn hưởng lợi
thêm một thời gian nữa.
Không chỉ trục lợi từ sự bảo hộ, đối tác nước ngoài trong các liên doanh còn có thể
áp dụng chiêu chuyển giá - tăng giá linh kiện mua từ các công ty cùng hệ thống ở nước
khác để chuyển lợi nhuận cho công ty đó, và giảm lợi nhuận của bản thân mình. Nếu lợi
nhuận giảm đi đáng kể thì phần chia của phía Việt Nam trong liên doanh cũng giảm đi
tương ứng, và đây có lẽ là mục đích chính của việc chuyển giá.
Ví dụ: Doanh nghiệp sản xuất xe hơi tại Thái Lan rồi bán ở Việt Nam.
1)
Lợi nhuận 1000USD
(tại Việt Nam)
2)
lợi nhuận 1000USD
(tại Thái Lan)
Công ty mẹ lời 1.000 USD và phải đóng thuế tại Thái Lan thay vì Việt Nam. Nếu
tại Thái Lan công ty đang được ưu đãi thuế, thì khoản lãi này sẽ được miễn thuế toàn bộ.
Như vậy, nếu giá mua linh kiện cao, lợi nhuận của công ty tại Việt Nam sẽ giảm và Nhà
nước Việt Nam sẽ thất thu thuế.
Tuy nhiên lợi nhuận của cả tập đoàn sẽ không đổi (vì lợi nhuận tại Việt Nam đã
được chuyển sang cho công ty con khác ở Thái Lan).
Thái Lan
9000USD
Việt Nam
10.000USD
Thái Lan
9000USD
Việt Nam
9000USD
Thị trường Việt
Nam. Giá
10.000USD
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 51
Tuy nhiên, nếu cơ quan thuế Việt Nam nghi ngờ giá mua này là quá cao và định
giá lại (giả dụ là 9.000 USD), thì tập đoàn sẽ rơi vào tình trạng khó xử. Đó là họ đã đóng
thuế cho khoản thu nhập 1.000 USD tại Thái Lan, nay lại phải đóng cho khoản thu nhập
đó tại Việt Nam. Như vậy tập đoàn sản xuất xe hơi bị đánh thuế hai lần cho một thu nhập.
Vấn đề chuyển giá chỉ xảy ra ở giao dịch giữa các công ty liên kết. Nếu doanh
nghiệp Việt Nam nói trên phải mua linh kiện ở một doanh nghiệp độc lập của Nhật Bản,
họ sẽ phải trả giá và mua theo giá thị trường.
Tóm l ại, đúng như ông Nguyễn Thiệu – nguyên thành viên Ban nghiên cứu của
thủ tướng, phỏng vấn Câu chuyện giá ô tô, báo Tuổi Trẻ 10/9/2007, ngay khi Việt Nam
vừa mở cửa, hàng loạt các công ty ô tô nước ngoài Honda, Toyota, Ford, Mercedes,… đã
vào Việt Nam. Tuy nhiên, các hãng lại đầu tư dây chuyền lắp ráp thay cho đầu tư dây
chuyền sản xuất kèm với lời hứa sẽ nâng dần tỷ lệ nội địa hóa. Với cách thức này, các
công ty nước ngoài sẽ được 3 điều lợi chính:
- Vốn đầu tư ban đầu thấp, chỉ vài triệu đô la Mỹ.
- Không phải chịu thuế nhập khẩu ô tô cao, tránh được hàng rào hạn ngạch và
hàng rào phi thuế quan.
- Tối đa hóa lợi nhuận thông qua chuyển giá (cách thức thực hiện như đã phân tích
ở trên).
Đi đôi với lợi ích của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong chuyển giá
thì nhà nước Việt Nam cũng bị thiệt hại về những mặt sau đây:
- Thất thoát thuế với một con số khổng lồ.
- Phía Việt Nam trong liên doanh bị ăn chặn . Theo phân tích ở trên thì với giá bán
xe cao ngất như hiện nay, các doanh nghiệp lắp ráp xe hơi có thể đạt lợi nhuận tới gần
150%, nhưng theo số liệu công bố lãi của họ chỉ vào khoảng 11-23 %, nghĩa là nhiều
khả năng phía Việt Nam trong liên doanh đã bị thua thiệt.
- Người tiêu dùng Việt Nam bị móc túi.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 52
- Mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp sản xuất ô tô trong nước không thực hiện
được. Bằng chứng là suốt 15 năm nay, Việt Nam không xuất khẩu được một chiếc xe
nào. Dù rằng các doanh nghiệp lắp ráp ô tô ở Việt Nam khi đầu tư dây chuyền lắp ráp có
hứa sẽ nâng dần tỷ lệ nội địa hóa. Nhưng nếu không đầu tư dây chuyền để sản xuất thì
việc chuyển giao công nghệ, nội địa hóa chỉ chừng mực thôi, không cao được.
