Tiểu luận Công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam

Các doanh nghiệp cà phê ngày càng khẳng định vị thế và tiềm năng to lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Chính nhờ mặt hàng nông sản đầy tiềm năng này mà Việt Nam đang ngày càng khẳng định thương hiệu và vị trí trên thương trường quốc tế. Để tham gia vào được môi trường cạnh tranh toàn cầu vốn khốc liệt và luôn kèm với rất nhiều rủi ro, mỗi DN cần tự trang bị cho mình những kiến thức tài chính và những kĩ năng quản trị tốt nhất thông qua học hỏi kinh nghiệm từ các DN nước ngoài. Bên cạnh những nỗ lực từ bản thân DN, nhà nước đã cùng tham gia để đảm bảo quyền lợi bằng các biện pháp vĩ mô như hình thành chợ đầu mối và sàn giao dịch mặt hàng cà phê.

pdf20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2706 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu tỷ giá biến động ngược chiều với mong muốn thì nó có thể gây ra những tổn thất rất lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên nếu tỷ giá diễn biến theo đúng dự đoán và mong muốn thì doanh nghiệp có thể thu được lợi ích không nhỏ. Trong trường hợp biến động của tý giá là tiêu cực sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng lực tài chính của doanh nghiệp hoặc lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là đối tượng rất nhạy cảm với sự biến động của tỷ giá hối đoái. Hiện nay, khi mà hoạt động ngoại thương diễn ra mạnh mẽ trong việc bảo hộ của NHNN nới lỏng khiến biên độ của tỷ giá nới rộng sẽ càng làm tăng nguy cơ rủi ro của tỷ giá hối đoái, chính vì vậy càng doanh nghiệp xuất nhập khẩu càng cần chú trọng vào các hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Sử dụng công cụ phái sinh là một trong những phương thức khá phổ biến đang được nhiều doanh nghiệp tìm tới. Tiểu luận Tài chính quốc tế 4 Lớp cao học TCNH 19A 2. Công cụ tài chính phái sinh 2.1. Khái niệm và sự hình thành - Công cụ tài chính phái sinh (CCTCPS) là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên. - Mặc dù được coi là một công cụ tài chính hiện đại, các sản phẩm phái sinh lại có lịch sử phát triển khá lâu đời. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xảy ra, các nghiệp vụ liên quan đến CCTCPS đã được hình thành. CCTCPS là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có (trị giá cổ phiếu, lãi suất, hàng hóa….) nhằm nhiều mục tiêu như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Thị trường tài chính phái sinh là nơi diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các loại sản phẩm tài chính phái sinh, với các sản phẩm thông dụng của thị trường tài chính phái sinh như: Quyền mua cổ phần, Chứng quyền, Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng hoán đổi... Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. 2.2. Các công cụ tài chính phái sinh CCTCPS bao gồm 04 loại: Hợp đồng kỳ hạn (Forward), Hợp đồng tương lai (Future), Quyền chọn (Option) và Hoán đổi (Swaps). Hình thức và điểm khác biệt giữa các CCTCPS cụ thể như sau: - Hợp đồng kỳ hạn: Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận mua hoặc bán một tài sản (hàng hoá hoặc tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là nông sản, các đồng tiền, cho tới chứng khoán. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường. Như vậy bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác. - Hợp đồng tương lai (hợp đồng giao sau): Đây cũng là một hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá Tiểu luận Tài chính quốc tế 5 Lớp cao học TCNH 19A đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng giao sau có những điểm giống với hợp đồng kỳ hạn, đều được ấn định rõ loại hàng hóa, số lượng, chất lượng, giá tương lai, ngày giao hàng và địa điểm giao hàng. Cả hai đều là một trò chơi có tổng bằng 0, khoản lời của bên này chính là khoản lỗ của bên kia. Tuy vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau, thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán; người mua và người bán thường không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường quy định trước một số các điều khoản cho những hợp đồng này về mặt số lượng hàng hóa, ngày giao hàng và nơi giao hàng… Hợp đồng tương lai được tái thanh toán hằng ngày và được ấn định, ghi nhận trên thị trường, nên các khoản lời lỗ được nhận biết hằng ngày. Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là Hội đồng mậu dịch Chicago, Sở Thương mại Chicago và Sở Giao dịch các hợp đồng tương lai London. Các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai gồm, heo, bò, đường, len..., sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ. - Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option) và hợp đồng quyền chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Khác với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền. Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí, giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện, ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay ngày thực hiện. Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ. - Hoán đổi: Là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Có 4 loại hoán đổi là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất, hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ. Hoán đổi được xem như là kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn, là cải tiến tài chính mới nhất nhưng về thực chất không phức Tiểu luận Tài chính quốc tế 6 Lớp cao học TCNH 19A tạp hơn một danh mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng hiện diện trong hoán đổi cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn. 2.3. Vai trò của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh - Quản trị rủi ro: Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác. Thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội. - Thông tin hiệu quả hình thành giá Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình. Tiểu luận Tài chính quốc tế 7 Lớp cao học TCNH 19A - Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả Thứ nhất: chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn. Thứ hai: tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn. Thứ ba: Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận. Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. 3. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá 3.1. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn Ví dụ: Tình hình giá cà phê trên thị trường Việt Nam thường bất ổn và dao động tùy thuộc vào tình hình thời tiết và giá cả cà phê trên thị trường thế giới. Để tránh tình trạng bất ổn, vào đầu vụ, công ty A chuyên xuất khẩu cà phê có thể thương lượng và ký kết hợp đồng mua cà phê nhân xô kỳ hạn 6 tháng với nông dân B với số lượng 20 tấn cà phê, nhân xô giá mua 47 triệu đồng/tấn. Lúc đó A là người mua và B là người bán trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 6 tháng B có trách nhiệm phải bán cho A 20 tấn cà phê nhân xô, giá thỏa thuận trước là 47 triệu đồng/tấn và A bắt buộc phải mua 20 tấn cà phê nhân xô của B với giá đó, dù giá cà phê nhân xô trên thị trường sau ba tháng là bao nhiêu đi nữa. 3.2. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng tương lai Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bán trong tương lai, do người mua, hoặc người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính, văn phòng chứng khoán phải đưa ra những quy định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán. 3.3. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng quyền chọn Ví dụ: Ngày 01/06/2011, công ty A ký hợp đồng quyền chọn mua cà phê nhân xô với công ty B 20 tấn cà phê nhân xô với giá thực hiện 47 triệu đồng/tấn, giá quyền 9 triệu đồng. Nếu vào ngày đáo hạn 01/08/2011, giá cà phê nhân xô là 50 triệu đồng/tấn, thì người mua quyền thực hiện quyền và mua 20 tấn cà phê nhân xô với giá 47 triệu đồng/tấn. Nếu không có quyền chọn mua sẽ phải mua trên thị trường với giá 50 triệu đồng. Khoản lợi thu được 3triệu đồng/tấn. Ngược lại, giả sử vào ngày đáo hạn giá cà phê nhân xô là 45 triệu đồng/tấn. Nếu thực hiện quyền, người nắm giữ quyền sẽ mua với giá 47 triệu đồng/tấn, trong khi nếu mua trên thị trường thì chỉ phải trả giá 45 triệu Tiểu luận Tài chính quốc tế 8 Lớp cao học TCNH 19A đồng/tấn. Như vậy, người giữ quyền sẽ không thực hiện quyền và chấp nhận mất 9 triệu đồng phí quyền chọn. 3.4. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn Ví dụ: Theo kế hoạch, công ty A cần 200.000 $ để thanh toán cho một hợp đồng khẩu trong ngày hôm nay, đồng thời Công ty A sẽ nhận được 200.000 USD từ một hợp đồng xuất khẩu cà phê sau 4 tháng. Ngày 20/06/2011, Công ty quyết định tiến hành giao dịch với Ngân hàng ngoại thương như sau: Ký một hợp đồng hoán đổi gồm 2 vế là “vế mua giao ngay” và “vế bán kỳ hạn” 4 tháng một lượng $ không đổi là 200.000 $. Giả sử tỷ giá giao ngay VCB áp dụng trong giao dịch hoán đổi này là 20.650 VND/USD và điểm kỳ hạn gia tăng 3 tháng là 150 VND/USD. Ta có: Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + Điểm kỳ hạn gia tăng = 20.650 + 150 = 20.800 VND/USD. Chương 2 SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH ĐỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT NAM 1. Thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam Mặc dù thị trường phái sinh (TTPS) thế giới có lịch sử phát triển lâu đời và hiện đã phát triển lên một trình độ cao nhưng tại Việt Nam, TTPS vẫn được coi là một thị trường rất mới. TTPS tiền tệ và hàng hóa đã hình thành được một thời gian nhưng chưa phát triển. TTPS chứng khoán chưa có quy định pháp lý hướng dẫn nên chưa được