Kiểm soát tiền tệ: Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng gắn liền với tăng rủi ro và độ
nhạy cảm của thị trường tài chính nội địa trước biến động của thị trường thế giới. Mặc
dù lãi suất và tỷ giá hối đoái về cơ bản đã được tự do hóa, cơ sở hạ tầng căn bản (cơ sở
kỹ thuật, môi trường kinh tế vĩ mô, thể chế, cơ cấu thị trường và luật pháp) chưa sẵn
sàng để đảm bảo tính hiệu quả cho quá trình tự do hóa lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Điều này đặt Ngân hàng Nhà nước trước những thách thức lớn. Hệ thống ngân hàng dễ
chịu tác động tiêu cực của các cú sốc từ bên ngoài, gây rối loạn ngoài tầm kiểm soát
của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất, hối đoái làm tăng rủi ro ngân hàng.
Sức ép cạnh tranh trên thị trường ngân hàng nội địa: Mở cửa thị trường tài chính tạo
điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng nước ngoài thâm nhập thị trường trong nước.
Ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh với công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý
tiên tiến so với các ngân hàng nội địa. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn chưa có Luật
cạnh tranh cũng như các chính sách phù hợp trong cạnh tranh ngân hàng.
16 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3302 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hệ thống tài chính của Việt Nam và khả năng cung cấp tài chính vi mô của hệ thống này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Hệ thống tài chính của Việt Nam và khả năng
cung cấp tài chính vi mô của hệ thống này
2
Lời tựa
Tôi xin chân thành cám ơn thầy giáo Valliappan A/L Kasi đã tận tình giúp đỡ và truyền
đạt kiến thức để tôi hoàn thiện tiểu luận này.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo trợ giảng Tiến sĩ. Nguyễn Việt
Dũng, đã tận tình chỉ bảo nhiệt tình với những kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm
với lĩnh vực tài chính doanh nghiệp để giúp tôi có thể hoàn thành tốt nhất tiểu luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Quốc tế, trường Đại
học Quốc gia Hà nội đã tạo điều kiện tốt cho chúng tôi trong quá trình học tập và thực
hiện tiểu luận.
Cám ơn tất cả các bạn học cùng lớp EV9 đã nhiệt tình chia sẻ những kiến thức và kinh
nghiệm để tôi có thể hoàn thành tốt công việc của mình, cám ơn gia đình đã động viên
tôi trong quá trình học tập vừa qua.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành tiểu luận với tất cả sự nỗ lực của bản thân, tuy nhiên
với thời gian không cho phép, chắc chắn tiểu luận của tôi không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong Quý Thầy cô giáo tận tình chỉ bảo. Một lần nữa, xin gửi đến tất cả
mọi người lời cảm ơn chân thành nhất.
Xin trân trọng cảm ơn.
3
TIỂU LUẬN SỐ 2
Câu 1:
1a) Thảo luận về hệ thống tài chính của Việt Nam và khả năng cung cấp tài chính
vi mô của hệ thống này.
Trong thời gian vừa qua, thực hiện chính sách mở cửa kinh tế theo định hướng XHCN,
Việt Nam đã có những bước tăng trưởng cao trong việc phát triển nền kinh tế cả vĩ mô
và vi mô, tuy nhiên đi đôi với thành tựu đó, phát sinh mặt trái của tăng trưởng nóng là
gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ người nghèo và có thu nhập thấp ngày càng lớn
trong xã hội, số người dân sống dưới mức nghèo đói đang ngày càng gia tăng. Mặc dù
Việt Nam đã có những chính sách để giúp đỡ người nghèo thoát nghèo thông qua các
chính sách vi mô như an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, qua đó, hỗ trợ vốn, đào tạo
nâng cao kiên thức, từng bước giúp người nghèo hòa nhập với cộng đồng.
Khái niệm hệ thống tài chính: Là tập hợp các khâu tài chính cùng với những mối quan
hệ tương tác được gọi là hệ thống tài chính.
Hoạt động kinh tế nói chung và tài chính nói riêng chịu sự chi phối của 3 nhóm chủ thể
chính là: Chính phủ ( Nhà nước ), doanh nghiệp và hộ gia đình, cá nhân. Như vậy hình
thành nên hệ thống tài chính cơ bản là tài chính ngân sách NN, tài chính doanh nghiệp
và tài chính hộ gia đình, để kết nối 3 khâu này cần đến vai trò của các định chế tài chính
và thị trường tài chính theo hình thức trực tiếp và gián tiêp, đó là các kênh huy động
chính thức.