5.3 Trường hợp công ty sản xuất chè, dược phẩm và một số ngành khác
Kinh doanh chè: theo Cục Thuế Lâm Đồng, thông qua kiểm tra, hướng dẫn
17 doanh nghiệp FDI trong ngành chè, đã xử lý hết số lỗ lũy kế trong hạn chuyển lỗ đến
hết ngày 31/12/2009 là trên 316,5 tỷ đồng, trong đó, Công ty TNHH HaiYih xử lý lỗ lũy
kế với số tiền là 63,6 tỷ đồng, Công ty TNHH Trà Kinh Lộ 56,8 tỷ đồng, Công ty TFP
Việt Nam 47,9 tỷ đồng… đồng thời các doanh nghiệp này cũng đã kê khai và nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp với số tiền gần 8 tỷ đồng. Hiện tượng 9-10 năm nay các doanh
nghiệp báo lỗ đến 2-3 lần vốn điều lệ, nhưng vẫn phát triển, vẫn đầu tư. Họ xuất khẩu chè
và giá bán với giá còn thấp hơn cả giá thành, đó là điều rất vô lý. Bằng việc thực hiện
nghiêm túc quy trình nghiệp vụ về kiểm tra thuế, Cục Thuế Lâm Đồng nhận thấy, giá
thành nguyên liệu chính của một kg chè Ô long là 175.000 đồng. Trong khi đó, các doanh
nghiệp FDI xuất khẩu loại chè này sang Singapore chỉ là 64.580 đồng/kg. Kết quả kiểm
tra tại trụ sở các doanh nghiệp FDI này đã đi đến kết luận về hành vi chuyển giá của
doanh nghiệp.
Thủ đoạn cơ bản của các doanh nghiệp này là nâng giá hàng hóa, tài sản nhập
khẩu từ Đài Loan, Hồng Kông vào Việt Nam để tăng chi phí, giá trị đầu tư; trong khi đó
lại tìm mọi cách hạ giá sản phẩm chè xuất khẩu từ Việt Nam về công ty mẹ ở bản quốc
dẫn đến doanh nghiệp FDI thua lỗ triền miên. Chẳng hạn, để chế biến 1kg chè ô long
thành phẩm cần có 5kg nguyên liệu chè tươi. Giá 1kg chè búp tươi khoảng 35.000 đồng
nên chi phí nguyên liệu cho 1 kg chè ô long thành phẩm là 175.000 đồng, đó là chưa kể
các chi phí về điện, nước, nhân công, quản lý, khấu hao máy móc thiết bị… Thế nhưng
các doanh nghiệp kê giá xuất khẩu chỉ có 4 USD/kg (tương đương 64.580 đồng/kg), chỉ
bằng 37% giá thành sản phẩm. Điều bất thường nữa là, cũng chính những sản phẩm chè ô
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 53
long này nhưng khi bán tại thị trường Việt Nam giá lên tới 1,2 triệu đồng/kg, cao hơn giá
xuất khẩu tới 18 lần. Rõ ràng đã xảy ra tình trạng chuyển giá ở các doanh nghiệp FDI nói
trên.
Kinh doanh dược phẩm: Lợi dụng việc được cấp số đăng ký thuốc nhập
khẩu lưu hành tại Việt Nam, việc hạn chế hoặc ngưng cấp số đăng ký cho các dược phẩm
tương tự của cơ quản lý y tế Việt Nam, các công ty nước ngoài đã triệt để khai thác,
khống chế thị trường tân dược Việt Nam cả về mặt hàng cũng như giá cả. Các công ty
nước ngoài có nhà máy sản xuất tại Việt Nam, các liên doanh giữa công ty nước ngoài
với các công ty dược Việt Nam sản xuất thuốc trong nước, các sản phẩm nhượng quyền
sản xuất tại Việt Nam… dù được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng giá
thành sản phẩm chẳng khác gì giá nhập khẩu trước đây, và cao hơn nhiều so với sản
phẩm cùng loại do các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Chẳng hạn như Zuellig
Pharma, công ty duy nhất được phép kinh doanh thuốc trực tiếp tại Việt Nam, từ cuối
năm 2001 đến đầu 2003 đã tăng giá 423/672 mặt hàng, chiếm 69% tổng số mặt hàng
cung cấp tại Việt Nam. Đáng lưu ý là có những mặt hàng công ty này tăng giá 83-106%
(như Cedax Cap, Zaditen…); Công ty Diethelm có 123 mặt hàng tăng giá; 100% mặt
hàng (43 loại) của công Mega Products Thái Lan tăng giá; và ngay cả Công ty Ranbasy
(Ấn Độ) có nhà máy sản xuất tại Việt Nam cũng tăng giá 32 mặt hàng… Thực ra đó là
tình trạng tình trạng công ty mẹ ở nước ngoài bán sản phẩm cho các công ty con trong
nước với hình thức “chuyển giá”. các công ty đa quốc gia này chính là người hưởng lợi từ
những ưu đãi này chứ không phải là người Việt Nam, họ sẽ vẫn phải dùng thuốc ngoại
với giá đắt.