phép triển khai. Một thực tế là các tài sản cơ sở là tiền tệ, hàng hóa, chứng khoán được quản lý bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau nên TTPS bị chia tách theo các tài sản cơ sở này. TTPS được chia ra gồm 3 thị trường: Thị trường phái sinh tiền tệ, thị trường phái sinh hàng hóa, thị trường phái sinh chứng khoán. TTPS tiền tệ ra đời sớm nhất tại Việt Nam. Đây là thị trường có nhiều biến động khó lường vì các giao dịch tiền tệ liên quan đến mọi hoạt động của nền kinh tế từ mua bán hàng hóa, thanh toán, đầu tư kinh doanh… Các sản phẩm phái sinh tiền tệ được giao dịch trên thị trường phi tập trung giữa các ngân hàng với nhau hoặc giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính, doanh nghiệp, cá nhân… Các sản phẩm phái sinh chủ yếu trên thị trường tiền tệ gồm có: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi và các hợp đồng quyền chọn trên lãi suất và ngoại tệ, chưa có hợp đồng tương lai vì chưa có thị trường tập trung. Thị trường phái sinh hàng hóa: Khác với các công cụ phái sinh tiền tệ, các công cụ phái sinh hàng hóa về cơ bản được giao dịch trên các sàn giao dịch tại một địa điểm tập trung. Tuy nhiên, các sàn giao dịch trong nước hiện có chưa hội tụ đủ tiêu chuẩn là một Sở Giao dịch hàng hóa tập trung đúng nghĩa, đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán, hệ thống giám định… Đa phần các sản phẩm phái sinh hàng hóa được niêm yết và giao dịch như Hợp đồng thương lượng cà phê (Robusta và Arabica), cao su (RSS3) và thép (HRC)… hiện được niêm yết trên HNX vẫn chỉ dừng Tiểu luận Tài chính quốc tế 9 Lớp cao học TCNH 19A ở mức độ thăm dò, sự tham gia của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nhà đầu tư còn hạn chế. Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thực sự đã có giai đoạn “nở rộ” trong năm 2007 và đầu năm 2008 trước thời kỳ suy giảm sâu, kéo dài từ cuối năm 2008 đến nay. Trong giai đoạn “nở rộ” đó, trước nhu cầu đầu tư sinh lợi quá lớn từ phía các nhà đầu tư cho rằng đầu tư các cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ hiện có là chưa đủ, một số loại công cụ phái sinh trên chứng khoán đã ra đời, được giao dịch trên thị trường phi tập trung, dưới các hình thức khác nhau nhằm che đậy sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Các chứng khoán phái sinh được triển khai tại các công ty chứng khoán (CTCK) chủ yếu là các quyền chọn dựa trên tài sản cơ sở là cổ phiếu. Các CTCK đóng vai trò là người bán quyền chọn (thông thường là quyền chọn mua - call option) cho khách hàng, trực tiếp giao dịch với khách hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Đối tượng giao dịch không hạn chế nhưng chủ yếu tập trung vào nhà đầu tư cá nhân có giá trị tài sản lớn. CTCK thực hiện thu phí quyền chọn dựa trên cơ sở xác định khả năng xảy ra rủi ro cao nhất thông qua giao dịch trên TTCK cơ sở. Chứng khoán được chọn làm tài sản cơ sở có thể là cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc cổ phiếu được giao dịch trên thị trường phi tập trung. Cũng trong giai đoạn này, thị trường cổ phiếu phi tập trung cũng phát triển khá mạnh, trên thị trường xuất hiện nhiều website đăng tin và tổ chức mua bán cổ phiếu phi tập trung, một số giao dịch phái sinh cũng “ăn theo” các website này. Tuy nhiên, không có một con số thống kê cụ thể nào về các giao dịch này. Tại Việt Nam các sản phẩm phái sinh đã xuất hiện trên thị trường cách đây hơn 10 năm, nhưng mới chỉ mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ. Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN. Các giao dịch quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung, mức độ phát triển của các công cụ tài chính phái sinh ở nước ta vẫn còn rất hạn chế. Hiện nay việc thực hiện các hợp đồng phái sinh của khách hàng Việt Nam chủ yếu thực hiện qua môi giới nước ngoài và tham gia các thị trường ở nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết hoặc chưa quen sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro. Mặt khác, các hợp đồng phái sinh khá phức tạp nên Tiểu luận Tài chính quốc tế 10 Lớp cao học TCNH 19A doanh nghiệp ngại sử dụng. Hàng lanh pháp lý cho thị trường phái sinh ở Việt Nam hầu như chưa có. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những rủi ro rất lớn, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu trong bối cảnh các thị trường tài chính luôn dao động mạnh. Sẽ đến lúc nhu cầu tự thân của doanh nghiệp là phải dùng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro và bảo hiểm hoạt động sản xuất - kinh doanh. Để làm được điều đó đòi hỏi sự phối hợp của Chính phủ, các Ngân hàng và các doanh nghiệp để đẩy mạnh hơn nữa việc sử dụng các công cụ này tại Việt Nam. 2. