Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong khâu nhãn mác, hướng dẫn sử
dụng: Theo một nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng Mỹ do hãng Puratos USAmột nhà sản xuất thực phẩm của Mỹ vừa thực hiện, 77% người tiêu dùng Mỹ có thói
quen đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và thành phần chất trong bao nhãn thực phẩm trước
khi mua. Ngoài ra một số lượng ngày càng gia tăng người tiêu dùng nghiên cứu kỹ về
chế độ dinh dưỡng hoặc có tư vấn về dinh dưỡng khi ra quyết đ ịnh mua sắm thực
phẩm. Xu hướng này cho thấy hàng nông sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ ngày càng
phải đáp ứng các tiêu chuẩn rất cao về kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm.
68 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4915 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường Mỹ là
rất lớn. Các doanh nghiệp xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam cần nhanh chóng vượt qua
những điều kiện khắt khe về vệ sinh thực phẩm của thị trường này. Quan trọng hơn,
cũng cần phải có một chiến lược xuất khẩu rau quả lâu dài đối với thị trường Mỹ.
5. Tổng quan về ngành sản xuất rau quả Việt Nam
1. Tiềm năng sản xuất và chế biến rau quả của Việt Nam.
Trong năm 2010, sản lượng cam, quýt đạt 729,4 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ
2009. Trong đó, sản lượng dứa đạt 502,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; sản lượng chuối đạt
1,7 triệu tấn, tăng 3%; sản lượng xoài đạt 574 nghìn tấn, tăng 3,6%; Sản lượng bưởi
đạt 394,1 nghìn tấn, tăng 3,4%. Sản lượng nhãn đạt 594,6 nghìn tấn, giảm 2,6%; sản
lượng vải, chôm chôm đạt 536,5 nghìn tấn, giảm 5,4% so với năm trước.
Tại Miền Bắc, diện tích gieo trồng cây vụ đông đạt 447,2 nghìn ha, bằng 11,5% so với
năm 2009. Trong đó, diện tích cây ngô đạt 144,5 nghìn ha, bằng 96,1% so với cùng kỳ
2009; diện tích khoai lang đạt 46,7 nghìn ha, bằng 95,2%; diện tích đậu tương đạt 84,1
nghìn ha, bằng 148% và diện tích cây rau, đậu các loại đạt 132 nghìn ha, bằng
109,6%.
Nói chưa xứng với tiềm năng bởi với hơn 1,5 triệu hecta đất canh tác rau quả, trung
bình mỗi năm Việt Nam có thể cung cấp hơn 6 triệu tấn trái cây nhiệt đới; 10 triệu tấn
rau vừa đa dạng về chủng loại. Mặt khác, về mùa vụ, Việt Nam là 1 trong những nước
có sản lượng rau quả lớn ở khu vực Châu Á và thế giới.
Lợi thế, năng lực là như vậy, nhưng rau quả Việt Nam vẫn loanh quanh hết “trúng
mùa - rớt giá” lại đến “được giá - thất mùa”. Số lượng và chất lượng không đáp ứng
yêu cầu nhà nhập khẩu. Mặt khác, ngay tại thị trường nội địa, rau quả Việt Nam đã và
đang phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay gắt từ rau quả nhập khẩu của Trung
Quốc, Thái Lan, Mỹ... bày bán tràn lan trên thị trường với mẫu mã ngon, chất lượng
tốt và giá cả lại rất... phải chăng.
Theo Huỳnh Quang Đấu - Giám đốc Cty Dịch Vụ Kỹ Thuật Nông Nghiệp An Giang,
Kiêm Phó Chủ tịch Hiệp hội rau quả Việt Nam, nguyên nhân khiến ngành rau quả
Việt Nam chưa tận dụng hết tiềm năng bởi bản đồ ngành trái cây Việt Nam phân bố
rộng rãi và bị phân chia nhỏ lẻ. Hầu hết sản lượng trái cây được sản xuất bởi những
trang trại nhỏ hoạt động trên diện tích 1 đến 2 ha trở xuống với mức trung bình của cả
miền Bắc và miền Nam là khoảng 1,2ha trên một trang trại. Sản phẩm hoặc được bán
thẳng cho những người tiêu dùng địa phương hoặc được bán cho những người thu
mua bán lẻ và bán buôn, sau đó họ dồn các sản phẩm để bán lại cho nhà chế biến. Các
nông trại có diện tích trên 30ha là rất hiếm trên toàn bộ đất nước Việt Nam.
Do chưa quy hoạch vùng chuyên canh theo lợi thế nên sản xuất rau quả tại Việt Nam
quá manh mún, nhỏ lẻ dẫn đến giá thành quá cao. Mặt khác, Việt Nam chưa thực sự tổ
chức được liên kết vùng lại dẫn đến việc nhiều vùng, nhiều địa phương cùng trồng
một loại cây. Bên cạnh đó, người nông dân thấy cây trồng nào đang có giá ngay lập
tức chuyển sang trồng cây đó dẫn đến tình trạng cung vượt cầu, hàng hóa dư thừa làm
giảm chất lượng, không tiêu thụ được và chất lượng không ổn định.
Trong thời gian qua, nhà nước cũng đã thực hiện nhiều chính sách, chương trình
hướng tới sự phát triển của ngành rau quả như: Xuất khẩu rau quả từ 2001 - 2010;
Chính sách về các trang trại để xây dựng các khu chuyên trồng trái cây tại các khu vực
mới; Chính sách phát triển các hợp tác xã trái cây chuyên nghiệp; Qui hoạch phát triển
rau quả và hoa cây cảnh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Hỗ trợ thành lập
liên kết 4 nhà… Không thể phủ nhận được, các chương trình này đã thúc đẩy rất tích
cực cho sự phát triển của ngành rau quả. Tuy nhiên, hiệu quả ảnh hưởng của các
chương trình, chính sách kể trên vẫn chưa được như mong muốn.
2. Tiềm năng xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Điều kiện khí hậu phức tạp của năm 2010 đã tác động mạnh đến giá rau quả trên thị
trường thế giới. Với nhu cầu tăng cao, diện tích canh tác giảm và tình hình thời tiết bất
lợi, dự báo giá rau quả trên thị trường thế giới sẽ tiếp tục tăng trong năm 2011.
Với nhiều lợi thế trong sản xuất rau quả và mặt hàng xuất khẩu đa dạng, Việt Nam đã
xuất khẩu được nhiều loại rau quả tươi cũng như chế biến sang hơn 50 nước trên thế
giới nhưng Việt Nam chưa hình thành được các mặt hàng chủ lực, có địa vị thống trị
trên thị trường như dứa của Thái Lan, chuối của Philippine, rau tươi và rau chế biến
của Trung Quốc. Thị phần của hầu hết các mặt hàng rau quả Việt Nam còn ở mức rất
hạn chế, không tạo được tác động chi phối đến thị trường thế giới.
Nguyên nhân của tình trạng đó là tuy đã có những tiến bộ nhất định khả năng mở rộng
xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam khá hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào thị
trường những nước lân cận như Trung Quốc. Xuất khẩu rau quả, đặc biệt là rau quả
tươi sang các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản còn gặp nhiều trở
ngại về công nghệ bảo quản và chế biến cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu về
hàng nhập khẩu của các thị trường này.
Với thị trường Trung Quốc: Trong những năm tới, Trung Quốc vẫn là thị trường có
nhiều tiềm năng phát triển đối với rau quả xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc là thị
trường lớn, dễ thâm nhập, yêu cầu về chất lượng không quá cao, nhu cầu tiêu dùng
của cư dân cũng rất đa dạng. Các nước khác trong khu vực: Đài Loan và Hàn Quốc
cũng là thị trường xuất khẩu rau quả lớn thứ hai của Việt Nam, chiếm khoảng 10% và
6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các nước ASEAN cũng là những thị trường xuất khẩu
rau quả quan trọng của Việt Nam, trong đó Singapore, Malaysia và Indonesia nhập
khẩu 1-2 triệu USD/năm.