Kinh doanh khách sạn: Năm 2010 Cục Thuế TP.HCM đã tiến hành thanh tra
thuế tại Khách sạn Equatorial (liên doanh giữa Công ty Dịch vụ tổng hợp Hoàng Việt và
Công ty Planego – Hồng Kông) và Khách sạn Metropolitan (liên doanh giữa Công ty Xây
dựng và sản xuất vật liệu xây dựng và Công ty Saigon Metropolitan Ltd. Thuộc Tập đoàn
British Virgin Island – Vương quốc Anh). Tại các cuộc thanh tra này, đã xác định được
các khoản trốn thuế và lỗ lên tới hàng chục triệu USD và các doanh nghiệp này đang bị
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 54
khởi tố hình sự. Từ năm 2003 đến 2008, khách sạn Equatorial không mở sổ sách kế toán
theo quy định, không áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Ngoài ra, các phương thức
đăng ký chuyển lỗ và xác định số liệu không nhất quán liên quan đến chênh lệch tỷ giá
giữa các năm cũng chưa được liên doanh này thực hiện. Từ đó, việc căn cứ các số liệu để
xác định kết quả kinh doanh và xác định thu nhập chịu thuế trở nên khó khăn. Nghiêm
trọng hơn, khách sạn đã không kê khai nộp thuế nhà thầu hơn 6,3 tỉ đồng và kê khai thiếu
tiền thuế phải nộp hơn 8,5 tỉ đồng.
Kinh doanh bất động sản: Năm 2010: một đại gia bất động sản Saigon
Metropolitan (SM), liên doanh giữa công ty TNHH một thành viên xây dựng Bình Minh
thuộc tổng công ty Xây dựng Sài Gòn và công ty Saigon Metropolitan Limited (SML)
thuộc British Virgin Island của Anh. Báo cáo tài chính mới nhất của liên doanh này cho
thấy, dù đã qua bốn lần tăng vốn từ 29 triệu USD lên 49,7 triệu USD nhưng ở thời điểm
hiện tại, SM vẫn đang lỗ luỹ kế gần 20 triệu USD và nợ thuế hơn 7 tỉ đồng. Không khó
để hình dung vì sao mới đây công ty xây dựng Bình Minh - trong hợp đồng mới ký kết lại
- đã đồng ý chuyển nhượng 30% vốn thuộc sở hữu của mình cho Saigon Metropolitan
Limited. Kịch bản tăng vốn lần thứ năm nhằm giải quyết khó khăn tài chính hẳn đã được
đặt ra. Với ký kết này, Saigon Metropolitan Limited trở thành đối tác nắm 90% vốn trong
liên doanh SM. Rõ ràng, như bài học Liên doanh Cocacola việc thiếu tiềm lực tài chính,
các doanh nghiệp Việt Nam không dễ gì chống cự với ý muốn thôn tính của các nhà đầu
tư ngoại quốc nhằm chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh thành doanh nhiệp FDI 100%
vốn nước ngoài. Ngoài ra, điều này cũng khiến cơ quan thuế hết sức đau đầu, bởi không
biết những khoản nợ thuế thời còn liên doanh bao giờ mới thu hồi được.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 55
6. Một số nhận xét về tình hình chuyển giá ở Việt Nam
6.1 Nguyên nhân chuyển giá tại Việt Nam
Bên cạnh nguyên nhân chính và chủ quan là do phục vụ lợi ích của chính các công
ty đa quốc gia thì cũng có các nguyên nhân khách quan làm cho thực trạng chuyển giá ở
Việt Nam hiện nay có xu hướng tăng, bao gồm:
Thứ nhất, kinh nghiệm quản lý giá chuyển nhượng ở nước ta còn yếu kém hay cụ
thể hơn đó là việc xác định giá thị trường ở nước ta vẫn còn chưa tốt, chưa thực sự phù
hợp dẫn đến tình trạng có nhiều công ty lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của Chính phủ về
“chuyển nhượng giá” mà các MNCs có thể tìm cách để nghĩa vụ nộp thuế là thấp nhất,
thậm chí là trốn thuế, bóp méo bảng báo cáo tài chính
Thứ hai, hệ thống thuế ở Việt Nam còn nhiều bất cập và kẽ hở, đặc biệt là chính
sách ưu đãi thuế cho nhà đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực
hiện hành vi chuyển giá dễ dàng.
Thứ ba , cái chúng ta thiếu là một đội ngũ nhân viên kiểm toán, hải quan có chuyên
môn, trình độ cao. Theo một vị lãnh đạo Bộ Tài chính thì biện pháp duy nhất hiện giờ
chúng ta có thể làm là kiểm tra quyết toán, loại bỏ các chi phí không hợp lý và kiểm soát
chặt chẽ hơn nữa ngay từ quá trình duyệt dự án đầu tư. Tuy nhiên, làm được những điều
này không hề đơn giản chút nào bởi hóa đơn chứng từ là từ nước ngoài.
6.2 Nhận xét chung
Chuyển giá đang là một chiến lược của các công ty đa quốc gia nhằm tối đa hóa
lợi nhuận biểu hiện qua việc lợi dụng sơ hở của Việt Nam để thực hiện việc nâng giá tài
sản góp vốn khi tham gia liên doanh, nâng giá đầu vào của nguyên vật liệu mua từ công
ty mẹ ở chính quốc hay như tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi… một cách vô tội vạ
nhằm quảng bá cho mình. Hạ giá sản phẩm gây lỗ nghiêm trọng cho liên doanh, đồng
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 56
thời giảm lượng thuế phải nộp...là những cách mà các công ty đa quốc gia đang sử dụng
ở Việt Nam.
