Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương Nghị quyết 11, 12 khoá III của Đảng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn được tiến hành trong hoàn cảnh có chiến tranh đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Ở miền Nam: Dưới ánh sáng của Nghị quyết trung ương 11,12 và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pa-ri. Nối tiếp tư tưởng ấy toàn Đảng toàn quân ta đẩy mạnh thế tiến công và từng bước giành được những thắng lợi lớn ở giai đoạn tiếp, giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và tay sai với đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ 1954), đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5265 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua nghi quyết 11,12 BCHTW, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau năm 1954, Mỹ đã nhảy vào miền Nam thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân miền Nam đã anh dũng kiên cường chống Mỹ. Nhờ có sự chi viện của hậu phương MB, phong trào phát triển rất mạnh, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tấn công. Mở đầu,là phong trào đồng khởi Bến tre. Những trận lớn như ấp bắc ở Mỹ Tho, Bình Giã ở Bà rịa Vũng Tàu…Sau phong trào đồng khởi, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào năm 1960 để lãnh đạo Cách mạng miền Nam. Những thắng lợi giòn giã, liên tục ở miền Nam làm cho ngụy quân, ngụy quyền Sài gòn suy yếu, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ bị phá sản. Để cứu vãn tình hình, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và chưa hầu vào xâm lược miền Nam. chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam thất bại chúng gây chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm cắt đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Đứng trước tình hình trên, Đảng ta tổ chức 2 Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965) đã chủ động chỉ đạo chuẩn bị phương án sẵn sàng đối phó với tình huống trên và khẳng định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ và trong bất cứ tình huống nào, cách mạng và nhân dân ta trong cả nước cũng nêu cao quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xân lược.
Nghị quyết trung ương 11 và 12 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá III là một minh chứng về sự chủ động, sáng tạo và kiên quyết của Đảng ta.
Để làm sáng tỏ và nhận thức đúng đắn hơn Nghị quyết trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965), người viết chọn đề tài “Nội dung và giá trị lịch sử của Nghị quyết 11(3/1965), Nghị quyết 12 (12/1965) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá III”, làm tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hành động leo thang chiến tranh c ủa đế quốc Mỹ đặt cách mạng miền Nam trước thử thách nghiêm trọng. Trước tình hình khẩn trương của cách mạng, Đảng ta họp hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 11,12 vào tháng 3 &12/ 1965 để chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đề ra phương châm nhiệm vụ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của Nghị quyết 11 và Nghị quyết 12 đã thu hút nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, các viện nghiên cứu quan tâm và nhiều công trình đã được công bố như:
Các Văn kiện đảng toàn tập tập 26- Nhà xuất bản chính trính trị quốc gia; “Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 11 khoá III (3/1965)” Viện Lịch sử quân sự Việt Nam; “Dưới lá cờ vẻ vang vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới” của đồng chí Lê Duẩn - Nxb Sự thật, 1975; “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam”- Nxb Sự Thật, 1987.
Ngoài ra còn có các bài viết được đang trên các tạp chí Đảng cộng sản, tạp chí Chủ nghĩa xã hội khoa học…
3. Mục đích của đề tài
Bài viết này, người viết đi vào trình bày nội dung của Nghị quyết 11, 12 và làm nổi bật tư tưởng chỉ đạo được thể hiện trong hai nghị quyết này.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài cần làm rõ những vấn đề:
- Nội dung Nghị quyết Trung ương 11và 12 (1965)
- Ý nghĩa lịch sử của hai nghị quyết này
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học, chủ yếu sử dụng phương pháp luận sử học, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích tổng hợp…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành 2 phần:
Phần 1: Nội dung của Nghị quyết 11 v à 12 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá III.
Phần 2: Gía trị lịch sử của Nghị quyết trung ương 11 và 12 (1965)
B- NỘI DUNG
Phần 1: NỘI DUNG NGHỊ QUYẾT 11 VÀ 12 CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ III
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam và ném bom miền Bắc. Mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Để tránh gây ảnh hưởng xấu tới thế bố trí chiến lược toàn cầu, cũng như tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Mỹ, tránh lôi kéo các nước lớn như Trung Quốc, Liên Xô trực tiếp tham chiến, chính quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào nhanh và rút ra nhanh, nghĩa là muốn giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Từ mùa hè năm 1965, quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ (Nam Triều Tiên, Úc, Niu Dilân...) ồ ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1965 đội quân đó lên tới hơn 20 vạn, trong đó có nhiều sư đoàn, lữ đoàn tinh nhuệ của Mỹ.