Nhật Bản: Hiện tại và trong những năm tới, Nhật Bản vẫn là khu vực đầy tiềm năng
của nhiều loại rau quả như bắp cải, dưa chuột, khoai tây, đậu quả các loại, dứa, cà
chua, thanh long, tỏi, hoa… Đây cũng là những mặt hàng mà nước ta có năng lực sản
xuất khá dồi dào. Năm 2003, Nhật Bản đã nhập khẩu một lượng rau quả trị giá khoảng
trên 16 triệu USD từ Việt Nam. Tuy vậy, lượng kim ngạch này mới chỉ chiếm 0,4%
tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả của Nhật Bản.
Thị trường EU: Do khoảng cách xa và chi phí vận chuyển cao, Việt Nam chủ yếu xuất
khẩu sang châu Âu các loại rau quả đóng hộp, nước quả. Các thị trường xuất khẩu
quan trọng nhất của Việt Nam trong khu vực này là Đức, Pháp, Hà Lan, Italia, Anh và
Thuỵ Sĩ. Trong những năm gần đây, các nước châu Âu có xu hướng tăng cường nhập
khẩu các loại quả nhiệt đới.
Thị trường Bắc Mỹ: Trong những năm qua, xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị
trường Bắc Mỹ, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, đã có những bước tiến đáng kể. Hoa
Kỳ nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là rau quả chế biến và nước quả. Theo thống kê
của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, kim ngạch nhập khẩu rau quả chế biến của Hoa Kỳ từ
Việt Nam đã tăng từ 5,0 triệu USD năm 1999 lên 5,7 triệu USD năm 2003.
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường này. Kể từ khi Hiệp định thương mại song phương Việt
Nam và Hoa Kỳ xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Hoa Kỳ trở nên dễ dàng hơn.
Nhờ được hưởng quy chế đối xử tối huệ quốc (MFN), thuế nhập khẩu giảm đáng kể.
Thị trường Nga: Việt Nam được hưởng chế độ GSP của Nga nên chính sách thuế
không đặt ra áp lực cạnh tranh đối với xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị
trường này. Thị trường Nga trước mắt và lâu dài còn cần nhiều hàng nông sản, rau,
trái cây vùng nhiệt đới. Việt Nam có nhiều cơ hội có thể chiếm lĩnh được thị trường
khu vực Viễn Đông của Nga, như đã làm trước kia. Vấn đề đặt ra là cách thức tổ chức
sản xuất và xuất khẩu rau qảu từ lúc chọn giống, cách trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo
quản, vận chuyển nội địa, giao hàng lên tàu lạnh.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và hoạt động của ngành rau quả
Việt Nam có tiềm năng lớn về lĩnh vực sản xuất trái cây tươi, với sản lượng có thể đạt
khoảng hơn 3 triệu tấn/năm trên diện tích gieo trồng 554.000ha.
Mạng tin tạp chí FruchtPortal (Đức) mới đây đánh giá rằng Việt Nam có tiềm năng
lớn về lĩnh vực sản xuất trái cây tươi, với sản lượng có thể đạt khoảng hơn 3 triệu
tấn/năm trên diện tích gieo trồng 554.000ha.
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam kề từ tháng 11/2009 đã tăng đáng kể, nhờ nhu cầu
của nước ngoài tăng mạnh. Hiện sản phẩm trái cây của Việt Nam được xuất khẩu sang
tới 30 nước ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ, với giá trị xuất khẩu 300 triệu USD.
Hiệp hội Rau Quả Việt Nam (Vinafruit) hiện đang tăng cường các hoạt động xúc tiến,
làm cầu nối giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam và các nhà nhập khẩu nước ngoài. Hiệp
hội cũng triển khai các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, cung cấp thông tin và trợ giúp
kỹ thuật nhằm hỗ trợ các nước trong các lĩnh vực cải thiện chất lượng và giảm giá cả.
Tuy nhiên, Hiệp hội Rau Quả Italy cho rằng rất đáng tiếc Việt Nam chỉ đáp ứng được
40% đến 50% nhu cầu đặt hàng từ nước ngoài, bởi vụ thu hoạch kém, đặc biệt ở miền
Bắc và miền Trung, do điều kiện khí hậu khô hạn.
Mạng tin Fruchtportal cũng đã đánh giá cao việc thành lập Hiệp hội Dừa Việt Nam,
coi đây là nhân tố quan trọng khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp dừa
Việt Nam, giúp đỡ các nhà sản xuất, chế biến và kinh doanh dừa và sản phẩm dừa
cũng như bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong hiệp hội.
Dẫn số liệu của Việt Nam, mạng tin này cho biết hiện có 200.000ha dừa được trồng
chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long và các khu vực ven biển miền Nam. Đức là
quốc gia không trồng được dừa và thường xuyên phải nhập dừa và sản phẩm dừa từ
Philippines và các nước khu vực Trung Mỹ để chế biến rượu dừa và các loại thực
phẩm có dừa khác.
VI. Tầm quan trọng của xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ
Rau quả xuất khẩu sang thị trường Mỹ khá đa dạng với nhiều chủng loại như dứa,
chuối, xoài, vải, dưa hấu, nhãn, thanh long và chôm chôm; các loại rau xuất khẩu là
cải bắp, dưa chuột, khoai tây, hành, cà chua, đậu, súp lơ và ớt. Những năm gần đây,
do có sự biến động về thị trường xuất khẩu và khối lượng xuất khẩu nên cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã có sự thay đổi: tăng nhập khẩu các sản
phẩm rau quả tươi và giảm dần các sản phẩm rau quả đóng hộp. Trong năm 2009,
lượng xuất khẩu rau quả tươi sang thị trường Mỹ đạt 867 nghìn USD, chiếm 3,9%
tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường này. Trong 9 tháng đầu năm 2010
đạt 1,9 triệu USD, chiếm 10% tổng kim ngạch.
Tuy nhiên, tỷ trọng xuất khẩu rau quả dưới dạng chế biến vẫn rất cao, lượng rau quả
tươi xuất sang vẫn còn khá khiêm tốn, chủ yếu là hành tỏi, đậu xanh, rau gia vị, các
loại quả nhiệt đới.
Xuất khẩu trái cây tươi và chế biến: Trong 9 tháng năm 2010, kim ngạch xuất khẩu
trái cây tươi và chế biến đạt 4,5 triệu USD, tăng 176,6% so với cùng kỳ 2009. Trong
đó, xuất khẩu thanh long đạt cao nhất với 1,6 triệu USD, tăng 703,5%;
Xuất khẩu Táo sấy giòn và quả Tắc cũng đạt mức tăng trưởng rất cao với kim ngạch
đạt lần lượt 48,5 nghìn USD và 8 nghìn USD, tăng 13 lần và 12 lần so với cùng kỳ
2009.
Riêng đối với mặt hàng đu đủ từ đầu năm đến nay chưa có lô hàng nào của Việt Nam
được xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Với tốc độ tiêu thụ đu đủ tăng 10%/năm của
người tiêu dùng Mỹ, hàng năm nước này phải nhập khẩu khối lượng lớn loại quả nhiệt
đới này. Đây cũng là thị trường nhập khẩu đu đủ lớn nhất thế giới và có lợi cho việc
xuất khẩu đu đủ của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Trong những năm gần đây, vải, măng cụt, hồng xiêm, vú sữa và chôm chôm được
đánh giá là những sản phẩm xuất khẩu có triển vọng lớn đối với hầu hết các thị
trường. Vải, hồng xiêm được trồng khắp cả nước, chôm chôm, măng cụt, vú sữa chủ
yếu ở Nam Bộ, những loại trái cây này cho sản lượng rất cao.