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại doanh nghiệp cà phê Việt Nam Các hợp đồng và nghiệp vụ phái sinh liên quan đến hoạt động kinh doanh cà phê được giao dịch chủ yếu trên thị trường phái sinh hàng hóa (thị trường cà phê phái sinh). 2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của thị trường cà phê phái sinh Ở Việt Nam hiện nay có 02 sàn giao dịch hàng hóa là Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) và Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX). Tuy nhiên, Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) đã xin tạm ngừng hoạt động gần 1 năm nay, còn sàn Info vừa nhận được quyết định thành lập vào tháng 5/2013 và đang xin phép gia hạn để chuẩn bị các hoạt động giao dịch. Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) Nằm trong chương trình xây dựng thí điểm chợ đầu mối của 3 vùng nguyên liệu tập trung: Chợ lạc của Nghệ An, Chợ gạo của Cần Thơ và Chợ cà phê của Đắc Lắc và thông qua đề xuất của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc, Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) đã được thành lập theo quyết định Quyết định 2278/QĐ- UBND ngày 04/12/2006 của UBND tỉnh Đắc Lắc. Ngân hàng Techcombank đóng vai trò là ngân hàng ủy thác thanh toán và nhà môi giới giao dịch cho BCEC, mô hình sàn giao dịch được thành lập theo mô hình sàn giao dịch ở London và giao dịch mua bán giao ngay và giao sau là hai giao dịch chính thức được thực hiện tại đây. BCEC ra đời giúp cho việc thực hiện mua bán giữa người nông dân và doanh nghiệp giảm bớt khâu trung gian, thực hiện giao dịch trực tiếp, công khai, minh bạch, các nhà tài chính cũng có thêm môi trường lành mạnh để đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, do bước đầu gia nhập thị trường phái sinh, BCEC cũng gặp phải nhiều khó khăn về phần mềm điều hành giao dịch, quy chế giao dịch, cũng như cơ sở vật chất, nên thời gian đầu không thu hút được nhiều người tham gia, làm cho thị trường mất đi tính thanh khoản, sàn giao dịch không phát huy được hiệu quả như mong đợi. Theo báo cáo của BCEC, kể từ ngày khai trương đến nay, trung tâm mới chỉ phát triển được 90 thành viên. Trong đó có 63 thành viên đăng ký bán, 23 thành viên kinh doanh và 4 thành viên môi giới. Trong 5 năm qua, trung tâm đã rất cố gắng phát triển thành viên với 12 chương trình hội thảo giới thiệu hoạt động và hướng dẫn quy định về giao dịch, 18 đợt tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nhà đầu tư, 15 đợt đào tạo, tập huấn. Tuy nhiên, Trung tâm vẫn khó phát triển thành viên, đặc biệt là Tiểu luận Tài chính quốc tế 11 Lớp cao học TCNH 19A với người nông dân trồng cà phê. Bên cạnh đó thì khối lượng cà phê giao dịch qua trung tâm cũng ngày càng giảm. Trong 4 loại hợp đồng phái sinh thì hợp đồng cà phê tương lai là phổ biến nhất. Hợp đồng cà phê tương lai là hợp đồng ràng buộc được tiêu chuẩn hóa để giao hoặc nhận một khối lượng và loại cà phê riêng biệt tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá đã được thống nhất. Người mua hợp đồng có nghĩa vụ nhận hàng cà phê theo các điều khoản hợp đồng vào một ngày xác định, trong khi người bán có nghĩa vụ giao cà phê. Đa số hợp đồng cà phê tương lai không bao giờ dẫn đến việc giao hoặc nhận hàng cà phê thực. Thay vào đó, người nắm giữ hợp đồng thanh khoản trạng thái của mình bằng các thực hiện các giao dịch bù trừ trong thị trường. Người mua bán hợp đồng họ đã mua và người bán mua lại hợp đồng, loại bỏ các nghĩa vụ giao hàng. - Ký quỹ cho hợp đồng cà phê tương lai: Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, sở giao dịch yêu cầu người tham gia thị trường thanh toán tiền ký quỹ ban đầu và phát sinh. Tiền ký quỹ ban đầu là tiền nạp cọc để đảm bảo người tham gia thị trường sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng của mình. - Đòn bẫy: Điểm hấp dẫn của giao dịch cà phê tương lai đối với nhà đầu tư là đòn bẫy. Vì các giao dịch tương lai không yêu cầu thanh toán trước đầy đủ (chỉ cần tiền ký quỹ mà thôi) nên người mua hợp đồng cà phê tương lai có thể thu được khoản lời lớn nhờ cam kết đòn bẫy. Giả sử một nhà đầu tư có thể mua hợp đồng cà phê arabica tương lai (mỗi hợp đồng là 37.500 lb) với số tiền ký quỹ là 3.000 USD. Nếu nhà đầu tư mua một hợp đồng với mức giá 150 cents/lb (tốn 56.250 USD cho hợp đồng) và bán hợp đồng khi giá cà phê arabica chạm mức 165 cents/lb, thì nhà đầu tư đó sẽ thu lời 5.625 USD (15 cents x 37.500 lb = 5.625 USD) - một kết quả bằng 187,5% so với mức ký quỹ ban đầu khi trạng thái được thanh khoản. Đó chính là đòn bẫy, nó có thể là công cụ đầu tư quyền năng. Tất nhiên đòn bẫy có cả mặt trái của nó. Nếu giá cà phê dao động ngược hướng kỳ vọng thì nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền ký quỹ và nhiều hơn thế nữa nếu không tuân thủ quy tắc và kỷ luật giao dịch thông thường. Hiện tại các hợp đồng phái sinh đối với cà phê được giao dịch tại 2 sàn lớn trên thế giới là sàn ICE ở New York và sàn Liffe NYSE ở London. 