Tháng 7-1965, Giônxơn chấp thuận kế hoạch chiến lược "tìm và diệt" của đại tướng Oétmolen, Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Mỹ dự tính đạt các mục tiêu chiến lược trên đây trong khoảng hai năm đến hai năm sáu tháng (từ tháng 7-1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967).
Để có một chính quyền tay sai đắc lực hơn, ngày 18-6-1965, Mỹ đạo diễn cho Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính lật đổ Nguyễn Khánh, lập chính phủ quân sự. Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô và cường độ. Mỹ đồng thời đẩy mạnh "chiến tranh đặc biệt" ở Lào; gây sức ép nhằm buộc chính phủ Vương quốc Campuchia từ bỏ chính sách trung lập. Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và mở "chiến dịch hoà bình" hòng cô lập Việt Nam. Trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp bưng bít tin tức, không gọi lính trù bị, không tăng thuế, với hy vọng duy trì được sự ổn định nội bộ, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam.
Việc Mỹ đổ quân vào miền Nam và "leo thang" đánh phá miền Bắc, nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của ta, buộc chúng ta kết thúc chiến tranh theo điều kiện có lợi cho Mỹ. Với âm mưu và thủ đoạn đó của đế quốc Mỹ, đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta câu hỏi lớn: Việt Nam có đánh được Mỹ không, đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng cách nào? Sự nghiệp xây dựng miền Bắc vẫn tiếp tục hay phải dừng lại?.Nghị quyết Trung ương 11, 12 đã ra đời và đã trả lời cho câu hỏi đó.
1.2. N ội dung Nghị quyết 11 khoá III (3-1965)
Trước yêu cầu mới của cách mạng, từ ngày 25 đến 27-3-1965, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 và ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt.
Hội nghị nhận định: với những hành động mới của đế quốc Mỹ, "rồi đây địch có thể đưa thêm những đơn vị chiến đấu của Mỹ và của một số nước chư hầu vào miền Nam ngày càng nhiều hơn, điều ấy sẽ làm cho tính chất “đặc biệt” của cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam từng bước có thể có biến đổi. Và cùng với việc ấy, chúng có thể tăng cường các hoạt động ném bom, bắn phá miền Bắc thường xuyên hơn, bằng những lực lượng không quân lớn hơn, trên phạm vi rộng hơn và nhằm nhiều mục tiêu hơn; và chúng cũng còn có thể dùng tầu chiến để phong toả đường biển và tập kích một số vùng ở bờ biển miền Bắc”.
Để phù hợp với tình hình mới, nhiệm vụ cơ bản của toàn Đảng, toàn quân và dân ta là: "tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra; tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách mạng Lào".
Hội nghị cho rằng, nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: “kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới”. Đồng thời, Hội nghị cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc:
1- Kịp thời chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển của tình hình.
Về mặt kinh tế: mục tiêu của việc chuyển hướng là nhằm làm cho việc xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địch ngày càng tăng cường phá hoại miền Bắc và có thể mở rộng “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam thành cuộc “chiến tranh cục bộ” cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, bảo đảm yêu cầu chiến đấu và yêu cầu chi viện cho miền Nam, đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức các yêu cầu về đời sống của nhân dân. Để đạt được những yêu cầu trên đây, Trung ương Đảng chủ trương: tích cực đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp ở trung du và miền núi; chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, chú trọng hơn nữa đến việc xây dựng các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Phải tích cực xây dựng và phát triển kinh tế theo từng vùng chiến lược quan trọng làm cho mỗi vùng có khả năng tự giải quyết phần lớn những nhu cầu thiết yếu trong đời sống, sản xuất và chiến đấu.