Tuy vậy giá trị xuất khẩu các loại trái cây này sang thị trường Mỹ còn thấp. Ngoài ra
còn một số loại quả khác được xuất sang Mỹ như: mít sấy khô, dứa, xoài, chanh,
cau…
Xuất khẩu rau tươi và rau sấy khô: trong 9 tháng năm 2010 có 16 loại rau được xuất
khẩu sang thị trường Mỹ với tổng kim ngạch đạt 7 triệu USD, tăng 0,5% so với cùng
kỳ 2009. Trong đó, xuất khẩu Nấm rơm muối, nấm rơm đóng lon đạt kim ngạch cao
nhất với 4,6 triệu USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ 2009.
Tiếp đến là mặt hàng ngô non đóng lon, ngô luộc đạt kim ngạch 862,4 nghìn USD,
tăng 38% so với cùng kỳ 2009. Dưa chuột chế biến là một trong những mặt hàng rau
xuất khẩu mạnh nhất của Việt Nam trong những năm qua. Kim ngạch xuất khẩu dưa
chuột chế biến sang thị trường Mỹ trong 9 tháng năm 2010 đạt 552,7 nghìn USD, tăng
29,4% so với cùng kỳ 2009.
Đáng chú ý, xuất khẩu cà các loại và rau cải tăng trưởng rất cao với kim ngạch đạt lần
lượt 121 nghìn USD và 90 nghìn USD, tăng 664,4% và 767,7% so với cùng kỳ 2009.
Xuất khẩu các loại củ, hoa, hạt và nước trái cây cũng đạt mức tăng trưởng khá với kim
ngạch đạt 7,3 triệu USD, tăng 28,2% so với cùng kỳ 2009. Trong đó, đáng chú ý là
nhóm sản phẩm củ xuất khẩu sang thị trường này với kim ngạch đạt 885,9 nghìn USD,
tăng 122,5%. Có khá nhiều loại củ được xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2010 như
khoai lang, củ hành, tỏi, nghệ, gừng, củ từ…
Như trên ta thấy, thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng đối với xuất khẩu rau
quả của các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương II. Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Hoa Kì
I. Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam ra thị trường thế giới
1. Tổng quan về rau quả Việt Nam
1.1. Xu hướng phát triển sản xuất rau quả
Dự báo xuất khẩu rau hoa quả trong năm 2011 sẽ tăng mạnh do nhu cầu tăng cao. Các
mặt hàng như trái cây tươi, trái cây đóng hộp, trái cây sấy khô, rau đóng hộp như dưa
chuột, ớt, cà chua, cà tím…sẽ là những mặt hàng tạo nên sự “bứt phá” trong kim
ngạch xuất khẩu rau hoa quả.
Nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới được dự báo sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2010-
2015. Các quốc gia phát triển vẫn là các nước nhập khẩu nhiều rau quả trong đó EU là
thị trường nhập khẩu rau quả chủ yếu.
Nhu cầu về quả nhiệt đới sẽ tăng nhanh với tốc độ tăng trưởng 8%. Ước tính nhập
khẩu toàn cầu đạt 4,3 triệu tấn năm 2010, trong đó 87% (3,8 triệu tấn) được nhập khẩu
bởi các nước phát triển. Hai khu vực EU và Hoa Kỳ chiếm 70% tổng nhập khẩu quả
nhiệt đới toàn cầu. EU vẫn là khu vực nhập khẩu quả nhiệt đới lớn nhất thế giới với
Pháp là thị trường tiêu thụ chính và Hà Lan là thị trường trung chuyển lớn nhất châu
Âu.
Ngoài Hoa Kỳ và EU, Nhật Bản, Canada và Hồng Kông cũng là những thị trường
nhập khẩu quả nhiệt đới lớn. Đối với các loại quả có múi, tốc độ tăng sản lượng sẽ
không cao do khâu chế biến không thuận lợi. Sao Paolo của Brazil và Florida của Mỹ
là những khu vực cung cấp quả có múi lớn nhất thế giới
2. Tình hình xuất khẩu rau quả Việt Nam trong những năm gần đây
2.1. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây
Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong năm 2010 như giá cả nguyên vật liệu tăng cao, tình
hình mưa bão, sâu bệnh gia tăng nhưng xuất khẩu rau hoa quả vẫn đạt được kết quả
khả quan. Kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả năm 2010 ước đạt 471,5 triệu USD, tăng
7,4% so với năm 2009.
Các mặt hàng trái cây tươi và trái cây chế biến tiếp tục chiếm kim ngạch cao nhất
trong những chủng loại rau hoa quả (chiếm 36,6% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả
trong năm 2010). Trong đó, xuất khẩu trái Thanh long đạt kim ngạch cao nhất trong
năm 2010 với 58 triệu USD, tăng 70,9% so với cùng kỳ 2009.
Trong năm 2010, các nhà vườn trồng thanh long đón nhận nhiều tin vui. Nhiều nhà
vườn được cấp chứng chỉ chất lượng Global Gap, EU Gap; Hợp đồng xuất khẩu thanh
long liên tục tăng, nhiều lúc không đủ hàng để bán. Các hoạt động quảng bá, giới
thiệu sản phẩm thanh long tại nhiều thị trường như Ý, Hàn Quốc…được xúc tiến.
Trong đầu năm 2011, sản phẩm thanh long có thể được xuất khẩu sang Hàn Quốc và
Chi Lê, tiếp sau đó là các loại rau quả khác của Việt Nam như vú sữa, bưởi, tỏi…
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu rau qua sang thị
trường Mỹ tháng 9/2010 đạt 18,3 triệu USD, tăng 27,6% so với cùng kỳ 2009. Ước
tính trong tháng 10/2010, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả sang thị trường Hoa Kỳ
đạt 2,7 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ lên 21
triệu USD.
Cùng với xu hướng tăng xuất khẩu rau quả nói chung vào tất cả các thị trường, kim
ngạch xuất khẩu vào Mỹ cũng tăng trong những năm qua, đưa thị trường Mỹ trở thành
thị trường rau quả lớn thứ 5 của Việt Nam sau các thị trường như: Trung Quốc, Nhật
Bản, Hà Lan và Nga.
Xuất khẩu rau các loại mặc dù không đạt được mức tăng trưởng cao như xuất khẩu
trái cây nhưng cũng đạt hơn 94 triệu USD (chiếm 25,2% tổng kim ngạch), tăng 4,9%
so với cùng kỳ 2009.
Các sản phẩm Hoa, hạt, lá, củ các loại chiếm 38,1% tổng kim ngạch. Đáng chú ý trong
năm 2010, xuất khẩu Hoa các loại đạt mức tăng trưởng rất mạnh. Trong 11 tháng năm
2010, xuất khẩu hoa các loại đạt 15,3 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ 2009. Nhu
cầu nhập khẩu hoa tươi và khô tại Nhật Bản, Hàn Quốc… hiện còn rất lớn và là cơ hội
cho các doanh nghiệp xuất khẩu hoa của Việt Nam trong năm 2011.
Những điểm đáng chú ý đối với ngành rau quả xuất khẩu năm 2010
Đầu năm 2010, Trung Quốc công bố danh sách các loại trái cây được chính thức nhập
khẩu vào nước này. Theo đó, Việt Nam có 7 loại trái cây là Xoài, Nhãn, Chuối, Vải,
Dưa hấu, Chôm chôm, Mít, Thanh long. Những yêu cầu đối với trái cây của Việt Nam
xuất sang Trung Quốc gồm: đăng kí nguồn gốc xuất xứ, nhãn mác; phải có kiểm dịch
của cơ quan chức năng theo yêu cầu của Trung Quốc; phải đáp ứng vệ sinh an toàn
thực phẩm như lượng SO2, kim loại nặng, nấm mốc, vi sinh gây hại...
Trung tuần tháng 7/2010, các thành viên hạ viện châu Âu (MEPs) đã thống nhất đưa
ra luật về ghi nhãn xuất xứ thực phẩm. Ủy ban Môi trường của Nghị viện châu Âu đã
bỏ phiếu ủng hộ các quy tắc được đưa ra; theo đó, tất cả thịt, gia cầm, sản phẩm từ
sữa, trái cây tươi và rau đều phải được dán nhãn nước xuất xứ rõ ràng. MEPs cũng
chấp thuận đề nghị ghi nhãn nước xuất xứ trên thịt gia súc, gia cầm và cá khi được sử
dụng như là một thành phần trong thực phẩm chế biến.
