Tiểu luận Diễn biến khủng hoảng tài chính argentina giai đoạn 1999-2002 và bài học cho Việt Nam

Tóm lại, bài học lớn nhất từ khủng hoảng A rgentina: đó là phải ổn định chính trị và kinh tế, chỉ khi 2 thứ đó ổn định thì những chính s ách kinh tế mới phát huy tác dụng của nó. Tất nhiên, để cho cả kinh tế và chính trị đều ổn định thì ta phải: giảm tình trạng tham nhũng, lãng phí, giảm tình trạng thất thoát của công, cải thiện bộ máy thu thuế, cải thiện việc quản lý và giám sát vốn (nhất là từ các nguồn vay tín dụng nước ngoài), cần tăng cường vai trò của ngân hàng trung ương, không nên tư nhân hóa các cơ sở, xi nghiệp công ồ ạt. Cuối cùng, cũng cần phải chú ý nhiều hơn đến chính s ách tỷ giá ngoại tệ.

pdf34 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2544 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Diễn biến khủng hoảng tài chính argentina giai đoạn 1999-2002 và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2001)...............................9 PHẦN II: N GUYÊN NHÂN KHỦNG HO ẢNG ARGENTINA ................................ 13 I. Nguyên nhân nội tại ..................................................................................................13 1. Hệ thống chuẩn tiền tệ currency board: ..........................................................13 2. Thâm hụt ngân sách quá lớn...............................................................................15 3. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm: ................................................17 II. Ảnh hưởng từ bên ng oài ..........................................................................................18 1. Các tổ chức tin dụng quốc tế (IMF) ..................................................................18 2. Các quốc gi a các.....................................................................................................20 PHẦN III: KẾT LUẬN ....................................................................................................21 I. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Argentina:.......................................21 1. Khu vực Mỹ – Latin ..............................................................................................21 2. Thế giới ....................................................................................................................22 II. Nguy cơ khủng hoảng tại Việt Nam: .......................................................................22 1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam.........................................................................22 2. Tỷ lệ vay nợ nước ngoài (<40% GDP). .............................................................25 3. Cơ chế giám sát các khoản vay nước ngoài .....................................................26 4. Bộ máy quản lý: Giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát ..................................................................................................................................27 III. Bài học kinh nghiệm: ................................................................................................28 LỜI MỞ ĐẦU Nhắc đến Argentina, người ta nhớ ngay đến điệu nhảy Tango nổi tiếng, nhớ đến nền văn hóa tiêu biểu cho văn hóa Mỹ Latinh: dân dã, đầy chất bốc lửa, say đắm và quyến rũ, nhớ tới những con người thân thiện, hiếu khách, cởi mở. Tất cả tạo nên một Argentina đặc sắc, khiến cho bước chân của những du khách tới thăm đất nước xinh đẹp này cứ lưu luyến mãi không thôi. Không chỉ văn hóa, thế giới còn biết đến một Argentina có nền kinh tế phát triển nhất ở Mỹ Latinh với GDP tính theo sức mua tương đương là 599,1 tỉ USD, đứng thứ 22 thế giới. Thu nhập bình quân đầu người là 15.000 USD với nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, dân số được đào tạo cao, ngành nông nghiệp theo hướng xuất khẩu, công nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, trong khung nhạc phát triển đất nước, ngoài những nốt thăng rực rỡ còn in dấu những nốt trầm. Đó là khủng hoảng nợ, thất nghiệp, lạm phát… điển hình phải kể đến cuộc khủng hoảng 2001. Tháng 12/2001, hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ, nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này đã rơi vào cảnh đói nghèo, chỉ trong vòng 5 tuần 5 vị tổng thống lên chức xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường biểu tình… Nợ nước ngoài: 160 tỷ USD (tức 40% GDP của Argentina bằng 1/7 tổng nợ của các nước đang phát triển); thâm hụt ngân sách năm 2001: 6,5 tỷ USD; thất nghiệp tăng tới mức kỷ lục trong nhiều năm: 20% ở thủ đô Buenos Aires, và thậm chí cao hơn nhiều tại các tỉnh nghèo, thu nhập của người dân giảm 14%; 15% dân số sống dưới mức nghèo đói theo tiêu chuẩn của A rgentina (thu nhập dưới 450 USD/tháng cho một gia đình bốn người)… Vậy nguyên nhân thực sự của sự sụp đổ này là do đâu? Đó là một vấn đề lớn mà nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã tốn không ít giấy mực. Đây cũng là đề tài mà nhóm chúng tôi đưa ra để thảo luận, từ điển hình của Argentina mà rút ra những bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiên nay, khi Việt Nam cũng đang được xem là một thần kỳ mới. Bài tiểu luận của của nhóm được phân chia làm 3 phần chính: PHẦN I: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG PHẦN II: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG ARGENTINA PHẦN III: KẾT LUẬN Nhóm tiểu luận cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Mai Thu Hiền đã giúp đỡ chúng em rất nhiều trong việc hoàn thành bài tiểu luận. PHẦN I: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG 1. Khái quát chung về đặc điểm tự nhiên – xã hội của Argentina Argentina nằm ở cực nam Nam Mỹ, là nước lớn thứ hai ở Mỹ Latinh sau Braxin . * Phía Bắc giáp Bolivia (832 km) * Phía Tây giáp Chi Lê (5.150 km) * Phía Đông Bắc giáp Paraguay (1.880 km) * Phía Đông giáp Uruguay (579 km), Braxin (1.224 km) Địa hình phong phú, đồng bằng Pampas màu mỡ nằm ở nửa phía Bắc, khu vực đất đai rộng lớn bao quanh Patagonia nằm ở phía Nam, dãy A ndes gồ ghề chạy dọc biên giới phía Tây. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên: các vùng đồng bằng màu mỡ ở Pampas, chì, kẽm, thiếc, đồng, quặng sắt, mangan, dầu lửa, uranium. Vì trải dài trên nhiều vĩ độ và chênh lệch độ cao lớn, Argentina có nhiều kiểu khí hậu khác nhau. Ôn đới là kiểu khí hậu chi phối, kiểu khí hậu cận nhiệt hiện diện ở miền Bắc và kiểu khí hậu cận cực hiện diện ở miền Nam đất nước. Khí hậu miền Bắc có đặc điểm mùa hè nóng ẩm ướt và mùa đông khô vừa, thỉnh thoảng gây hạn hán trong một thời gian. Miền Trung có mùa hè nóng với sấm chớp và mùa đông lạnh. Các vùng phía Nam có mùa hè ấm áp, mùa đông lạnh với những trận mưa tuyết lớn, đặc biệt trong vùng núi. Càng lên cao, khí hậu càng lạnh giá. Argentina là nước cộng hòa lập hiến. Hiến pháp Argentina được sửa đổi năm 1994. Tổng thống được bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm và có thể được tái cử một lần. Cơ quan lập pháp Argentina bao gồm quốc hội lưỡng viện (gồm cả Thượng viện và Hạ viện). - Các đảng phái chính trị: Argentina có 25 đảng chính trị hợp pháp. - Cơ cấu hành chính: Gồm 1 thành phố tự trị (Buenos Aires) và 23 tỉnh 2. Giai đoạn phát triển thần kì 1992 - 1998 Từ những năm 1980, A rgentina chìm đắm trong chế độ quân chủ chuyên chế và từ sau năm 1983 thì nước này mới có sự thay đổi về chế độ. Tuy vậy, những hậu quả mà chế độ quân chủ chuyên chế tạo ra là rất sâu sắc và kéo dài với các khoản nợ nước ngoài khổng lồ và một nền kinh tế rối ren, hỗn loạn. Những nỗ lực của chính quyền mới (dưới thời Tổng thống Alfonsin) bằng việc đưa ra đồng tiền mới (đồng Austral) thay thế đồng tiền cũ đang lưu hành để chi trả các khoản nợ nước ngoài. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã không thành công, đồng Austral mất giá, siêu lạm phát xảy ra (năm 1989 lạm phát lên tới 5.000%). a. Chính sách 1991 Tổng thống Carlos MENEM bắt đầu nhiệm kỳ năm 1989 khi Argentina rơi vào tình trạng nợ nước ngoài lớn, lạm phát lên tới 200%/tháng và năng suất giảm mạnh. Để vượt qua khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã thực hiện các biện pháp sau: 1. Ngày 1/4/1991, quốc hội Argentine thông qua “currency board”. Điều luật này cho phép thành lập hội đồng tiền tệ với nhiệm vụ chính nhằm duy trì tỷ giá giữa peso với USD, và giới hạn việc in ấn đồng peso xuống mức cần thiết cho việc mua dollar trên thị trường tiền tệ 2. Xây dựng hệ thống tiền tệ kép (bi-monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau giữa đồng peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân A rgentina có quyền trả bằng bất kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình. 3. Tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài. 4. Tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản - cả tài chính lẫn đầu tư trực tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào. 5. Tư nhân hóa các công ty nhà nước từ công ty hàng không đến công ty điện và Bưu điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ. 6. Loại bỏ gần như tất cả các hàng rào phi thuế quan, và cắt giảm thuế từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Với 3 giai đoạn cải cách 1991. 1995, 1998, thị trường việc làm linh hoạt ở nước này đã được cải thiện đáng kể, điển hình là số lượng công nhân được kí kết hợp đồng và được dào tạo tăng từ 6% năm 1995 lên 12% năm 1997.Năng suất lao động trung bình tăng 3% từ 1991-1998.GDP tăng trưởng từ mốc giảm liên tục 0.5% trong suốt những năm 1980 đã bật mạnh mẽ lên tới hơn 10% trong 2 năm đầu tiền của chính sách cải cách và 5% năm 1993-1994.  Kết quả: lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và giá trị của tiền tệ được bảo tồn. Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận. 3. Những dấu hiệu bất ổn – Khủng hoảng xảy ra: Nhìn chung, việc ban hành Luật Chuyển đổi đã có những tác động tích cực trong việc kiểm soát lạm phát, nhưng mặt trái của nó là ở chỗ: Thứ nhất, để duy trì được tỷ giá 1 ARA = 1 USD, NHTƯ Argentina phải có lượng dữ trữ ngoại tệ Iớn để sẵn sàng can thiệp thị trường bất cứ lúc nào và với bất cứ dung lượng nào. Tuy vậy, Argentina lại không đáp ứng được đòi hỏi tiên quyết này. Thực tế là họ đã phải bù đắp lượng ngoại tệ bị thiếu hụt so với yêu cầu dự trữ để can thiệp thị trường bằng việc tăng cường vay nợ nước ngoài. Cố thể nói, việc duy trì chính sách tỳ giá theo "chuẩn tiền tệ" như vậy quả là quá tốn kém mà lại hết sức mong manh, thiếu sự bền vững. Thứ hai, việc duy trì tỷ giá 1 ARA = 1 USD mặc dù giúp kiểm soát lạm phát (thông qua khống chế lượng Peso được phát hành phù hợp với lượng USD giao dịch trên thị trường), nhưng điều này lại khiến cho ngân sách Chính phủ bị thâm hụt càng nghiêm trọng. Nguyên do là với các qui định trong Luật Chuyển nhượng thì Chính phủ không được in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Thứ ba, chính sách "chuẩn tiền tệ" cũng làm cho đồng Peso lên giá, hệ quả là hàng nhập khẩu từ nước ngoài rẻ hơn đáng kể so với hàng sản xuất trong nước. Sự suy yếu về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong nước so với quốc tế do chính sách vô tình tăng giá đồng nội tệ đã gây hậu quả hàng loạt doanh nghiệp trong nước bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh. Thứ tư, việc cho phép dân chúng tự do lựa chọn nắm giữ USD hay ARA đã vô tình khiến tình trạng "chảy máu ngoại tệ" trong nền kinh tế, do dân chúng tăng cường chuyển từ đồng Peso sang nắm giữ USD để đi du lịch nước ngoài hay mua sắm các hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Điều này đã làm cho dự trữ ngoại tệ bị sụt giảm nghiêm trọng. Điều này khiến đồng Peso ngày càng bị mất giá so với USD. Xử lý bất cập nghiêm trọng này buộc Chính phủ phải tăng cường vay nợ nước ngoài để bù đắp đúng lượng ngoại tệ đã bị chảy ra nước ngoài. Thứ năm, cũng do chính sách "chuẩn tiền tệ" khiến NHTƯ không làm tròn vai của mình khi là "cứu cánh cuối cùng". Khi hệ thống ngân hàng bị lâm vào khủng hoảng và cần sự giải cứu từ NHTƯ thông qua các khoản cho vay tái chiết khấu thì lại khống được đáp ứng. Thứ sáu, đồng Peso được neo chặt với USD nên về nguyên lý thì lãi suất của ARA phải tương đương với lãi suất USD. Nếu điều kiện này không được duy trì thì lập tức hoạt động Arbitrage sẽ xảy ra. Điều này hàm ý rằng, NHTƯ Argentina đã bị mất đi sự chủ động trong sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết kinh tế vĩ mô (chẳng hạn có thể tăng lãi suất để chống lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế). Thêm vào đó, tình trạng tham nhũng tại nước này diễn biến hết sức phức tạp, hầu như rất khó kiểm soát và ngăn chặn, nên ngân sách Argentina vốn đã bị thâm thủng lại càng bị làm trầm trọng hơn. Vì thế, những dấu hiệu bất ổn đầu tiên đã xuất hiện:  Cuối những năm 90, chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài, các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001).  Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina  Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh chóng, đạt 8% vào năm 1997.  Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới  Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.  Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% làm ảnh hưởng rất lớn đến Argentina vì đây là nước xuất khẩu chủ yếu của Argentina.  Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách, mức tiêu dùng giảm 2,1% và đầu tư giảm 12,8%.  Tháng 12 năm 1999, chính phủ đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999.  Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ giá cố định theo đồng USD.  Ngày 10/3/2000, IMF đồng ý một thỏa thuận cho vay dự phòng trị giá 7,2 tỷ USD trong 3 năm cho Argentina với điều kiện nước này phải điều chỉnh tài chính chặt chẽ và đạt mức tăng trưởng GDP 3,5% vào năm 2000 (thực tế tăng trưởng GDP năm 2000 của nước này chỉ là 0 5%).  Ngày 29/5/2000, Chính phủ tuyên bố cắt giảm chi ngân sách 1 tỷ USD với hy vọng việc " chịu trách nhiệm tài chính" sẽ khôi phục lại niềm tin đối với nền kinh tế.  Ngày 18/12/2000, chính quyền Tổng thống De La Rua thông báo cần sự trợ giúp cả gói 40 tỷ USD của IMF. 4. Khủng hoảng Argentina 2001-2002 (giai đoạn sau 2001) Hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ vào vào tháng 12/2001, nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công nhất tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này rơi vào cảnh đói nghèo. Tình cảnh sau đó hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 2 tuần, có tới 5 vị Tổng thống lên và xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường biểu tình. Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới áp dụng tại đây từ những năm 1990. Kể từ đó đến nay, giới lãnh đạo nước này đi theo một đường lối tài chính độc lập và đã phục hồi đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một chặng đường xa để Argentina đạt được sức mạnh như họ đã từng có.  Diễn biến: Năm 2001, những bất ổn đạt đến đỉnh cao, với mức tiêu dùng vào cuối quí 3 giảm sâu tới 5,8% và đầu tư giảm 17,5%, kéo theo tăng trưởng GDP âm và thất nghiệp tăng cao kỷ lục (18,3%).  Ngày 12/1/2001, do kinh tế của Argentina vẫn còn suy thoáỉ mạnh, IMF tăng thỏa thuận ngày 10/3/2000 lên 7 tỷ USD như một phần của gói 40 tỷ USD viện trợ cả gói liên quan đến Ngân hàng Phát triển Trung Mỹ, WB, Tây Ban Nha và tư nhân cho vay. Thỏa thuận này nhằm đảm bảo GDP của nước này sẽ tăng trưởng ở mức 2,5% năm 2001 (thực tế năm 2001 GDP nước này tăng trưởng - 5%).  Ngày 17/6/2001, Chính phủ thông báo khoản nợ trị giá 29.5 tỷ USD được hoán đổi từ khoản nợ ngắn hạn thành khoản nợ mới với thời gian đáo hạn dài hơn và lãi suất cao hơn.  Ngày 19/6/2001, giảm giá 7% đồng Peso trong tương quan so sánh với USD, đối với thương mại hàng hóa với kỳ vọng cải thiện năng lực cạnh tranh thương mại quốc tế của nước này.  Ngày 29/7/2001, Quốc hội thông qua “Luật Thân hụt bằng 0”, đòi hỏi một ngân sách cân bằng vào quí IV/2001.  Ngày 7/9/2001, dựa trên những cam kết của Argentina thực thi Luật Thâm hụt bằng bằng 0, IMF tăng cam kết cho vay lên 7,2 tỷ USD.  Tháng 10/2001, Chính phủ sử dụng trái phiếu địa phương “scrip” để trả lương một cách phổ biến khi nguồn thu ngân sách Chính phủ bị giảm sút nghiêm trọng.  Ngày 6/11/2001, Chính phủ chỉ đạo việc đảo nợ lần 2: Đổi 60 tỷ USD trái phiếu với mức lãi suất trung bình 11-12%/năm lấy thương phiếu với kỳ hạn dài hơn, nhưng lãi suất chỉ 7%. Các tổ chức đánh giá trái phiếu quốc tế coi đó là một sự “vỡ nợ mang tính hiệu quả”.  Ngày 30/11/2011, dân chúng đổ xô đi rút tiền ở các NHTM, làm dự trữ của NHTƯ giảm khoảng 2 tỷ USD/ngày  Ngày 5/12/2001 khi IMF từ chối giải ngân khoản vay trị giá 1,24 tỷ USD. Số tiền này nằm trong khuôn khổ khoản vay trọn gói 39,7 tỷ USD (đã được thỏa thuận vào cuối tháng 12/2000), đẩy Argentina đứng trước nguy cơ vỡ nợ đối với các khoản nợ nước ngoài trị giá đến 146 tỷ USD (trong đó, riêng các khoản nợ Chính phủ đạt tới 132 tỷ USD, chiếm 46% GDP cùng năm của nước này). Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục người chết.  Tháng 12/2001, Chính Phủ ra hạn mức rút tiền là 1000 USD/tháng. Thay các khoản tiền gửi bằng trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm  Ngày 24/12/2001, Chính phủ Argentina chính thức tuyên bố đình chỉ các khoản nợ nước ngoài lớn nhất trong lịch sử. Nếu tính trung bình nợ nước ngoài bình quân/người của Argentina thì mỗi người phải gánh trên lưng mình tới trên 3.000 USD (kể cả những đứa trẻ mới chào đời).  