Về quốc phòng: tăng thêm lực lượng bộ đội thường trực, gọi nhập ngũ lại một số cán bộ và quân nhân phục viên, tuyển thêm thanh niên vào bộ đội, tăng thêm thời hạn nghĩa vụ quân sự, tăng thêm số người phục vụ trực tiếp cho quốc phòng; ra sức phát triển và củng cố về mọi mặt cho dân quân; đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân và tích cực phát động phong trào toàn dân bắn máy bay địch. Ngoài ra, cần tranh thủ sự giúp đỡ về mặt quân sự của các nước anh em đến mức cao nhất.
Hội nghị nhấn mạnh đến việc chuyển hướng bắt đầu được triển khai chặt chẽ theo phương châm: khẩn trương, tích cực, toàn diện, chu đáo, thận trọng và có trọng tâm.
2- Ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an bảo vệ miền Bắc, kiên quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong toả miền Bắc bằng không quân và hải quân; đặc biệt chú trọng tăng cường lực lượng phòng thủ ở các vùng và mục tiêu quan trọng về quân sự và kinh tế. Theo phương châm dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em.
3- Ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế địch chuyển “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam thành “chiến tranh cục bộ” và ngăn chặn âm mưu địch mở rộng “chiến tranh cục bộ” ra miền Bắc. Đồng thời, miền Bắc phải ra sức giúp đỡ cách mạng Lào.
4- Cùng với việc chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường quốc phòng của miền Bắc, cần phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới. Cần phải làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ so sánh lực lượng giữa ta và địch, chỗ mạnh và yếu, thuận lợi cũng như khó khăn của ta và địch, hiểu rõ âm mưu của địch, thấy rõ miền Bắc đã ở trong thời chiến. Trên cơ sở đó, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước. Kịp thời chuyển hướng về tổ chức, điều chỉnh lực lượng công nhân viên giữa các ngành và các địa phương; bố trí lại lực lượng cán bộ cho phù hợp với việc chuyển hướng nền kinh tế và việc tăng cường quốc phòng. Tăng cường cán bộ cho các tỉnh trung du, miền núi và các địa phương quan trọng khác. Cải tiến bộ máy, sửa đổi lề lối làm việc ở các cấp cho phù hợp với tình hình mới. Công tác chuyển hướng về tổ chức là hết sức quan trọng và phức tạp, cho nên vừa phải tiến hành một cách khẩn trương và mạnh dạn, vừa phải có kế hoạch kỹ lưỡng để tránh những xáo trộn không cần thiết.
5- Đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với cách mạng miền Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã chủ trương tiếp tục xây dựng miền Bắc thành một hậu phương lớn với định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có chiến tranh. Đó là một chủ trương thích hợp, bảo đảm miền Bắc tiếp tục làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, cách mạng miền Bắc đã có bước chuyển hướng kịp thời về kinh tế, quốc phòng, tư tưởng và tổ chức để tiến lên giành thắng lợi mới trong những giai đoạn tiếp theo của cách mạng.
1.3.Nội dung Nghị quyết 12 khoá III (12-1965)
Đến năm 1965, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Nam đã chiến đấu với tinh thần anh dũng, vượt qua khó khăn, liên tiếp đánh bại mọi âm mưu thâm độc của địch, giành những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. “Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch phát triển đến mức cao nhất đã căn bản bị thất bại”. Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ trong thế bị động đã đưa vào miền Nam một lực lượng lớn quân đội viễn chinh Mỹ, đồng thời tiếp tục mở rộng chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân ở miền Bắc nước ta. Cách mạng Việt Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Trước sự chuyển biến của tình hình, trong tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 12 và ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ mới cho cách mạng hai miền.
Hội nghị từ chỗ phân tích tình hình cách mạng miền Nam từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 và nhận định: "Đặc điểm chủ yếu, của tình hình hiện nay là trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, đế quốc Mỹ không chỉ dựa vào lực lượng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ chủ yếu, mà đã trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta, đưa vào miền Nam một lực lượng lớn quân đội viễn chinh Mỹ, đồng thời tiếp tục mở rộng chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân ở miền Bắc nước ta”.
Trong chiến lược quân sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của một cuộc “chiến tranh đặc biệt”.