2.2. Thị trường xuất khẩu chủ yếu và tỷ trọng của từng thị trường
Thời gian qua, các nhà xuất khẩu rau quả Việt Nam đã chịu đầu tư mở rộng tìm kiếm
nghiên cứu thị trường xuất khẩu nên đến nay sản phẩm rau quả Việt Nam đã có mặt
tại 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới trong đó chủ yếu là Hoa Kỳ, Hà Lan,
CHLB Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Đức, Pháp, Anh, Ukraina, Úc, Canada,
Hàn quốc, Singapore, Thái Lan…
Thị trường lớn nhưng sản lượng nhỏ. Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit),
Việt Nam là quốc gia sản xuất rau quả đạt sản lượng lớn đứng thứ 5 ở châu Á nhưng
chủ yếu tiêu thụ trong thị trường nội địa (85%) còn phục vụ xuất khẩu rất ít. Mặc dù
tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả trong 6 năm (2004-2009) đạt 1,82 tỷ USD, tăng
trưởng bình quân đạt 20%/năm, riêng năm 2009 vừa qua là 439 triệu USD và 3 tháng
đầu năm 2010 có phần tăng nhẹ so với cùng kỳ nhưng ông Lê Văn Ánh – Phó Chủ
tịch Vinafuit cho rằng con số trên vẫn chiếm tỉ trọng rất nhỏ so với tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước.
Hiện nay các sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn, mới lạ
hơn với nhiều sản phẩm như: gấc đông lạnh, puree vải, hỗn hợp quả trong nước chanh
dây, puree từ trái thanh long, lô hội đóng hộp và quả hỗn hợp đông lạnh nhiều màu:
xanh, đỏ, vàng, trắng; nhiều dạng tròn, khối vuông…
Khi bắt đầu bước vào “cuộc chơi” toàn cầu hoá, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu rau
quả đều nhận thức được tầm quan trọng về quản lý chất lượng sản phẩm, an toàn vệ
sinh thực phẩm nên một số lớn doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã được chứng nhận
HACCP, ISO, BRC,Kosher, Halal… đồng thời cũng đúc rút được nhiều kinh nghiệm
và làm quen dần tập quán mua bán hàng hoá của các thị trường chính: EU, Hoa Kỳ,
Trung Đông…
Tuy vậy, trong ba tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu rau quả chỉ tăng nhẹ và
chủ yếu là do tăng giá trong khi khối lượng tăng ít. Ngoài ra, tỷ trọng xuất khẩu tươi
cũng rất ít (chủ yếu là xuất khẩu thanh long, bưởi… sang các nước trong khu vực
ASEAN) và chỉ chiếm 2,5% so với rau quả chế biến. Chúng ta cũng chưa đủ khả năng
đáp ứng các đơn hàng lớn trong khi năng lực chế biến của doanh nghiệp còn thừa rất
nhiều và phải đối mặt với một số khiếu nại về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm
(ruồi đục quả, dư lượng thuốc sâu, hàm lượng kim loại nặng, bao bì không đảm
bảo...).
Theo thống kế của Vinafruit, năm 2009 có 82 thị trường nhập khẩu rau của Việt Nam
(tăng thêm 12 thị trường so với năm 2008) nhưng Nga, Mỹ, EU vẫn là những thị
trường tiêu thụ chính. Trong 3 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu rau các loại
tại các thị trường này tăng nhẹ so với cùng kỳ 2009 và các loại rau như cải bắp, cải
thảo, súp lơ, ớt, bí (rau tươi) và dưa chuột, cà tím chiên, cải bó xôi sấy khô, cà chua
đóng hộp (rau chế biến) vẫn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Theo ông Ánh, mặc dù các giải pháp chủ yếu đã được các Bộ ngành liên quan đưa ra
như giải pháp về quy hoạch sản xuất nông nghiệp, chế biến bảo quản, khoa học công
nghệ và khuyến nông, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, chính sách hỗ trợ… nhưng trên quan
điểm của Hiệp hội, để gia tăng giá trị xuất khẩu, cần ưu tiên cơ cấu rau quả xuất khẩu
theo thứ tự: tươi – chế biến đông lạnh – chế biến đóng hộp – chế biến nước ép và sấy
khô. Phát triển xuất khẩu phải đi đôi với phát triển thị trường nội địa bởi hiện nay thị
trường nội địa là chỗ dựa, là “cứu cánh” cho thị trường xuất khẩu khi gặp khó khăn.
3. Đánh giá tình hình xuất khẩu rau quả trong thời gian qua
3.1. Về khối lượng và kim ngạch
Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường Mỹ chưa xứng tầm với
năng lực sản xuất trong nước.
3.2. Chất lượng sản phẩm, thương hiệu và giá cả
Việt Nam đã xuất khẩu mặt hàng rau quả sang nhiều thị trường trên thế giới. So với
các nước khác, giá mặt hàng rau quả của Việt Nam tương đối thấp hơn. Điều này làm
tăng tính cạnh tranh của mặt hàng này. Tuy nhiên, Việt Nam chưa tạo được thương
hiệu trên các thị trường chủ chốt. Mặt khác, chất lượng rau quả chưa đáp ứng những
yêu cầu khắc khe của các thị trường khó tính điển hình là thị trường Mỹ.
II. Tình hình xuất khẩu rau quả Việt Nam sang Mỹ
1. Thực trạng xuất khẩu rau quả sang thị trường Hoa Kì trong thời gian qua
Tháng 9/2010, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu rau quả lớn thứ 4 của Việt Nam (sau
Trung Quốc, Nhật Bản, CHLB Nga), với tỷ trọng khoảng 6,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu rau quả của Việt Nam trong tháng
Bảng 5: So sánh kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu rau quả sang thị trường Hoa
Kỳ với các thị trường xuất khẩu rau quả lớn của Việt Nam (tháng 9/2010)
Thị trường Kim ngạch (USD) Tỷ trọng (%)
Trung Quốc 6.550.039 21,0
Nhật Bản 4.109.970 13,2
CHLB Nga 2.387.615 7,6
Hoa Kỳ 2.050.774 6,6
Đài Loan 1.813.044 5,8
Hà Lan 1.435.274 4,6
Nguồn: Tính toán trên cơ sở số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan
Kim ngạch xuất khẩu: Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng
đầu năm 2010, xuất khẩu rau quả sang Hoa Kỳ đạt trên 18,34 triệu USD, tăng 32,6%
so với 9 tháng năm 2009. Như vậy tính chung 9 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu rau
quả sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 5,59% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt
Nam (so với Trung Quốc là 13,7%, Nhật Bản là 7,98% và CHLB Nga là 5,8%).
Mặc dù có khởi đầu tương đối thuận lợi trong năm 2010 nhưng kim ngạch xuất khẩu
rau
quả sang Hoa Kỳ trong năm nay biến động khá mạnh giữa các tháng và bắt đầu có dấu
hiệu sụt giảm từ tháng 8/2010. Trong khi đó, xuất khẩu rau quả sang Hoa Kỳ năm
2009 duy trì xu hướng tăng từ đầu quí II đến cuối năm.
Chủng loại rau quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ:
Các mặt hàng rau quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng phong phú đa dạng, gồm rau,
quả, gia vị các loại, các loại đồ uống (trừ trái cây) và một số loại bánh từ rau quả.
Về rau củ có các loại cà chua, cải chua, đậu xanh, đậu đen, đậu bắp, đậu cove, rau đay,
dưa chuột, nấm rơm, khoai mì, cà pháo, rau củ tổng hợp sấy giòn.
Về trái cây hiện Việt Nam mới chỉ xuất phổ biến trái thanh long tươi, dứa, mít sấy,
mãng cầu. chuối nướng, cóc chua ngọt, sinh tố rau má, thạch rau câu.