Mô hình.
Thừa vốn Thiếu vốn
Chính phủ
Doanh
nghiệp
Hộ gia đình
và cá nhân
Gián tiếp = định
chế tài chính
Chính phủ
Doanh
nghiệp
Hộ gia đình
và cá nhân
Trực tiếp =
thị trường tài
chính
4
VD: Mua cổ phiếu của Công ty FPT -> tức là cung cấp vốn trực tiếp cho công ty FPT
Tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại, quốc doanh và cổ phần cũng như các ngân
hàng nước ngoài, đã đóng góp hết sức tích cực vào quá trình luân chuyển vốn góp sức
nâng cao tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn vốn khác nhau.
Việc giám sát các chính sách tài chính tiền tệ chặt chẽ cũng như sự linh hoạt trong điều
hành các chính sách này là một điểm nhấn mạnh về ưu điểm của hệ thống trong những
năm gần đây.
Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, rõ ràng hệ thống tài chính VN vẫn còn có những
hạn chế nhất định. Các công cụ tài chính vẫn còn ở mức đơn giản, khả năng tập trung
các nguồn vốn lớn vẫn còn hạn chế, cơ chế quản trị doanh nghiệp trong các định chế tài
chính mới chỉ ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển.
Năng suất lao động trong ngành tài chính ngân hàng còn thấp do việc đầu tư công nghệ
chưa đạt hiêu quả cao cũng như quản trị nguồn nhân lực vẫn đang được hoàn thiện dần.
Chất lượng dịch vụ còn nhiều vấn đề đáng bàn trong khi khả năng đáp ứng với các thay
đổi nhanh chóng của nền kinh tế còn thụ động.
Tóm lại: Sự phát triển của hệ thống tài chính luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế của
một đất nước. Để có thể hỗ trợ được tốt nhất cho nền kinh tế, ngành ngân hàng cần phải
hoạt động hiệu quả hơn thông qua việc: Nâng cao năng lực tài chính và hiệu quả sử
dụng vốn để hỗ trợ tốt hơn cho nền kinh tế thông qua việc thực hiện chức năng thu hút
tiền nhàn rỗi bơm vào nền kinh tế theo định hướng của Ngân hang Nhà nước.
Khả năng cung cấp tài chính vi mô của hệ thống này:
Cùng với qúa trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, tài chính vi mô được du nhập vào thông
qua hoạt động của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ và các chương trình
hỗ trợ phát triển chính thức song phương và đa phương. Tất cả các các chương trình đều
có mục tiêu xóa đói giảm nghèo và làm giảm đi tình trạng bất bình đẳng thu nhập.
Định nghĩa tài chính vi mô: Tài chính vi mô là cung cấp những khoản mượn, khoản
tiết kiệm và những dịch vụ tài chính cơ bản khác cho người nghèo.(CGAP)
5
Tài chính vi mô mang đến cho người nghèo các cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính
như vay, tiết kiệm tiền, bảo hiểm vi mô.
Theo Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 9/3/2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của tổ chức tài chính qui mô nhỏ tại Việt Nam thì tài chính vi mô là hoạt động cung cấp
các dịch vụ tài chính ngân hàng nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, các cá nhân có thu
nhập thấp và đặc biệt là hộ gia đình nghèo và người nghèo.
Hoạt động tài chính vi mô của Việt Nam được chia thành 3 khu vực, đó là:
Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô chính thức: Bao gồm: các tổ chức,
cá nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ tài chính vi mô ở Việt Nam, như Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội, Hội lien
hiệp phụ nữ Việt Nam
Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức: Gồm các tổ chức
phi Chính phủ (quốc tế và trong nước) và các chương trình được thành lập bởi các tổ
chức chính trị - xã hội. Những tổ chức này được đánh giá là tiếp cận được với nhiều
người nghèo hơn và hướng tới các dịch vụ tài chính phù hợp hơn cho người nghèo so
với khu vực chính thức.