Ngoài ra mục tiêu khác của công ty đa quốc gia khi chuyển giá là làm suy yếu các
doanh nghiệp nội địa để tạo tình trạng độc quyền, họ dựa vào tiềm lực tài chính hùng
mạnh của công ty mẹ để phá giá sản phẩm, làm các công ty nhỏ ở nước chủ nhà không đủ
mạnh để cạnh tranh và phải phá sản. Điều đó làm cho môi trường đầu tư trong nước trở
nên kém hấp dẫn do những cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Đồng thời cũng
làm cho nhà nước thất thu một khoản thuế lớn.
Tuy nhiên ai cũng đồng ý rằng một khi làm kinh tế thì càng lợi nhiều càng tốt. Và
khi Việt Nam gia nhập vào WTO, việc giao lưu quan hệ kinh tế với các nước khác là
không tránh khỏi. Từ đó, có sự hình thành nên những công ty đa quốc gia nghĩa là có sự
liên kết giữa công ty mẹ và các công ty con. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ thể kinh
doanh? Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư
không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Chuyển giá tồn tại không chỉ ở Việt Nam
mà cả trên toàn thế giới, và sự tồn tại của nó là hiển nhiên. Do đó, chính phủ Việt
Nam đang phải cân nhắc nhiều bởi chính sách về chuyển giá có thể làm giảm lượng
đầu tư FDI vào Việt Nam và nản lòng các nhà đầu tư dự án FDI hiện tại. Chính vì
vậy, biện pháp chống chuyển giá cần phải linh hoạt và phù hợp với quan hệ thu hút
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 57
III. ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC CHỐNG CHUYỂN GIÁ TẠI
VIỆT NAM
Chuyển giá đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt Nam xác định là
một vấn đề cần được quan tâm quản lý khi mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu
chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước ngoài. Nhằm mục đích phòng chống và tăng
tính cạnh tranh trong Đầu tư Quốc tế cần xem xét các đề xuất sau đây.
1. Đề xuất nhóm giải pháp về luật
Cần xây dựng Luật Chống chuyển giá, đồng thời sửa đổi bổ sung các văn bản
pháp luật có liên quan như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật
Cạnh tranh, Luật Thuế TNDN, Luật Dân sự. Hình thành cơ quan chuyên trách chống
chuyển giá ở cấp Trung ương và các tỉnh, thành phố nhằm chỉ đạo thực hiện thông suốt.
Có như vậy mới chống được hành vi chuyển giá, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bảo đảm thu đúng, thu đủ vào ngân sách Nhà nước. Tại Việt Nam, từ lâu chúng ta đã có
quy định về xử lý chuyển giá, trước đây được quy định trong các Thông tư của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Khi có nghi ngờ về giá giao dịch, cơ quan thuế cần yêu cầu doanh nghiệp giải
trình một cách tường tận và nghiêm túc về sự chênh lệch giá với đầy đủ bằng chứng.
Nếu doanh nghiệp không có lý do chính đáng, cơ quan thuế phải nhanh chóng định giá lại
theo các phương pháp đã được quy định, việc lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc váo
tính thuận tiện và dễ kiểm tra nhất cho cơ quan thuế. Ngoài ra, cơ quan thuế cần tìm cách
liên hệ và trao đổi thông tin với các cơ quan có chức năng tương tự tại nước xuất khẩu
vốn đầu tư để có thể theo dõi sát sao hoạt động chuyển giá ngầm của doanh nghiệp FDI.
Áp dụng các khoản phạt do không cung cấp đủ bằng chứng chứng minh. Nếu
các công ty không tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về lưu trữ và cung cấp các tài liệu chứng
minh thích hợp cho từng nghiệp vụ chuyển giao của mình thì cơ quan thuế phải kiên
quyết áp dụng ác hình thức phạt tương xứng cho từng trường hợp vi phạm như: khoản
phạt phát sinh do không đáp ứng yêu cầu của cơ quan thuế, do không cung cấp đủ tài liệu
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 58
chứng minh.
Để mạnh tay hơn với những hành vi chuyển giá, Bộ Tài chính cần nhanh chóng
đẩy nhanh tiến độ xây dựng phương án sửa luật quản lý thuế theo hướng tập trung
xử lý các hành vi gian lận thuế và chuyển giá. Dự kiến, Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật Quản lý thuế sẽ được chờ thông qua ở kỳ họp Quốc hội tháng 5/2012. Biện
pháp mạnh mẽ nhất được đề xuất là ấn định số thuế trên doanh số khi DN kê khai không
hợp lý.