Tháng 1/2002, thả nổi tiền, Peso mất giá 29%, USD/peso = 1,4  Tháng 2/2002, USD/peso=2,6 người dân Argentina rút 100 triệu USD khỏi ngân hàng mỗi ngày. Chính Phủ phải ra hạn mức rút tiền mới là 500 USD/tháng  Tháng 3/2002, tài sản ngân hàng được chuyển đổi sang đồng Peso, các ngân hàng lỗ khoảng 10-20 tỷ USD. USD/peso=3,75, các ngân hàng bắt đầu thiếu tiền mặt  Ngày 19/4/2002, NHTƯ Argentina quyết định tạm ngừng vô thời hạn tất cả các giao dịch ngoại hối cho tới khi Chính phủ có được một chương trình kinh tế ngăn chặn dòng vốn tháo chạy ồ ạt khỏi các ngân hàng thương mại (NHTM) (trung bình khoảng 100 triệu USD/ ngày). Song, quyết định này cũng không tồn tại được lâu, bởi ngày 26/4/2002, tức là chỉ 1 tuần sau khi ngưng hoạt động, các NHTM nước này mở cửa trở lại, tình hình càng trở nên tồi tệ hơn rất nhiều. Những bất ổn về chính trị cộng với những sai lầm của Chính phủ trong ứng phó với khủng hoảng (thực hiện chế độ đa tỷ giá, áp dụng các biện pháp kiểm soát hành chính đối với giá cả, các biện pháp bảo hộ khác.) đã khiến cho tình hình ngày càng trở nên xấu đi trong năm 2002: thị trường chứng khoán suy sụp, đồng Peso bị mất giá mạnh, lạm phát bùng phát, thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế giảm sút nghiêm trọng. PHẦN II: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG ARGENTINA I. Nguyên nhân nội tại 1. Hệ thống chuẩn tiền tệ currency board: Theo TS. Quách Mạn h Hào, một currency board tồn tại khi NHTW một quốc gia cam kết hỗ trợ tiền tệ quốc gia, mức cung tiền, bằng dự trữ nước ngoài tại mọi thời điểm. Về cơ chế vận hành của currency board như sau: cấm khôn g cho phép NHTW phát hành các khoản nợ - tiền có quyền lực cao (high-power money) - nếu như không được bảo đảm hỗ trợ 100% bằng lượng dự trữ ngoại tệ tương đương. Hệ thống này chỉ cho phép NHTW phát hành thêm một lượng tiền tương ứng với lượng ngoại tệ vừa mới bổ sung. Do đó, giá trị đồng tiền luôn được bảo đảm và đồng thời cũng giúp kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, currency board khác với hệ thống “tỷ giá cố định” (fixed exchange rate system). Bởi vì, “tỷ giá cố định” mặc dù cũng duy trì giá trị đồng tiền như currency board nhưng lại không có độ tin cậy cao, nói là “tỷ giá cố định” nhưng thật ra đồng tiền cũng có khả năng bị phá giá. Còn currency board thì không như vậy, nó luôn giữ đúng tỷ giá trao đổi đã được ấn định trước đó. Do đó, currency board luôn đạt được sự tin tưởng cao từ các nhà đầu tư. Với việc áp dụng currency board, Argentina đã đạt được những thành công bước đầu  Khống chế lạm phát: việc giữ cố định tỉ giá làm hạn chế lượng cung tiền bởi chính phủ phải giữ cân bằng lượng cung tiền peso và lượng USD có trên thị trường. Thực tế chính sách này thực sự có hiệu quả trong kiềm chế lạm phát từ năm 1991 đến năm 1994 .  Cuộc sống của người dân được nâng lên, giá cả ổn định, người dân có thể vay nợ bắng đồng dollar với mức lãi suất thấp.  Việc cố định tỉ giá cũng khiến Argentina thu hút và giữ chân được các nhà đầu tư do lãi suất ngân hàng được đảm bảo bởi chính sách neo tỉ giá vào đồng USD, nhà đầu tư nước ngòai có thể yên tâm rằng trong tương lai không phải lo lắng về sự biến động tỷ giá. Tuy nhiên, những nhược điểm của nó được bộc lộ thời gian không lâu sau đó:  Đầu tiên, là việc NHTW không thể tự chủ trong chính sách tiền tệ. Nguyên nhân là do lãi suất của đồng nội tệ phải đúng bằng lãi suất của đồng ngoại tệ, nếu không hoạt động arbitrage sẽ xảy ra. Do đó, NHTW không thể giảm lãi suất để kích thích đầu tư hoặc tăng lãi suất để kiềm hãm lạm phát.  Thứ hai, currency board có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước kinh doanh quốc tế vay nợ bằng ngoại tệ mà không hề có bất cứ biện pháp phòng ngừa rủi ro nào cả, dẫn đến vay nợ quá mức. Chính vì vậy mà khi khủng hoảng xảy ra, các nhà đầu tư này sẽ là những người chịu thiệt hại lớn nhất.  Thứ ba, NHTW không thể thực hiện chức năng là người cho vai cuối cùng (nguyên nhân là do hệ thống currency board quy định không cho phép ngân hàng phát hành tiền nếu không có lượng ngoại tệ tương ứng bổ xung). Do đó, khi khủng hoảng niềm tin xảy ra, NHTW không thể cung cấp cho các NHTM những khoản vay ngắn hạn được, làm cho các NHTM này không thể chi trả các khoản nợ sắp đáo hạn cho khách hàng. Cuối cùng, tất yếu là hệ thống ngân hàng sẽ sụp đổ.  Thứ tư, do không thể in thêm tiền và dự trữ ngoại tệ ngày càng ít đi nên ngân sách chính phủ sẽ bị thâm hụt nghiêm trọng. Chính vì vậy, chính phủ Argentina phải bù đắp thăm hụt ngân sách bằng các khoản vay nợ từ nước ngoài. Điều này làm cho tình trạng nợ nước ngoài của Argentina ngày càng gia tăng.  Thứ năm, chính sách currency board làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng tăng lên (do đồng đôla tăng giá) và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ đi. Do đó, hàng trăm doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến phá sản.  Thứ sáu, việc đôla hoá nền kinh tế đã tạo ra một hệ thống “tiền tệ kép” (bimonetary system), cho phép người dân tự do quy đổi từ Peso sang đôla một cách dễ dàng. Điều này đã làm cho một lượng lớn ngoại tệ “chảy” ra nước ngoài (nguyên nhân là từ những chuyến du lich, nghỉ mát, mua hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ từ nước ngoài), dẫn đến dự trữ ngoại tệ trong nước bị giảm sút. 2. Thâm hụt ngân sách quá lớn Theo những số liệu chính thức của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ Nợ/GDP tăng trưởng đều đặn kể từ năm 1993 và có bước đột phá đáng kể từ sau năm 1998. Tuy nhiên những số liệu thực tế này đã đánh giá thấp những món nợ này trong suốt nửa đầu của những năm 90 có nghĩa là những con số này trên thực tế còn cao hơn và sự tăng trưởng của chúng cũng có ít tác dụng tích cực trong giai đoạn này. Ngoài ra, một phần của các khoản nợ sau năm 1995 phản ánh quá trình cải cách hệ thống lương hưu (Cải cách lương hưu sang hệ thống tự tài trợ làm giảm nợ cho chính phủ vì ko phải trả lương hưu cho người dân) Do đó, yếu tố khủng hoảng thứ hai của Argentina gắn liền với việc chính phủ của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Đương nhiên mọi lý lẽ lúc bấy giờ đều được lý giải khá hợp lý. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001) Việc chính phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng (tăng lãi suất để bù đắp ngân sách). Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Sự thâm hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái phiếu của mình và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để xử lý vấn đề khó khăn về ngân sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khà năng của chính phủ trong việc hoàn trả các khoàn nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại. Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có ít nguồn lực để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong hoạt động kinh tế. 3. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm: Sai lầm đầu tiên của chính phủ Argentina là việc tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa hoàn toàn gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài. Hệ thống ngân hàng tiềm ẩn những yếu kém đã làm suy yếu dần khả năng chống chịu trước những cú sốc, và cả chế độ tỷ giá cố định 1 peso đổi 1 đô la. Trước hết, các ngân hàng hoàn toàn thiếu những quy định được quy định rõ ràng để phòng ngừa những hậu quả lên khả năng thanh toán của khu vực phi mậu dịch của việc điều chỉnh tỷ giá thực dẫn tới không cân bằng. Do không có sự mất giá danh nghĩa, điều chỉnh này sẽ dẫn tới thời kỳ lạm phát danh nghĩa và thất nghiệp chậm chạp. Thứ hai, hệ thống tài chính ngày càng tư nhân hóa và trở nên quá yếu đuối trước tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài không thể kiểm soát được. Thứ ba, những biện pháp bảo vệ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng cho phép bất cứ người gửi tiền nào rút tiền, cho thấy sự không phù hợp của hệ thống thanh toán khi tình trạng rút tiền ồ ạt xảy ra. Thứ hai, đó là việc tự do cho luân chuyển tư bản - cả trực tiếp và gián tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào, dẫn đến việc ngoại tệ bị “bay hơi” do những chi tiêu mua sắm của người dân ở nước ngoài, và tiêu dùng hàng xuất khẩu. Thứ ba, tư nhân hóa các công ty nhà nước, từ công ty hàng không đến công ty điện và bưu điện, trong khi Argentina không hề có luật lệ mạnh và đầy đủ, dẫn đến nguồn thu ngân sách của chính phủ không có gì ngoài thuế, không thể tự chủ trong thu – chi ngân sách. Làn sóng tư hữu hóa trong những năm 1990, dưới thời tổng thống Menem, đã làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm nhiều người bị sa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp. Trong khi đó Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khẳng định mình sẽ không giúp Argentina thoát khỏi khủng hoảng bằng cách chi trước những khoản tiền vay đã được thông qua để nước này thanh toán nợ. Thứ tư, loại bỏ gần như hàng rào thuế quan và cắt giảm thuế xuất khẩu từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Khi đồng USD lên giá, nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm cùng đó là khoản nhập khẩu tăng liên tục, và mọi thứ đều dần bộc lộ. Bên cạnh đó, chính sách Hội đồng tiền tệ làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng mắc lên do đồng đôla tăng giá và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ đi. Do đó, hàng trăm doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến phá sản II. Ảnh hưởng từ bên ngoài 1. Các tổ chức tin dụng quốc tế (IMF) Trong suốt những năm 90, A rgentina trở thành một của tổ chức quốc tế, đặc biệt đối với IMF. Đây được coi như hình mẫu cho các nền kinh tế mới nổi noi theo. Tổ chức Tiền tệ thế giới đã ủng hộ cho các chính sách kinh tế vĩ mô các cải cách quan trọng trong nền kinh tế (tự do hóa thị trường tài chính, tư nhân hóa, cải cách hệ thống tiền lương…) của chính phủ Argentina. Ban đầu, IMF có chú t hoài nghi về quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, bằng chứng về việc Argentina đã vượt qua được khủng hoảng Tequila (tên gọi khác của khủng hoảng Mexico) đã thuyết phục các nhà chức trách của IMF. Bất chấp những con số cho thấy kinh tế tăng trưởng bền vững , một phần lớn người dân ko được hưởng lợi từ những thành quả của nền kinh tế: trong suốt những năm 90, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tỷ lệ người nghèo vẫn duy trì ở mức cao và sự bất bình đẳng trong xã hội ngày một trầm trọng. Điều này cho chúng ta thấy những con số đó đã được đánh giá quá cao so với giá trị thật của nó, đây cũnng là một trong những nguyên nhân khiến cho chính phủ Argentina chủ quan vào những chính sách của mình trong suốt những năm 90. Khi Argentina lâm vào khủng hoảng, tháng 11/2000 IMF hợp tác WB , IDB thông qua chương trình hỗ trợ với quy mô lớn, tên gọi “el blindaje”. IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. “Blindaje” - chương trình được thiết kế đặc biệt với mục đích làm giảm sự lan truyền của khủng hoảng và kích thích tăng trưởng đã thất bại. Xác suất thành công vô cùng thấp, tỷ lệ vẫn duy trì ở mức ban đầu. Cụ thể : chương trình chỉ hoạt động hiệu quả trong 2 tháng, sau đó bắt đầu đi xuống. Những chính sách của chương trình này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia. Vào cuối năm 2001, khi tình hình đất nước đang vô cùng khó khăn với dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Để tăng ngân sách, Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa 1000 đô la một tháng. Ngay sau đó, IMF đã quay lưng lại với Argentina, tuyên bố ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do chính phủ nước này không đáp ứng được các đòi hỏi tài chính. Điều này đã khiến cho Argentina tuyên bố phá sản. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục nghìn người chết 2. Các quốc gia các Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới 1- Mỹ: Vào những năm 90, nền kinh tế Mỹ đã có thời kỳ phát triển liên tục và kéo dài nhất trong lịch sử của mình:  Tỷ lệ lạm phát thấp: trung bình khoảng 2.5%/năm (ngoại trừ năm 1990 là 5%/năm).  Tỷ lệ thất nghiệp thấp: 21 triệu việc làm mới được tạo ra từ 1990-2000.  Tỷ lệ tăng trưởng trung bình gần 4%/năm.  Thâm hụt ngân sách giảm từ 1993-1997 và từ năm 1998-2001 có thặng dư ngân sách. Với sự phát triển của mình, Mỹ là quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài lớn dẫn đến đồng USD tăng giá . Để giữ tỷ giá cố định, Chính phủ A rgentina đã buộc phải dùng dữ trữ ngoại hối để mua đồng peso vào và bán đồng USD ra; đồng thời phải tăng lãi suất của đồng peso để hạn chế rút tiền của người dân. Hành động đó của Chính phủ Argentina đã đẩy đồng peso tăng giá theo dẫn đến 1 loạt các hệ qủa: tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu giảm; lãi suất cao hạn chế việc đầu tư giảm phát xuất hiện. 2 - Mêhico : Mêhico đã phá giá đồng tiền của mình vào năm 1994 với cuộc khủng hoảng tequila cũng đã tác động đến Argentina. Các ngân hàng của Argentina phải đối mặt với tình trạng rút tiền lớn từ các tài khoản đồng peso và Chính phủ đã phải để cho một số ngân hàng phá sản. Tuy Argentina đứng vững mặc dù GDP giảm 4% nhưng điều đó đã phản ánh sự thiếu niềm tin vào cơ chế Hội đồng tiền tệ (currency board). 