Hoạt động của khu vực phi chính thức: là những hình thức hụi, họ, các hiệp
hội tín dụng tiết kiệm tự phát, họ hàng, bạn bè, hàng xóm láng giềng, người cho vay lãi.
Hiện nay, tài chính vi mô ở Việt Nam có bước phát triển mạnh và có độ bao phủ sâu.
Trong tổng số khoảng 4,6 triệu hộ nghèo ở Việt Nam, ước tính có khoảng 70-80% đã có
thể tiếp cận được một hoặc một số loại hình dịch vụ tài chính, đa phần dưới dạng tín
dụng và tiền gửi ngắn hạn.
Tóm lại: Để tạo điều kiện cho tài chính vi mô hoạt động có hiệu quả hơn, trở thành
kênh cung cấp vốn thường xuyên cho người nghèo, Nhà nước cần hoàn thiện môi
trường pháp lý để các tổ chức tài chính vi mô tồn tại và phát triển.
1b) Đánh giá về quy mô (mức độ đầy đủ) của tài chính vi mô ở Việt Nam và đưa ra
các giải pháp để làm cho chương trình trên có ý nghĩa và thiết thực:
Tài chính vi mô là việc cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính như tiền gửi ( tiết kiệm),
vay vốn, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm cho người nghèo và các hộ gia
đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ của họ.
Tài chính vi mô đi xa hơn việc tiếp cận và phân phối tiền. Nó đi sâu hơn vào vấn đề
6
cách tiền được sử dụng, đầu tư và tiết kiệm được thực hiện như thế nào.
Tài chính vi mô có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Thứ nhất. Nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho xã hội. Thông qua việc cung
cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo như tín dụng, thanh toán, bảo hiểm... Khách
hàng mục tiêu của TCVM được xác định rõ ràng là những người nghèo, đối tượng
khách hàng này rất khác so với những đối tượng của những nhà cung cấp tài chính khác
như ngân hàng, các công ty tài chính chính thức.
Thứ hai. Góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính. Sự ra đời của
TCVM góp phần bổ sung một nguồn cung tiềm năng, phục vụ cho một đối tượng khách
hàng mà trước đó chưa được quan tâm haợc không quan tâm từ các nhà cung cấp tài
chính chính thức.
Thứ ba. TCVM góp phần xóa đói giảm nghèo. Có nhiều giải pháp được đưa ra
để giải quyết tình trạng nghèo đói, một trong những cách thức thường được áp dụng là
giúp người nghèo phát triển sản xuất bằng các việc cho vay vốn, trợ giúp kỹ thuật sản
xuất... Những biện pháp được đưa ra hiệu quả hơn thường là giúp người nghèo tự tạo ra
thu nhập ổn định, qua đó dần từng bước thoát khỏi cảnh nghèo. Một trong những cách
thức như vậy là thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô, không chỉ là các
dịch vụ tín dụng phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất cho người nghèo mà còn cung
cấp các dịch vụ quản lý rủi ro khác.
Bên cạnh đó, tài chính vi mô còn góp phần đa dạng các khoản thu nhập ngoài sản xuất
nông nghiệp là các khoản thu nhập từ tiểu thủ công nghiệp, thương mại, kinh doanh
nhỏ. Đồng thời, TCVM góp phần giúp người nghèo tránh, giảm rủi ro về kinh tế và cuộc
sống.
Giải pháp để phát triển tài chính vi mô có ý nghĩa và thiết thực hơn:
Để phát triển TCVM trong giai đoạn hiện nay, trước hết phải hoàn thiện môi trường
pháp lý để các tổ chức TCVM có hành lang pháp lý chuẩn mực tồn tại và phát triển. Qua
thực tiễn có thể thấy việc tạo dựng một hành lang pháp lý chuẩn mực để các tổ chức
TCVM tồn tại và phát triển là vô cùng cấp thiết. Để hoàn thiện môi trường pháp lý cho
các tổ chức TCVM hoạt động cần:
7
Thứ nhất: Đa dạng hóa hình thức pháp lý của tổ chức TCVM, cũng như đơn
giản hóa thủ tục thành lập và tổ chức lại tổ chức TCVM, sửa đổi một số quy định về
quản trị và điều hành của các tổ chức TCVM.