Khuyến khích sử dụng Cơ chế thoả thuận giá trước (advance pricing
agreement), sẽ giúp các DN và cơ quan thuế tránh được những bất đồng về việc xác định
giá trong giao dịch giữa các bên liên kết trong tương lai thông qua thoả thuận về giá giao
dịch liên kết của DN. Thoả thuận giá trước, thường có hiệu lực trong 5 năm tài chính, cần
quy định rõ các giao dịch được đề cập đến trong thoả thuận, phương pháp xác định giá thị
trường, điều khoản về giá trước trong thoả thuận, các điều khoản về hoạt động và thực
hiện. Thỏa thuận này cần được chỉnh phù hợp với diễn biến xảy ra trong tương lai, tuân
thủ quy định báo cáo hàng năm. Việc tăng cường kiểm tra để ngăn chuyển giá tại các DN
có vốn đầu tư nước ngoài tại VN trong thời gian qua là cần thiết. Tuy nhiên, các cơ quan
thuế xem xét áp dụng cơ chế thoả thuận giá trước để có thể tránh được những vấn đề liên
quan đến chuyển giá giữa DN và cơ quan thuế. Việc thảo luận giữa các DN và các cơ
quan thuế để đi đến thỏa thuận giá trước thường mất ít thời gian hơn rất nhiều so với thời
gian thực hiện các cuộc kiểm tra về chuyển giá và tìm giải pháp cho những bất đồng giữa
2 bên. Các vụ điều tra về chuyển giá có thể kéo dài từ 3 đến 4 năm, và có thể dài hơn đối
với những vụ phức tạp.
Thực hiện trao quyền cho cơ quan thuế, cơ quan hải quan thực hiện chế tài
ấn định thuế, xử lý truy thu thuế, xử phạt thuế đối với các trường hợp chuyển giá bị
phát hiện. Số thuế bị truy thu đương nhiên tính được dựa vào mức giá chênh lệch và thuế
suất, số thuế xử phạt sẽ thực hiện theo khu quy định của pháp luật xử lý hành chính thuế,
hải quan. Trong trường hợp xác định được có hiện tượng chuyển giá cơ quan thuế có
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 59
thẩm quyền có thể áp dụng các hình phạt thuế đối với doanh nghiệp vi phạm. Việt Nam
có thể áp dụng một số hình phạt đã được áp dụng thành công ở một số nước như khoản
phạt có thể đến 100% số thuế bị truy thu trong trường hợp phát hiện chuyển giá nếu đối
tượng nộp thuế cố ý không tuân thủ các quy định pháp lý về chuyển giá ở Anh. Đối với
Trung Quốc các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bị phát hiện kê khai giảm thu nhập thì
sẽ bị phạt đến 3 lần số thuế trốn (5 lần trong trường hợp nghiêm trọng). Thời hiệu truy
thu thuế thông thường là 3 năm trở về trước, và từ 5 đến 10 năm đối với những trường
hợp trốn thuế lớn gây hậu quả nghiêm trọng. Lãi suất tính lãi đối với số thuế nợ:
0,05%/ngày, tương đương với 20%/năm…
Thực hiện cải cách hành chính trong khâu nhận thủ tục và cấp giấy phép đầu
tư. Thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp phép sau khi đã được chấp thuận thì cần phải rút
ngắn thời gian thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh trường hợp
chồng chéo thủ tục giữa các bên làm kéo dài thời gian đang ký và gây phiền hà tốn kém
cho các nhà đầu tư. Khi nhận các dự án đầu từ và cấp phép phải xem xét thật kỹ hiệu quả
kinh tế mà dự án đó mang lại trong ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta đang rất cần vốn đầu
tư nước ngoài để phát triển kinh tế nhưng cũng phải lựa chọn công nghệ và dự án kèm
theo tiêu chí môi trườngvà phát triển bền vững. Không nên lựa chọn các dự án tuy có
mức đầu tư lớn nhưng lại là công nghệ cũ và tác hại đến môi trường, dự án phải hài hòa
với mục tiêu quy hoạch phát triển của từng vùng và của cả nước.
Giải pháp hình sự hóa: thay vì chỉ thanh kiểm tra và xử phạt chung chung như
trước, cần truy tố trước pháp luật đối với các trường hợp chuyển giá với giá trị đặc biệt
lớn. Các biện pháp cưỡng chế cũng được áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai đúng
đắn các giao dịch liên kết. Trước hết, đó là quy định về quyền của cơ quan thuế được ấn
định mức giá sử dụng để kê khai tính thuế hoặc ấn định thu nhập chịu thuế hay số thuế
thu nhập phải nộp. Việc ấn định dựa trên cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế phù hợp quy
định về ấn định thuế hoặc theo giá trị không thấp hơn giá trị trung bình của biên độ giá
thị trường chuẩn được cơ quan thuế ấn định. Cơ chế ấn định giá trong trường hợp này
chưa được quy định rõ vì tiêu chuẩn lựa chọn để định giá nào sẽ được xem là phù hợp
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 60
một khi những thông tin mà đối tượng nộp thuế cung cấp được xem là giả mạo, hoặc
không có giao dịch độc lập tương tự để so sánh. Từ đây có thể xảy ra việc cơ quan quản
lý có thể tùy nghi vận dụng. Chẳng hạn quy định tại đoạn 2.2 đ iểm 2, Mục 2, Phần C,
TT117/2005/TT-BTC đề cập về sự “nghi ngờ” của cơ quan thuế liên quan đến tính trung
thực của đối tượng nộp thuế dẫn đến việc chủ thể này phải có nghĩa vụ chứng minh.