2.2. Đánh giá Hiện nay, cả nước chỉ có trên dưới 100 doanh nghiệp sử dụng các công cụ phái sinh, một con số quá khiêm tốn. Một nguyên nhân chính là Việt Nam chưa phát triển mạnh sàn giao dịch hàng hóa. Có chăng chỉ là một vài sàn như sàn cà phê BCEC tại Buôn Ma Thuột, hay Sàn Hàng hóa Việt Nam VNX nhưng giao dịch cũng chưa sôi động. Nghĩa là chưa có đất để hợp đồng tương lai cũng như các công cụ phái sinh khác phát triển. Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cà phê nói riêng chọn tham gia các sàn quốc tế là chính. Tuy nhiên, khi tham gia các sàn giao dịch Tiểu luận Tài chính quốc tế 12 Lớp cao học TCNH 19A quốc tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ người chuyên môn cao để phân tích, dự báo xu hướng giá thế giới, từ đó có thể đưa ra quyết định chính xác. Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh đều là doanh nghiệp tư nhân. Vấn đề không hẳn nằm ở chỗ các doanh nghiệp nhà nước không muốn sử dụng hợp đồng tương lai; nó còn liên quan đến nhận thức của cơ quan chức năng về tính hữu hiệu của công cụ này. Đối với giao dịch hàng hóa thực, hợp đồng tương lai luôn giúp doanh nghiệp, dù là quốc doanh hay tư nhân, tránh được rủi ro. Nhưng mọi việc sẽ trở nên rất nặng nề, đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh nếu việc sử dụng các công cụ phái sinh khiến cho họ thiệt hại về tài chính. Ngày 27.3.2012, chẳng hạn, một công ty cà phê Việt Nam đã sử dụng hợp đồng tương lai về xuất khẩu cà phê, giá chốt giao tháng 7 tới là 2.051 USD/tấn. Với mức giá này, tạm tính các chi phí vốn, lưu kho bãi, hao hụt… doanh nghiệp này cũng đã có lãi. Thế nhưng, nếu đến khi giao hàng, giá cà phê trên sàn London tăng mạnh lên 2.100 USD/tấn, doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại 49 USD/tấn. Khối lượng cà phê xuất khẩu càng nhiều thì thiệt hại cho doanh nghiệp càng lớn. Đây chính là điểm doanh nghiệp nhà nước phải giải trình với đơn vị chủ quản. Và thực tế điều này đã xảy ra. Rõ ràng, sự hiểu biết, cởi mở hơn của cơ quan chức năng và việc tạo ra khuôn khổ pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các công cụ phái sinh. Ở ví dụ trên, nếu chỉ nhìn một chiều thì sẽ thấy doanh nghiệp bị thiệt hại. Nhưng nếu doanh nghiệp tính toán đúng xu hướng giá và nếu vào lúc giao hàng, giá giảm xuống mức 2.000 USD/tấn thì họ đã làm lợi cho mình tới 51 USD/tấn. Và xuất khẩu với khối lượng càng nhiều, lãi sẽ càng lớn. Trên thế giới, có nhiều doanh nghiệp sử dụng loại hợp đồng này và giá ghi trong hợp đồng tương lai là giá tham chiếu cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thực. Vì thế, không thể nói rằng không tham gia hợp đồng tương lai thì không bị ảnh hưởng gì. Doanh nghiệp, dù đứng ngoài cuộc chơi, vẫn sẽ bị tác động khi giá các hợp đồng tương lai biến động. Do đó, cần chủ động tiếp cận công cụ này để nắm bắt thông tin thị trường. Ở Singapore, 90% người dân có hiểu biết về thị trường chứng khoán, 50% người dân biết về hợp đồng tương lai. Do vậy, doanh nghiệp rất ưa chuộng công cụ này. Theo ông, ngân hàng luôn có vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp hiểu biết và sử dụng hợp đồng tương lai qua việc cung cấp thông tin chuyên sâu về các ngành hàng, các loại hàng hóa cũng như tư vấn cho doanh nghiệp. 2.3. Triển vọng của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá ở các doanh nghiệp cà phê Việt Nam Trong năm 2011, thị trường cà phê tương lai Liffe ở London đã chính thức cho phép doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam được mở kho và gửi mẫu sang Trung tâm Kiểm tra chất lượng tại London, giúp rút ngắn thời gian giao hàng, nhận tiền khi các doanh nghiệp Việt Nam muốn bán sản phẩm cà phê ra thị trường thế giới. Việt Nam là nước sản xuất đầu tiên được Liffe đưa ra quyết định này. Không chỉ riêng Liffe, Sở Giao dịch hàng hóa Singapore (SICOM), sàn Tocom (Nhật) cũng đã có những hoạt động tiếp thị nhằm thu hút doanh nghiệp và nhà đầu tư (NĐT) tham gia. Tiểu luận Tài chính quốc tế 13 Lớp cao học TCNH 19A Điều này cho thấy thị trường hàng hóa của Việt Nam, nhất là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực được các sở giao dịch hàng hóa lớn trên thế giới chú ý. Đối tượng tham gia tiềm năng không chỉ là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mà còn có những người nông dân, giúp họ tránh khỏi tình trạng "đơợc mùa mất giá, được giá mất mùa". Đây có thể là một bước đi tiến bộ trong hoạt động sản xuất nông sản của người nông dân tại Việt Nam, giúp họ giảm được nỗi lo về biến động về giá trong nền kinh tế hiện nay. Được đánh giá là tiềm năng nhưng số lượng tham gia của nhà đầu tư tổ chức và cá nhân còn khá hiếm. Một số nhà đầu tư tại TP.HCM cho biết do phương thức giao dịch là hợp đồng tương lai nên cần