Thứ hai: Đổi mới cơ chế ưu đãi về lãi suất trong hoạt động tín dụng đối với các
hộ có thu nhập thấp. Cơ chế ưu đãi về tín dụng cho hộ có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ ở
khu
vực nông nghiệp, nông thôn là cần thiết để tạo điều kiện cho khu vực này thu hút được
vốn (Đặc biệt là ưu đãi các điều kiện vay vốn tạo cơ hội tiếp cận nguồn tín dụng cho
người nghèo).
Thứ ba: Nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức TCVM làm nền tảng cho
sự phát triển của TCVM. Để tăng cường năng lực tạo nguồn cho các tổ chức TCVM,
Chính phủ nên có những chính sách khuyến khích như: tháo bỏ các rào cản về vay nợ
nước ngoài, có quy định cho tổ chức hoạt động TCVM bao gồm cả tổ chức thực hiện và
tổ chức hỗ trợ kỹ thuật.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng hoạt động, từng bước áp dụng công nghệ hiện đại,
đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng nghèo
theo hướng thị trường. Các tổ chức tài chính vi mô cần thực hiện các cơ chế cho vay
nhanh, linh hoạt, phát huy tính hiệu quả cho vay theo nhóm, cho vay không cần thế
chấp. Các thủ tục cho vay đơn giản, thuận tiện là những tiêu chí đầu tiên cần được đưa
ra. Cần thiết kế nhiều sản phẩm cho vay với mức vay và các chu kỳ cho vay, cách thức
hoàn trả gốc và lãi khác nhau phù hợp với yêu cầu của nhiều đối tượng khách hàng ở
nông thôn. Đối với khách hàng nghèo ở vùng sâu, vùng xa cần giúp họ không chỉ dễ
dàng tiếp cận vốn mà còn tư vấn giúp họ biết cách sử dụng vốn vay như thế nào cho có
hiệu quả.
Cuối cùng: Hầu hết các tổ chức tài chính vi mô do các tổ chức chính trị xã hội
thành lập hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Nguồn vốn của các tổ chức này được
hình thành từ các nguồn tài trợ, các nguồn vay ưu đãi từ chương trình Chính phủ, phi
Chính phủ quốc tế hay từ các dự án của Chính phủ Việt Nam. Thêm vào đó, bất cứ
khoản lợi nhuận kết dư từ hoạt động đều được bổ sung nguồn vốn đề bù đắp lạm phát và
duy trì giá trị nguồn vốn để tiếp tục tái đầu tư phục vụ người nghèo. Do vậy, việc đánh
thuế thu nhập đối với các tổ chức tài chính quy mô nhỏ sẽ làm mất đi một nguồn vốn
quan trọng để duy trì hoạt động trực tiếp tái đầu tư cho người lao động nghèo.
8
2a) Thảo luận về điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống ngân hang Việt Nam đồng
thời đưa ra các giải pháp có thể:
Sau quá trình thực hiện chính sách Đổi mới của Đảng năm 1986 và đặc biệt sau
khi Việt Nam là thành viên WTO năm 2006, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn
còn nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế
giới. Đối với hệ thống ngân hàng của nước ta, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều
thành tựu quan trọng trong đổi mới, đã trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước
đây, nhưng so với thế giới, với đòi hỏi của thời đại và của sự phát triển kinh tế đất nước
thì vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn và bất cập.
1.Vài nét tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời gian qua
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước
(NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên
doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân
dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN
đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống
ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một
sự trưởng thành vượt bậc.
2.Điểm mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Thứ nhất. Hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn
cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư
toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng
khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp
cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua.
Thứ hai. Hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật
đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã
ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Chức năng cho vay tín dụng
chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức
tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ
9
chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và
hiệu quả.
Thứ ba. Chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc
thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã
được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng
linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo
hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và
mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư. Hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho
các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20%
trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên
cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, mặc dù có các chính
sách về giải tỏa điều tiết (de-regulation), hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nó được
thể hiện ở nhiều khía cạnh, VD như chỉ có khoảng 2% dân số đã từng có tài khoản ngân
hàng, tỷ lệ tiền và vàng nhàn rỗi nằm ngoài ngân hàng ước tính 10 tỷ đô la Mỹ, điều này
cho thấy rõ ràng ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề cần phải được khắc phục để hội
nhập tốt hơn, có khả năng cạnh tranh cao hơn trong môi trường quốc tế.