Ngoài ra, Nhà nước cần có văn bản quy định nhiệm vụ cụ thể cho các ngành
có liên quan như: cơ quan thuế, hải quan, quản lý đầu tư, công an, viện kiểm sát, toà án,
ngân hàng thực hiện tốt việc phối hợp theo thẩm quyền về trao đổi, cung cấp thông tin,
nhằm kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
giao dịch liên kết và chuyển giá của các DN đầu tư nước ngoài. Theo đó, cơ quan quản lý
thuế được quyền áp dụng những biện pháp tạm dừng hoàn thuế GTGT đối với các DN
khai báo kết quả kinh doanh lỗ quá vốn chủ sở hữu cho đến khi DN khắc phục được tình
trạng liên tục kê khai lỗ, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đồng bộ với Bộ Luật Dân
sự của Việt Nam quy định về các điều kiện tồn tại pháp nhân kinh tế.
Cần đưa vào Luật Quản lý thuế một số điều khoản bắt buộc. Chẳng hạn, DN
lỗ nếu số lỗ còn bằng 50% vốn thì phải đưa vào diện quản lý rủi ro. Hoặc lỗ hết vốn thì
có thể quay trở lại cơ quan cấp giấy phép và nơi đó có thể rút phép. “Để giải quyết việc
thiếu dữ liệu trong những giao dịch này, các cơ quan thuế cần sự hợp tác sâu hơn giữa
các cơ quan liên quan, ví dụ như giữa kiểm toán và kê khai thuế. Họ sẽ thu thập và phát
triển dữ liệu đối với những giao dịch này.”
2. Đề xuất nhóm giải pháp về nhân lực
Mở các lớp học chuyên ngành, lớp huấn luyện, đào tạo nguồn nhân lực chuyên
theo dõi và phát hiện vấn đề chuyển giá, có quyền được liên hệ với các ban ngành liên
quan hoặc truy cập hệ thống dữ liệu. Tổ chức các cuộc hội thảo định kỳ trong ngành thuế
với các cán bộ đại diện cơ quan thuế đang quản lí thuế tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài để các cán bộ trong ngành học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và phát hiện các thủ
thuật trốn thuế của các doanh nghiệp.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 61
Riêng đối với công chức thuế: cần tiếp tục công tác đào tạo, nâng cao trình độ
nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng, ngoại ngữ. Hiện nay, trình độ kế toán của cán bộ thuế
Việt Nam nhìn chung còn thấp, có không ít cơ quan thuế vẫn còn tới 70% số lượng cán
bộ thuế không đọc được báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Với thực trạng như thế,
công tác chống gian lận, chuyển giá sẽ gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi việc đào tạo cán bộ
có trình độ cao ngày càng trở nên cấp thiết.
3. Đề xuất nhóm giải pháp về công nghệ-thông tin
Khai thác dữ liệu về người nộp thuế, từ đó có cơ sở chính xác hơn trong việc kiểm
tra, đánh giá hành vi chuyển giá. Đầu tư cho hệ thống công nghệ thông tin, đồng thời với
việc chuyển đổi cách thức quản lý theo Luật Quản lý thuế:
Cần xây dựng một cơ sở dữ liệu giá thế giới, xây dựng tỷ suất sinh lợi bình quân
ngành Hiện nay khó khăn của các cơ quan quản lý thuế là chưa có dữ liệu về tỷ suất lợi
nhuận bình quân của các ngành nghề nghề để áp dụng khi tiến hành kiểm tra hay thanh
tra thuế. Đây chính là vấn đề khó khăn mà cơ quan thuế hay gặp khi xem xét tỷ suất sinh
lợi tại một công ty vì không có một cơ sở pháp lý rõ ràng để làm căn cứ khi tiến hành
thanh tra thuế.
Cần tiếp tục xây dựng và nâng cấp hệ thống thông tin dữ liệu, cơ sở hạ tầng thông
tin phục vụ công tác quản lý để trợ giúp cho con người và công việc.
Thu thập thông tin liên quan đến các công ty hội viên nước ngoài:
Trong quá trình điều tra để xác định giá chuyển giao, cơ quan thuế có thể yêu cầu doanh
nghiệp đang xem xét phải cung cấp thêm những thông tin về các công ty hội viên nước
ngoài mà doanh nghiệp đó có quan hẹ giao dịch.
Thu thập thông tin từ các đối thủ cạnh tranh: Các thông tin về việc định giá
và khả năng sinh lợi của các đối thủ cạnh tranh có thể quyết đinh việc nhận biết các yếu
tố so sánh liên quan đến việc chuyển giá. Chính vì vậy, cơ quan thuế cần yêu cầu doanh
nghiệp FDI đang xem xét xuất trình thêm các tài liệu về các đối thủ cạnh tranh để có
những thông tin hỗ trợ trong việc chính sách định giá mà doanh nghiệp đang áp dụng.