Ngoài rau củ, các doanh nghiệp cũng xuất khẩu nhiều loại gia vị sang Hoa Kỳ, từ các
chủng loại ớt, gia vị tổng hợp, gia vị bò kho, gia vị hành tỏi, gia vị cà ri, gia vị lá
chanh, gia vị mỳ và thảo mộc, gia vị phở bò, gia vị phở gà, hành chiên, hành hương
khô, hành phi, tỏi phi, xả bằm đến các loại gia vị làm sẵn cho rau xào và rán. Các loại
gia vị này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu bữa ăn của người châu Á tại Hoa Kỳ, trong đó
có một lực lượng đông đảo là kiều bào của ta.
Đơn giá xuất khẩu:
Đơn giá xuất khẩu các mặt hàng cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào phẩm cấp và quan hệ
đối tác. Đơn cử như trường hợp trái thanh long xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong tháng
9/2010 có các mức giá chênh lệnh lớn, từ 2,25USD/kg đến 10,13USD/kg.
Từ khi bắt đầu xuất khẩu rau quả sang thị trường Hoa Kỳ (năm 2005) đến nay, kim
ngạch xuất khẩu rau quả liên tục tăng từ 15 – 20%. Trong năm 2010, kim ngạch xuất
khẩu rau quả sang thị trường này đạt 26,4 triệu USD, tăng 18,9% so với năm 2009.
Trong 3 tháng đầu năm 2011, hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả diễn
ra hết sức nhộn nhịp, hàng trăm tấn thanh long và nhiều loại rau quả khác đã được
xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu rau qua
sang thị trường Hoa Kỳ 2 tháng đầu năm 2011 đạt 3,2 triệu USD, tăng 9,7% so với
cùng kỳ 2010. Ước tính trong tháng 3/2011, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả sang thị
trường Hòa Kỳ có thể đạt 2,7 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang
thị trường này lên 5,9 triệu USD trong quý II/2011.
Dự báo trong những tháng tới, xuất khẩu rau quả và đặc biệt là trái cây tươi sang thị
trường Hoa Kỳ sẽ tăng mạnh do nhiều loại trái cây đặc trưng của Việt Nam như
Thanh Long, bòn bon, dừa…được thị trường Hoa Kỳ ưa thích.
Rau quả xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ khá đa dạng với nhiều chủng loại như dứa,
chuối, thanh long, chôm chôm, vú sữa, mít, chanh; các loại rau xuất khẩu là cải bắp,
dưa chuột, hành, đậu, sả và ớt. Những năm gần đây, do có sự biến động về thị trường
xuất khẩu và khối lượng xuất khẩu nên cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường
Mỹ đã có sự thay đổi: tăng nhập khẩu các sản phẩm rau quả tươi và giảm dần các sản
phẩm rau quả đóng hộp.
Xuất khẩu trái cây tươi và chế biến: Trong 2 tháng năm 2011, kim ngạch xuất khẩu
trái cây tươi và chế biến đạt 1,4 triệu USD, tăng 81,1% so với cùng kỳ 2010. Trong
đó, xuất khẩu thanh long đạt cao nhất với 624,8 nghìn USD, tăng 170,9%;
Xuất khẩu dứa khoanh đóng lon và nước dứa cô đặc đạt 272,1 nghìn USD, tăng 16,4%
so với cùng kỳ 2010. Tiếp đến là nước lạc tiên với kim ngạch xuất khẩu đạt 107 nghìn
USD, tăng 193,8%...
Trong những năm gần đây, vải, măng cụt, hồng xiêm, vú sữa và chôm chôm được
đánh giá là những sản phẩm xuất khẩu có triển vọng lớn đối với hầu hết các thị
trường. Vải, hồng xiêm được trồng ở khắp cả nước, chôm chôm, măng cụt, vú sữa chủ
yếu ở Nam Bộ, những loại trái cây này cho sản lượng rất cao. Tuy vậy giá trị xuất
khẩu các loại trái cây này sang thị trường Mỹ còn thấp và một số loại trái cây chưa
được xuất khẩu vào thị trường này do rào cản kỹ thuật về chất lượng.
Một thông tin vui đối với nhà vườn trồng chôm chôm là Hoa Kỳ đang xem xét và sẽ
dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với trái chôm chôm tươi của Việt Nam trong thời gian
tới. Việc xuất khẩu chôm chôm sang Hoa Kỳ sẽ thuận lợi hơn thanh long do Việt Nam
đã có kinh nghiệm thực hiện và có sẵn cơ sở hạ tầng.
Theo giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu, về nguyên tắc trái cây
xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải được cấp mã số vùng trồng, nhà máy đóng gói cũng được
cấp mã số đạt chuẩn của Hoa Kỳ và phải được xử lý bằng phương pháp chiếu xạ.
Theo đánh giá của các nhà xuất khẩu trái cây, hiện chôm chôm Thái Lan đang chiếm
thị phần lớn nhất tại Mỹ nhưng với những thuận lợi về chất lượng và giá cả, chôm
chôm Việt Nam đang hướng đến việc chiếm lĩnh 1/3 thị phần của chôm chôm Thái
Lan hiện có tại Hoa Kỳ.
Xuất khẩu rau tươi và rau sấy khô: trong 2 tháng năm 2011 có 16 loại rau được xuất
khẩu sang thị trường Hoa Kỳ với tổng kim ngạch đạt 1,1 triệu USD, giảm 11,1% so
với cùng kỳ 2010. Trong đó, xuất khẩu Nấm rơm muối, nấm rơm đóng lon đạt kim
ngạch cao nhất với 838,6 nghìn USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ 2009.
Tiếp đến là mặt hàng ngô non đóng lon, ngô luộc đạt kim ngạch 140,7 nghìn USD,
giảm 35,6% so với cùng kỳ 2010. Dưa chuột chế biến là một trong những mặt hàng
rau xuất khẩu mạnh nhất của Việt Nam trong những năm qua. Kim ngạch xuất khẩu
dưa chuột chế biến sang thị trường Mỹ trong 2 tháng đầu năm 2011 tăng rất mạnh, đạt
60,2 nghìn USD, tăng 113,8% so với cùng kỳ 2010.
Xuất khẩu các loại củ, hoa, hạt và đồ hộp chế biến từ rau quả cũng đạt mức tăng
trưởng khá với kim ngạch đạt 623,8 nghìn USD, tăng 20,1% so với cùng kỳ 2010.
Trong đó, đáng chú ý là nhóm sản phẩm củ xuất khẩu sang thị trường này với kim
ngạch đạt 183,9 nghìn USD, tăng 45,7%. Có khá nhiều loại củ được xuất khẩu trong 2
tháng đầu năm 2011 như khoai lang, củ hành, tỏi, nghệ, gừng, củ từ…
Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm rau quả của Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ là rất lớn. Các doanh nghiệp xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam cần nhanh chóng
vượt qua những điều kiện khắt khe về vệ sinh thực phẩm của thị trường này. Quan
trọng hơn, cũng cần phải có một chiến lược xuất khẩu rau quả lâu dài đối với thị
trường Hoa Kỳ.
2. Thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu rau
quả sang thị trường Hoa Kì.
Thuận lợi:
- So với nhiều nước trên thuế giới, thuế nhập khẩu rau quả vào Hoa Kỳ hiện vẫn thấp
hơn1 . Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (2010), mức thuế nhập khẩu rau quả
trung bình trên thế giới là 50% giá trị rau quả nhập khẩu trong khi tại Mỹ mức thuế
suất chỉ dưới 5%. Tại một số thị trường phát triển khác như EU và Nhật Bản mức thuế
suất cũng cao hơn. Ví dụ, khoảng 60% hàng rau quả nhập khẩu vào các thị trường này
chịu thuế suất từ 5%-25% và 20% chịu mức thuế suất trên 25%. Rau quả nhập khẩu
vào các nước đang phát triển thậm chí chịu thuế suất cao hơn nữa, ví dụ, khoảng 80%
mặt hàng chịu mức thuế từ 25%-100%. Các thị trường có mức thuế đối với rau quả
tương đối cao là Trung Quốc, Ai Cập, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc.