3.Điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Thứ nhất. Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng
chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng
truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng
nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên
80% tổng thu nhập.
Thứ hai. Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng
chú ý là khối các tổ chức tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây
dựng cơ bản bằng VNĐ đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
10
Nguyên nhân là do: Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường
bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp; tự
do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện
thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.
Thứ ba. Cơ cấu hệ thống tài chính mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh
cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi có
kỳ hạn dài trên 1 năm tại các NHTM chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là ngắn hạn
dưới 1 năm chiếm tới 70%.
Chính phủ đều có chính sách cho phép sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho
vay trung và dài hạn, đồng thời áp dụng một số chính sách hỗ trợ để đảm bảo khả năng
thanh toán của các ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ trên phải có một giới hạn nhất định. Việc
sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao,
nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho
toàn bộ hệ thống.
Thứ tư. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây
nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân
hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng
thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực.
Thứ năm. Hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị
trường tài chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng
như những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống ngân
hàng trong thời gian tới. Hệ thống ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông
tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất,
tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
4. Giải pháp khắc phục những yếu điểm trên:
Thứ nhất. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống,
chủ động mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng mới trên nền tảng công nghệ hiện đại, phù
11
hợp với nhu cầu thị trường, năng lực quản lý của tổ chức tín dụng và quy định của pháp
luật.
Các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng
công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai. Tiếp tục rà soát, bổ sung, chỉnh sửa hệ thống quy chế, quy trình nội bộ
như các yêu cầu tối thiểu về vốn, quản lý rủi ro, quy trình đánh giá xếp hạng khách hàng
vay, tổ chức theo dõi và thực hiện việc đánh giá chất lượng tín dụng và các khoản nợ
xấu
Thứ ba. Củng cố hệ thống thanh tra, kiểm tra của NHNN; bảo đảm để mọi tổ
chức, cá nhân tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tín dụng; đồng thời có biện
pháp cụ thể kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro của các NHTM, ngăn chặn xu hướng
gia tăng nợ xấu
Thực hiện kiểm toán các NHTM theo chuẩn mực quốc tế, thuê kiểm toán nước ngoài
kiểm toán đối với hoạt động ngân hàng
Thứ tư. Nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán
bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành. Việc nâng cao năng lực quản trị của
các ngân hàng thương mại Nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ được thực hiện nhanh nhất
và hiệu quả nhất thông qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài.
Cuối cùng. Thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều
sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ
chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường
xuyên.
2b) Phân tích sự tác động của chính sách tự do hóa của hệ thống ngân hàng đối với
các ngân hàng địa phương.
12
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề
cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc
tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội
nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống NH vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng
đầu, là “bà đỡ” tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam đang từng bước
chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Nới lỏng các hạn chế
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để nới lỏng các hạn chế đối với hoạt động của các
ngân hàng nước ngoài để đáp ứng yêu cầu của Hiệp đinh thương mại song phương Việt-
Mỹ cũng như của Tổ chức Thương mại Thế giới mà Việt Nam gia nhập.
Theo đó các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Mỹ được phép cung cấp 12 phân ngành dịch
vụ NH theo lộ trình với 7 cột mốc. Lộ trình này xác định rõ mức độ tham gia các loại
hình dịch vụ NH và hình thức pháp lý mà các nhà cung cấp dịch vụ Mỹ được phép hoạt
động tại Việt Nam.
Điều này cũng đồng nghĩa với yêu cầu cắt giảm bảo hộ về kinh doanh dịch vụ NH đối
với các NHTM trong nước.
Trong văn bản sửa đổi, bổ sung Nghị định 13, Ngân hàng Nhà nước dự kiến một số biện
pháp khuyến khích các ngân hàng nước ngoài tham gia thị trường tài chính Việt Nam.
Ngoài việc cho phép ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động, Ngân hàng Nhà nước
cũng lên kế hoạch bỏ hạn chế 10% sở hữu của ngân hàng nước ngoài đối với ngân hàng
nội địa.
Trước khi những sửa đổi, bổ sung này chính thức có hiệu lực, Việt Nam cũng đã dỡ bỏ
một số hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng
liên doanh, tạo ra môi trường kinh doanh ngân hàng linh hoạt hơn.