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 62
Ngoài ra cần lưu ý về bảo mật thông tin để bảo vệ doanh nghiệp: để các công ty
có thể tin cậy khi đưa ra các tài liệu chứng minh thì cơ quan thuế Việt Nam phải có
những quy định đảm bảo về việc bảo mật thông tin do người chịu thuế cung cấp. Có thể
quy cụ thể những khoản phạt khi cơ quan thế công bố trái phép những thông tin cần
được bảo mật.
5. Đề xuất khác
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia liên doanh với nước ngoài: về
phía doanh nghiệp liên doanh, cần nâng cao trình độ và nhận thức của các cán bộ quản lí
Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh về vấn đề chuyển giá. Đồng thời những cán
bộ này cần theo dõi chặt chẽ việc kinh doanh của liên doanh để họ có thể nhận biết được
hành vi chuyển giá của đối tác nước ngoài, từ đó có những biện pháp giải quyết phù hợp
để vừa bảo vệ quyền lợi chung của liên doanh vừa bảo vệ quyền lợi của đất nước.
Triển khai các chương trình thanh tra toàn diện đối với doanh nghiệp FDI định kỳ
hoặc đột xuất, hoặc có dấu hiệu chuyển giá, đặc biệt là Các doanh nghiệp bị lỗ trong 2
năm liên tiếp từ khi kết thúc giai đoạn được hưởng những ưu đãi về thuế, các doanh
nghiệp có các nghiệp vụ chuyển giao thường xuyên với các doanh nghiệp liên kết ở nước
ngoài, các doanh nghiệp có những biểu hiện không bình thường trong báo cáo lỗ lãi, các
doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận đạt được thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng
một tập đoàn (đã loại trừ các yếu tố thuận lợi về điều kiện đầu tư).
Đối chiếu với các chứng từ đầu vào và đầu ra, tham khảo giá trên thị trường thế
giới, trong quy định gọi là tham vấn giá… Tăng cường công tác giám định và nâng cao
vai trò giám định của các tổ chức giám định ở Việt Nam đối với các loại tài sản mà không
có loại tương tự trên thị trường, hoặc những thiết bị đã qua sử dụng khi những tài sản này
được đưa vào góp vốn liên doanh...
Cần có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bộ với nhau, như Bộ Ngoại
giao, Bộ Tài chính để chỉ đạo các cơ quan thương vụ, các cơ quan tham tán và đại sứ
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 63
quán nước ngoài xin thu thập các thông tin có liên quan khi cơ quan thuế có yêu cầu
phối hợp chống chuyển giá.
Kiểm tra giám sát tài chính đầu vào: Kiểm tra giám sát việc đánh giá tài
sản: tài sản cố định và tài sản lưu động, và việc quản lý chi phí sản xuất, tính giá thành.
Kiểm tra, giám sát tài chính đầu ra: kiểm tra, giám sát việc thực hiện doanh
thu, hoạch toán lãi, lỗ và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, các chính sách về định giá chuyển
giao trong nội bộ công ty dựa theo tiêu chuẩn giá thị trường.
Trong công tác phòng chống chuyển giá cần có sự kết hợp đồng bộ giữa cơ quan
thuế và các cơ quan chức năng khác, đặc biệt là các công ty kiểm toán, tư vấn và các
ngân hàng:
Kết hợp với các công ty kiểm toán, tư vấn: Các công ty kiểm toán, tư vấn (đặc biệt
là các công ty nước ngoài) là những cơ quan có rất nhiều kinh nghiệm, có thể hỗ trợ tích
cực cho cơ quan thuế trong việc đấu tranh chống chuyển giá. Chính thông qua các hoạt
động kiểm toán của các công ty kiểm toán mà cơ quan thuế sẽ có những báo cáo tài
chính trung thực và chính xác về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về các
vấn đề có liên quan đến hoạt dộng chuyển giao trong nội bộ các doanh nghiệp FDI.
Những thông tin này giúp các cơ quan thuế có thể phát hiện và ngăn chặn các hành vi
gian lận, trốn thuế và đặc biệt là hiện tượng “chuyển giá”. Vì vậy, một trong những giải
pháp đồng bộ nhằm đấu tranh chống chuyển giá là cơ quan thuế phải có sự phối hợp nhịp
nhàng với các công ty kiểm toán và tư vấn. Để sự kết hợp này đạt hiệu quả cao, cần phải
nâng cao hơn nữa vai trò và chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán, tư vấn.
Muốn vậy, trước hết cần nâng cao đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên. Đạo đức
nghề nghiệp chính là những quy tắc hướng dẫn cho các kiểm toán viên ứng xử và hành
động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội. Kiểm
toán viên phải thực hiện công việc với một tinh thần thẳng thắn, bất vụ lợi, không được
phán quyết vấn đề một cách vội vàng hoặc áp đặt để đảm bảo tính chính xác của các báo
cáo tài chính. Ngoài ra việc tạo sự tin cậy thông qua các khuôn khổ đạo đức nghề nghiệp,
các kiểm toán viên phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn nhất là
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 64
trong lĩnh vực ĐTNN, phải nắm vứng các chuẩn mực kế toán quốc tế, am hiểu sâu rộng
hệ thống kế toán quốc tế được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI; có như vậy mới nâng
cao được tính chân thật và chính xác của các báo cáo tài chính đã qua kiểm toán.