phải nghiên cứu kỹ để tránh bị “hớ” khi mua bán. Nhất là việc dự báo giá cả hàng hóa phải cần có thêm nhiều thông tin như được mùa, mất mùa, nước nào gia tăng dự trữ. Vì vậy cũng giống như thị trường chứng khoán, các cá nhân, doanh nghiệp trong nước đều có tâm lý “thực tập” ở sàn trong nước trước khi ra sàn ngoại. Xét về vĩ mô, sàn giao dịch sẽ quy định mức giá chung làm phong vũ biểu cho cả thị trường, tạo sự cân bằng, công khai, minh bạch cho người nông dân cũng như nhà đầu tư, họ đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận và khai thác thông tin trên thị trường. Sàn giao dịch cà phê hình thành mở ra môi trường đầu tư mới theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện hội nhập thị trường cà phê phái sinh thế giới. Việt Nam dẫn đầu thế giới về xuất khẩu cà phê robusta. Sàn giao dịch sẽ là nơi quảng bá thương hiệu cà phê Việt Nam với thế giới, giúp xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cho mặt hàng xuất khẩu cà phê tại Việt Nam. Còn xét về tầm vi mô, sàn giao dịch ra đời do nhu cầu nội tại và thiết thực của các thành phần trong chuỗi cung ứng hàng hóa nguyên liệu thô trong việc tìm kiếm giá tối ưu, vì các doanh nghiệp kinh doanh nguyên liệu thô như cà phê luôn tìm kiếm cơ hội mua bán trên những sàn giao dịch quốc tế lớn khác. Cơ chế của sàn giao dịch giúp giảm thiểu biến động giá thông qua bàn tay vô hình, mọi cá nhân đều hành động vì lợi ích riêng của mình vô tình điều chỉnh thị trường một cách liên tục đến khi cân bằng. Khi lượng cà phê trên thị trường dư thừa, nhà sản xuất sẽ giảm giá và sản xuất ít đi do nhu cầu suy giảm, ngược lại, khi cà phê trên thị trường thâm hụt thì nhà sản xuất sẽ tăng giá và sản xuất thêm để đáp ứng lượng cầu đang tăng. Sự tái cân bằng liên tục này sẽ giúp thị trường thoát khỏi chu kỳ tăng trưởng quá mức dẫn đến sụp đổ. Từ thông tin mà thị trường cà phê phái sinh cung cấp, cùng với quan hệ cung cầu tương tác của hàng ngàn nhà đầu tư tham gia thị trường sẽ giúp xác định giá một cách công bằng, công khai mà sàn giao dịch cà phê sẽ là nơi giúp thực hiện điều đó. Dựa trên mức giá được xác định đó, người sản xuất và người tiêu dùng sẽ xác định được mức hàng hóa cần phải sản xuất hoặc tiêu thụ. Việc điều hành tốt hoạt động của sàn giao dịch cà phê sẽ góp phần nâng cao vai trò, cũng như chức năng của sàn, nhằm phát triển hệ thống sở giao dịch nội địa. Tiểu luận Tài chính quốc tế 14 Lớp cao học TCNH 19A Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ 1. Quy định về giới hạn và giá mua Nhà nước đứng ra đảm bảo mức giá sàn mà vẫn tạo cơ hội tìm kiếm lợi nhuận khi giá tăng, vẫn đúng “luật chơi” thị trường chứ không dùng cách can thiệp thị trường theo kiểu bình ổn giá hay tạm trữ - đó là mua quyền chọn bán. Mua quyền chọn bán (put option) nghĩa là người mua có quyền bán hoặc không bán một hợp đồng kỳ hạn vào một ngày trong tương lai với giá cố định vào hôm nay. Cụ thể: giả sử 1.600 USD/tấn cà phê là mức giá sàn mà Nhà nước đảm bảo. Vào ngày 24-6-2013, quyền chọn trên hợp đồng kỳ hạn tháng 9 đang giao dịch tại NYSE Liffe với giá thực hiện 1.600 USD/tấn, có phí quyền chọn là 26 USD/tấn (tương đương 546.936 đồng/tấn). Nếu Nhà nước đồng ý mua quyền chọn bán cho tất cả sản lượng cà phê sản xuất tại Việt Nam, khoảng 1,5 triệu tấn, thì chỉ cần chi ra 39 triệu USD là nông dân có thể an tâm rằng cà phê sẽ được bán không dưới mức 33.658 đồng/kg mà không cần thực hiện tạm trữ gì cả. Một lựa chọn khác, tùy theo khả năng và sở thích của mỗi người mà họ mong muốn mức giá đảm bảo khác nhau. Khi đó, nông dân sẽ thanh toán thêm một khoản chênh lệch để đạt được mức giá đảm bảo mong muốn. Ví dụ, một người mong muốn được đảm bảo với mức giá 36.813 đồng/kg (tương đương 1.750 USD/tấn), với mức giá này thì phí quyền chọn là 79 USD/tấn, do Nhà nước hỗ trợ 26 USD/tấn theo mặt bằng chung nên chỉ cần thanh toán thêm 53 USD/tấn, hoặc nếu muốn được đảm bảo với mức giá 37.865 đồng/kg (tương đương 1.800 USD/tấn) thì chỉ cần thanh toán thêm 81 USD/tấn. Theo Nhóm quốc tế quản trị rủi ro hàng hóa tại các nước đang phát triển ITF- CRM, giải pháp thích hợp nhất cho nông dân là mua quyền chọn bán. Bởi đối với các tổ chức cung cấp công cụ phái sinh, hạn chế lớn nhất khi kinh doanh với nông dân tại các nước đang phát triển là rủi ro tín dụng khi không đáp ứng được các yêu cầu ký quỹ nghiêm ngặt nếu giao dịch hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, quyền chọn bán với khoản thanh toán phí quyền chọn trước đã loại bỏ rủi ro tín dụng này. Với quyền chọn bán trong một thị trường đang giảm giá, nông dân có thể vẫn đảm bảo được mức giá sàn bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi. Nếu sau khi mua quyền chọn bán mà giá tăng, đơn giản là để quyền chọn ấy hết hạn mà không thực hiện, và cà phê có thể đem bán với mức