Tháng 4/2004, Ngân hàng Nhà nước cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên
doanh mở tài khoản tiền gửi tại nước ngoài một cách không hạn chế. Theo quy định
trước
đó, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chỉ có thể gửi tối đa 30% vốn tại
nước ngoài (10% đối với ngân hàng liên doanh).
Cạnh tranh với các ngân hàng lớn
Khi lĩnh vực ngân hàng Việt Nam mở cửa hội nhập, có rất nhiều ý kiến lo lắng về
13
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. Mặc dù đã có cải cách từ cuối
thập niên 80, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế trung bình 7%/năm trong vòng 5 năm trở lại đây của Việt
Nam đã thúc đẩy sự phát triển và mang lại nhiều lợi nhuận cho hệ thống ngân hàng
nội địa, nhưng điều đó không có nghĩa là không còn những rủi ro và vấn đề cấp bách đặt
ra:
- Một trong những rủi ro lớn nhất là tình trạng tăng trưởng tín dụng quá nóng.
Năm 2009, Việt Nam công bố tăng trưởng tín dụng 27,3%, cao hơn 7,3% so với
mức
khuyến cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
- Tỷ lệ nợ xấu cao: Năm 2003, tổng nợ xấu là 1,13 tỷ USD, cao hơn 22,9 triệu USD
so với 2002. Nợ xấu chiếm 6,4% tổng dư nợ và 56% vốn khả dụng của hệ thống ngân
hàng.
- Hầu hết các ngân hàng nội địa không có khả năng duy trì một tỷ lệ an toàn giữa tín
dụng ngắn hạn và trung, dài hạn.
- Nguồn nhân lực và công nghệ trình độ chưa cao cũng như sự thiếu thống nhất trong
các văn bản pháp quy về kế toán, kiểm toán các tổ chức tín dụng trong nước.
Tuy nhiên, trước việc các ngân hàng nước ngoài có khả năng hoạt động trong cùng
điều kiện kinh doanh trong nước, các ngân hàng nội địa cần nâng cao tính cạnh tranh để
tồn tại và phát triển, đó cũng chính và cơ hội cũng như thách thức đối với ngân hàng Việt
Nam.
Cơ hội cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội hợp tác quốc tế trong các hoạt động tài chính và tiền tệ
giữa các ngân hàng trung ương và trong công tác điều hành chính sách tiền tệ trong
giao dịch giữa các ngân hàng thương mại, nhằm tăng cường giám sát và phòng ngừa
rủi ro.
Các ngân hàng nội địa có thể tận dụng các lợi thế về vốn, công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý… từ mở cửa, hội nhập. Đây cũng là cơ hội cho các ngân hàng
trong nước phát huy lợi thế so sánh để nâng cao năng lực cạnh tranh và tiến tới thâm
14
nhập thị trường nước ngoài.
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy hơn nữa cải cách ngân hàng ở Việt Nam. Do đó, các
ngân hàng nội địa sẽ có cơ hội cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đa dạng hóa
hoạt động dựa trên công nghệ ngân hàng hiện đại, phát triển hệ thống ngân hàng hiệu
quả, an toàn, năng động theo thông lệ quốc tế nhằm hỗ trợ chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như xúc tiến tự do hóa thương mại.
Thách thức đối với các ngân hàng Việt Nam
Kiểm soát tiền tệ: Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng gắn liền với tăng rủi ro và độ
nhạy cảm của thị trường tài chính nội địa trước biến động của thị trường thế giới. Mặc
dù lãi suất và tỷ giá hối đoái về cơ bản đã được tự do hóa, cơ sở hạ tầng căn bản (cơ sở
kỹ thuật, môi trường kinh tế vĩ mô, thể chế, cơ cấu thị trường và luật pháp) chưa sẵn
sàng để đảm bảo tính hiệu quả cho quá trình tự do hóa lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Điều này đặt Ngân hàng Nhà nước trước những thách thức lớn. Hệ thống ngân hàng dễ
chịu tác động tiêu cực của các cú sốc từ bên ngoài, gây rối loạn ngoài tầm kiểm soát
của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất, hối đoái… làm tăng rủi ro ngân hàng.