Kết hợp với các ngân hàng: Cơ quan thuế cần thiết phải kết hợp chặt chẽ với ngân
hàng để nhanh chóng phát hiện và ngăn chặn những hoạt động nhằm mục đích chuyển
giá tại các doanh nghiệp FDI. Bởi vì, thông qua việc thực hiện thu chi qua ngân hàng một
cách minh bạch, ngân hàng có thể kiểm soát được tất cả các hoạt động thu chi có liên
quan đến nghiệp vụ chuyển giao các doanh nghiệp này. Ngoài ra, với chức năng tín
dụng của mình, ngân hàng phải có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ những khoản tín dụng mà
ngân hàng cung cấp cho các công ty vay vốn tại ngân hàng, đảm bảo rằng công ty này sử
dụng nguồn vốn đúng mục đích và những nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư…
ngân hàng phải tham gia thẩm định tính năng, chất lượng và định giá lại nhằm tránh tình
trạng nâng quá mức mà một số lớn công ty đã thực hiện trong thời gian qua. Chính những
điều này cho thấy ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần hạn chế
chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI. Để nâng cao hơn nữa vai trò này của ngân hàng,
cần phải đẩy mạnh việc thu chi qua các ngân hàng, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt,
đồng thời ngân hàng phải thường xuyên giám sát và yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ
đúng những qui định quản lý ngoại hối hiện hành
Nhìn chung, chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm
vi tác động của giá thị trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để
từ đó chuyển các giao dịch liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao
dịch bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của riêng một
chủ thể nào để bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà tính đến lợi ích của những chủ thể
khác nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong thị
trường cạnh tranh manh tầm Quốc tế như hiện nay.
5. Chống chuyển giá ở mức độ nào? Rõ ràng, chuyển giá là hiện tượng tất yếu, không
chỉ xảy ra ở Việt Nam mà trên phạm vi thế giới. Trong hoạt động kinh doanh mang tính
toàn cầu, thuế rẻ tạo nên một lợi thế cạnh tranh và vì vậy các tập đoàn đa quốc gia luôn
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Cao học Thương Mại – Nhóm 2 - K20 Trang 65
tìm cách chuyển các hồ sơ thuế về nơi có mức thuế thấp để khai thác lợi thế cạnh tranh
ấy. Lợi nhuận của hầu hết các tập đoàn xuyên quốc gia tại Việt Nam trong lĩnh vực công
nghiệp chủ yếu xuất phát từ chuyển giá. “Chuyển giá là một trong những lý do mà phần
lớn các tập đoàn đa quốc gia ưu tiên đầu tư tại Việt Nam và do đó nếu không còn lý do
này, họ sẽ bỏ đi nơi khác” (theo Tiến sĩ Nguyễn Vân Nam, Giám đốc Công ty luật Nam
Hùng). Do đó việc xem xét có nên chăng chống chuyển giá cần thực hiện một cách linh
hoạt thay vì quá cứng nhắc, triệt để là vô cùng cần thiết vì nó sẽ gián tiếp làm phương hại
đến mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vì vậy, chính phủ một mặt nên kiến tạo một chính sách hợp lý để kích thích các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiêu thụ thật nhiều sản phẩm ngay tại Việt Nam,
tùy theo ngành nghề ưu tiên khuyến khích và phải có một chính sách phù hợp, khách
quan với tình hình hiện nay để thu lợi nhuận từ việc đầu tư quốc tế như: thu thuế, chuyển
giao công nghệ, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực. Cụ thể, khi doanh
nghiệp thu được lợi nhuận từ việc tiêu thụ sản phẩm ở đây, họ sẽ đầu tư thực sự thay vì
chủ yếu chuyển giá như hiện nay. Với các nhà sản xuất ô tô, mỗi tháng có doanh nghiệp
chỉ bán được vài chiếc thì họ đầu tư phi lợi nhuận nếu không chuyển giá. Ngược lại, như
hãng xe máy Honda, sẽ không hoặc rất ít thực hiện chuyển giá tại Việt Nam bởi DN này
phát triển và có lợi nhuận.
Tuy nhiên ở phương diện khác, nhằm tạo sự hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào những ngành nghề hay địa phương có chủ đích mà đòi hỏi chính quyền ta đôi
khi nên bỏ ngỏ vấn đề chống chuyển giá , thay vào đó là những ưu đãi, chính sách thông
thoáng, hỗ trợ các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào đây mà Việt Nam hướng đến mục
tiêu ưu tiên là thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài để tận dụng được những tác động
tích cực mà do nguồn vốn vàng này mang lại như sự tăng trưởng về kinh tế vùng, giải
quyết công ăn việc làm….trong khi phải tốn thời gian, tiền bạc và công sức mà chưa chắc
chính phủ có thể giải quyết được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_0508.pdf