- Nhu cầu rau quả nhiệt đới vẫn trong xu hướng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi
khẩu vị của người Mỹ gốc Âu và nhu cầu tiêu thụ món ăn truyền thống của một bộ
phận người Mỹ gốc Á, Phi ngày càng tăng.
Khó khăn:
Từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả của Việt Nam
Các doanh nghiệp của Việt Nam thiếu kinh nghiệm về việc xuất khẩu rau quả sang thị
trường Mỹ. Cụ thể, chưa nắm rõ luật thương mại của từng tiểu bang, gặp nhiều khó
khăn khi xuất khẩu rau quả vào Mỹ.
Chưa chủ động trong khâu thu mua và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm từ phía Mỹ.
Từ phía Mỹ và các doanh nghiệp của các nước khác xuất khẩu sang Mỹ.
Áp lực cạnh tranh lớn từ các nước xuất khẩu rau quả trên thế giới, đặc biệt là những
nước đang hưởng các ưu đãi thương mại từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA)
như Canada, Mexico, Australia, Chi lê, Peru, một số nước Trung Mỹ và Trung đông;
áp lực cạnh tranh tiềm năng từ các FTA đang trong quá trình đàm phán như
(Colombia, Panama, Thái Lan) hoặc một số hình thức ưu đãi thương mại khác mà Hoa
Kỳ dành cho các nước như Argentina, Brazil, Colombia và Thái Lan. Đây đều là
những nước có truyền thống xuất khẩu rau quả, với hệ thống sản xuất hiện đại hơn so
với Việt Nam (từ khâu trồng đến đóng gói, bảo quản, vận chuyển, kiểm định vệ sinh
thực phẩm…)
Áp lực từ xu hướng kinh doanh của các công ty thực phẩm đa quốc gia: Một số công
ty thực phẩm đa quốc gia đã lựa chọn các thị trường đang phát triển để phát huy tiềm
năng hoa quả của nước đó. Một số khác muốn tận dụng giá nhân công và các chi phí
sản xuất rẻ ở các nước đang phát triển để tạm nhập rau quả nguyên liệu từ các nước
phát triển, sản xuất và tái xuất sang Hoa Kỳ, EU. Ví dụ, công ty Dole Food của Hoa
Kỳ đã đầu tư sản xuất trái cây đóng hộp tại Thái Lan: họ nhập khẩu đào, lê, trái cây
hỗn hợp từ Hoa Kỳ, sau đó đóng hộp và tái xuất vào thị trường này. Hình thức kinh
doanh này giúp người Mỹ vẫn có cơ hội sử dụng những sản phẩm chất lượng (đã qua
chế biến, đóng gói hợp vệ sinh) với mức giá thấp hơn nhiều so với thực phẩm chế biến
tại nội địa. Đây đồng lời cũng là áp lực cạnh tranh rất lớn đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam với chất lượng, đóng gói chưa được đầu tư hiện đại hóa. Trong khi đó, năng
lực cạnh tranh về giá đã bị bù trừ bởi chi phí vận chuyển và không thấp hơn đáng kể
so với giá của các mặt hàng sản xuất tại các nước đang phát triển khác.
Hoa Kỳ đang tăng cường áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với thực phẩm nói chung
và rau quả nói riêng. Tại Hoa Kỳ, Cơ quan kiểm tra sức khỏe động vật và cây trồng đã
đưa ra những qui định và là cơ quan cấp các chứng nhận về hàng rau quả nhập khẩu
tươi sống, các qui định thanh tra hàng nhâp khẩu có liên quan. Nhiều mặt hàng rau
quả dù đã được nhập khẩu vào Hoa Kỳ nhưng muốn thực hiện hoạt động marketing
cũng phải qua nhiều khâu kiểm duyệt (về phẩm cấp, kích cỡ, chất lượng, tác động
thực tế đến người tiêu dùng…) Những hàng rào vô hình này là một thách thức lớn đối
với xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
3. Năng lực cạnh tranh của hàng rau quả Việt Nam trên thị trường Hoa Kì
Hoa Kỳ nhập khẩu rau quả từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó đứng đầu là các
nước
châu Mỹ la tinh và Canada (do thuận lợi về mặt địa lí). Ở châu Á, Trung Quốc là nhà
cung ứng rau quả lớn nhất của Hoa Kỳ, với tỷ trọng khoảng 7% (thấp hơn Mexico và
Canada) nhưng Trung Quốc lại là thị trường có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu rau quả trung bình giai đoạn 1990-2009 cao nhất trong số các nước xuất khẩu
rau quả vào Hoa Kỳ
Bảng 5: So sánh thị phần của các nước xuất khẩu rau quả lớn vào Hoa Kỳ
Hiện nay, hàng rau quả Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiếm tốn (chưa đến
0,03%) thị trường rau quả nhập khẩu của Hoa Kỳ. Tỷ trọng này chưa tương xứng với
tiềm năng sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Ngay cả nếu so sánh với hai
nước trong khu vực là Thái Lan và Philipines thì thị phần của rau quả Việt Nam tại
Hoa Kỳ cũng còn quá thấp. Cơ cấu rau quả xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung tương
đồng với cơ cấu xuất khẩu của Thái Lan và Philipines, do đó sức ép cạnh tranh từ hai
thị trường này là rất lớn.
Trong số các nước xuất khẩu rau quả lớn sang Hoa Kỳ, Trung Quốc là nước có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu cao nhất. Năng lực cạnh tranh của rau quả Trung Quốc thể hiện
ở tính đadạng, giá rẻ và khả năng đáp ứng các lô hàng lớn. Tại Trung Quốc, chi phí
sản xuất nông nghiệp tương đối thấp do chi phí nhân công thấp trong khi lợi thế sản
xuất theo qui mô giúp họ tiết kiệm chi phí trên đầu sản phẩm. Chi phí marketing
trong hoạt động sản xuất nôngnghiệp cũng thấp hơn nhiều so với các nước khác nhờ
giá bao bì, dịch vụ rẻ. Tại một số cơ sở sản xuất hiện đại, chi phí vốn và công nghệ có
thể cao hơn nhưng vẫn thấp hơn so với các nước khác. Theo tính toán, chi phí xuất
trung bình các mặt hàng cà chua, hạt tiêu,chanh của Trung Quốc chỉ bằng 1/9 so với
sản xuất tại Mỹ.
So với Trung Quốc, sản xuất nông sản của Việt nam cũng có lợi thế về giá đất và nhân
công rẻ, tuy nhiên lại hạn chế về qui mô sản xuất và sự phụ thuộc vào các vật tư nông
nghiệp nhập khẩu (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng…). Ngoài ra,
giá xuất khẩu còn tăng lên do chi phí vận tải cao hơn-xuất phát từ hạn chế về cơ sở hạ
tầng.
Ngoài Trung Quốc, nhiều đối thủ là các nước đang phát triển khác cũng có cơ chế hỗ
trợ sản xuất rau quả, mặc dù không trực tiếp. Đó là các hình thức đào tạo cho nông
dân, cung cấp các dịch vụ nghiên cứu phát triển nông nghiệp, nâng cao kỹ năng xúc
tiến thương mại và xuất khẩu nông sản cho các doanh nghiệp (trường hợp của Thái
Lan, Philipines). Tại một số nước, sự hỗ trợ về sản xuất nông nghiệp được thực hiện
linh hoạt bởi các chính quyền địa phương (không hình thành chính sách trợ cấp chung
của quốc gia).