giá cao hơn theo thị trường lúc đó. Nghĩa là mua quyền chọn bán có thể giới hạn thua lỗ mà vẫn có cơ hội khi giá tăng trở lại. Vấn đề là những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ sẽ khó tham gia trực tiếp thị trường kỳ hạn - ít nhất là không tham gia đến khi họ tích lũy được kiến thức, nguồn lực và năng lực cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, Brazil đã sử dụng quyền chọn bán nhưng là do Chính phủ Brazil đứng ra bán giúp nông dân và đây là một mô hình để Việt Nam học Tiểu luận Tài chính quốc tế 15 Lớp cao học TCNH 19A hỏi sau này. Trong thời điểm “dầu sôi lửa bỏng” hiện nay, cách tốt nhất là Nhà nước đứng ra thay mặt nông dân tổng hợp nhu cầu phòng ngừa rủi ro, thực hiện các giao dịch trên sở giao dịch... sau đó thanh lý hợp đồng tại thời điểm thích hợp. Cần lưu ý đôi khi phí quyền chọn sẽ trở nên đắt, bởi phí bảo hiểm thường cao nhất khi chúng cần thiết nhất. Nhưng một mặt khi phát đi thông tin Việt Nam mua quyền chọn bán cho toàn bộ sản lượng cà phê của mình, phí quyền chọn sẽ tăng cao, nhưng mặt khác phát đi tín hiệu Việt Nam đang học hỏi và bắt đầu biết chơi luật chơi chung của thế giới. Khi nông dân Việt Nam đã tự mua hoặc Chính phủ hỗ trợ mua quyền chọn bán cho sản lượng cà phê thì điều này mang lại sự đảm bảo hơn cho cà phê lưu kho. Và có thể ngân hàng sẽ cân nhắc lại quyết định cho vay dựa trên cà phê lưu kho đã được “bảo vệ” này so với v iệc cho vay dựa trên cà phê không có sự phòng ngừa rủi ro nào trước đây. Có thể mở rộng cách thức này một cách bài bản hơn như Guatemala đã thực hiện. Năm 1994, Liên hiệp Nông dân trồng cà phê quốc gia (National Coffee Growers’ Federation - Anacafé) đã giới thiệu hệ thống nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại và những hộ nông dân thường dựa vào chương trình này để vay ngân hàng. Theo đó, sử dụng các công cụ quản trị rủi ro là điều kiện tiên quyết để tham gia chương trình tín dụng. Vì vậy rủi ro cho ngân hàng giảm đáng kể, cho phép họ cung cấp tín dụng cho nông dân trồng cà phê với lãi suất thấp hơn (theo ước tính của Anacafé, tiết kiệm được tiền lãi cho nông dân hơn 10% giá trị khoản vay - khoảng 2 triệu USD mỗi năm) (Rutten và Youssef, 2007). Như vậy, hai mặt của một vấn đề: quản trị rủi ro giá và cung cấp tín dụng có mối quan hệ khắng khít. 2. Về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những quy định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào. Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới. 3. Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên thị trường quốc tế Tiểu luận Tài chính quốc tế 16 Lớp cao học TCNH 19A Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước. 4. Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái sinh Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này. 5. Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch. 6. Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản phẩm phái sinh Tiểu luận Tài chính quốc tế 17 Lớp cao học TCNH 19A Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ hạn và tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại là giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng. Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ. Nói chung, hiện tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường. Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền chọn quyền được mua ngoại tệ khi DN không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các DN nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu đến hạn. Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất. Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị tr ư ờng ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý. Tiểu luận Tài chính quốc tế 18 Lớp cao học TCNH 19A KẾT LUẬN Các doanh nghiệp cà phê ngày càng khẳng định vị thế và tiềm năng to lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Chính nhờ mặt hàng nông sản đầy tiềm năng này mà Việt Nam đang ngày càng khẳng định thương hiệu và vị trí trên thương trường quốc tế. Để tham gia vào được môi trường cạnh tranh toàn cầu vốn khốc liệt và luôn kèm với rất nhiều rủi ro, mỗi DN cần tự trang bị cho mình những kiến thức tài chính và những kĩ năng quản trị tốt nhất thông qua học hỏi kinh nghiệm từ các DN nước ngoài. Bên cạnh những nỗ lực từ bản thân DN, nhà nước đã cùng tham gia để đảm bảo quyền lợi bằng các biện pháp vĩ mô như hình thành chợ đầu mối và sàn giao dịch mặt hàng cà phê. Mặc dù chúng ta đã có một định hướng cụ thể để thiết lập một chương trình phòng ngừa và quản trị rủi ro giá cả cụ thể nhưng vẫn còn nhiều yếu tố cần xem xét để từng bước hoàn thiện hơn nữa thị trường các sản phẩm phái sinh với mục đích phòng ngừa rủi ro biến động hàng hóa cà phê. Đây là một thách thức rất lớn khi các DN Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh từ các quốc gia đã có bề dày kinh nghiệm về quản trị rủi ro bằng các công cụ phái sinh. Tiều luận đã đưa ra được các ưu thế khi sử dụng các công cụ tài chính phaí sinh đặc biệt trong việc sử dụng sàn giao dịch cà phê. Tuy nhiên để giữ vững vì trí xuất khẩu đứng nhất nhì như hiện nay thì chúng ta cần phát triển và mở rộng hơn nữa sản phẩm này để bảo vệ các DN cà phê Việt Nam và thiết lập được một chương trình phòng ngừa rủi ro hiệu quả. Tiểu luận Tài chính quốc tế 19 Lớp cao học TCNH 19A DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Phòng phân tích và dự báo thị trường, Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán, UBCKNN, Báo cáo khảo sát nhanh các loại hình chứng khoán phái sinh và sản phẩm giao dịch mới TTCK Việt Nam; - Kỷ yếu hội thảo khoa học tháng 10/2011: Thị trường phái sinh hàng hóa: Thực trạng và định hướng, Trường đào tạo phát triển nguồn nhân lực, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam; - TS. Đào Lê Minh (2009), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Nxb Văn hóa - Thông tin. Tiểu luận Tài chính quốc tế 20 Lớp cao học TCNH 19A MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 Chương I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ BẰNG CÔNG CỤ PHÁI SINH ................................................................................................................... .....2 1.Rủi ro tỷ giá .......…. …………………………………………………………….. 2 1.1. Tỷ giá hối đoái.......................................................................................................... 2 1.2. Rủi ro tỷ giá .............................................................................................................. 2 2.Công cụ tài chính phái sinh ............................................................................................. 3 2.1. Khái niệm và sự hình thành .................................................................................... 3 2.2. Các công cụ tài chính phái sinh ............................................................................. 3 2.3. Vai trò của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh.......................................... 4 3. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá ............................................. 6 3.1. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn .......................... 6 3.2. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng tương lai...................... 6 3.3. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng quyền chọn.................. 6 3.4. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn .......................... 7 Chương 2. SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH ĐỀ PHÒN G NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT NAM....... .....................7 1. Thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam....................................... 7 2. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại doanh nghiệp cà phê Việt Nam ............................................................................................................................... 9 2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của thị trường cà phê phái sinh ................ 9 2.2. Đánh giá................................................................................................................. 10 2.3. Triển vọng của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá ở các doanh nghiệp cà phê Việt Nam .......................................................... 11 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT N AM.............................................. 13 1. Quy định về giới hạn và giá mua ................................................................................... 13 2. Về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái s inh ............................. 14 3. Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên thị trường quốc tế ......................... 14 4. Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái sinh .............................................................................................................................. 15 5. Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo t ài chính...................................................... 15 6. Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản phẩm phái sinh .......................................................................................... 15 KẾT LU ẬN............................................................................................................................. 17 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 18

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_2_quan_tri_rui_ro_8269.pdf
Luận văn liên quan