Hội nghị nhận định âm mưu trước mắt của địch là: “với lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu ngày càng được tăng thêm, với trên dưới nửa triệu quân đội ngụy, ra sức mở những cuộc tấn công nhằm tiêu diệt lực lượng của ta, nhất là các lực lượng vũ trang tập trung của ta; giữ vững và củng cố hoặc chiếm đóng thêm các vị trí chiến lược quan trọng rồi dựa vào đó mà đẩy mạnh công tác bình định có trọng điểm, đánh phá vùng giải phóng, khống chế kìm kẹp quần chúng và chiếm lại một số vùng đã mất; tìm mọi biện pháp để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây và cô lập chiến trường miền Nam; đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta. Chúng mong từng bước giành lại thế chủ động, tạo thế mạnh để ép ta thương lượng theo điều kiện có lợi cho chúng, đồng thời chuẩn bị cơ sở khi cần thiết thì kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược”. Hội nghị phân tích một cách khoa học và toàn diện lực lượng so sánh giữa ta và địch và cho rằng “sức mạnh mà Mỹ có thể sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn là một sức mạnh bị hạn chế... Chỗ yếu cơ bản nhất của địch từ trước đến nay vẫn là về chính trị”. Về phía cách mạng, “dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta, nhân dân ta đã sáng tạo nên những lực lượng to lớn về mọi mặt và đang ở vào một thế thuận lợi”. Nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là: "động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần cố gắng vượt bực, tập trung lực lượng của cả nước, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam". Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc.
Hội nghị khẳng định “Phương châm đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính do Đảng ta đề ra, là hoàn toàn chính xác”. Dù trong tình hình đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp xâm lược miền Nam, chúng ta vẫn kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị; triệt để vận dụng ba mũi giáp công (đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và binh vận). Trong giai đoạn hiện nay, “đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng. Nhưng đấu tranh quân sự chỉ thu được kết quả lớn nhất nếu nó được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị; đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phối hợp với nhau, thúc đẩy lẫn nhau”.
Sau khi xác định nhiệm vụ chung và phân tích những nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và những công tác lớn ở miền Nam và miền Bắc.
Đối với miền Bắc, “nhiệm vụ của quân và dân ta ở miền Bắc là tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương: vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”.
Để làm tròn nhiệm vụ chung đó, Hội nghị đã xác định miền Bắc cần phải được củng cố vững mạnh về mọi mặt chính trị, quân sự và kinh tế. Trước mắt, miền Bắc cần tập trung vào một số công việc lớn sau đây:
-Bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta.
- Động viên sức người, sức của, tăng cường chi viện cho miền Nam.
- Ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng.
- Tích cực giúp đỡ cách mạng Lào.
- Tăng cường công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng đáp ứng kịp thời nhu cầu của tình hình mới.
- Đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, tích cực tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa và của nhân dân thế giới.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Hội nghị đã phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, khẳng định thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng hai miền, động viên quân đội và nhân dân cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bè bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược. Phát biểu ý kiến tại phiên bế mạc Hội nghị (ngày 27-12-1965), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ, quyết tâm làm đúng Nghị quyết của Trung ương, không sợ gian khổ, hy sinh thì nhất định chúng ta đánh thắng được giặc Mỹ xâm lược, giải phóng được miền Nam, bảo vệ được miền Bắc, thống nhất được nước nhà".
Phần 2: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA NGHỊ QUYẾT 11 VÀ 12 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ III
2.1 Kết luận chung về hai hội nghị
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965), lần thứ 12 (12-1965), họp đề ra quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đảng ta đánh giá so sánh lực lượng và nhận định mặc dù đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam song so sánh lực lượng giữa ta và địch không có sự khác nhau lớn. Từ đó Đảng rút ra:
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công, liên tục tiến công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Phương châm chiến lược chung: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh. Đồng thời, tùy hoàn cảnh mà cần phải có sự cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường.
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc, Trung ương chỉ rõ: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.