3- Brazil : Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Vào năm 1999, Brazil đã phá giá đồng real 29%. Do tỷ giá USD/Peso cố định nên sau khi đồng USD tăng giá so với đồng real thì đồng peso cũng tăng giá so với đồng real. Trong khi Argentina là nước xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu mà Brazil lại là đối tác chính yếu của Argentina, việc tăng giá đó đã làm tính cạnh tranh của xuất khẩu suy giảm dẫn đến lượng hàng xuất khẩu vào Brazil giảm làm cho nguồn thu ngoại tệ của Argentina giảm đáng kể. PHẦN III: KẾT LUẬN I. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Argentina: 1. Khu vực Mỹ – Latin 1) Tổng thống Brazil Fernando Henrique Cardoso khẳng định, cuộc khủng hoảng kinh tế tại Argentina - đỉnh điểm là việc Tổng thống Fernando de la Rue xin từ chức - sẽ chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ đất nước này, không đủ mạnh để lan sang các quốc gia trong khu vực. 2) Các nhà kinh tế cho rằng, tính chất cuộc khủng hoảng tại Argentina hoàn toàn khác so với những gì đã xảy ra ở Mexico và Brazil năm 1999. Hai ông Ricarfo Lagos - Tổng thống Chile và Pedrro Pablo Kuczynski - Bộ trưởng Thương mại Peru nói rằng các nền kinh tế Mỹ Latin đã tách biệt khỏi Argentina và cuộc khủng hoảng tại đất nước này, vì thế, sẽ “không đáng lo ngại”. 2. Thế giới Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng, khủng hoảng đem lại hậu quả rất xấu đối với Argentina, nhưng tác động ra thế giới bên ngoài thì không đáng kể. Theo các chuyên gia kinh tế, chỉ có Tây Ban Nha và Nam Phi, nơi có nhiều công ty có quan hệ làm ăn lớn với Argentina, chịu tác động một phần của cuộc khủng hoảng kinh tế. Các nhà đầu tư trên thế giới vẫn tỏ ra lạc quan trước những cuộc bạo động ở Argentina do ảnh hưởng của nó với các thị trường lớn là rất khiêm tốn. Cụ thể: - Cổ phiếu của các ngân hàng Tây Ban Nha - một chủ nợ lớn của Argentina - vào thời điểm đó sụt giá mạnh nhất. Đồn g rand của Nam Phi cũng giảm xuống mức lịch sử so với USD, bảng Anh và euro. Argentina là con nợ lớn nhất tại Mỹ Latin với khoản vay nước ngoài lên tới 132 tỷ USD. Điều này khiến cho các tổ chức tài chính quốc tế, như IMF và WB, đều tỏ ra thận trọng trong việc bơm thêm tiền cho Chính phủ Argentina. II. Nguy cơ khủng hoảng tại Việt Nam: 1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam Giai đoạn từ 2010 trở về trước (Biểu 2) Biểu 2 cho thấy, nợ công của Việt Nam đang tăng dần qua các năm và tốc độ tăng nợ công đang lớn dần: Nếu như năm 2007, nợ công của Việt Nam chỉ bằng 33,8% GDP, thì đến năm 2010 đã bằng 56,7% GDP. Theo IMF, ngưỡng nợ công được coi là thận trọng cho các nước mới nổi là 40%/GDP. Với mức này, IMF khuyến cáo Việt Nam nên giảm mức nợ công, bồi nợ công của Việt Nam tính theo GDP có khả năng cao hơn nữa do các nguyên nhân sau: (i) Nhu cầu cho xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong thời kỳ 2006 - 2010 lên tới 11- 13% GDP/năm. Trong đó, nhiều mặt hàng nguyên liệu cho xây dựng phải nhập khẩu như sắt, thép... Với tỷ giá VND/USD cao; (ii) Tín dụng quốc tế của Chính phủ với các tổ chức quốc tế và NHTƯ các nước có thể vẫn tăng; (iii) Khả năng cắt giảm đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng nó còn phụ thuộc vào quyết sách và quyết tâm của Chính phủ; (iv) Cơ chế quản lý tài chính công của Việt Nam chưa hoàn chỉnh; (v) Khả năng thay thế cho việc tài trợ từ đầu tư công bằng các nguồn vốn khác là khó khăn; (vi) Thâm hụt cán cân thương mại còn cao. Theo số liệu được tổng hợp từ báo cáo của Bộ Tài chính và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Năm 2010, tỷ lệ nợ công trên GDP theo cách tính của Bộ Tài chính là 56,7% GDP tương đương 1.103 nghìn tỷ đồng. Trong đó, nợ nước ngoài bằng 42,2%GDP. Nợ công nước ngoài bằng 30,5% GDP (chưa tính đến các khoản vay tự trả của các tổng công ty, tập đoàn Nhà nước mà Chính phủ có nghĩa vụ trả nợ, dự phòng và các khoản nợ lương hưu tiềm ẩn). Nợ công của Việt Nam sau 2010 Như chúng ta đã biết thì khủng hoảng nợ công châu Âu bùng phát vào năm 2010 và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Đối với Việt Nam thì diễn biến nợ công giai đoạn sau 2010 thế nào? Theo đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) trên trang The Economist.com, tính đến 13h (giờ Việt Nam) ngày 28/9/2012, nợ công của Việt Nam ở mức trên 68,119 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là 762,2 USD; nợ công chiếm 49,9% GDP. Cùng thời điểm, nợ công toàn cầu đang ở mức trên 48.947 tỷ USD. Tuy vậy, nợ công của Việt Nam diễn biến rất nhanh theo chiều hướng xấu dần. Cụ thể, cũng theo số liệu trên đồng hồ nợ công này thì nợ công của Việt Nam tính đến đầu tháng 3/2013 là hơn 71,749 tỷ USD, tương đương 49,4% GDP, binh quân mỗi người dân gánh số nợ công là hơn 800 USD. Năm 2012, nợ công của Việt Nam ở mức 63,671 tỷ USD, tương đương 50,6% GDP, và tính trung bình thì mỗi người dân Việt Nam trong năm 2012 gánh hơn 716 USD nợ công. Economist tính rằng, nợ công của Việt Nam hiện đang tăng vớí tốc độ 12,7%/năm. Còn theo các tư liệu công bố của Bộ Tài chính thì tính đến ngày 31/12/2011, nợ công là 1,392 triệu tỷ đồng, bằng 54,9% GDP năm 2011, bao gồm: (i) Tổng dư nợ của Chính phủ tính đến ngày 31/12/2011 là 1 096 triệu tỷ đồng, bằng 43,2% GDP (gồm các khoản vay trong nước của Chính phủ là 429 nghìn tỷ đồng từ các nguồn phát hành trái phiếu, tín phiếu, vay tồn ngân kho bạc, các khoản vay khác theo quy định của pháp luật; và vay nước ngoài là 667 nghìn tỷ đồng từ các nguồn vay ODA, vay ưu đãi và vay thương mại); (ii) Nợ được Chính phủ bảo lãnh tính đến ngày 31/12/2011 là 285 nghìn tỷ đồng, bằng 11,3% GDP, gồm bảo lãnh vay nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng; bảo lãnh vay/phát hành trái phiếu trên thị trường vốn trong nước cho các định chế tài chính chính sách (Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội) và một số dự án trọng điểm theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (iii) Nợ chính quyền địa phương tính đến ngày 31/12/2011 là 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 0,4% GDP, gồm: trái phiếu chính quyền địa phương, vay tồn ngân kho bạc, các khoản vay khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, mặc dù các tư liệu thống kê đã có sự khác biệt, song nó phản ánh 2 vấn đề: Thứ nhất, nợ công của Việt Nam vẫn đang nằm trong "ngưỡng" an toàn. Thứ hai, nợ công của Việt Nam có tốc độ tăng rất nhanh, nếu như không có các giải pháp hữu hiệu thì tình huống có thể sẽ xấu đi rất nhanh trong tương lai gần. 2. Tỷ lệ vay nợ nước ngoài (<40% GDP). Theo WB, ngưỡng an toàn đối với các nước đang phát triển là tỉ lệ nợ nước ngoài phải dưới 40%/GDP Tỉ lệ nợ nước ngoài của VN thể hiện ở bảng sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng nợ(tỷ USD) 11.8 11.9 11.8 13.3 16.7 18.9 22.2 20.0 % GDP 39.0 37.4 34.0 34.1 36.8 35.8 36.6 37.2 (Nguồn: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và nhiệm vụ năm 2007” của Chính phủ) Theo tiêu chí đánh giá quốc tế, các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ của Việt Nam đều ở dưới mức lo ngại. Nhưng nếu tính đến lãi suất phải trả và cả việc đồng Việt Nam có khả năng mất giá trong tương lai thì số thực nợ phải trả là không hề nhỏ, nó không thể lạc quan thái quá như việc một số quan chức Chính phủ cho rẳng tỉ lệ nợ vẫn ở mức an toàn. Vì nghĩa vụ thanh toán nợ bằng nguồn của ngân sách nhà nước (NSNN) đối với các khoản nợ của Chính phủ sẽ lớn dần khi các khoản vay đến hạn phải trả nợ gốc. Đối với nước ta, trong cơ cấu nợ Chính phủ là “con nợ” lớn nhất với tỉ trọng trung bình là 65,4%, kế đến là các DNNN và cuối cùng là các doanh nghiệp FDI. Vậy dựa vào đâu để tin tưởng ở khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia? Bài học từ Argentina đã chỉ rõ chắc chắn là không thể dựa vào sự tín nhiệm của quốc tế, đơn giản là sự tín nhiệm này chỉ giúp Chính phủ dễ vay nợ mà thôi. Thậm chí khi các nhà tài trợ quốc tế chỉ mới “đánh hơi” thấy một chút bất ổn về kinh tế của con nợ, họ có thể ra tay thật mạnh để đẩy nhanh tiến trình khủng hoảng nợ. 3. Cơ chế giám sát các khoản vay nước ngoài Thực tế ở nước ta, giám sát, kiểm tra, kiểm toán là khâu yếu, kể cả nơi có quyền giám sát cao nhất nước là Quốc hội. Việt Nam hiện nay rất lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của việc này có thể là do khâu quản lý còn thiếu hiệu quả hoặc có thể do tình trạng bòn rút của công, tham nhũng trong nội bộ cơ quan chính phủ, v.v… 4. Bộ máy quản lý: Giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát Về vấn đề tham nhũng của Việt Nam, theo chỉ số tham nhũng quốc tế mà Tổ chức Minh bạch quốc tế đã công bố thì Việt Nam là một trong những “thành viên” của nhóm nước có mức tham nhũng nặng nề nhất và khẳng định đây là “một trong những thách thức nghiêm trọng nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Vì chống tham nhũng lẫn thực thi nhiệm vụ kế hoạch phải gắn kết thành một mục tiêu để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội. Về vấn đề cổ phần hóa: Mỗi năm có hàng trăm doanh nghiệp quốc doanh trên cả nước tiến hành cổ phần hóa (CPH). Để ngăn chặn nhiều thủ đoạn tham nhũng “tinh tế” trong quá trình CPH, Nhà nước có đặt ra nhiều qui định.Thế nhưng từ một số sơ hở, quá trình CPH vừa qua là quá trình thất thoát tài sản nhà nước mà nếu không có điều chỉnh, rất có thể tài sản nhà nước sẽ tiếp tục bị mất. Việc thất thoát hiện nay theo kiểu truyền thống là định giá tài sản của doanh nghiệp thấp hơn nhiều giá thực tế.Mua với giá rẻ mạt nhưng được hưởng phần lợi ích từ những doanh nghiệp nay vô cùng lớn. Trong chính sách CPH có qui định phải bán một phần cổ phiếu với giá ưu đãi cho những người trong nội bộ doanh nghiệp, như giám đốc được mua đến 30% .Trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang “nóng hôi hổi”, các nhà đầu tư sẵn sàng nộp trước tiền mua cổ phiếu, chỉ cần “nhận chỗ”, những kẻ có quyền mua đã “chớp” được một khoản chênh lệch không thể nói là nhỏ. Như vậy, đáng ra Nhà nước có thể bán thẳng cổ phiếu ra thị trường với giá cao, thì lại “tạo điều kiện” cho một số đối tượng mang danh người lao động “nẫng tay trên”. Tài sản nhà nước đang bị thất thoát với rất nhiều cách như vậy. Và dù là cách nào thì số tiền của quốc gia bị thất thoát trong quá trình CPH cũng không bao giờ nhỏ!... Vì vậy nhà nước ta cần nhanh chóng ban hành những quy định trong định giá tài sản doanh nghiệp được cổ phần hóa, trong quyền được mua cổ phiếu ưu đãi trong nội bộ doanh nghiệp… Các vấn đề nội bộ mà từ kinh nghiệm của Argentina, chúng ta cần phải chú ý giải quyết triệt để, đó là tình trạng tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt và thất thoát, bộ máy hành thu thuế yếu kém, vay nợ nước ngoài thiếu tính toán. Nhưng vượt lên trên tất cả những điều này, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, chính là việc quốc gia thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài. Chừng nào chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài của chính phủ, chừng đó nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện cũng không phải là điều quá xa vời. III. Bài học kinh nghiệm : Bài học về kiểm soát thâm hụt ngân sách Thâm hụt ngân sách là vấn đề có tính thường trực của hầu hết các Chính phủ, song, nếu không kiểm soát tốt thâm hụt ngân sách thì nguy cơ gia tăng nợ công là khó tránh khỏi. Nguyên tắc trong kiểm soát nợ công là "mỗi đồng nợ công ngày hôm nay phải được bù đắp bằng thặng dư ngân sách ngày mai". Nếu không đáp ứng được đòi hỏi có tính nguyên tắc này, mà lại để tái diễn tình trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài thì sẽ gây nên những áp lực to lớn về nghĩa vụ trả nợ trong tương lai. Đồng thời, nó cũng làm dấy lên các quan ngại về tính bất an của môi trường kinh tế vĩ mô và kích thích các hoạt động đầu cơ thao túng thị trường. Những điều này khiến nguy cơ khủng hoảng nợ công luôn tiềm ẩn nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường còn yếu kém. Đối với Việt Nam, vấn đế kiểm soát thâm hụt ngân sách cần được đặt ra nghiêm túc, bởi thâm