4. Những vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp xuất khẩu rau quả.
Mặc dù còn nhiều rào cản lớn nhưng năm 2010 vẫn được xem là một năm thành công
trong xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, thách thức này vẫn còn tiếp tục đặt ra với
các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong năm tới, bởi theo bà Nancy Nord, Ủy
viên Ủy ban an toàn hàng tiêu dùng Mỹ, bắt đầu từ ngày 1/1/2011, Mỹ sẽ chính thức
áp dụng các luật mới về tiêu chuẩn an toàn sản phẩm và các chất bị hạn chế đối với
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu được coi là thế mạnh của Việt Nam vào thị trường
Mỹ, như các sản phẩm giày da, may mặc, đồ gỗ, các mặt hàng tôm, cá...
Trên tinh thần hợp tác, Mỹ khuyến cáo các doanh nghiệp của Việt Nam cần có những
đổi mới trong các khâu nguyên liệu đầu vào, công nghệ nhằm đảm bảo đủ các tiêu
chuẩn xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này. Đặc biệt, quy định mới trong chính sách
kiểm soát các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ, mỗi nhãn hiệu xuất hiện trên thị trường
này cần đảm bảo tuân thủ các quy định quốc tế về nguyên vật liệu và cả quy trình sản
xuất. Điều này đòi hỏi các nhà máy tại Việt Nam phải vượt qua sự thẩm định của cơ
quan chức năng để đạt được chứng nhận.
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là phải đưa ra chiến lược đổi mới công
nghệ và quy trình sản xuất để duy trì thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất
khẩu hàng hóa sang thị trường đều được kiểm soát chặt chẽ và theo thông tin mới
nhất, mức phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm có thể lên tới 15 triệu USD/vụ.
Còn theo khuyến cáo của Chính phủ, Mỹ vẫn đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam, vì vậy, các doanh nghiệp cần nắm bắt và tổ chức các hoạt động tiếp
xúc, gặp gỡ với các bạn hàng nhập khẩu, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để hiểu rõ
những thay đổi trong cơ chế quản lý nhập khẩu. Trên cơ sở đó, tìm hướng phát triển
cho thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng này.
Mặc dù hiện nay, cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu đã khiến những dự báo về kinh tế
thế giới nói chung và kinh tế Mỹ trong năm 2011 trở nên bi quan hơn nhưng theo
nhận định, vẫn có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ trong năm
2011, không chỉ đối với nhóm hàng nông sản và công nghiệp nhẹ mà nhóm hàng chế
biến chế tạo công nghiệp nặng cũng đã có những thành tựu trong năm 2010, đây sẽ là
cơ sở cho sự gia tăng xuất khẩu nhóm hàng này vào Mỹ trong năm 2011.
Chương III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ.
I. Chiến lược xuất khẩu rau quả trong thời gian tới
1. Định hướng phát triển ngành sản xuất rau quả trong thời gian tới
Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã có những định hướng và chính sách cho sự phát triển
ngành rau quả trong thời gian tới; đầu tiên, cần phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh
ngành trái cây Việt Nam bằng các giải pháp nâng cao chất lượng, đồng thời chú trọng
sản xuất sản phẩm giá trị cao, trái cây hữu cơ phục vụ thị truờng cao cấp góp phần
phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu, nâng cao thu nhập người sản xuất trái
cây, đáp ứng các nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó cần tiếp tục hình thành nên vùng nguyên liệu tập trung sản xuất lớn đủ
sức cung ứng ổn định cho doanh nghiệp cũng như có chính sách bảo hiểm đầu tư
trong nông nghiệp, bảo hiểm hợp đồng tiêu thụ dài hạn đặc biệt đối với các loại cây
xuất khẩu vốn có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định, tạo an tâm và giảm rủi ro cho
các doanh nghiệp khi đầu tư, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định lâu dài.
Trong năm 2011, Vinafruit sẽ tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng để tiếp tục
hỗ trợ các chương trình xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm mở rộng thị trường xuất
khẩu nhiều hơn nữa cũng như hỗ trợ giá cước vận chuyển rau quả từ Việt Nam đi các
thị trường trọng điểm như EU, Hoa Kỳ.
2. Chiến lược hỗ trợ xuất khẩu rau quả:
Để đạt mục tiêu trên, Vinafruit đề ra một số chiến lược hành động như chiến lược liên
kết ngành trái cây, chiến lược hội nhập, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
ngành trái cây, chiến lược xây dựng thương hiệu, chiến lược đào tạo, chiến xây dựng
hợp tác xã chuyên ngành trái cây, chiến lược công nghệ sau thu hoạch, chiến lược hiện
đại hóa công nghiệp chế biến, chiến lược phát triển công nghệ thông tin ngành trái
cây... Chiến lược được phân thành ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Để thực hiện các
chiến lược hiệu quả cần có sự hỗ trợ của chính phủ, sự tham gia tích cực của hội viên,
của doanh nghiệp trái cây và sự hợp tác giúp đỡ của các tổ chức và doanh nghiệp quốc
tế.
II. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Hoa Kì
1. Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại.
1.1. Biện pháp cải thiện cơ cấu xuất khẩu và chất lượng của rau quả
- Lựa chọn mặt hàng phù hợp với nhu cầu tiêu dùng thị trường:
Theo như khảo sát nhu cầu: Tại Mỹ, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nước hoa quả
trong xu hướng tăng do khuyến cáo của các nhà khoa học về vai trò của hoa quả đối
với việc gia tăng sức khỏe và tuổi thọ.
Những năm gần đây, nước hoa quả chiếm tỷ trọng cao vượt trội trong số các mặt hàng
nông sản được nhập khẩu vào Mỹ, với khoảng 35-37% tổng kim ngạch nhập khẩu
nông
sản. Khí hậu nóng lên khiến mặt hàng này càng được ưa chuộng. Trong khi đó, Việt
Nam lại có lợi thế về nguồn hoa quả nhiệt đới rất phong phú, bổ dưỡng. Nếu có thể
đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm, đây sẽ là một thị trường tiềm năng
cho xuất khẩu của Việt Nam.
Rau quả trái mùa, đảo mùa: Với xu hướng tăng cường tiêu thụ rau quả quanh
năm để
đối phó với căn bệnh béo phì, đột qui, tim đang gia tăng tại Mỹ, nhu cầu sử
dụng rau quả trái mùa, đảo mùa sẽ ở mức cao trong thời gian tới.
Nước trái cây, nước rau ép đóng hộp: Đây là những mặt hàng sẽ tiếp tục có nhu
cầu cao bởi một mặt chúng đáp ứng các yêu cầu về dinh dưỡng, mặt khác rất
tiện dụng tại công sở và trong các sinh hoạt ngoài trời.
Thực phẩm chế biến an toàn, hữu cơ: Theo dự báo của Foodproceeding.com,
một diễn đàn về thực phẩm chế biến, nhu cầu đối với lương thực, thực phẩm
(hàng ăn) an toàn của Mỹ được dự báo sẽ lên tới 2,9 tỷ USD vào năm 2014,
tăng 6,7% so với hiện nay. Hiện nay nhóm lương thực, thực phẩm chế biến
chiếm khoảng 70% tổng nhu cầu về hàng ăn an toàn tại Mỹ và đang có xu
hướng tăng.
Để xuất khẩu được rau quả nói sang thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt
Nam phải xem xét đến hai vấn đề chính đó là chất lượng, tính đồng đều của sản
phẩm, bao gồm: hình dáng, trọng lượng và chất lượng bên trong. Đặc biệt cần
quan tâm đến vấn đề kiểm dịch thực vật. Việc kiểm tra tại vườn rau quả, thời
gian thu hoạch là biện pháp góp phần loại bỏ được một số sâu bệnh, hoặc kiểm
soát không khí, nhiệt độ lạnh cũng có thể diệt được sâu bệnh. Như vậy mới đáp
ứng được những yêu cầu khắt khe Mỹ đưa ra.
1.2. Biện pháp né tránh chống bán phá giá về rau quả của Hoa Kì
Việc Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá đối với một số mặt hàng nông sản của Trung
Quốc có thể là cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ khi năng lực cạnh
tranh của hàng Trung Quốc bị giảm xuống; mặt khác cũng đặt ra nguy cơ bị liên đới
từ vụ kiện này.
Đối với chính sách giá xuất khẩu: Để không bị liên đới trong các vụ kiện bán phá giá
trên (đối với cùng mặt hàng xuất khẩu), các doanh nghiệp Việt Nam không thể duy trì
mức giá xuất khẩu thấp hoặc giảm trong nhiều tháng. Cần tăng giá trị gia tăng của sản
phẩm để một mặt tăng giá bán, trong khi vẫn được người tiêu dùng ở nước
nhập khẩu chấp nhận (do chất lượng và giá trị gia tăng đã tăng lên).
Khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, nên điều tiết tốc độ tăng lượng xuất vào thị trường
đó, bởi nếu một mặt hàng xuất khẩu vào thị trường đó có tốc độ tăng trưởng rất nhanh,
mặt hàng này rất dễ được xét vào diện điều tra chống bán phá giá.
Cần tìm ra các ngách mà các doanh nghiệp cần thâm nhập để chuyển nguy cơ bị
chống bán phá giá sang phía đối thủ cạnh tranh (VD: Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia...) và tận dụng cơ hội về phía mình.
1.3. Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thương mại
Trong số những sản phẩm có nguy cơ rủi ro nhiều nhất có thể kể đến là những hàng
hoá kiểm soát về nhiệt độ trong đó có rau quả tươi. Để đối phó với những rủi ro đó,
các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả sang Mỹ cần lựa chọn công ty vận chuyển hay
giao nhận phù hợp có đảm bảo các điều kiện vận chuyển. Sau đó các doanh nghiệp
nên lựa chọn các công ty bảo hiểm cho mình để đảm bảo rau quả vận chuyển được an
toàn và tiết kiệm được chi phí.
Đối với những mặt hàng đó, điều quan trọng là doanh nghiệp cần phải lựa chọn những
công ty vận tải uy tín và chuyên nghiệp để đảm bảo container đóng hàng đủ điều kiện
Một khâu khác trong việc xúc tiến tiêu thụ mặt hàng rau quả sang thị trường Mỹ cần
được chú trọng đó là khâu truyền thông. Các doanh nghiệp có thể thực hiện chương
trình truyền thông tại điểm bán rau quả. Mục tiêu của chương trình là kết nối nhu cầu
kinh doanh giữa người bán và người sản xuất, quảng bá cho hàng nông sản trong
nước, tạo dấu hiệu nhận diện và tăng niềm tin vào nông sản trong nước cho các cửa
hàng. Nếu cả người nông dân và doanh nghiệp cùng làm tốt những việc trên thì giá trị
kim ngạch xuất khẩu rau quả sẽ còn tăng cao hơn nữa trong thời gian tới.
2. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu về thị trường Hoa Kì.
Trước những khó khăn đó, việc chuyển hướng sang các thị trường khác có thể bù đắp
phần nào cho lượng tiêu thụ tại thị trường Hoa Kỳ nhưng không phải là một phương
án lâu dài; bởi với qui mô thị trường lớn như hiên nay, Hoa Kỳ vẫn có sức hấp thụ
một lượng hàng hóa lớn trên thế giới mà nhiều thị trường nhỏ khác kết hợp cũng chưa
cân xứng. Do đặc tính dễ thay đổi về cả thị hiếu và chính sách của thị trường này, để
giữ vững thị phần và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào thị trường Hoa Kỳ đòi hỏi các
nhà xuất khẩu phải liên tục cập nhật, nắm bắt và xử lí tốt thông tin về thị trường này.
Đó là cơ sở cho việc xác định được cơ cấu hàng hóa xuất khẩu (về chủng loại, chất
lượng); hệ thống phân phối hiệu quả và tiết kiêm nhất cũng như giảm thiểu những rủi
ro về thuế chống phá giá và gian lận thương mại trong xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
3. Phát triển thương hiệu dựa vào lượng kiều bào ở Mỹ, vận động hành lan.
Phát huy tiềm năng phân phối từ lực lượng kiều bào tại Mỹ: Theo Giám đốc cơ quan
thống kê quốc gia Mỹ Robert Groves, xã hội tiêu dùng Mỹ sẽ có những dịch chuyển
lớn từ thập kỷ tới. Theo nghiên cứu của cơ quan này, trong giai đoạn 2010-2050, dân
số Mỹ sẽ tăng từ 310 triệu lên 439 triệu người và 1/5 số người Mỹ sẽ ở độ tuổi từ 65
trở lên vào năm 2030. Cũng trong vòng 20 năm nữa, những người Mỹ gốc Á, gốc Phi
sẽ chiếm một tỷ trọng lớn trong trong xã hội. Đặc biệt, trong nhóm các ngôn ngữ được
đưa vào danh sách điều tra dân số và tiêu dùng của cơ quan này, Việt Nam là một
trong 7 ngôn ngữ chính, cùng với tiếng Anh, Trung Quốc, Tây Ba Nha, Hàn ngữ,
tiếng Nga; cho thấy cộng đồng người Việt và gốc Việt tại Mỹ chiếm một vị trí khá
quan trọng. Đây cũng có thể là một lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tận
dụng trong quá trình thâm nhập và phát triển thị phần tại thị trường này.
Hiểu rõ đặc tính tiêu dùng, cơ cấu các nhóm người tiêu dùng rau quả của Mỹ (theo độ
tuổi, giới tính)
Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong khâu nhãn mác, hướng dẫn sử
dụng: Theo một nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng Mỹ do hãng Puratos USA-
một nhà sản xuất thực phẩm của Mỹ vừa thực hiện, 77% người tiêu dùng Mỹ có thói
quen đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và thành phần chất trong bao nhãn thực phẩm trước
khi mua. Ngoài ra một số lượng ngày càng gia tăng người tiêu dùng nghiên cứu kỹ về
chế độ dinh dưỡng hoặc có tư vấn về dinh dưỡng khi ra quyết định mua sắm thực
phẩm. Xu hướng này cho thấy hàng nông sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ ngày càng
phải đáp ứng các tiêu chuẩn rất cao về kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm.
4. Huy động sự hỗ trợ từ phía nhà nước
Về chính sách thuế, cần điều chỉnh giảm thuế GTGT đối với sản phẩm chế biến rau
quả từ thuế suất 10% xuống còn 5%. Ngoài ra cần có chính sách khuyến khích ưu đãi
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, bảo quản, chế biến rau quả; khuyến khích, hỗ trợ hình
thành nhiều HTX, nhiều cơ sở xuất khẩu theo vùng trên cơ sở liên kết quyền lợi chặt
chẽ giữa những người trồng rau quả; tạo chủ động liên kết giữa các viện, trường, trung
tâm với các nhà xuất khẩu, nhà vườn… nhằm ứng dụng các nghiên cứu có tính thực
tiễn cao…
KẾT LUẬN
Rau quả là một trong những mặt hàng chủ yếu có lợi thế trong lĩnh vực xuất
khẩu của Việt Nam. Thời gian qua việc xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang các thị
trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc và đặc biệt là Mỹ đã có nhiều thuận lợi.
Trong thời gian tới, cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm này của Việt Nam sang
thị trường Mỹ tiếp tục vẫn còn lớn. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu rau hoa quả
Việt Nam cần nhanh chóng vượt qua những điều kiện khắt khe về vệ sinh thực phẩm
của thị trường này. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp cũng cần phải có một chiến
lược xuất khẩu rau quả lâu dài đối với thị trường Mỹ. Để thực hiện được việc này, các
doanh nghiệp xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam cần phối hợp tốt với cả người trồng rau
quả và với các cơ quan chức năng của nhà nước liên quan đến việc xuất khẩu mặt
hàng này sang Mỹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh doanh toàn cầu ngày nay, Nguyễn Đông Phong, Nhà xuất khẩu Lao Động
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh quốc tế - Trường ĐH Kinh Tế TP Hồ Chí Minh
3. Các website tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- rauqua_9371.pdf