Phương châm đấu tranh:
Với CM miền Nam: tiếp tục kiên trì phương châm, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có vai trò quyết định trực tiếp, đồng thời triệt để thực hiện ba mũi giáp công, tiến công Mỹ trên cả ba vùng chiến lược, lấy nông thôn là hướng tiến công chính. Mặc dù Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam nhưng so sánh lực lượng giữa ta & địch không có gì thay đổi vì:
Cách mạng miền Nam Việt Nam có sự phát triển về thế & lực đặc biệt là trong chống chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ thế trận chiến tranh nhân dân đã hình thành.
Mỹ đưa quân vào miền Nam hòng cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.
Đưa quân vào miền Nam thì phải rải rác trên toàn miền Nam để đối phó với từng địa phương ở nước ta.
Cách mạng miền Nam giữ và phát triển thế tiến công để đánh bại chiến tranh cục bộ trong thời gian ngắn nhất.
Với cách mạng miền Bắc: Đảng chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế, đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc CNXH, động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng đánh bại địch nếu chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
VD: Thắng lợi mùa khô 1966, 1967
=> Mỹ thừa nhận thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ, rút quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, ngồi vào bàn đàm phán Pari về việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Miền Bắc vẫn là hậu phương lớn vẫn giữ vai trò quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Miền Bắc tăng cường chi viện cho cách mạng miền Nam, giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia để đánh bại chiến tranh cục bộ trong thời gian nhanh nhất.
Miền Bắc chuyển hướng phát triển kinh tế trong điều kiện chiến tranh phá hoại: tập trung sức phát triển nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp và các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, còn nhà máy, xí nghiệp, công trình duy trì sản xuất bằng cách bảo vệ và tăng cường phân tán.
Đối với quốc tế: Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN anh em và nhân dân các nước trên toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.
Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
2.2. Gía trị lịch sử
Nghị quyết Hội nghị 11 và Hội nghị 12 thể hiện được tinh thần độc lập, chủ động, sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và kinh nghiệm chống ngoại xâm của dân tộc vào hoàn cảnh đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược. Nghị quyết đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng cả nước, tạo điều kiện đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 và 12 khóa III đã khẳng định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ và trong bất cứ tình huống nào, cách mạng và nhân dân ta trong cả nước cũng nêu cao quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
Đó là đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Từ thực tiễn kháng chiến, có thể thấy sự chỉ đạo chiến lược sắc bén của Đảng ta:
Thứ nhất, Đảng ta sớm nhận rõ kẻ thù, đánh giá đúng tương quan lực lượng địch - ta, có chủ trương, quyết sách phù hợp với từng thời điểm lịch sử cụ thể, góp phần đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Thứ hai, nhanh chóng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, chuyển miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho mỗi miền.
Thứ ba, trong chỉ đạo chiến lược, Đảng ta giải quyết tốt quan hệ giữa nhiệm vụ cách mạng miền Bắc và miền Nam, tạo sức mạnh to lớn để đánh bại kẻ thù.
Thứ tư, giữ vững độc lập, tự chủ; đồng thời, thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo nhằm tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Với những ý nghĩa to lớn trên Nghị quyết Trung ương 11 và 12 để lại giá trị lịch sử sâu sắc bởi nó nêu lên được những vấn đề cơ bản về đường lối kháng Mỹ cứu nước, làm tiền đề cho các cuộc hội nghị sau này để phát triển và cụ thể hoá đường lối,chủ trương và phương pháp, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi từng bước vững chắc.
C- K ẾT LUẬN
Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương Nghị quyết 11, 12 khoá III của Đảng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn được tiến hành trong hoàn cảnh có chiến tranh đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Ở miền Nam: Dưới ánh sáng của Nghị quyết trung ương 11,12 và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pa-ri. Nối tiếp tư tưởng ấy toàn Đảng toàn quân ta đẩy mạnh thế tiến công và từng bước giành được những thắng lợi lớn ở giai đoạn tiếp, giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và tay sai với đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ 1954), đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26,Nxb Chính trị quốc gia, 2005
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 khoá III (3/1965), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, Nxb Sự Thật, H.1987
Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945- 1975), thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000
Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nb Sự Thật, H.1975
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1997
Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng của Đảng cộng sảnViệt Nam, Nxb Lí luận chính trị, H.2008
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1996
http:// www.dangcongan.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua nghi quyết 11,12 BCHTW.doc