Sức ép cạnh tranh trên thị trường ngân hàng nội địa: Mở cửa thị trường tài chính tạo
điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng nước ngoài thâm nhập thị trường trong nước.
Ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh với công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý
tiên tiến so với các ngân hàng nội địa. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn chưa có Luật
cạnh tranh cũng như các chính sách phù hợp trong cạnh tranh ngân hàng.
Các ngân hàng trong nước có hiệu quả hoạt động thấp: Hệ thống ngân hàng hiện tại ở
Việt Nam được đặc trưng bởi năng lực cạnh tranh yếu, nguồn lực tài chính thấp, quy
mô nhỏ, chất lượng và hiệu quả thấp, kỹ năng chuyên nghiệp trong quản lý kém, công
nghệ thấp và rủi ro cao.
Bốn ngân hàng lớn nhất chiếm 76% thị trường tiền gửi và 73,5% thị trường cho vay
của cả hệ thống. Tuy nhiên vốn tự có của các ngân hàng này chỉ xấp xỉ 800 triệu
USD với hệ số an toàn vốn trung bình là 5% (tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu là 8%). Điều
15
này cho thấy khả năng chịu rủi ro thấp.
Hoạt động tín dụng vẫn là hình thức kinh doanh cũng như nguồn thu nhập chủ yếu. Sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng nghèo nàn, ít tiện ích. Đa số các ngân hàng thương mại
không có chiến lược kinh doanh rõ ràng và hiệu quả. Trình độ nhân lực của các ngân
hàng không phù hợp với tốc độ phát triển công nghệ ngân hàng. Công tác giám sát và
kiểm soát nội bộ còn yếu kém. Hệ thống thông tin, báo cáo tài chính, kế toán bao gồm
hệ thống thông tin quản lý chưa đạt tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
- Thanh tra, giám sát ngân hàng: Hội nhập quốc tế tăng dòng vốn cũng như rủi ro cho hệ
thống ngân hàng trong khi cơ chế quản lý và giám sát không phù hợp với thông lệ quốc
tế, còn kém hiệu quả trong việc đảm bảo tuân thủ luật pháp và an toàn ngân hàng,
đặc biệt trong hoạt động phòng ngừa và cảnh báo rủi ro.
Hệ thống pháp lý và định chế thị trường chưa hoàn thiện với nhiều khoảng cách so với
yêu cầu quốc tế về ngân hàng làm hạn chế khả năng cạnh tranh phát triển thị trường
tiền tệ và ngân hàng.
Tóm lại: Có thể nói với chính sách tự do hóa, hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều
cơ hội trong hội nhập. Tuy nhiên, những thách thức và yếu kém trên có thể làm cho các
ngân hàng nội địa thiệt hại nhiều hơn thu lợi và có nguy cơ tụt hậu trừ khi tiến hành cải
cách nội bộ phù hợp.
Việc này đòi hỏi các nhà quản lý điều hành nền kinh tế cần phải quan tâm nhiều hơn
nữa trong việc cải tổ lại hệ thống ngân hàng Việt Nam.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Học viện tài chính, NXB tài chính, PGS.TS
Nguyễn Đình Kiệm, TS. Bạch Đức Hiển, 2008
2. Cẩm nang hoạt động tài chính vi mô, Nxb Lao động Xã hội, Joanna Ledgerwood,
2009
3. Tài chính quốc tế, NXB ĐHQGHN, GS.TS Phan Thị Cúc, 2008
4. Tài chính doanh nghiệp, NXB tài chính, TS Bùi Hữu Phước, 2009
5. Giáo trình tài chính – tiền tệ, ngân hàng, NXB thống kê, PGS.TS Nguyễn Văn
Tiến, 2009
6. Kinh nghiệm của bạn và giải pháp của Việt Nam, Tạp chí Tin học ngân hàng,
Tác giả Nguyễn Ngọc Lâm, số 7/ 2005.
7. Thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 13- 2006,
TS. Trần Minh Ngọc, ThS. Phan Thuý Nga.
8. Phương hướng và giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư
ở Việt Nam đến năm 2020, Kỷ yếu các công trình khoa học ngành Ngân hàng,
PGS.,TS. Lê Đình Hợp, NXB Thống kê năm 2004.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_fin505_so_2_493.pdf