hụt ngân sách của Việt Nam vẫn là vấn đề tồn tại cố hữu, thậm chí đã và đang tiếp tục gây những quan ngại nhất định đối với cộng đồng tài chính quốc tế (Ngày 15/12/2010, Moody's đã quyết định hạ một bậc tín nhiệm của trái phiếu Chính phủ Việt Nam từ Ba3 xuống B1. Đầu tháng 8/2011, hãng đánh giá tín dụng công bố duy trì mức tín nhiệm nợ công của Việt Nam là B+ (đây là mức ngang với Mông Cổ và Venezuela nhưng thua Philipines và Indonesia). Vì hãng này cho rằng, họ chưa thấy sự chuyển biến rõ rệt trong việc cắt giảm chi tiêu công - điểm căn bản để xác định nợ công của Việt Nam. Hãng này cũng cho rằng nợ công của Việt Nam đã vượt ngưỡng 50% GDP đang cao hơn mức trung bình đối với hạng B. Ngày 19/8 hãng Standar & Poor's đã hạ một mức tín nhiệm của Việt Nam từ BA xuống BB - mức thấp nhất so với các nước Đông Nam Á chỉ ngang bằng với Bangladesh và Mông cổ), Những chỉ báo về nợ công của Việt nam có tốc độ tăng trưởng rất nhanh những năm gần đây đang đặt ra những vấn đề rất cấp bách phải tăng cường quản lý nợ công nếu không muốn những hệ quả xấu xảy ra như của Argentina. Bài học về hiệu quả sử dụng vốn vay Sử dụng vốn vay để đầu tư là con dao hai lưỡi, thể hiện: Nếu như nguồn vốn vay được sử dụng hiệu quả thì sẽ đem lại những tác động tích cực, bởi đầu tư công thường hướng vào các khu vực kinh tế then chốt, tạo hiệu ứng lan tỏa, nên sự hiệu quả của các lĩnh vực được đầu tư từ vốn ngân sách, cho dù là đi vay để đầu tư, thì cũng có tác động kích thích các khu vực kính tế khác trong nền kinh tế quốc dân nâng cao hiệu quả. Nhưng ngược lại, nếu như đầu tư từ vốn ngân sách dàn trải, kém hiệu quả, ít hướng vào chi cho đầu tư phát triển mà chủ yếu hướng vào duy trì và nâng cao đời sống phúc lợi phồn vinh giả tạo, thậm chí lãng phí, thất thoát xuất phát từ tình trạng tham nhũng, sẽ có những tác động rất tiêu cực kìm hãm sự phát triển của các khu vực kinh tế khác và dẫn tới hiệu quả kinh tế xã hội sẽ bị suy giảm. Không những thế, các nghĩa vụ trả nợ sẽ thiếu cơ sở thực thi. Sự việc PMU 18, của Vinashin, Vinalines... gần đây đưa ra các báo động đỏ về sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát chặt chẽ khiến vốn bị thất thoát lớn, đồng thời, cũng góp một phần không nhỏ khiến Việt Nam bị liệt vào nhóm các nền kinh tế "có rủi ro tín dụng cao". Bài học về quản lý nợ công Tất cả các nước lâm vào khủng hoảng nợ công đều có nguyên nhân từ sự quản lý nợ công lỏng lẻo, thiếu một chiến lược quản lý nợ quốc gia hiệu quả. Thêm vào đó, sự thiếu minh bạch về thông tin kinh tế xã hội nói chung, trong đó đặc biệt là thông tin về thực trạng nợ công quốc gia sẽ khiến những nguy cơ tiềm ẩn về khả năng xảy ra khủng hoảng không được phát hiện và cảnh báo kịp thời. Một thực tế là, một số quốc gia việc thống kê tình hình nợ quốc gia thiếu trung thực, thậm chí che giấu những thông tin bất lợi để tiếp tục nhận được các khoản trợ giúp của nước ngoài và các tổ chức quốc tế; hoặc lợi dụng uy tín của quốc gia được nâng cao để tăng cường vay nợ tài trợ cho các khoản chi tiêu để duy trì đời sống phúc lợi giả tạo. Nếu như các quốc gia không có cơ chế để ngăn chặn những bất cập này thì khủng hoảng nợ trước sau cũng sẽ bùng phát, bởi không có bất cứ cơ sở tài chính nào để các quốc gia này có thể thực thi được các nghĩa vụ nợ của mình và làm khủng hoảng niềm tin từ các nhà đầu tư nước ngoài. Bài học về kiểm soát năng lực trả nợ của nền kinh tế Về nguyên lý thì để các quốc gia có thể thanh toán được các khoản nợ gốc thì các món vay công phải được chính phủ kiểm soát chặt, bảo đảm không có bất cứ sự thất thoát nào. Nghĩa là, nếu như các khoản vốn vay đem đầu tư mà có sự thất thoát thì sẽ đe dọa trực tiếp đến khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc trong tương lai. Cũng tương tự như vậy, để thanh toán các món lãi phát sinh theo các nghĩa vụ gắn với các khoản tiền mà chính phủ đã đi vay thì các khoản đầu tư này phải có lãi, bảo đảm rằng khoản lãi thu được từ hoạt động đầu tư này ít nhất giúp các Chính phủ vay nợ có thể thực hiện được nghĩa vụ trả lãi theo các hợp đồng vay nợ. Điều này cũng có nghĩa rằng, các khoản tiền vay của Chính phủ phải có mục tiêu rõ ràng và chắc chắn được quản lý tốt và luôn đạt hiệu quả cao. Nếu như chưa chắc chắn đáp ứng được các yêu cầu này thì tốt nhất các Chính phủ phải rất thận trọng, nếu như không muốn vướng vào chiếc bẫy nợ công trong tương lai khiến các quốc gia ít có lối thoát hữu hiệu mà không bị trả giá đắt. Đối với Việt Nam, nhằm tăng cường quản lý nợ công, ngày 27/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã công bố Quyết định số 958/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó qui định: (i) Huy động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chi tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; (ii) Chủ động cải tiến công cụ quản lý nợ công, đa dạng hóa các hình thức vay vốn với chi phí hợp lý, chuyển đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần tỷ trọng huy động vốn vay trong nước, giảm dần mức độ vay nước ngoài và hạn chế bảo lãnh Chính phủ; (iii) Chính phủ thống nhất quản lý huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia hiệu quả, an toàn. Các qui định là cần thiết, song, việc kiểm soát tuân thủ vẫn là vấn đề lớn đặt ra hiện nay, bởi nợ công là con dao hai lưỡi, nó có thể khiến các quốc gia đối mặt với những bất ổn lớn nếu như không kiểm soát nợ công hiệu quả. Tóm lại, bài học lớn nhất từ khủng hoảng Argentina: đó là phải ổn định chính trị và kinh tế, chỉ khi 2 thứ đó ổn định thì những chính sách kinh tế mới phát huy tác dụng của nó. Tất nhiên, để cho cả kinh tế và chính trị đều ổn định thì ta phải: giảm tình trạng tham nhũng, lãng phí, giảm tình trạng thất thoát của công, cải thiện bộ máy thu thuế, cải thiện việc quản lý và giám sát vốn (nhất là từ các nguồn vay tín dụng nước ngoài), cần tăng cường vai trò của ngân hàng trung ương, không nên tư nhân hóa các cơ sở, xi nghiệp công ồ ạt. Cuối cùng, cũng cần phải chú ý nhiều hơn đến chính sách tỷ giá ngoại tệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_5_19a_tcqt_25102013_8872.pdf
Luận văn liên quan